Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Số phận người phụ nữ xưa và nay qua hai tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.33 KB, 23 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Số phận người phụ nữ xưa và nay qua hai tác phẩm
Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
Dàn ý Phân tích số phận người phụ nữ xưa và nay qua truyện ngắn
Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ - Bài mẫu 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Tơ Hồi và Kim Lân cùng hai truyện ngắn Vợ nhặt và Vợ chồng
A Phủ.
Giới thiệu nhân vật Mị và nhân vật cơ thị.
2. Thân bài
a. Nhân vật Mị
• Mị trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra
Cơ gái xinh đẹp và tài hoa: có tài thổi sáo làm biết bao chàng trai phải si mê ngày
đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Trai đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị.
Có một tình u trong sáng.
Cơ gái chăm chỉ, cần cù, hiếu hạnh, khát khao được sống tự do, không tham cuộc
sống sang giàu, rất ý thức về nhân cách của mình.
• Khi Mị về làm dâu gạt nợ nhà thống lí
Mị lâm vào một tình cảnh éo le, bất hạnh, bị trịng bởi dây trói “con nợ bắt buộc”
và “con dâu bị ép buộc”.
Tâm trạng Mị trong những ngày đầu làm dâu: Buồn tủi, đau khổ, rất đơn độc và
thấm thía nỗi đau của một người con gái bị cướp đoạt; định tìm cái chết để tự giải
thốt mình nhưng vì lịng hiếu thảo, thương bố nên Mị đã cố gắng chịu đựng, dũng
cảm quay trở về nhà thống lí.
Tâm trạng Mị những ngày sau: Mị cũng khơng cịn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón
tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Mị sống lầm lũi, âm thầm, trở
thành người nô lệ cam chịu, nhẫn nhục đến mức tê liệt cả ý thức, bng xi, phó
mặc cho hồn cảnh.
Tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân: Tiếng sáo đã thức tỉnh tâm hồn, sức
sống của Mị tưởng đã bị hoàn cảnh hủy hoại, vùi lấp, nay đã trỗi dậy; Mị cứ lén lấy


hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Tai Mị văng vẳng nghe tiếng sáo gọi bạn đầu
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

làng… Mị thấy vui sướng, phơi phới, tràn đầy sức sống nhưng cũng đau đớn, tuyệt
vọng nghĩ đến cái chết để khỏi đối diện với thực tại. Mị muốn đi chơi nhưng bị A
Sử đàn áp thô bạo. Sáng tỉnh dậy, Mị cảm giác sợ và đau đớn khi nghĩ về thân phận
mình.
• Tâm trạng của Mị khi giải thốt cho A Phủ: Nhìn những giọt nước mắt của A Phủ,
Mị xúc động thấy thương cho A Phủ và nhớ lại nỗi đau chính mình. Sức sống cùng
sự đánh thức tâm hồn, lòng thương người cùng cảnh ngộ đã giúp Mị vượt qua nỗi
sợ, Mị quyết định cởi dây trói cho A Phủ và tự giải thốt mình.
→ Sức sống ln tiềm tàng trong tâm hồn Mị dẫn đến sức phản kháng mãnh liệt,
táo bạo để giành lại tự do ở Mị. Khi sức sống tiềm tàng trong tâm hồn con người
được hồi sinh, nó tất yếu chuyển hóa thành hành động phản kháng táo bạo.
b. Nhân vật cơ thị
• Hồn cảnh, ngoại hình:
Một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình.
Khơng có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc
xấu xí ấy thêm phần thảm hại: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy xọp”,
“trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “cái ngực gầy lép nhơ
lên” và “hai con mắt trũng hốy”.
• Tính cách thị khi mới gặp Tràng:
- Cách nói năng, hành động đanh đá chua ngoa:
Cong cớn, sưng sỉa, chỏng lỏn vì miếng ăn.
Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu
dáng đon đả, đổi hẳn thái độ.
Cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc khơng thèm chuyện trị gì, ăn xong thì lấy đơi

đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. → Vơ dun, hành động táo bạo và bất chấp vì
miếng ăn.
→ Mọi hành động của Thị đều chỉ vì muốn được sống, khao khát được hạnh phúc,
được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như này
dẫn đến hành động theo không Tràng về làm vợ.
→ Một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã
xuống đến mức âm, thậm chí cịn khơng bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi
những người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ cịn cho đó là “của nợ”.
• Sau khi trở thành vợ Tràng:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

- Trên đường trở về nhà với Tràng:
Thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che
nửa đi khn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về
nhà chồng.
Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng,
thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không.
- Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, khiến thị
thất vọng, nhưng thị không hề phàn nàn với Tràng.
Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, dáng điệu khép nép,
ngại ngùng, thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với
dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
Sau đêm tân hôn, thị trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát,
gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong,
gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,...
Khi đối diện với nồi cháo cám “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào
miệng” → Cách cư xử tinh tế, bộc lộ sự thấu hiểu và cảm thông.

Kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho
thóc của Nhật. → Bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà
bà này không cam chịu cuộc đời đói kém và tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
3. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật cùng ý nghĩa của hai truyện ngắn.

Dàn ý Phân tích số phận người phụ nữ xưa và nay qua truyện ngắn
Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ - Bài mẫu 2
1. Mở bài
Phụ nữ là đề tài quen thuộc trong nền văn học Việt Nam, nhất là những phụ nữ có
số phận nhỏ bé, chịu nhiều đắng cay, tủi nhục. Đặc biệt trong giai đoạn 1945 đến
hết thế kỉ XX, đề tài này đã được thể hiện khá đặc sắc qua nhiều nhân vật. Nổi trội
hơn cả là hiện tượng Mị trong “vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, nhân vật “vợ nhặt”
trong tác phẩm cùng tên của Kim Lân. Mỗi nhân vật đều mang mỗi hoàn cảnh, số
phận đáng thương nhưng ở họ vẫn toát lên những phẩm chất đáng quý của người
phụ nữ Việt Nam. Những nhà văn này đã góp lên tiếng nói chung - tiếng nói nhân
đạo đối với họ. Khơng những thể hiện sự quan tâm, thông cảm, đồng cảm với

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

những số phận bất hạnh này mà những nhà văn còn trân trọng, ngợi ca những
phẩm chất cao quý của người phụ nữ.
2. Thân bài
2.1. Số phận bất hạnh
a. Mị
Mị vốn là một cô gái dân tộc Mèo, con nhà nghèo. Nhưng tương lai tươi sáng, tuổi
trẻ với biết bao hạnh phúc, và tình u đã khơng đến với cô gái nghèo khổ này. Mị

mang bi kịch một cô gái với niềm khao khát tự do, hạnh phúc nhưng phải rơi vào
nghịch cảnh trớ trêu, bị dồn vào bước đường cùng khơng lối thốt. Chỉ vì món nợ
truyền kiếp - ngày trước bố mẹ Mị cưới nhau phải vay nhà thống lí Pá Tra và cho
đến lúc già, mẹ cô chết, vẫn chưa trả được nợ nên Mị phải đem thân làm dâu trừ
món nợ ấy. Kể từ khi làm dâu cho nhà thống lí, Mị phải sống những chuỗi ngày
đau thương, tủi nhục tăm tối. Danh nghĩa là con dâu nhà quan, nhưng thực chất Mị
là một thứ nô lệ không công. Dưới nhiều tầng áp bức của cường quyền, thần quyền
và hủ tục phong kiến miền núi, Mị phải sống kiếp sống như một con vật, thậm chí
khơng bằng con vật. Thật khơng ở đâu mạng sống, nhân cách con người lại bị rẻ
rúng như vậy. Bị giam hãm đày đoạ trong cái địa ngục khủng khiếp của cả nhà
thống lí, Mị đang chết dần, chết mịn với năm tháng. Thân xác héo khơ, tâm hồn
lạnh lẽo, trống vắng. Mị gần như tê liệt sức sống. Mị mất hết ý thức về thời gian,
sự chuyển biến thời gian sớm hay tối đối với Mị chẳng có ý nghĩa gì nữa: khơng dĩ
vãng, khơng hiện tại và không cả tương lai. “Ở lâu trong cái khổ Mị quen với nó
rồi”, “cơ ngày càng khơng nói, lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Cuộc đời Mị chỉ
còn thu lại qua cái khung cửa sổ bằng bàn tay “mờ mờ, trăng trắng không biết là
sương hay là nắng”. Mị hầu như mất hết ý thức về bản thân và những mong muốn
đổi thay cho số phận của mình, thậm chí Mị cũng khơng có cả ý thức về cái chết
nữa.
b. Người vợ nhặt
Thật vậy, dường như sự rẻ rúng, tủi nhục là hằng số chung cho tất cả những người
phụ nữ phải sống trong cái xã hội cổ hủ lúc bấy giờ. Vợ nhặt” của nhà văn Kim
Lân. Đây là một thiên truyện ngắn đặc sắc với những tình huống độc đáo, hấp dẫn,
mang đầy tinh thần nhân đạo. Tác phẩm “Vợ nhặt” được rút từ tập truyện ngắn
“Con chó xấu xí”. Anh Tràng vừa xấu xí, nghèo túng lại là dân cư ngụ khơng có
khả năng lấy vợ thế mà “nhặt” được vợ một cách dễ dàng, khơng cần phải cưới hỏi
gì. Thật tủi nhục thay cho thân phận người “vợ nhặt” - vợ theo không, ngay cả cái
tên thị cũng khơng có. Chỉ với bốn bát bánh đúc người đàn bà nghèo khổ chấp
nhận theo người đàn ơng chưa từng quen biết. Ngoại hình người vợ nhặt được phác
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

