Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

SKKN Thơ và phương pháp giảng dạy thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.72 KB, 31 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm THCS
Đề tài: Thơ và phương pháp giảng dạy thơ

KL;
MJGJHHJ
1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
- Sau gần sáu năm cải cách môn Ngữ Văn ở Trung học cơ sở dư luận
chung đánh giá có nhiều chuyển biến rõ nét về phương pháp dạy học. Điều
chính là trong cuộc cải cách này đã được những định hướng và giải pháp mới
phù hợp với xu thế dạy học tiến bộ của khu vực và thế giới. Xong khi triển khai
lại gặp nhiều điều “ bất cập ’’ do sự non kém nghiệp vụ gây ra. Chúng tôi nhận
thấy: Một số giờ học văn nhiều giáo viên chưa hiểu sâu sắc bản chất của đổi
mới phương pháp; chưa quan tâm đến mọi đối tượng đặc biệt là đối tượng học
sinh yếu. Phương pháp giảng dạy chưa đổi mới, khó đổi mới. Chưa kết hợp hài
hồ các phương pháp, cịn hiện tượng “ Thầy nói trị ghi’’, hoặc cịn mắc phải
những sáo mịn mơí ngay khi xây dựng khẳng định phương pháp mới đã khiến
giờ học trở nên nhạt nhẽo vơ hồn. Từ đó ảnh hưởng rất nhiều đến việc cảm thụ
văn của học sinh.
- Qua dự giờ ở một số khối lớp, chúng tôi thấy số đông học sinh chưa có
thói quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học, nhiều em học sinh còn thờ ơ,
lãnh đạm với tác phẩm văn chương, nhất là thơ, thường ít hiểu, ít yêu thơ. Các
em học các bài thơ trong sách giáo khoa cũng bình thường như các bài học
khác, ít biết về thơ hiện đại, ít em có một quyển sổ đẹp để chăm chút viết vào
đấy những bài thơ hay mà mình u thích. Đối với nhiều em, thế giới thơ cịn là
một thế giới xa lạ. Nếu có ai hỏi các em về những bài thơ hay mà các em thích,
thường khi hiểu biết của các em quanh quẩn cũng khơng ngồi các bài thơ đã
học trong sách giáo khoa và


sở dĩ các em thấy hay vì có in trong sách giáo khoa và thầy giáo bảo
vậy. Cá biệt khơng phải khơng có em “sợ” thơ, bởi vì có những bài thơ cổ từ
ngữ, điển cố nặng nề, âm điệu trúc trắc, ý nghĩa khó hiểu gây cho các em nhiều
mệt nhọc mà lời giảng của người thầy nhiều lúc cũng chưa làm cho các em hiểu
rõ và thấy hay thêm được chút nào. Từ đó học sinh mất hứng thú khi học văn
và kéo theo chất lượng học văn ngày càng sa sút.
- Bên cạnh đó thế kỉ 21 Hội nhập toàn cầu, đời sống kinh tế xã hội phát
triển, những mơn học thời thượng (Tốn, Lý, Hoá, Tin học, Ngoại ngữ…) quan
trọng hơn bao giờ hết thì văn chương khơng có tính năng ứng dụng, tương lai
người học không được đảm bảo.Một thực tại mà giáo viên nào cũng nhận thấy :
Sách tham khảo, sách hướng dẫn để học tốt, sách chuẩn kiến thức, những bài
văn mẫu… q nhiều, vơ hình dung đã làm cho học sinh bỏ rơi sách giáo khoa,
học sinh tỏ ra biết đầy đủ nội dung tác phẩm văn chương được học nhưng chưa
một lần đọc bài văn, bài thơ trong sách giáo khoa, thầy có kiểm tra phát vấn thì
các loại sách tham khảo nghĩ hộ nói hộ tất cả và khi giáo viên ra đề kiểm tra coi
nghiêm túc thì tất thảy đã phơi bày ra. Có rất nhiều lỗi học sinh phạm phải
khiến người thầy đau lòng.
VD : Ngữ văn 9 bài kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm
2


Phần tự luận có câu: Em hãy viết bài văn giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi,
hoàn cảnh ra đời, nội dung và nghệ thuật của đoạn trích “Nước Đại Việt ta”
<Trích “Bình Ngơ đại cáo”>
HS1: Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình có tri thức nhưng do tham
gia khởi nghĩa nên ông đã bị giết hại một cách rất oan uổng vào năm 1442.
HS2: Nguyễn Trãi là một vị quan thanh liêm, giữ chức vụ cao ở triều đình. Ơng
sinh năm 1418 và mất năm 1378. Nội dung của bài “Bình Ngơ đại cáo” như
một bản tun ngơn độc lập của nước ta có nội dung rất vững chãi, ý nghĩa
hùng hậu.