hoạ bằng một vài đường nét thiếu nữ tính: “cái ngực lép nhơ lên”, “áo quần tả tơi
như tổ đỉa”, “thị gầy sọp” trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt
“hai con mắt trũng hốy”. Những chi tiết đó khơng thể khơng khiến ta nghĩ đến
một cơ thể thiếu sức sống, thậm chí như một bóng ma vật vờ. Cái đói, cái khổ
khơng chỉ làm thay đổi đi vẻ bề ngồi của con người mà cịn làm mất đi cái bản
tính hiền hậu, dịu dàng đáng q vốn có của người phụ nữ. Lần thứ hai gặp lại anh
Tràng, thị “rách quá”, “quần áo tả tơi gầy xọp hẳn đi”. Khi được mời ăn, thị sà
xuống “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, chẳng chuyện trị gì”. Cái đói đã
đẩy lùi sĩ diện, nhân cách, và thị đã không băn khoăn theo Tràng về làm vợ chỉ với
một ý nghĩ “cho khỏi đói” để sống cái đã. Xưa nay trong truyền thống đạo lí Việt
Nam, chuyện tỏ tình vốn mang màu sắc tình tứ, duyên dáng, e lệ. Ấy thế mà giờ
cũng chỉ trần trụi là câu chuyện lăn xả vào miếng ăn, để sau đó trở thành “vợ nhặt”
của người đàn ông xa lạ kia. Thế mới biết cái đói ghê gớm như thế nào!
Kết: Như vậy, hình tượng người phụ nữ đã xuất hiện trong nền văn học Việt Nam
giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX đầy ấn tượng và đặc sắc. Đó là những số phận
đáng thương, những cuộc đời nghiệt ngã và đầy bất hạnh. Nhưng không dừng lại ở
việc khai thác những nỗi đau khổ, những bất công của xã hội, của cuộc sống đã
đẩy cuộc đời họ vào những bế tắc cùng cực. Mà ở đấy, các nhà văn đã tô đậm lên
tất cả đó là những vẻ đẹp phẩm chất thật đáng trọng - thứ ánh sáng đẹp đẽ của tâm
hồn người phụ nữ. Bằng tình yêu cuộc sống, khát vọng được sống mãnh liệt và với
những phẩm chất tốt đẹp vốn có của người phụ nữ họ đã vượt qua những rào cản,
những bất công xã hội, vượt qua số phận bất hạnh để tìm đến hạnh phúc.
2.2. Phẩm chất tốt đẹp
a. Mị (tập trung vào sức sống tiềm tàng)
Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, trẻ trung hồn nhiên và có tài thổi sáo cơ “uốn
chiếc lá trên mơi, thổi lá cũng hay như thổi sáo có bao nhiêu người mê, ngày đêm

thổi sáo đi theo Mị”. Đấy là dấu hiệu về một vẻ đẹp tâm hồn phong phú và lãng
mạn, biểu hiện của một sức sống trẻ trung, rạo rực… Mị cũng đã từng được yêu và
cô cũng đã từng yêu. Điều quan trọng là nhà văn đã phát hiện ra rằng bên trong
tâm hồn người con gái ấy vẫn còn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, chỉ chờ có dịp
là bùng nổ mạnh mẽ. Và trong tác phẩm của mình nhà văn đã miêu tả thành cơng
sự trỗi dậy sức sống tìm tàng đó bằng một q trình phát triển tâm lí, hành động
khá sâu sắc và hợp lí. Với tấm lịng nhân hậu đầy cảm thông, nhà văn vẫn nhận ra
rằng khát vọng hạnh phúc trong Mị có thể bị vùi lấp, lãng quên đâu đó nhưng
khơng thể bị tiêu tan. Trong tâm hồn trẻ trung sớm bị chai sần vì đoạ đày, đau khổ
kia vẫn cịn âm ỉ đâu đó một ngọn lửa ham sống và chắc chắn nó sẽ bùng cháy
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

mạnh mẽ hơn khi gặp những điều kiện thuận lợi. Và điều ấy đã đến, đó là vào một
đêm tình mùa xuân trong ngày Tết. Những yếu tố ngoại cảnh đó là những nhân tố
cực kỳ quan trọng dẫn đến sự diễn biến tâm lí nhân vật nó đóng vai trị của nhân tố
gợi hứng đánh thức kí ức và gợi lại kỉ niệm yêu đương bị lùi vấp bấy lâu trong tâm
hồn lầm lũi thường ngày, trở thành tiếng gọi của sự sống mỗi lúc một rõ, một tha
thiết. Thế là từ ngoại cảnh đã tác động đến cảm xúc, tâm trạng và cuối cùng là
hành động. Năm đó Mị đã uống rượu “uống ừng ực từng bát” rồi say lịm người, cái
say vừa gợi nhớ, vừa gây lãng quên. “lòng Mị đang nhớ về ngày trước tai Mị văng
vẳng tiếng gọi bạn đầu làng”. Quá khứ dồn dập trở về rất sống động, rất rõ, thiết
tha… nhưng quan trọng hơn là cái say đã mơ hồ nhớ rằng: Mị vẫn còn là một con
người, Mị vẫn còn trẻ và cái quyền của một con người trong ngày tết. “Mị phơi
phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng trở lại như những đêm tết ngày trước.
Mị trẻ lắm, Mị muốn đi chơi, bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi tết huống chi,
A sử với Mị khơng có lịng với nhau nhưng phải ở với nhau…”, dẫn Mị đến một
hành động chưa từng thấy kể từ khi cơ bước chân vào nhà thống lí Pá tra “cơ quấn

lạ tóc và với tay lấy váy mới, chuẩn bị đi chơi”. Vừa lúc A Sử về biết ý định của
Mị, hắn lấy dây trói nghiến cơ vào cột nhà rồi bỏ đi chơi. Suốt cái đêm đen tối bị
trói đứng cái cột giữa nhà thống lí đó Mị hết thiếp đi rồi chợt tỉnh dậy, nhưng hình
như cả đêm ấy, tiếng sáo dìu dặt của đám bạn trai vẫn đưa tâm hồn Mị sống lại
những ngày đẹp đẽ ở quê nhà, tiếng sáo vẫn đưa cô đi theo những cuộc chơi của
đám trai làng. Tâm hồn cô vẫn sống với khơng khí của ngày hội xn. Cơ định
bước đi nhưng tay chân đã bị trói chặt cứng, không tài nào cựa quậy được… Sau
cái Tết ấy, những năm tháng nặng nề trong phân thận nô lệ tủi nhục của Mị tưởng
lại cứ âm thầm lặng lẽ trôi đi… cho đến khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ bị bắt trói
vì tội để mất trâu của nhà thống lí. Cái cảm giác ban đầu của Mị thật thản nhiên.
Nhưng khi Mị lé mắt trông sang thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt
lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại...” thì Mị lại chợt bừng tỉnh “trơng
người lại nghĩ đến ta”. Hình ảnh ấy khiến Mị bỗng nhớ đến câu chuyện rùng rợn về
những người đàn bà bị trói đứng cho đến chết trong nhà thống lí cũng trên cái cọc
này và hồi ức đưa cơ về với những lần chính mình bị đánh, bị trói trước đây... Ý
thức đó đã thơi thúc Mị đứng dậy cắt dây trói cho A Phủ và bất giác chạy theo anh,
cùng trốn khỏi Hông Ngài. Hành động bộc phát nhưng thật quyết liệt đó của Mị
một phần là do sự thúc bách của tình thế khiến cô không thể làm khác, bởi cô hiểu
rõ “ ở đây thì chết mất”. Nhưng mặt khác, đó cũng là quá trình tất yếu của một quá
trình dồn nén, bức xúc cả về thể chất lẫn tinh thần đối với Mị. Đồng thời đó cũng
vừa là biểu hiện, vừa là kết quả của một sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ đã được trỗi
dậy trong con người Mị, kết thúc cả quãng đời đày ải, tối tăm của cô trong nhà
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

thống lí để bắt đầu một cuộc đời mới. Đó chính là cái nhìn nhân đạo của Tơ Hồi
đối với những kiếp người bất hạnh, đau thương - một cái nhìn ln hướng về ánh
sáng, hướng về cái đẹp trong mỗi con người.

b. Người vợ nhặt (tập trung vào khát vọng sống)
Là một người đàn bà bị cái đói xơ đẩy đến cảnh ngộ thật éo le và thương tâm, phải
rơi vào tình huống trở thành “vợ nhặt” nhưng chị không mất đi vẻ chất phát, thuần
hậu của người phụ nữ lao động. Bị hồn cảnh xơ đẩy, dồn nén đến chỗ có nguy cơ
bị chết đói nên có lúc bên ngồi thành ra trâng tráo, trơ trẽn. Nhưng đó khơng phảỉ
là bản chất vốn có của chị phải đến lúc cùng đường, bị rơi vào tình thế phải theo
khơng một người đàn ơng xa lạ thì bản chất con người thật của thị mới được bộc lộ
rõ. Cả đến lúc đã gặp cụ Tứ và đã được chấp nhận, được cảm thơng, thương u thì
trong bóng tối của căn nhà, chị vẫn không khỏi e dè khép nép. Nhà văn dường như
đã hiểu thấu đến tận cùng nỗi lòng của chị và thể hiện được một cách thật tinh tế
những gì đang xảy ra trong lịng người đàn bà kể từ khi chị đặt bước trên con
đường xa lạ về nhà chồng. Chắc là với, chị con đường ấy dài dặt và xa lắm, bởi
không biết cái gì đang chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách dễ dàng?
Liệu cái hạnh phúc “thử liều nhắm mắt đưa chân “này có cho chị được một chút
ấm áp hay lại còn khốn nạn, cay đắng hơn? Liệu cái anh chàng xa lạ có vẻ cũng dễ
mến này có giúp chị thốt khỏi những cảnh chết đói hãi hùng trước mặt? Bao nhiêu
câu hỏi, bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến sự sốt ruột trong lòng chị đã phải bật
lên thành tiếng, chị đã mấy lần sốt ruột hỏi Tràng: “sao lâu thế” “sắp đến chưa”
“vẫn chưa đến à?” rồi “nhà có ai khơng?”… Chị hỏi vào tình cảnh phải theo khơng
Tràng cũng chẳng qua chỉ là bất đắc dĩ cần tìm một nơi nương tựa qua ngày, hi
vọng có thể may ra tránh được sự chết đói. Nên khi tận mắt chứng kiến gia cảnh
của Tràng chỉ là một cái nhà vắng teo, trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những bụi cỏ
dại thì chị khơng nén nỗi một tiếng thở dài. Hoá ra cái gia cảnh của anh mới ban
chiều còn vỗ vỗ vào túi khoe: “rich bố cu hả” là thế này đây. Nhưng chị còn biết
sao được nữa, chị cảm thấy thất vọng, buồn tủi, chua xót quá nên mặt cho Tràng
lăng xăng đon đả, “thị nhép mép cười nhạt nhẽo[…], hai tay ôm khư khư cái thúng
mặt bần thần. “Tại sao đứng giữa căn nhà của mẹ con Tràng rồi mà người phụ nữ
kia vẫn ôm khư khư cái thúng thế?” Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con
Tràng q ư chật chội, chị phải biết để nó ở đâu? Hay vì giờ đây cái thúng là tài
sản duy nhất chị có nên chị khơng thể xa rời.

Khơng tìm được sự no đủ nhưng dẫu sao, chị cũng bớt được một nổi lo trong dạ
khi biết nhà tràng chỉ có một mẹ già. Dĩ nhiên, chị hiểu đấy là đỡ phức tạp, khả
năng bị xua đuổi hắt hủi bị giảm xuống mức thấp nhất, mà đấy chẳng phải là một
nửa sự sống đó sao? Cho nên lúc ấy chỉ đã có thể “tủm tỉm cười” rồi lại đùa với
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Tràng “đà mỗi một mình tơi lại còn mấy u. Bé lắm đấy”. Và mặc dù vẫn cịn rất
buồn vì thất vọng chua chát, nhưng hầu như chị chẳng nói năng gì kể từ khi chứng
kiến gia cảnh của mẹ con Tràng. Nhưng trước sự cảm thông, yêu thương đùm bọc
của những người xung quanh trong một mái ấm gia đình. Sáng hơm sau, chị đã
săm sắn quét dọn cùng với mẹ chồng thu vén lại nhà cửa, vườn tược như một cô
con dâu thực sự trong nhà. Và chính điều ấy đã đem đến cho chị những thay đổi
đến nỗi chính Tràng cũng khơng khỏi ngạc nhiên “Tràng nôm thị hôm nay khác
lắm. Rõ là người đàn bà hiền hậu đúng mực, khơng có vẻ gì chua chát như mấy lần
Tràng gặp ngoài tỉnh”.
Đặc biệt là trong bửa ăn của một ngày mới, người nói đến “toàn chuyện vui chuyện
sung sướng về sau này; lại là bà cụ gần đất xa trời, con người nói đến đấu tranh
phá kho thóc của Nhật chia cho người đói lại chính là chị người vợ nhặt – nhân vật
duy nhất khơng có tên trong tác phẩm. Từng đồn người “những người nghèo đói
ầm ầm kéo nhau đi trên đê sộp[…] cờ đỏ bay phấp phới” do câu chuyện của chị
gợi ra có lẽ cũng là một dụng ý nghệ thuật, nhằm khẳng định khát vọng và sức
sống manh mẽ của những con người như chị.
Như vậy, một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, một niềm khao khát sống, niềm tin yêu
và đức hi sinh cao cả đã phác họa nên bức chân dung về vẻ đẹp tâm hồn và phẩm
chất của người phụ nữ trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ
XX.
3. Kết bài

Người phụ nữ đã đến và để lại cho nền văn học Việt Nam bức tượng đài bất hủ của
những con người khơng bao giờ chịu khuất phục trước hồn cảnh, ln đi tìm,
hướng tới những gì tốt đẹp, tươi sáng trong cuộc đời. Họ ln là những mẫu hình lí
tưởng về người phụ nữ Việt Nam thời kì đó, cho hôm nay và cả về sau. Họ luôn
trường tồn trong tâm thức người đọc là “Những con người đáng thương nhưng
đáng trọng.”

Phân tích số phận người phụ nữ xưa và nay qua truyện ngắn Vợ
nhặt và Vợ chồng A Phủ - Bài mẫu 1
Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của
nhà văn Tơ Hồi là những bức tranh thu nhỏ về hiện thực xã hội Việt Nam trong
thời kì hấp hối của chế độ thực dân, phong kiến trước Cách mạng tháng Tám 1945
và trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì. Bao phủ lên những bức tranh đó
là gam màu xám lạnh, thê lương của cuộc sống khốn đốn, cùng cực của tầng lớp
dân nghèo ở miền xuôi và miền ngược. Kim Lân, Tơ Hồi tập trung thể hiện số
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

phận bất hạnh của số đơng phụ nữ – những nạn nhân đáng thương qua hình ảnh bà
cụ Tứ, người “vợ nhặt” và Mị – cô “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra.
Nội dung tác phẩm Vợ nhặt kể về cuộc sống bức bối, ngột ngạt của nhân dân ta
năm 1945 với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người. Đó chính là hậu
quả chính sách cai trị dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật ở Việt Nam.
Cũng như một số tác phẩm khác viết về nạn đói, ngịi bút Kim Lân chứa chan
thương cảm trước số phận bất hạnh của những con người nghèo khổ trong xã hội
đương thời, nhất là đối với phụ nữ. Nhân vật bà cụ Tứ mẹ anh Tràng và chị "vợ
nhặt” được tác giả miêu tả bằng sự thương cảm chân thành đã gây ấn tượng sâu
đậm trong lòng người đọc.

Tội nghiệp thay cho người con gái mà anh Tràng “nhặt” về làm “vợ”. Sinh ra làm
người, ai cũng có một cái tên dù đẹp hay xấu. Thế nhưng chị ta khơng có đến một
cái tên để gọi. Không tên, không tuổi, không cha mẹ, anh em. Không ai biết gốc
gác quê hương, nhà cửa của chị ta ở đâu. Về hình thức, chị ta giống như bao kẻ đói
khát khác: …áo quần tả tơi như tổ đỉa… trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ
còn thấy hai con mắt… Chị là hiện thân của hàng triệu nông dân bần cùng, tha
phương cầu thực kiếm sống qua ngày, để rồi gục chết bất cứ lúc nào nơi đầu đường
xó chợ.
Chị nhận lời làm vợ anh Tràng giống như một trị đùa, hay nói như tác giả là
chuyện tầm phơ tâm phào đâu có hai bận giữa chị với Tràng, người đàn ông nghèo
khổ làm nghề kéo xe thuê. Gặp lại Tràng, chị ta đang đói lắm nên sỗ sàng vịi anh
đãi ăn bánh đúc. Chị cặm cụi ăn liền một chập bốn bát bánh đúc. Ăn khơng kịp
thở, ăn mà khơng nói tiếng nào. Ăn như thế là đói đã lâu rồi nên quên cả ý tứ, sĩ
diện, thẹn thùng. Nhìn cảnh ấy, Tràng động lịng thương, bèn bảo: Này nói đùa chứ
có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tưởng nói giỡn chơi, ai dè chị ta
theo về thật khiến anh chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có
ni nổi khơng, lại cịn đèo bịng. Một người đàn ơng mới quen sơ sơ đơi lần, nay
hào phóng đãi một bữa no nê, ngồi ra chẳng biết tí gì về anh ta; chỉ nghe nói là
chưa có vợ, ai biết thật giả thế nào, ấy thế mà chị ta dám đi theo mà khơng hề đắn
đo, sợ hãi. Có liều lĩnh, nhẹ dạ quá chăng? Mặc kệ! Trước mắt, cứ theo anh ta để
được ăn cái đã, mọi chuyện tính sau. Vợ chồng là chuyện lâu dài, trong tình cảnh
sống nay chết mai, biết thế nào mà nói trước. Có lẽ chị ta chỉ nghĩ đơn giản như
vậy. Thế là Tràng đã “nhặt” được “vợ”, giống như nhặt được một vật gì đó rơi trên
đường. Tội nghiệp biết bao nhiêu cho người “vợ nhặt” ấy, vì xã hội phong kiến
khinh bỉ và khơng chấp nhận loại "vợ” theo không như vậy.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