HS3: Nguyễn Trãi là con trai Nguyễn Phi Khanh quê ở xã Chi Ngoại
thuộc huyện Chí Linh – Thường Tín – Hà Tây. Đoạn trích “Nước Đại Việt ta”
được trích trong “Bình Ngơ đại cáo” được ơng viết trong cuộc kháng chiến
chống quân Mông – Nguyên.
HS4: Nguyễn Trãi sinh năm 1382, ông là một vị quan giỏi nhất trong
triều đình. Ơng sáng tác trong hồn cảnh nhân dân khổ cực, đất nước bị bọn
thực dân tiến đánh. Ông đã kể lại hoàn cảnh loạn lạc của nhân dân lúc đó, đất
nước thì bị chia cắt, nhân dân đang cố gắng đánh lại quân Minh lần thứ nhất và
đã giết chết tên Toa Đô ở sông Bạch Đằng. Ông đã sử dụng một số nghệ thuật
để làm tăng sức mạnh mẽ của “Đại Việt ta” là liệt kê, kể, tả…
2. Mục đích nghiên cứu.
Từ nhận thức trên tổ khoa học xã hội dưới sự chỉ đạo của phòng chuyên
môn tập trung nghiên cứu làm thế nào để cho các em hiểu thơ yêu thơ và say
mê với thơ để từ đó hình thành thói quen ham học và ham đọc văn. Muốn vậy
giáo viên phải tìm hiểu thơ, đặc trưng của thơ nghĩa là tìm hiểu phương pháp
giảng dạy thơ trữ tình.
Trong khn khổ cho phép của một đề tài nghiệp vụ sư phạm tôi đã
quyết định chon đề tài “Thơ và phương pháp giảng dạy thơ trữ tình” với mong
muốn có thể ứng dụng hiệu quả hơn phương pháp giảng dạy thơ trữ tình để dạy
tốt các bài thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn THCS.
Trước hết tìm hiểu thực trạng việc dạy và học Ngữ văn nói chung và thơ
trữ tình nói riêng ở trường phổ thơng hiện nay. Từ đó đưa ra những đề xuất và
ứng dụng phương pháp giảng dạy thơ trữ tình. Quá trình thực hiện đề tài này
nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ sư phạm của bản thân, bước đầu làm quen
với việc nghiên cứu khoa học làm cơ sở cho việc học tập và nghiên cứu sau
này.
3. Thời gian địa điểm.
- Sau hai năm nghiên cứu đề tài thơ và phương pháp giảng dạy thơ trữ
tình năm học 2007-2008 chúng tôi thực hiện chuyên đề tại trường Trung học cơ
sở Xn Sơn.

4. Đóng góp mới về mặt lí luận, thực tiễn.
3


- Tiến hành nghiên cứu đề tài này, tôi không có tham vọng nhiều mà chỉ
mong học sinh của tơi có niềm đam mê học Văn nói chung và có kĩ năng cảm
thụ thơ nói riêng để từ đó chất lượng học văn ngày càng được nâng lên.
- Căn cứ vào kinh nghiệm và hiểu biết cịn ít ỏi của mình, tơi cố gắng tìm
hiểu phương pháp giảng dạy thơ trữ tình đó là chú ý đến đặc trưng của thơ. Đặc
biệt về mặt loại thể, thơ trữ tình giảng theo trình tự trữ tình, khai thác hình
tương tâm tư của tác giả hay của nhân vật trữ tình. Hình tượng thơ hình thành
trong một cấu tạo ngơn ngữ đặc biệt khác với ngơn ngữ bình thường. Cấu tạo
trong ngơn ngữ đó làm cho hình tượng thơ khơng chỉ có hình mà cịn có nhạc.
Trong khi giảng, người giáo viên phải làm cho học sinh vừa hình dung được
hình ảnh bài thơ gợi lên vừa cảm thụ được nhạc điệu của bài thơ mang đến.
Nắm được đặc trưng đó, chúng ta sẽ có một phương hướng chung để đi vào
nắm được quy luật chung, tìm ra phương pháp cơ bản nhất của việc giảng dạy
thơ. Phương pháp cơ bản đó sẽ góp phần hướng dẫn chúng ta trong khi đi tìm
những phương pháp cụ thể để giảng các bài thơ mn hình mn vẻ.
- Để làm được vấn đề trên, địi hỏi người thầy dạy văn phải có trình độ
học vấn và tay nghề cao cần năng động và sáng tạo rất nhiều. Hay nói cách
khác người thầy phải có tài năng và tâm huyết.
B. PHẦN NỘI DUNG.
Chương I: Tổng quan
Dạy đọc hiểu thơ trữ tình địi hỏi một cách tiếp cận riêng khác với dạy
các văn bản tự sự, miêu tả hay nghị luận. Cho nên trong chương II, nội dung
vấn đề nghiên cứu đề tài tôi đã đề cập đến những mục sau:
I. Thơ và đặc trưng của thơ.
II. Nghệ thuật thơ.
III. Dạy thơ.

Trong chương III, phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu có 2
phần.
I.Phương pháp nghiên cứu gồm 5 phương pháp.
II. Kết quả nghiên cứu: Ứng dụng vào bài dạy cụ thể: Văn bản “ Tiếng gà
trưa” Của tác giả Xuân Quỳnh.
Chương II: Nội dung vấn đề nghiên cứu.
I. Thơ và đặc trưng của thơ.