Chị ta theo Tràng về cái xóm ngụ cư: Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo
hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt Hai bên dãy phố, úp súp, tối
om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng
những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy
cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết. Quả là một khung cảnh ngập
tràn tử khí! Con người đang mấp mé bên vực thẳm của cái chết.
Về đến nhà Tràng, chị “vợ nhặt” cứ ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư
cái thúng, mặt bần thần. Tràng mời ngồi, sao chị ta lại khơng dám ngồi cho đàng
hồng, ngay ngắn? Thì ra cái thế ngồi rụt rè, chông chênh ấy là cái thế của lịng
chị, đời chị. Chị băn khoăn khơng biết chỗ này có phải là chỗ của chị hay khơng?
Mái nhà xa lạ này liệu có phải là chỗ dung thân của chị? Căn nhà xơ xác, dúm dó
của mẹ con Tràng chắc cũng không khỏi làm cho chị thất vọng. Đúng là cảnh “đồ
nát đụng nhau”, không biết được mấy ngày?! Mặt chị bần thần vì mải nghĩ đến
chuyện thành vợ bỗng dưng của mình. Nó là thực mà cứ như không phải thực. Làm
vợ, làm dâu mà thảm hại đến thế này ư?! Lấy chồng, hạnh phúc lớn nhất của đời
người con gái, chị có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm! Tủi lắm! Nỗi buồn tủi
khơng thể nói thành lời. Trăm mối ngổn ngang trong lòng. Nỗi đau không trào ra
theo nước mắt mà chảy ngược vào tim nên càng đau, càng tủi. Nhà văn Kim Lân
viết về người “vợ nhặt” với ngịi bút chan chứa xót thương. Trong chế độ phong
kiến thực dân thời ấy, có bao nhiêu người phụ nữ phải chịu thân phận bất hạnh như
thế? Ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội, ý nghĩa nhân đạo sâu xa của tác phẩm ẩn
chứa trong số phận của nhân vật đáng thường này. 
Hình ảnh bà cụ Tứ bổ sung cho hình ảnh chị “vợ nhặt” để hồn chỉnh số phận tăm
tối của phụ nữ nói chung trong xã hội đương thời. Có thể nói nhân vật này tuy là
phụ nhưng lại chiếm được cảm tình của người đọc bởi nét chân phương của một bà
mẹ nghèo rất đỗi thương con, bởi lòng nhân hậu rất đáng quý trọng. Khi thấy
người con gái lạ mặt ngồi ở giường con trai mình, bà cụ Tứ ngạc nhiên lắm, chẳng
hiểu ra làm sao cả. Nhưng đến lúc nghe Tràng bảo: Kìa nhà tơi nó chào u… thì bà
vỡ lẽ ngay: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy

còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai ốn vừa xót thương cho số kiếp đứa con
mình… Hóa ra là thằng con trai mình cũng đã kiếm được một cơ vợ, dù là trông dở
người dở ma. Bà tủi phận làm cha làm mẹ mà không cưới nổi vợ cho con. Trăm sự
cũng tại cái nghèo mà ra cả: Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc
trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cải mở mặt sau này. Cịn mình
thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt. Bà vừa vui
mừng, vừa lo lắng: Biết rằng chúng nó có ni nổi nhau sống qua được cơn đói
khát này khơng? Nhưng ngẫm tới thân phận nghèo khó của mình, bà lại tự an ủi:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà
con mình mới có vợ được…
Nghĩ thế nên bà vui vẻ chấp nhận nàng dâu mới. Bà cư xử với chị dịu dàng, gọi chị
là con, xưng là u và nhìn cơ con dâu mới bằng ánh mắt xót thương, thông cảm.
Bữa cơm đầu tiên mẹ chồng đãi hàng dâu chỉ có món cháo lỗng với muối hột và
chè cám, ấy thế nhưng bà cụ Tứ cố tỏ ra vồn vã, tươi cười, chỉ tồn nói tới chuyện
vui. Bà khen cháo cám ngon đáo để, nhà khác chẳng có mà ăn. Chao ơi! Đói đến
mức nào thì ăn cám thấy ngon?! Bà từ tốn nói với con trai và con dâu: Nhà ta thì
nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông
giời cho khả… Biết thể nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con
cái chúng mày về sau… Bà cảm động bày tỏ ý muốn và nỗi khổ tâm của mình: Kể
có ra làm được dăm ba mâm thì phải đẩy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai
người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi.
Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá… Hình ảnh bà
mẹ già nua cố bấu víu, hi vọng vào tương tai thật đáng thương và cũng đáng quý
biết bao!
Nội dung truyện ngắn vợ chồng A Phủ kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ

chồng trẻ người Mông ở vùng cao Tây Bắc dưới ách thống trị tàn bạo của bọn lang
đạo chúa đất và thực dân Pháp. Nhân vật chính của truyện là Mị. Vì nghèo khổ, bố
mẹ Mị phải vay tiền của thống lí Pá Tra để làm đám cưới. Mãi cho tới năm mẹ Mị
qua đời vì bệnh tật và Mị cũng đã lớn khôn mà bố Mị vẫn khơng có tiền trả nợ. Mị
là cơ gái đẹp người đẹp nết, được nhiều chàng trai trong vùng đem lòng yêu mến.
Lẽ ra Mị phải được sống trong tình u và hạnh phúc, thế nhưng chỉ vì món nợ
khơng thể trả nổi của gia đình nên Mị bị bố con tên thống lí Pá Tra gian tham và
tàn bạo bắt về làm “con dâu trừ nợ”. Từ cuộc đời của người con gái xinh đẹp mà
bất hạnh này, nhà văn Tơ Hồi đã phản ánh chân thực và sinh động kiếp sống đau
thương, tủi nhục của người phụ nữ vùng cao thuở trước.
Từ ngày bị bắt về làm vợ A Sử, sống trong nhà thống lí Pá Tra, Mị đã rơi vào cảnh
đoạ đày của địa ngục trần gian. Cơ đau đớn đến tuyệt vọng: Có đến hàng mấy
tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Một hơm, Mị trốn về nhà, hai trịng mắt cịn đỏ hoe.
Trơng thấy bố, Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, đốn biết
lịng con gái:
Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan
lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì khơng lấy ai làm nương ngơ giả được nợ người
ta, tao thì ốm yếu q rồi. Khơng được, con ơi!

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái
trong rừng, Mị vẫn giấu trong áo. Thế là Mị khơng đành lịng chết Mị chết thì bố
Mị cịn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. Mị đành trở lại nhà thống lí.
Mị buồn tủi, thờ ơ với cuộc sống xung quanh, buông xuôi cuộc đời cho số phận.
Những năm tháng Mị sống với cha con tên thống lí Pá Tra là chuỗi dài đoạ đày,
đau khổ. Danh nghĩa là con dâu nhà quan lớn nhưng thực chất Mị là đày tớ không

công, là nô lệ mãn đời, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa. Suốt ngày, Mị phải làm
việc quần quật không lúc nào ngơi; đến đêm lại phải thức để hầu hạ thằng chồng
vũ phu, tàn ác. Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi thanh xuân của Mị, biến cô
thành người nhẫn nhịn và cam chịu. Mọi cảm xúc dường như đã nguội lạnh. Cơ gái
Mơng xinh đẹp, hồn nhiên đa tình đa cảm thuở nào giờ đây ủ rũ, héo hắt, sống âm
thầm như chiếc bóng, lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa.
Người đọc khơng thể qn hình ảnh tội nghiệp của Mị ở phần mở đầu tác phẩm: Ai
ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trơng thấy có một cơ con gái ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,
thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi
mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống ăn của dân
nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc,
nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó cịn bao giờ phải xem cái khổ mà
biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái nhà Pá Tra:
cô ấy là vợ A sử, con trai thống lí Pá Tra.
Dần dần, Mị cũng quen với nỗi khổ: Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu,
mình cũng là con ngựa… chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi… Bao giờ cũng
thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm cịn có lúc, đêm nó cịn
được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả
đêm cả ngày. Mỗi ngày Mị càng khơng nói, lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa.
Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vng bằng bàn tay. Lúc
nào trơng ra cũng chì thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ
rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vng ấy mà trơng ra, đến bao giờ chết thì thơi.
Khơng những bị đoạ đày về thể xác, Mị còn bị đè nén, áp bức về tinh thần. Cô
chán sống nhưng không được chết, vì Mị chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn
và người cha già càng thêm đau khổ. Bắt buộc phải sống nhưng Mị lại bị tước đoạt
quyền sống tự do của một con người. Cuộc đời Mị bị trói buộc bằng quyền lực,
bằng tập tục mê tín dị đoan lâu đời của các dân tộc thiểu số vùng cao. Mị cho rằng
mình đã bị bắt về làm vợ A Sử, bị con ma nhà thống lí nhận mặt:… nó đã bắt ta về
trình ma nhà nó rồi thì chỉ cịn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Cách đối xử tàn tệ, bất cơng của cha con tên thống lí làm cho Mị phải sống triền
miên trong đau khổ. Cô lặng lẽ ra vào như chiếc bóng, khơng có ai để chia sẻ tâm
tình. Trong những đêm đông dài và buồn, cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa;… nếu
khơng có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo.
Ngọn lửa giúp Mị xua bớt phần nào bóng tối u ám, lạnh lẽo đang bao phủ lên số
phận bất hạnh của cô. Không có người cảm thơng với nỗi tủi nhục của mình, Mị
phải tìm đến ngọn lửa và coi nó là người bạn duy nhất, khổ sở biết chừng nào. Tác
giả giúp người dọc hình dung rõ hơn về cuộc đời bế tắc của Mị qua hình ảnh căn
buồng kín mít, chỉ cố một lỗ cửa sổ bé bằng bàn tay. Ngồi ờ trong nhìn ra khơng
biết là đêm hay ngày, là sương hay là nắng.
Tất cả những ước muốn chính đáng dù là nhỏ nhoi của Mị đều bị thằng chồng tàn
bạo ngăn cấm và dập tắt một cách phũ phàng. Đêm xuân, Mị uống rượu, lòng bồi
hồi nhớ tới những đêm xuân thuở còn con gái. Mị thả hồn về ngày trước. Tiếng sáo
gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường khiến Mị muốn đi chơi. Mị định thay váy
áo đẹp để đi chơi. A Sử đi đâu về, thấy thế liền bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói
hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa
xuống, A Sử quấn ln tóc lên cột, làm cho Mị khơng cúi, khơng nghiêng được đầu
nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nối cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi
ra, khép cửa buồng lại. Hắn để mặc Mị trong đau đớn, tủi hờn giữa bóng đêm đen
kịt.
Sau bao năm bị đọa đày trong nhà thống lí, mọi cảm xúc và tinh thần phản kháng
của Mị hầu như bị tê liệt. Cuộc sống của Mị khơng cịn ý nghĩa bởi cơ cho rằng
mình sống mà như đã chết. Tội ác của bọn lang đạo, trong chế độ phong kiến thực
dân chính là ở chỗ đã nhẫn tâm tước đoạt quyển sống chính đáng của con người,
nhất là đối với phụ nữ. Cuộc đời Mị sẽ cứ thế trơi đi trong vơ vọng nếu khơng có

một sự việc bất ngờ xảy ra: cô đã cắt dây trói cứu A Phủ và cùng anh chạy trốn
khỏi nhà thống lí, sang tới tận Phiềng Sa. Cuối cùng, nhờ gặp được cán bộ cách
mạng, được giác ngộ, Mị và A Phủ đã trở thành những nhân tố tích cực ở khu du
kích Phiềng Sa. Cơ đã thực sự được sống, được làm người.
Trong xã hội phong kiến thực dân trước đây, người phụ nữ bị rẻ rúng, coi thường,
bị tước đoạt quyền sống, quyền tự do. Những ràng buộc bất cơng, phi lí đã kìm
hãm phụ nữ về mọi mặt. Họ hầu như bị lệ thuộc hoàn toàn vào người đàn ông.
Không gian sống của người phụ nữ xưa chỉ quanh quẩn trong phạm vi gia đình với
cơng việc nội trợ, chăm sóc chồng con; vì thế mà họ không thể phát huy được
những khả năng tiềm ẩn của mình để đóng góp cho xã hội..

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Ngày nay, quan niệm trọng nam khinh nữ tuy chưa thay đổi hoàn toàn nhưng người
phụ nữ cũng đã được hưởng những quyền lợi như nam giới và được xã hội tôn
trọng. Phụ nữ được học tập, làm việc, cống hiến trong mọi lĩnh vực, kể cả lĩnh vực
chính trị hay nghiên cứu khoa học tưởng chừng chỉ dành riêng cho nam giới, ở
nhiều nước trên thế giới, phụ nữ đã vươn tới những địa vị tối cao như Tổng thống,
Thủ tướng, Bộ trưởng,… còn ở nước ta cũng đã có Phó Chủ tịch nước và nhiều
phụ nữ là giáo sư, bác sĩ, doanh nhân… xuất sắc, mang lại vinh quang cho đất
nước.
Được hưởng quyển bình đẳng với nam giới khơng có nghĩa là người phụ nữ coi
nhẹ thiên chức làm vợ, làm mẹ. Ở ngoài xã hội, phụ nữ là những người tài giỏi,
nhưng trong gia đình, họ vẫn là vợ hiền, con thảo, là người mẹ tận tụy và giàu tình
yêu thương đối với các con.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng: Anh
hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Trong thời đại mới, họ xứng đáng với lời

khen: Giỏi việc nước, đảm việc nhà. Có sự thay đổi lớn lao như vậy trong số phận
của người phụ nữ là nhờ sự nghiệp cách mạng giải phóng giành lại chủ quyền độc
lập, tự do cho dân tộc và đất nước, Điều đặc biệt quan trọng là nhận thức về vai trò
của phụ nữ ngày càng đúng đắn, tiến bộ. Do đó mà đóng góp của phụ nữ cho xã
hội cũng ngày càng to lớn hơn.

Phân tích số phận người phụ nữ xưa và nay qua truyện ngắn Vợ
nhặt và Vợ chồng A Phủ - Bài mẫu 2
Đề tài về người phụ nữ luôn thu hút sự quan tâm, chú ý của đông đảo các nhà văn,
nhà thơ xưa và nay. Người phụ nữ trong xã hội xưa luôn phải chịu những đau khổ,
bất công, những định kiến lạc hậu mà xã hội phong kiến xưa mang lại. Đồng cảm
với thân phận và cuộc sống khổ đau của những người phụ nữ, các nhà văn, nhà thơ
đã đi sâu khai thác không chỉ cuộc đời, số phận mà cả đời sống nội tâm vô cùng
phức tạp của những người phụ nữ trong nghịch cảnh. Viết về những người phụ nữ,
cả nhà văn Kim Lân và Tơ Hồi đều thể hiện sự trân trọng đối với những người
phụ nữ trong tác phẩm của mình.
Số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa vô cùng đau khổ và bất hạnh, sinh ra là
phụ nữ đã thiệt thòi, sống trong xã hội phong kiến đầy bất công càng làm cho số
phận của những người phụ nữ trở nên nhỏ bé, bọt bèo hơn. Những người phụ nữ
khơng có quyền lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình, tất cả cuộc đời và số phận đều
phụ thuộc vào người khác. Nhà thơ Hồ Xuân Hương đã cất lên những tiếng nói đấu
tranh, nỗi lịng đồng cảm vói thân phận của những người phụ nữ. Ta có thể thấy rõ
điều này thơng qua bài thơ Bánh trôi nước:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

“Thân em vừa trắng lại vừa trịn
Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại cũng có hai tác phẩm tiêu biểu viết về số
phận của người phụ nữ trong xã hội, đó chính là tác phẩm truyện ngắn “Vợ nhặt”
của nhà văn Kim Lân và truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tơ Hồi. Hai truyện
ngắn khai thác những khía cạnh khác nhau trong cuộc sống của những người phụ
nữ. Nếu như Vợ nhặt nói về sự rẻ rúng của giá trị con người trong nạn đói cũng
như hạnh phúc bình dị, ấm áp mà nhân vật vợ nhặt có được trong phần cuối của tác
phẩm thì “Vợ chồng A Phủ” lại nói về sức sống tinh thần tiềm tàng của nhân vật
Mị, sức sống ấy giúp cho Mị giải phóng mình khỏi những đau khổ nhà thống lí Pá
Tra.
Trước hết, ta nói về truyện ngắn Vợ nhặt, truyện ngắn này nói về người vợ nhặt,
người đàn bà này khơng có tên, khơng có q qn cụ thể để làm nổi bật lên thân
phận nhạt nhòa, rẻ rúng của con người trong nạn đói. Người vợ nhặt trong một lần
đẩy xe thóc giúp anh Tràng đã tạo thành một mối nhân dun vơ cùng bất ngờ, tình
cờ. Người đàn bà trở thành người vợ của anh Tràng, một người vợ nhặt được trong
nạn đói. Ta cảm thấy xót xa vì người vợ là người gây dựng lên mái ấm gia đình mà
trong nạn đói lại rẻ mạt đến mức nhặt được.
Người đàn bà khi gặp anh Tràng lần thứ hai đã tỏ ra chanh chua, chỏng lỏn, trực
tiếp đòi ăn thứ gì khác chứ khơng ăn chầu. Khi được anh Tràng mời thì chị ta
khơng hề ngần ngại mà ăn liền một chặp hết ba bát bánh đúc. Sau đó, bằng lời nói
bang quơ mà chị ta đã đồng ý về làm vợ anh Tràng, sự việc diễn ra bất ngờ khiến
cho tất cả mọi người, người dân xóm ngụ cư, bà cụ Tứ và chín người trong cuộc là
anh Tràng cũng cảm thấy ngỡ ngàng, không dám tin là sự thật.
Khi ở chợ, người đàn bà tỏ ra là một người đanh đá, chỏng lỏn có phần trơ trẽn
nhưng đó khơng phải bản chất thật của chị ta, chỉ cần nhìn vào cách chị ta ăn ta có
thể thấy được chị ta rất đói, đói lâu ngày. Chị ta cũng là người có lịng tự trọng, sau
khi ăn nghĩa là cái đói tạm thời được giải quyết thì lòng tự trọng trỗi dậy, chị ta
quẹt đũa vào miệng mà nói đùa: “Chà, ngon. Lần này chị ấy thấy hụt tiền thì
nguy…”