1. Thơ là gì?

- Nhà thơ đời Đường : Bạch Cư Dị có nhận xét:
“Rung động lịng người khơng có gì trước hơn tình cảm, khơng có gì
sớm hơn ngơn ngữ, khơng có gì tha thiết hơn âm thanh, sâu sắc hơn ý nghĩa thơ
: tình là gốc lời là ngọn, âm thanh là hoa ý nghĩa là quả”.
- Nhà phê bình Hồi Thanh:

4


“Từ bao giờ đến bây giờ, từ Hô me đến Kinh thi, đến ca dao Việt Nam.
Thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những
vui buồn của lồi người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế”
- Nhà thơ Sóng Hồng:
Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Thơ là một
viên ngọc long lanh dưới ánh sáng mặt trời. Thơ là thơ, đồng thời cũng là hoạ là
nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. Nhưng thơ có khả năng bao quát sâu
rộng không gian và thời gian mà nhiều nghệ thuật khác khơng có. Cho nên hơn
các nghệ thuật, thơ là nghệ thuật kỳ diệu của trí tưởng tượng.”
- Nhà thơ Tố Hữu :
“Thơ là cái nhuỵ của cuộc sống. Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc

sống đã thật đầy.”
“Thơ ca làm cho con người ta đi từ chân trời một người đến chân trời
nhiều người.”
Vâng! Thơ khơng chỉ là tiếng nói tâm hồn của các cá nhân thi sĩ mà cịn
là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu. Thơ nảy sinh do nhu cầu giãi bày
của nghệ sĩ; khao khát bày tỏ những tâm sự thầm kín của mình nhưng mặt khác
những tiếng lịng hết sức riêng tư ấy luôn khao khát được đồng vọng, đi tìm sự
đồng điệu.

2. Đặc trưng của thơ.

Đặc trưng của loại thơ trữ tình là sự bộc lộ trực tiếp tư tưởng, cảm xúc,
nhiệt tình, tâm tư, những trạng thái mạnh mẽ, xao động, phong phú của tâm hồn
và trí tuệ con người. Tất cả những trạng thái mn hình, mn vẻ mà tác phẩm
trữ tình diễn tả cũng đều bắt nguồn từ hiện thực, do cuộc sống kích thích, thúc
đẩy, khêu gợi… và đều có mang dấu vết, hình ảnh của cuộc sống, của hiện thực
khách quan. Có điều là mọi hình ảnh cuộc sống đều bộc lộ qua cảm quan và
ngôn ngữ cá nhân của tác giả hoặc của nhân vật mà tác giả nhân danh để phát
biểu, của cái ngơi thứ nhất mà trong lí luận văn học gọi là “Nhân vật trữ tình”
hay “cái tơi trữ tình”. Do đó, trong tác phẩm trữ tình khơng phải chỉ có cảm
xúc, tư tưởng thuần tuý, trần trụi mà cũng có cảnh, có người, có việc, nhưng
điều chủ yếu ở đây là cái trạng thái tâm tư dào dạt cảm xúc hay chất chứa suy
nghĩ trước những cảnh, những người, những việc đó. Trong tác phẩm tự sự
trung tâm là hình tượng – tính cách (của nhân vật) cịn trong tác phẩm trữ tình
trung tâm lại là hình tượng, tâm tư (của tác giả hay của nhân vật trữ tình).
Ví dụ văn bản “Sau phút chia ly” trích “ Chinh phụ ngâm” thì chủ yếu là một
tác phẩm trữ tình. ở đây khơng có câu chuyện nào cả, hoặc đúng hơn là có rất ít
chuyện. Từ đầu đến cuối khúc ngâm là sự diễn biến của hàng loạt trạng thái tâm
tư, tình cảm khác nhau của người chinh phụ trong thời gian vắng chồng. Hiện
thực về chiến tranh phong kiến cũng như thái độ phản kháng tiêu cực đối với

cuộc chiến tranh đó chủ yếu được bộc lộ qua tâm trạng của nhân vật trữ tình:
người chinh phụ. Hình ảnh chiến trường âm u, ảm đạm của một cuộc chiến
tranh phong kiến vơ nghĩa cũng như tình cảnh cửa nhà quạnh vắng, cô đơn của

5


người vợ trẻ đợi chồng được dựng lên không phải như một “cái gì ở bên ngồi,
tách biệt” mà ở trong tâm trạng thương nhớ triền miên của người chinh phụ.
II. Nghệ thuật thơ.
1. Tiếng Việt giàu âm thanh, nhạc điệu. Hệ thống vần điệu và thanh điệu
là những yếu tố cơ bản tạo nên tính nhạc của tiếng Việt nói chung và ngơn từ
văn học nói riêng, nhất là thơ. Một trong những tác dụng của vần là tạo nên âm
hưởng vang ngân trong thơ, từ đó mà diễn đạt và thể hiện nội dung. Đọc đoạn
thơ sau:
“Em ơi Ban Lan mùa tuyết tan
Đường Bạch Dương sương trắng nắng tràn
Anh đi nghe tiếng người xưa vọng
Một giọng thơ ngâm một giọng đàn.”
Ở đây vần chính là an (tan, tràn, đàn) nhưng bên cạnh đó, nhà thơ cịn
sử dụng rất nhiều vần khác (lan || tan, dương || sương, trắng || nắng, vọng ||
giọng).
Trong bốn dòng thơ hàng loạt các vần liên tiếp xuất hiện, tạo nên
một khúc nhạc ngân nga, diễn tả một niềm vui phơi phới như muốn hát lên của
nhà thơ khi đứng trước mùa xuân của đất nước Ba Lan.
2. Dấu câu và cách ngắt nhịp
Dấu câu và sự ngắt nhịp là một trong những phương tiện hữu hiệu đã thể
hiện “sự im lặng không lời”. Dấu câu và cách ngắt nhịp cịn có một chức năng
rất quan trọng đó là tạo nên “ý tại ngơn ngoại” hàm nghĩa “gợi ra những điều
mà từ khơng nói hết”, nhất là trong thơ. Thật khó mà dùng ngơn từ để diễn tả sự