Khi về nhà anh Tràng chị ta như trở thành một người khác hẳn, trở nên nhẹ nhàng,
ý tứ hơn rất nhiều. Khi về nhà anh Tràng, thấy cái đói cái nghèo vẫn hiện ra trước
mặt, dù thất vọng nhưng chị ta chỉ cố nén tiếng thở dài, ánh mắt thì tối lại. Khi bà
cụ Tứ trở về chị ta đã chủ động cất tiếng chào u như một lời làm quen, như lời
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

chào hỏi đầu tiên với người sau này sẽ trở thành gia đình của mình. Sáng sớm hôm
sau chị ta cũng thức dậy từ sớm cùng bà cụ Tứ quét dọn nhà cửa, cùng chuẩn bị
bữa cơm ngày đói.
Ta có thể thấy, người vợ nhặt trong truyện bên ngồi lớp vỏ ngụy trang xù xì là một
con người khát khao hạnh phúc, là một con người có lịng tự trọng, có ý thức. Cái
chao chát, chỏng lỏn mà chị ta thể hiện ra bên ngoài như một cách chị ta phản ứng
đối với cái khắc nghiệt của cuộc sống, như một lời thách thức với cuộc sống đầy
khắc nghiệt ấy.
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tơ Hồi lại xoay quanh cuộc đời và
số phận của nhân vật Mị. Gia đình Mị vì vay tiền của thống lí Pá Tra, khơng có tiền
trả mà phải trở thành con dâu trừ nợ cho nhà thống lí. Điều đáng nói ở đây là Mị đã
có người mà mình u thương, đã sống hết lịng vì tình u nhưng cuối cùng lại bị
bắt về làm vợ A Sử. Những ngày tháng sống trong gia đình thống lí Pá Tra khiến
Mị vô cùng đau khổ, những ngày mới về ngày nào Mị cũng khóc.
Mị đã từng có ý định ăn lá ngón để kết thúc sự đau khổ của bản thân, Mị trốn khỏi
nhà thống lí Pá Trá về chào tạm biệt bố để chết, nhưng nghe những lời tâm sự đầy
đau khổ của bố thì cuối cùng Mị vẫn khơng đành lịng chết đi, để lại nỗi đau khổ
cho cha. Mị chấp nhận cuộc sống như địa ngục trong gia đình thống lí Pá Trá, nhẫn
nhục lầm lũi như con rùa ni trong xó cửa. Từ khi trở thành người con dâu trừ nợ
Mị bị đối xử bất công, phải làm việc như con trâu con ngựa, phải chung sống với
người chồng độc ác, vũ phu.

Mọi phản ứng của Mị dường như bị tê liệt, Mị chết dần trong đau khổ, đáng sợ đến
mức Mị dần quen với cái khổ của bản thân “Sống lâu trong cái khổ Mị quen rồi”.
Khi bị A Sử trói chặt vào cột nhà suốt một đêm, cả người đau nhức nhưng vẫn phải
ngồi xoa thuốc cho A Sử khi hắn ta bị thương, vì mệt mà thiếp đi Mị bị A sử dùng
chân đạp thẳng vào mặt, Mị tỉnh lại và tiếp tục cơng việc thoa thuốc của mình mà
khơng hề có bất cứ một phản ứng nào với hành động nhẫn tâm ấy.
Khi thấy A Phủ bị trói đứng giữa sân nhà thống lí, ban đầu Mị hồn tồn vơ cảm vì
đó là cảnh tượng quen thuộc mà Mị thường xun bắt gặp trong nhà thống lí Pá
Tra. Nhưng khi chứng kiến giọt nước mắt của A Phủ lăn trên gò má xạm đen, Mị ý
thức được rằng người kia rồi sẽ chết, chết đau chết đớn, chết đói, chết rét cũng phải
chết. Mị nhớ lại mình cũng từng bị trói đứng cả đêm như thế, nước mắt rơi nhưng
không thể tự lau được. Từ đồng cảnh sinh ra đồng cảm, Mị đã liều lĩnh cắt dây giải
thoát cho A Phủ. Khi A Phủ chạy đi rồi Mị đối diện với một nỗi sợ hãi tột cùng,
bản năng ham sống khiến cho MỊ vùng chạy theo A phủ để giải phóng mình.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Qua hai truyện ngắn “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” ta thấy được số phận đáng
thương của những người đàn bà, là sự rẻ rúng mà hồn cảnh khắc nghiệt mang lại,
là sự chèn ép, bóc lột dã man của giai cấp cầm quyền. Nhưng cuối cùng nhờ sức
sống tinh thần mạnh mẽ thì cả người vợ nhặt và nhân vật Mị đều tìm được hạnh
phúc thực sự của cuộc đời mình.

Phân tích số phận người phụ nữ xưa và nay qua truyện ngắn Vợ
nhặt và Vợ chồng A Phủ - Bài mẫu 3
Số phận người phụ nữ xưa luôn là đề tài nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà
văn nhà thơ. Nó trở thành đề tài nhân văn, nhân đạo vô cùng sâu sắc, tạo ra nhiều

tác phẩm hay bất hủ như tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân và “Vợ chồng
A Phủ” của nhà văn Tơ Hồi.
Trong hai tác phẩm này ta thấy Mị và bà cụ Tứ, cũng như vợ cu Tràng đều là
những người phụ nữ khốn khổ, chịu nhiều tai ương trong cuộc sống.
Hồn cảnh sống khó khăn đã khiến cho những người phụ nữ sống thu mình, chịu
đựng tới mức chai lì và mất dần cảm xúc trong của con người.
Trong tác phẩm vợ nhặt hình ảnh vợ cu Tràng hiện lên chanh chua, là người khơng
có lịng tự trọng, chỉ vì sự đói khổ mà cơ có thể gạ gẫm người khác mời ăn, rồi
ngồi xuống húp hết một chập bốn bát bánh đúc một cách ngon lành. Rồi những lời
nói bơng đùa mà theo người ta về nhà làm vợ. Không cần cưới xin, hai họ làm
chứng…
Chính sự đói khổ đã khiến con người trở nên khơng cịn lịng tự trọng, khơng cịn
sự lựa chọn nào khác, nên người phụ nữ trở nên như vậy. Họ bị tước đoạt mọi
quyền sống, quyền hạnh phúc, sự lạc hậu nghèo đói đã khiến cho người phụ nữ
thay đổi, khơng cịn giữ được phẩm hạnh, lịng tự trọng của mình. Nhưng tự trong
sâu thẳm tâm hồn họ vẫn mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc. Một gia đình,
đúng nghĩa quây quần sớm tối bên nhau.
Thân phận người phụ nữ xưa dù bị dịng đời xơ đẩy nghiệt ngã tới mức nào thì vẫn
ln giữ cho mình một tấm lòng thủy chung son sắt. Đúng như bài thơ của Hồ
Xuân Hương đã viết:
“Thân em vừa trắng lại vừa trịn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


Vợ cu Tràng tuy có vẻ ngồi “chỏng lỏm”, chua ngoa, đanh đá nhưng thực chất
bên trong cô lại là người vô cùng hiền thục. Từ khi trở thành vợ cu Tràng cơ đã
thay đổi hồn tồn, dù thấy cái nghèo đói nhà chồng hiện ra trước mặt nhưng vẫn
điềm nhiên chấp nhận, nén lại tiếng thở dài.
Cô biết cùng mẹ chồng chăm lo vun vén nhà cửa, biết chuẩn bị bữa sáng trong gia
đình chồng. Trở thành người phụ nữ đúng nghĩa.
Nội tâm cô gái này là người yêu hạnh phúc gia đình và mong ước cơ một gia đình,
một tổ ấm thật sự. Chính vì vậy khi được Tràng và bà cụ Tứ chấp nhận cơ đã biến
đổi hồn tồn gỡ bỏ lớp gai xù xì của mình để trở thành người con dâu đảm đang
hiền lành
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” Mị là nhân vật vơ cùng đáng thương, cơ vì món
nợ của gia đình với nhà thống lí Pá Tra mà trở thành con dâu bắt nợ của họ. Phải
sống cuộc sống câm lặng như con rùa rúc đầu trong xó cửa hết ngày này qua tháng
khác, cam chịu cảnh bị đè nén, đánh đập làm việc như con trâu con bò trong nhà
họ. Tới con trâu khi làm việc cịn có buổi tối được nghỉ ngơi, nhưng số phận Mị
sống trong nhà thống lí thì khơng có giây phút nào được nghỉ.
Mị nhiều lần định ăn lá ngón để kết thúc số phận mình nhưng cơ lại nghĩ tới những
người thân của mình. Nếu cơ chết đi thì gia đình nhà thống lí sẽ ép cha mẹ cơ
khơng thể nào sống nổi trong bản này. Chính vì thương gia đình mà Mị cam chịu
cuộc sống nô lệ bị đày đọa cả về thể xác lẫn tâm hồn trong gia đình quyền hành đó.
Mị sống mà như đã chết, cuộc sống chẳng khác nào địa ngục trần gian cơ thường
bị chồng mình là A Sử trói vào đánh đập khi khơng làm theo ý nó. Những khi nó
chán đời hay buồn bực việc gì nó cũng sẵn sàng mang cơn tức giận trút lên thân thể
cô. Sống lâu trong cái khổ Mị quen dần Mị coi như mình là người đã chết tâm hồn
cơ đã chết, chỉ có thể xác là lay lắt sống qua ngày mà thôi.
Nhưng rồi mọi chuyện đã thay đổi khi Mị nghe tiếng sáo gọi bạn ở chợ tình mùa
xn. Tiếng nhạc đó đã thức tỉnh tâm hồn tưởng như đã chết trong Mị từ lâu khiến
Mị cảm thấy mình cịn trẻ lắm.
Mị muốn đi chơi, nhiều người phụ nữ có chồng có con vẫn đi chơi chợ tình trong
mùa xn có sao đâu. Mị muốn đi chơi, chính sự chuyển biến tâm lí đó của Mị đã