im lặng và xúc động thiêng liêng đến tận cùng, giây phút Bác Hồ trở về Tổ
quốc sau 30 năm xa cách bằng mấy dấu câu trong đoạn thơ này:
“Ôi! Sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về... Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ...”
(Tố Hữu – Theo chân Bác)
Câu thơ của Chế Lan Viên “Đất nước đẹp vơ cùng. Nhưng Bác phải ra
đi” (Người đi tìm tình hình của nước) nhiều học sinh đọc liền một mạch đã làm
mất đi bao nhiêu sức gợi cảm sâu lắng, thiết tha, một sự nuối tiếc đến xót xa do
cái dấu chấm dòng ấy tạo ra. Nhiều trường hợp, sự xuống dòng liên tục, sự ngắt
nhịp liên tục, đột ngột của tác giả có một dụng ý hay đúng hơn có một ý nghĩa,
một tác dụng rất sâu sắc trong việc thể hiện nội dung. Câu thơ: “Màu tím hoa
sim tím chiều hoang biền biệt (chín chữ) được nhà thơ Hữu Loan xé thành sáu
dịng thơ:
“Màu tím hoa sim
Tím
Chiều
Hoang
Biền
Biệt”
6


ở bài thơ này, nhiều câu thơ bị cắt ra như thế. Cả bài thơ vỡ vụn thể
hiện được nỗi đau tan nát. Tiếng khóc đứt đoạn, nghẹn tắc, hạnh phúc tan thành
nhiều mảnh, đứt ra nhiều đoạn, khơng gì hàn gắn nổi.
Đọc bài thơ “Người hàng xóm” của Nguyễn Bính ta thấy thi sĩ sử dụng
nhịp điệu đặc biệt để thể hiện tâm trạng khác thường, của nhân vật trữ tình .
Ví dụ như:

“Khơng!, từ ân ái nhỡ nhàng
nhịp thơ 1/5
Tình tơi than lạnh tro tàn làm sao!”
“Mấy hơm nay! Chẳng thấy nàng
nhip thơ 3/3
Giá tơi cũng có tơ vàng mà hong
Cái gì như thể nhơ mong
Nhớ nàng, khơng, quyết là không, nhớ nàng
nhịp thơ 2/1 /3/2
Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng
nhịp thơ 1/5
Lịng tơi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa”
Nhịp điệu thay đổi rõ ràng khi chàng trai bồi hồi phát hiện ra tâm trạng
khác thường của mình và càng thay đổi đặc biệt hơn khi anh ta không dám công
nhận sự thật của con tim đang rung động, nhất quyết tự dối lịng mình:
Cái gì như thể nhớ mong?
Nhớ nàng, không, quyết là không nhớ nàng
nhịp thơ 2/1/ 3/2
(Đó chính là nhịp đập của trái tim đang thổn thức)
3. Thơ nói bằng hình tượng, ngơn ngữ tạo hình và hình tượng thơ.- Hình
tượng thơ hình thành trong một cấu tạo ngôn ngữ đặc biệt, được cách điệu hố,
khác với ngơn ngữ bình thường. Cấu tạo ngơn ngữ đó làm cho lời thơ vừa lắng
đọng vừa ngân vang, làm cho hình tượng thơ khơng chỉ có hình mà cịn có nhạc
là sự tổng hợp của hình và nhạc. Hình của thơ do ý nghĩa của ngơn ngữ dựng
lên, nhạc của thơ sinh ra từ âm thanh của ngôn ngữ. Hình ảnh thơ lắng đọng,
nhạc của thơ ngân vang. Hai yếu tố này quyện lẫn vào nhau, cùng một lúc sinh
ra từ tâm hồn nhà thơ khi sáng tác và cũng cùng một lúc tác động đến tâm hồn
người đọc khi cảm thụ.
Ngơn ngữ thơ có thể là:
+ Ngơn ngữ gợi màu sắc:

“Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc”
(Hàn Mặc Tử)
“Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh”
(Xuân Diệu)
“Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông”
(Nguyễn Du)
+ Ngôn từ gợi đường nét:
“Lơ thơ tơ liễu buông mành”
Ba âm “ơ” (lơ, thơ, tơ) gợi đường nét thưa thớt của những chiếc lá liễu bng
mành.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu”
(Chính Hữu)
7


Hình ảnh của tình đồng chí: nét thẳng (súng) của ý chí hồ hợp với nét
cong (đầu) của tình cảm.
+ Ngơn ngữ gợi hình khối:
“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
(Hồ Chí Minh)
“Cổ thụ là một khối to đậm tiêu biểu cho sự hùng vĩ của núi rừng.
“Hoa” là một nét nhỏ, nhẹ tiêu biểu cho vẻ thơ mộng của núi rừng. Tất cả đều
nhuốm ánh trăng thật là huyền ảo.
III. Dạy thơ.
Bước 1: Tìm hiểu bài kĩ lưỡng nhuần nhuyễn đến mức thuộc thơ sống
với bài thơ tìm hiểu tác giả hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
+ Giới thiệu, tìm hiểu xuất xứ của tác phẩm chính là đối chiếu tác phẩm với
nguồn gốc và hoàn cảnh xã hội sản sinh ra tác phẩm để có thể hiểu tác phẩm
một cách đúng đắn, sâu sắc hơn. Nhưng khi giới thiệu xuất xứ, chúng ta chỉ cần
nhấn mạnh những chi tiết, sự kiện nào trong tiểu sử tác giả cũng như hồn cảnh

xã hội có liên quan và có tác dụng đối với việc phân tích tác phẩm. Phần tìm
hiểu xuất xứ phải góp phần làm sáng tỏ những mặt nào đó về nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm. Ngồi ra có thể và cần thiết phải đặt tác phẩm trong mối
liên quan với
- Các tác phẩm khác của cùng tác giả
- Các tác phẩm của các tác giả khác.
- Tình cảm, tư tưởng của học sinh.

Bước 2: Đọc thơ: Đọc thơ là để tạo tâm thế ban đầu cần thiết cho học

sinh cũng chính bước đầu tiếp cận hình tượng thơ.
- Đọc diễn cảm là tạo điều kiện cho cảm xúc của học sinh được khởi
động theo âm -vang của ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ thơ, và ngôn ngữ nhân
vật, cái mà đọc bằng mắt nhiều khi không đạt được. Âm thanh cao thấp, ngữ
điệu biến đổi, tốc độ nhanh chậm, tiếng ngân cũng như chỗ dừng…trong giọng
đọc dẫn dắt tâm trạng học sinh hoà vào cuộc sống trong tác phẩm, tưởng tượng
ra khung cảnh, ra nhân vật. Đọc chính là tạo lên rung động thơ, tạo lên sự đồng
điệu về tâm hồn để rồi tiến tới sự đồng tình và đồng ý với tác giả.
Bước 3: Phân tích: Chúng ta khơng thể dùng một cái công thức chung
cho mọi bài thơ. Thực ra, trong các bài thơ trữ tình nói chung đều có một số
nét rất giống nhau về hình thức, nhưng xét kĩ mỗi bài lại có một diện mạo riêng
mà cái diện mạo ấy cái vẻ độc đáo ấy được tạo lên do âm điệu tâm hồn do
phong cách của nhà thơ do cách lựa chọn chủ đề và đề tài… phải tìm ra bằng
được những nét riêng đó. Phải cho học sinh thấy được những nét độc đáo trong
nghệ thuật của mỗi bài thơ để các em hiểu được tính đa dạng của các phong
cách thơ nói riêng, của văn học nói chung.

8



Nói tóm lại trong khâu lựa chọn kiến thức cơ bản để phân tích, chúng ta cần
chú ý:
I. Xác định đặc trưng loại thể.
VD : “Bếp lửa” là một bài thơ trữ tình và vì vậy nó phải nằm trong phạm vi
loại hình nghệ thuật biểu hiện chứ khơng phải loại hình nghệ thuật tạo hình.
Phải khẳng định dứt khốt điều này trong nhận thức mới có thể giải quyết các
khâu: lựa chọn kiến thức cơ bản, lựa chọn phương pháp truyền thụ. Nắm cho
được trình tự diễn biến. Lơ gích phát triển của tâm tư tác giả hay của nhân vật
trữ tình với mọi sắc thái và mọi biểu hiện của nó qua các chặng thời gian cũng
như qua các bước không gian.
II. Xác định và lựa chọn những kiến thức cơ bản cần truyền thụ cho
học sinh.
- Có xác định đúng thể loại mới có thể xác định và lựa chọn những kiến
thức cơ bản cần khai thác và truyền thụ.
- Nắm chắc chủ đề và hình tượng cảm nghĩ của tác phẩm
1. Tạo tâm thế cho học sinh.
Trước hết: Dựng lại khơng khí lịch sử hồn cảnh là một biện pháp có hiệu
lực đối với việc hình thành tâm thế văn học nếu người giáo viên biết chuyển
hố những tình cảm, những rung động của học sinh về lịch sử thành những tình
cảm tâm trạng cần có đối với tác phẩm. Dựng lại khơng khí lịch sử có tác dụng
khởi động tình cảm, nhất là những tình cảm cùng loại với tình cảm trong bài
văn khêu gợi có thể bằng nhiều cách. Một mẩu chuyện lịch sử nằm trong mạch
cảm hứng chủ đạo của tác giả.Một câu chuyện người thực việc thực của tác giả
của những nhân vật trực tiếp liên quan đến bài thơ có khả năng khêu gợi tình
cảm cần thiết cho học sinh.
Thứ hai: Tái hiện hình tượng.
Đây là biện pháp có tính quyết định trong giờ giảng văn. Có tái tạo được
hình tượng mới làm rung động được tâm hồn học sinh, khởi nguồn tưởng tượng
và thúc đẩy các hoạt động tâm lý, trí tuệ của các em. Rung cảm với hình ảnh
tưởng tượng các em sẽ tiếp thu những bài học về nhân sinh thể hiện qua tác