khiến cơ bị trả giá. Cơ bị A Sử trói vào cột nhà đánh tới tấp, nhưng chính trận địn
đó đã thức tỉnh ý thức làm người trong Mị thôi thúc Mị vùng lên đấu tranh đòi
quyền sống.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Hành động Mị cởi trói cho A Phủ và giải phóng mình khỏi nhà thống lí là một hành
động địi quyền làm người vơ cùng chính đáng. Nó thể hiện chân lí “Con giun xéo
mãi cũng quằn”.

Phân tích số phận người phụ nữ xưa và nay qua truyện ngắn Vợ
nhặt và Vợ chồng A Phủ - Bài mẫu 4
Trong văn học, ở thời đại nào, số phận người phụ nữ cũng là điều khiến những
người cầm bút trăn trở nhiều nhất.
Những trang viết về họ bao giờ cũng là những trang viết ám ảnh, để lại trong người
đọc nhiều trăn trở hơn cả. Đã qua rất lâu rồi thời của những cô Mị (Vợ chồng A
Phủ - Tơ Hồi), thời của những người “vợ nhặt”, của bà cụ Tứ (Vợ nhặt- Kim
Lân), nhưng câu chuyện về cuộc đời của họ vẫn làm ta khôn nguôi nghĩ về số phận
người phụ nữ xưa và nay.
Từ chị Dâu (Tắt đèn - Ngơ Tất Tố) đến Thị Nở (Chí Phèo - Nam Cao), đến Mị,
người “vợ nhặt”, bà cụ Tứ, và cả người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài
xa của Nguyễn Minh Châu những năm sau này, văn học đã cho chúng ta chứng
kiến bao nỗi cơ khổ, nhọc nhằn của người phụ nữ. Mỗi người một cảnh ngộ riêng
nhưng bao phủ lên cuộc đời họ đều là màu đen hắc ám. Đè nén, áp bức, thống trị
họ khơng chỉ là gồng cùm, xiềng xích của chế độ mà có khi là sự tàn bạo của
những người chồng. Nhưng khơng vì thế mà người phụ nữ mãi mãi yếu thế. Cuộc
đời nhiều thăng trầm đã tiếp thêm cho họ sức để kháng mạnh mẽ. Trong nước mắt,

tủi hờn, họ vẫn không ngừng hướng về sự sống, về tương lai sáng lạn.
Là cô gái lao động miền núi, ở Mị hội tụ tất cả những nét đẹp của một thiếu nữ
miền sơn cước: xinh đẹp, giỏi giang, đảm đang, hiếu thảo. Chỉ vài chi tiết rất nhỏ,
Tơ Hồi đã khiến chúng ta phải say mê bông hoa rừng này, huống gì những thanh
niên trai bản đã bị Mị hút hồn, ngày đêm thổi sáo theo Mị. Mị sinh ra trong một gia
đình nghèo. Đó khơng phải là điều bất hạnh đối với cô gái trẻ trung, yêu đời.
Nhưng cha Mị không được thách cưới cho con gái. Mị không được ném pao chọn
người u, khơng được tìm người u trong phiên chợ tình. Mị cay đắng vơ cùng
khi sớm phải chịu cảnh làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Món nợ truyền kiếp từ
đời cha mẹ nay cô gái phải gánh trả bằng cả hạnh phúc tuổi trẻ của mình. Tiếng
nhạc sinh tiền cúng ma buổi sáng hơm Mị bị bắt đã trói chặt cuộc đời Mị vào nhà
thống lí. Mị đã làm dâu nhà nó thì có chết cũng làm ma nhà nó. Số phận người con
gái miền núi đã được an bài. Không ai chống lại được và không ai dám chống lại
thần quyền cả. Thân phận đàn bà như Mị lại càng không thể vùng lên được, huống
hồ, Mị còn cha nữa.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Mị về làm dâu nhưng thực chất là làm người ở cho nhà thống lí. Khơng ai nghĩ
rằng được làm dâu nhà giàu mà Mị lại cơ khổ đến vậy. Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị
đã biết: "đàn hà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả đêm cả ngày". Mị đâu
được ăn sung mặc sướng, đâu được “ăn trên ngồi trốc” như bà Ba - vợ Bá Kiến
(Chí phèo -Nam Cao), hay như Thị Mịch (Giông tố - Vũ Trọng Phụng). Sự tồn tại
của Mị được đánh dấu bằng các công việc lặp đi lặp lại, vất vả, buồn tẻ: “Tết xong
thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ
bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay
để tước thành sợi, Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải chẻ củi hay
đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Tô Hồi

như vơ tình kể lại cho chúng ta cơng việc thường nhật của cô con dâu nhà Pá Tra,
nhưng thực chất chúng ta lại được chứng kiến sự thật đau lịng. Cơng việc nhọc
nhằn đày ải thân xác và những tủi hờn, khốn khổ trong sâu thẳm tâm hồn lúc nào
cũng phảng phất trên nét mặt cô gái. Nếu không phải nhà thống lí tham tiền, đày ải
dâu con trong nhà, lẽ nào bao việc cực nhọc, triền miên như thế phải đến tay Mị?
Bản chất thống trị, bóc lột của bọn cường quyền miền núi không được trực tiếp
miêu tả nhưng ít nhiều lộ hiện trong câu chuyện cuộc đời Mị. Mị cay đắng nhận ra
cuộc sống của mình không bằng con trâu, con ngựa.
Thân phận của Mị làm ta không khỏi nhớ đến nhân vật “em” yêu trong truyện thơ
dân gian Xống chụ xon xao của dân tộc Tày. Ở thời đại nào, những cô gái nông dân
miền núi cũng khơng thốt được sự áp chế hà khắc, thậm chí tàn bạo của cường
quyền và thần quyền nơi mình sống. Họ khơng được tự do lựa chọn người u và
một khi bị cưỡng bức lấy chồng thì mn đời phải làm trâu ngựa cho nhà chồng.
Sống với chồng, nhưng người con gái ấy cũng chỉ giữ được phận tơi địi hèn mọn.
Hành động A Sử bắt Mị về làm vợ thực chất hành động cưỡng bức chiếm đoạt của
tên con trai nhà quan, hòng thể hiên uy lực của cường quyền. Vậy nên, sau Mị, hắn
vẫn tiếp tục đi lùng bắt những cô gái khác.
Càng sống trong nhà giàu, tâm hồn Mị càng héo hon, tàn lụi. Bao nhiêu ngày ở nhà
thống lí là bấy nhiêu ngày Mị cam chịu sống trong địa ngục trần gian. Sự đè nén
của chế độ phong kiến và thần quyền miền núi đã làm Mị mất dần sức phản kháng,
gần như tê liệt hồn tồn. Mị khơng khóc như tháng đầu mới về nhà A Sử, cũng
không nghĩ đến chuyện tự tử nữa. “Mỗi ngày Mị càng khơng nói, lùi lũi như con
rùa ni trong xó cửa”. Chính Mị cũng nghĩ "mình cứ chỉ ngồi mãi trong cái lỗ
vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thơi". Cơ gái vốn trẻ trung, yêu đời,
khát khao được yêu, khát khao cuộc sống tự do lại phải sống trong cảnh giam hãm,
tù túng tất nhiên không thể trông đợi tương lai tươi sáng được.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


Nhưng im lặng khơng có nghĩa là thoả hiệp, cam chịu chấp nhận hoàn toàn. Tiếng
sáo gọi bạn tình và men rượu ngày xuân đã thức dậy nơi Mị niềm khát khao sống.
Hành động cởi trói cho A Phủ mặc dù tự phát nhưng là đỉnh điểm của sự bộc phát
một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Mị giải thốt cho A Phủ cũng chính là giải thốt
cho chính mình. Số phận của Mị dù thế nào đi chăng nữa cũng đã rẽ một bước
ngoặt và chắc chắn cuộc sống mới sẽ không u ám như cuộc sống trước đây.
Nếu như vây hãm cuộc đời cô gái lao động người Mèo trong câu chuyện của Tơ
Hồi là cường quyên và thần quyền miền núi, thì thế lực đè nén, áp bức người đàn
bà không tên trong Vợ nhặt của Kim Lân là chế độ thực dân, phát xít. Thế lực
thống trị này có đẳng cấp cao hơn, tinh vi hơn, xảo quyệt hơn rất nhiều. Câu
chuyện của Kim Lân khơng xuất hiện bóng dáng những tên đế quốc đó, nhưng sự
hồnh hành của nạn đói là bằng chứng tố cáo đanh thép nhất về tội ác của chúng,
Cái đói làm “người chết như ngả rạ” người sống “xanh xám như những bóng ma”.
Người “vợ nhặt” trong truyện ngắn được miêu tả với thân hình gầy đét, trên
"khn mặt lưỡi cày xám xịt" chỉ cịn "đơi mắt trũng hốy". Cuộc đời cơ gái kém
nhan sắc này lại khơng được đảm bảo bởi thứ vật chất có giá trị nào khác. Khơng
gia đình, khơng nhà cửa, thị sống cù bơ cù bất, ngày nào cũng ngồi ở cửa nhà kho
nhặt hạt rơi hạt vãi, hay đợi ai có việc gì gọi đến thì làm. Cuộc sống nghèo đói
khơng chỉ đẩy thị vào thế phụ thuộc mà còn làm phai đi ở thị những phẩm chất vốn
có ở người con gái. Cái đói làm thị tối mắt trước miếng ăn, không ngại ngần, xấu
hổ nên thị mới dễ dàng chấp nhận lời mời xã giao của anh cu Tràng: “Ăn thật nhá,
ừ ăn thì ăn sợ gì” sau lời tự động viên mình là hành động "ăn thật" của thị. Thị
"cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc nên chẳng chuyện trị gì". Chỉ chi tiết này
cũng đủ để Kim Lân khắc sâu bao nỗi cơ nhục trong số kiếp người đàn bà ấy.
Thị trở thành người đói nhất trong đám người đói, người đáng thương nhất trong
đám người khốn khổ. Khủng khiếp hơn, thị đã là người đàn bà mang thân phận rẻ
rúng nhất khi liều lĩnh chấp nhận theo không anh cu Tràng, bất biết anh chàng là
người như thế nào. Nhân vật Đào trong Mùa lạc (Nguyễn Khải) sau này dẫu khơng
có nhan sắc, dẫu cuộc đời đã qua nhiều rủi ro nhưng không khi nào chị tự hạ thấp

mình, bán rẻ mình. Có lẽ người “vợ nhặt” là hình ảnh đại điện cho sự thê thảm,
đáng thương của người phụ nữ dưới ách áp bức của chế độ thực dân, phát xít. Đám
bạn gái cùng ngồi trước cửa nhà kho với thị, chắc có ai đã khá hơn thị.
Nói đến cuộc đời người phụ nữ trong truyện ngắn của Kim Lân không thể bỏ qua
cuộc đời của bà cụ Tứ. Nếu ghép hai mảnh đời của hai người đàn bà khốn khổ
trong câu chuyện cũng chỉ được một cuộc đời khốn khổ. Người đàn bà ấy đã đi qua
những tháng ngày cay cực nhất, đã chịu đựng nỗi đau mất đi hai người thân trong
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

gia đình, và đến cuối đời, những giọt nước mắt cuối cùng cũng phải nhỏ xuống khi
không thể lo cho con trai một đám cưới tươm tất. Cay cực, tủi hờn là tất cả những
gì đã kết đọng trong cuộc đời người mẹ khốn khổ ấy.
Từ “vợ nhặt” đến bà cụ Tứ, chúng ta đã bắt gặp hai thế hệ phụ nữ khốn cùng nhất
trong xã hội. Họ là nạn nhân thảm hại của nạn đói khủng khiếp những năm trước
Cách mạng. Dẫu mỗi người có mang trong mình giấc mơ một tương tai tươi sáng,
mỗi người đều cố quên đi cuộc sống thực tại của mình, đều cố gắng vun đắp cho
gia đình bé nhỏ mới gây dựng nhưng chắc chắn những ám ảnh về cuộc đời tăm tối
của họ sẽ không thể nguôi ngoai trong mỗi chúng ta.
Đọc Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt, chúng ta đều được chứng kiến cuộc đời của
người phụ nữ Việt Nam cách đây hơn nửa thế kỉ. Nếu để khái quát về số phận
người phụ nữ xưa, chúng ta chỉ có thể nói rằng họ quá bị động, phụ thuộc, đáng
thương. Họ không yếu đuối nhưng sức phản kháng của họ chưa đủ để chống lại các
thế lực thống trị. Hơn nữa, tinh thần đấu tranh của những con người này chưa được
vũ trang bởi sức mạnh tập thể nên chưa mang tính chất tự giác.
Đất nước sạch bóng qn thù, con người khơng phải đối mặt với các thế lực áp chế
tàn tệ nữa. Dân tộc độc lập và người phụ nữ cũng đã được giải phóng, tất nhiên,
đâu đó trong kẽ ngách xa xơi nào của cuộc sống sẽ vẫn cịn những có gái như Mị.

Nhiều phụ nữ vẫn bị người chồng vũ phu đánh đập tàn tệ, nhiều bé gái vẫn bị chính
cha đẻ, cha dượng của mình cưỡng bức, nhiều em gái đi ở vẫn bị nhà chủ đánh đập
tàn tệ. Chung ta có thể tin điều đó khi đọc Chiếc thuyền ngồi xa của Nguyễn
Minh Châu, khi chứng kiến những thước phim mà các phóng viên quay được về
tấm lưng đầy sẹo của em gái đi ở th.,. Điều đó khơng tránh khỏi bởi tàn dư của
chế độ phu quyền vẫn còm bởi những tư tưởng hủ lậu vẫn chưa hoàn toàn mất
hẳn... Song, tơi tin, khơng cịn bất kì cơ gái nào phải tự hạ thấp mình vì miếng ăn
như người "vợ nhặt", khơng cịn người mẹ già nào phải rơi lệ khi không thể cưới
vợ cho con nữa.
Người phụ nữ ngày nay khơng cịn chịu ách áp bức của bất kì chế độ bất cơng nào
cả. Họ được tự do hồn tồn, tự do trong tình u, tự do trong cơng việc, tự do
trong mọi hoạt động sống. Cuộc đời họ do chính họ làm chủ. Họ bình đẳng với
nam giới. Họ được tôn vinh trong các ngày lễ của giới mình. Họ được học tập,
được làm việc, được hưởng thụ những thành quả lao động do mình lam ra. Trên xe
buýt, phụ nữ có bầu được nhường chỗ. Càng ngày càng có nhiều người phụ nữ
thành danh trong cơng việc của mình. Có những nữ nhà văn nổi tiếng như Phạm
Tin Hồi, Thuận, Võ Thị Hảo..., có những nữ bác sĩ xuất sắc như Nguyễn Thị Minh
Phượng, có những nữ chính trị gia tài giỏi như Nguyễn Thị Bình, Trương Mĩ Hoa,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Hà Thị Khiết... Họ vẫn là người vợ, người mẹ hồn hảo, vẫn làm trịn trách nhiệm
trong cơng việc của mình. Vẻ đẹp của họ là vẻ đẹp của sự chủ động, năng động,
của ý thức sâu sắc về giá trị và vị trí của mình trong xã hội.
Phụ nữ thời nay may mắn hơn phụ nữ thời xưa bởi họ được sống trong xã hội văn
minh, bình ổn. Cuộc đời của họ có dịp được nở hoa, đơm trái. Họ đã bước lên nấc
thang cao hơn, xa hơn so với những người của thế hệ trước.
Tuy nhiên trong xã hội vẫn có nhiều phụ nữ khơng làm chủ được bản thân. Họ sa

đọa vào những trò vô bổ, những tệ nạn như cờ bạc, ma tuý, mại dâm... Họ lạm
dụng chức quyền của mình để tham tán tài sản của Nhà nước. Bản án cho Lã Thị
Kim Oanh cách đây không lâu là bài học cho những người phụ nữ có quá nhiều
tham vọng trong cuộc sống - Chính họ đã tự huỷ hoại mình, tự dìm cuộc sống của
mình trong đó. Và lúc này, xã hội lại phải vực họ dậy, kéo họ thoát khỏi cảnh sống
lầm lạc.
Một trong những vấn nạn của xã hội hiện nay là nạn hành hung và bắt cóc phụ nữ
bán qua biên giới. Hàng năm, số phụ nữ bị bắt cóc bán qua biên giới vẫn khơng
ngừng gia tăng. Đây là một trong những điều bất cập của xã hội hiện đại, có ảnh
hưởng lớn đến đời sống tinh thần của người phụ nữ, nhất là những người phụ nữ
nông thôn ra thành thị lao động kiếm sống...
Làm thế nào để một nửa thế giới luôn được sống hạnh phúc và ngày càng được
hạnh phúc hơn? Làm thế nào để tất cả phụ nữ Việt Nam luôn ngập tràn trong tiếng
cười?... Đó là những câu hỏi khơng dành riêng cho bất cứ ai, không dành riêng cho
phái nam mà chính những người phụ nữ cũng phải trả lời chúng.
----------------------Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:
Soạn văn 12 ngắn gọn
Tác giả - Tác phẩm Ngữ Văn 12
Phân tích tác phẩm lớp 12
20 đề đọc hiểu thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



×