phẩm khi rung cảm, học sinh sống với cuộc sống mà tác phẩm phản ánh, nảy
sinh lịng u thương gắn bó với cái đẹp, cái cao cả, ghét cái xấu, cái đê hèn.
Khi yêu, ghét một cách tự giác tự nhiên, chính là lúc các em cũng tự soi mình
trong tấm gương văn học, những điều tiếp thu được sẽ trở thành vốn sống,
thành niềm tin chỉ đạo phương pháp sống sau này. Trong khi yêu cái đẹp, ghét
cái xấu, tự các em vươn dần lên cái đẹp và loại bỏ dần cái chưa tốt trong con
người mình. Việc tái tạo hình tượng cần được tiến hành trong suốt giờ học.
* Tái tạo hình tượng trong q trình phân tích.
Tái tạo hình tượng ở khâu phân tích từ, hình ảnh chi tiết, tức là phân tích
các dấu hiệu nghệ thuật của tác phẩm là khâu có tính chất quyết định sự thành
cơng hay thất bại của giờ đọc hiểu văn bản. Học văn trước hết học sinh học lấy
cái cụ thể ấy, và sự hướng dẫn của thầy, thơng qua sự phân tích cái cụ thể mà

9


học sinh hình thành dần phương pháp tự học, nâng cao dần năng lực tư duy,
nâng cao dần tư tưởng, tình cảm của bản thân.
-Ví dụ: Bốn câu thơ trong bài “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng
mẹ” – Nguyễn Khoa Điềm:
“ Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhơ làm gối”
Bằng vài chi tiết khéo chọn lọc, mở rộng liên tưởng, so sánh nhà thơ vừa
tả được động tác giã gạo của người mẹ, vừa tả được giấc ngủ của em bé trên
lưng mẹ vừa nói được tình thương u của người mẹ với con, với bộ đội. từ
động tác giã gạo của người mẹ mà vẽ ra hình ảnh giấc ngủ của đứa con.
“ Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng’
Đó là câu thơ tạo hình hay nhất và xúc động nhất.Từ “nghiêng”như vẽ ra

cái dáng nghiêng nghiêng vất vả của mẹ và trên lưng em bé cũng đang ngủ say,
cả người cũng nghiêng nghiêng áp vào lưng mẹ. Giấc ngủ của A-kay mơí kỳ
diệu làm sao. Giấc ngủ khơng có nơi, khơng có võng đó là “giấc ngủ nghiêng”
.Giường ngủ là lưng mẹ, chiếc nôi là vai mẹ. Đó khơng cịn sự êm ái nào hơn
thế!.Vai mẹ “nhấp nhô” và lưng mẹ đung đưa theo nhịp chày giã gạo. “Vai mẹ
gầy nhấp nhô làm gối”. Từ láy “ nhấp nhơ” là một từ tạo hình diễn tả sinh động
khơng chỉ sự thiếu thốn, đói khổ, gầy gị của mẹ mà cả sự cố gắng của mẹ trong
công việc nặng nhọc và kéo dài nhịp chày lên xuống. Giấc ngủ của em Cu- Tai,
cũng “nhấp nhô” cũng “ nghiêng nghiêng” giữa thiên nhiên, đất trời.giấc ngủ
nghiêng trên lưng mẹ –thực thể thiên nhiên kỳ diệu.Có thể nói hình ảnh “ giấc
ngủ nghiêng” là hình ảnh sáng tạo gợi cảm, giấc ngủ ướp những giọt mồ hôi
mặn chát của cuộc đời mẹ. ngay từ tuổi ấu thơ em đã gần gũi với nỗi vất vả và
đã nhận từ mẹ tất cả tình u thương. Vì u con nên bà mẹTà-ơi địu con trên
lưng, nhưng vẫn muốn giấc ngủ con được ngon lành.
Căn cứ vào dấu hiệu nghệ thuật của bài văn, người thầy phải gợi ra dáng
hình, đường nét, màu sắc của hình tượng để học sinh như trơng thấy hình tượng
hiện ra trước mắt, tưởng có thể đụng chạm được.
+ Có khi là một từ gợi tả:
“Đường vơ xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ”
(Phong cảnh q hương Bác)
+ Có khi là một hình ảnh
“Trên đường ta về lại Thủ đơ
Cờ đỏ bay quanh tóc bạc Bác Hồ”
(Ta đi tới)
Cờ đỏ là cờ cách mạng, màu cờ đỏ còn tượng trưng cho chiến thắng. Lá
cờ của Tổ quốc thắm tươi bởi thấm máu của bao anh hùng liệt sĩ. Mái tóc bạc
của Bác Hồ gợi cho ta nhớ tới bao gian khổ mà Bác và dân tộc ta đã trải qua
10



suốt 9 năm kháng chiến. Lá cờ đỏ bay quanh mái tóc bạc Bác Hồ vừa gợi lên
cái tưng bừng của ngày chiến thắng, vừa nói lên cái nghiêm trang của ngày lễ
lớn.
-Có lúc phải tái tạo trên cơ sở một nhóm từ, một loạt hình ảnh, hoặc chi
tiết để học sinh có thể hình dung hồn chỉnh về một hình tượng văn học.
“Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
…Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng’
(“Lượm” - Tố Hữu)
Đoạn thơ gợi lên hình ảnh chú bé trong những ngày cách mạng sôi nổi.
Chú liên lạc nhỏ bé, nhưng rắn chắc, nhanh nhảu, đi mà như nhảy nhót. Lịng
chú liên lạc chắc vui lắm nên cái mũ ca lô cũng đội lệch, chú khối trá, nghênh
đầu, hếch mặt lên nhìn trời, nhìn cảnh vật và miệng ht sáo vang.
Có thể nói, sau giờ học văn,cái đọng lại sống mãi với học sinh là tình
cảm, là năng lực trí tuệ, là niềm tin. Do đó giờ văn phải khởi động được hoạt
động tâm lý và hoạt động trí tuệ của học sinh để các em tích cực tham gia khám
phá hình tượng, tái tạo hình tượng , từ đó mà tự giác tiếp thu lấy bài học nhân
sinh và ra sức bồi dưỡng năng khiếu cảm thụ văn học, tự giác rèn luyện phương
pháp tự học mơn Ngữ văn.
2. Gợi tìm.
- Nay được dùng như một phương pháp nhằm phát huy tính độc lập
sáng tạo của học sinh trong giờ đọc hiểu văn bản. Gợi tìm chủ yếu được thực
hiện thơng qua hệ thống câu hỏi tạo điều kiện trong hoạt động song phương
giữa thầy và trị.
Các câu hỏi đàm thoại ngồi tính chất xác định rõ ràng, phải có màu sắc văn
học, có khả năng khêu gợi tình cảm, cảm xúc, xúc động thẩm mỹ cho học sinh.
- Câu hỏi phải vừa sức học sinh, thích hợp với khn khổ một giờ học trên
lớp, vừa phải có khả năng “gợi vấn đề” suy nghĩ tìm tịi sáng tạo cho học

sinh.
- Câu hỏi không tuỳ tiện, phải được xây dựng thành một hệ thống lơgíc, có
tính tốn giúp học sinh từng bước đi sâu vào tác phẩm như một chính thể.
- Cần có sự kết hợp cân đối giữa các loại câu hỏi cụ thể và loại câu hỏi
tổng hợp gợi vấn đề. Câu hỏi có khi theo lối diễn dịch, có khi theo lối qui
nạp nhưng đều nhằm cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức vững
chắc.
Có thể nêu câu hỏi tạo tình huống có vấn đề, nhưng điều cốt lõi là khơng
làm thay sự tìm hiểu của học sinh. Các em phải được dẫn đi qua từng chặng
đường cho đến khi hoàn thành một khám phá, một phát hiện. Sự gợi tìm có kết
quả khi kết hợp với đọc, tái hiện và nghiên cứu.
Để tạo điều kiện cho học sinh hiểu tác phẩm sâu sắc hơn thường có những
câu hỏi tưởng tượng hoặc nhập thân vào nhân vật. Chúng ta có thể chấp nhận
11


những kiểu câu hỏi: “Nếu em là anh Khoai, em sẽ làm gì?”, “Nếu em là nhà
vua, em sẽ nghĩ sao?” “Nếu em là... em sẽ...” tự nhiên trở thành một dạng câu
hỏi mà giáo viên cứ việc điền tên nhân vật của bài đang học. Nhưng bạn nghĩ
sao, khi đồng nghiệp của chúng ta áp dụng mẫu đó cho các câu hỏi sau:
- Nếu em là con hổ, em sẽ nói với bà đỡ Trần những gì.
- Nếu em là con Ba Bớp em sẽ nghĩ gì?
- Nếu em là con chó Bấc...? Nếu em là Dế choắt...
Rõ ràng khi hỏi theo một khuôn mẫu sẽ làm nghèo khả năng suy nghĩ và
diễn đạt của cả thầy, lẫn trò. Mặt khác, không nhất thiết em cứ phải là “con bị,
con chó”, hoặc là “anh Khoai”... thì mới có thể tưởng tượng hoặc nhập thân.
Chúng ta có thể hỏi: “Em hãy hình dung nếu con Chó Bấc có thể nói được, nó
sẽ nói điều gì?”...
Để khắc phục nhược điểm khi đặt câu hỏi, chúng ta có thể thực hiện một số
giải pháp:

- Suy nghĩ thật kĩ vấn đề mình sắp dạy;
- Tham khảo các câu hỏi gợi ý trong SGK, SGV, sách bài soạn.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi riêng của mình cho bài soạn.
- Cố gắng sử dụng nhiều hình thức diễn đạt khác nhau để hỏi về cùng một
nội dung;
- Chú ý đón bắt, khơi gợi những ý tưởng mới mẻ của học sinh, từ thực tế
trả lời của các em, điều chỉnh lại cách hỏi cho phù hợp.
Lưu ý khi khai thác các yếu tố hình thức và nội dung:Chọn lựa những yếu tố
có tác dụng làm sáng rõ từng khía cạnh của hình tượng mà tác giả đã miêu tả
trong thơ nhằm bộc lộ cảm nghĩ và chủ đề. Ln ln đặt để phân tích mối
quan hệ của nó với các yếu tố khác trong hệ thống kết cấu của bài thơ để phân
tích mối quan hệ của nó với các yếu tố khác trong hệ thống, khơng tách rời bất
cứ yếu tố nào.
3. Ngồi ra, thao tác so sánh đối chiếu cũng thường dùng trong phân tích.
So sánh đối chiếu là cách đánh bóng cho nổi bật hình tượng trong tác phẩm. Có
nhiều cách so sánh.
a. So sánh đồng đại : so sánh, liên hệ đối tượng đang phân tích, vấn đề
đang bàn luận trong tác phẩm ấy với những tác phẩm khác ra đời cùng một thời
kì. Biện pháp so sánh này có tác dụng khẳng định vẻ độc đáo, “tính riêng” của
đối tượng, vấn đề. Ví dụ để làm nổi bật bức tượng đài chiến sĩ tráng lệ mộc mạc
bình dị cao cả và thiêng liêng, trong bài “Đồng chí” của Chính Hữu chúng ta so
sánh hình tượng ấy được thể hiện trong các bài thơ thành công khác ở những
năm bây giờ (như “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Tây tiến” của Quang Dũng).
Hoặc khi phân tích cảm hứng về quê hương đất nước trong “Đất nước” của
Nguyễn Đình Thi, chúng ta có thể so sánh cảm hứng của Hoàng Cầm lúc viết “
Bên kia sông Đuống”, của Tố Hữu lúc viết về “ Việt Bắc” cũng bộc lộ lòng
căm hờn trước lũ giặc giày xéo đất nước quê hương, cũng nói lên niềm tự hào
với quê hương đất nước giàu đẹp, bất khuất nhưng mỗi nhà thơ thiên về một sắc
thái cảm hứng, có bút pháp thể hiện khác nhau.
12



b. So sánh đối tượng : tìm cái trái ngược, đối lập (về bản chất) với đối
tượng đang phân tích, bàn luận, chỉ ra sự tương phản giữa hai phía để khẳng
định cái hay, cái đẹp của đối tượng. Màu trắng của chiếc bánh bao càng ấn
tượng khi đặt nó bên cạnh cục than đen! Muốn làm nổi bật dáng vẻ lênh khênh
của hiệp sĩ Đôn Kihôtê hãy để chàng ta đi cạnh một Xan Chô thấp lùn! Biện
pháp đối lập thường gây ấn tượng mạnh mẽ, sâu đậm về đối tượng (Chúng ta
hiểu vì sao cảm hứng lãng mạn say mê những gì lạ thường đối lập với thực tế
hay gắn với tư duy, thủ pháp nghệ thuật này). Để khẳng định lẽ yêu đời, lí
tưởng sống ở người thanh niên Tố Hữu kể từ khi được “Mặt trời chân lí trói qua
tim” trong bài “Từ ấy”, có thể so sánh với tâm trạng buồn chán, nỗi cô đơn ở
nhiều thanh niên kiểu tư sản đương thời biểu hiện trong thơ ca lãng mạn. Để ca
ngợi chủ nghĩa anh hùng, tinh thần tự nguyện cống hiến cuộc đời mình cho
kháng chiến, cho Tổ quốc của anh bộ đội trong “Tây tiến”, trong “Đồng chí”,
có thể so sánh với người lính phong kiến “Bước chân xuống thuyền nước mắt
như mưa” trong bài ca dao lính thú ngày xưa. Cũng có thể so sánh cùng đề tài
ấy hình ảnh ấy như được cảm nhận, thể hiện khác nhau như thế nào qua các bài
thơ thuộc các khuynh hướng văn học khác nhau, chẳng hạn như “ Tiếng hát
sông Hương” của Tố Hữu với lời kĩ nữ của Xuân Diệu, chẳng hạn cảm xúc
trước mùa thu của Nguyễn Đình Thi trong bài “ Đất nước” với Xuân Diệu trong
bài “Đây mùa thu tới”,hoặc hình tượng vầng trăng tuổi thơ và vầng trăng thời
chiến trong bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy với trăng trong thơ Trần Đăng
Khoa, trăng với người lính những năm ở rừng sương muối người chiến sĩ
đương chờ giặc tới “Đầu súng trăng treo” <Chính Hữu>, Đất nước trải qua
những năm dài máu lửa, trăng với người lính đã vượt lên mọi tàn phá huỷ diệt
của bom đạn quân thù.
“Và vầng trăng, vầng trăng đất nước
Vượt qua quầng lửa, mọc lên cao”
- Có thể so sánh từ với từ trong trục ngang, hoặc trục dọc của ngôn ngữ.

VD1: “Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”
VD2: “Chúng đem bom ngàn cân
Dội lên trang giấy”
Thay từ “Khô rạc” bằng từ “Khô héo, khô quắt”, thay từ “dội” bằng từ
“Thả, ném” để thấy được cái hay, đặc sắc của từ đó.
4. Cuối cùng một trong những biểu hiện tích cực của đổi mới phương
pháp dạy học trong giờ Đọc – hiểu thơ trữ tình là thuyết trình và giảng bình.
Chúng ta nhận thấy: hiện nay có nhiều giáo viên Ngữ văn đã vận dụng đổi mới
phương pháp “thái quá”, hầu như nhiều người chỉ biết “hỏi và hỏi”, chỉ biết
hướng dẫn học sinh chia nhóm, thực hành, thảo luận mà hầu như qn đi việc
đưa thêm những lời bình giảng, phân tích đầy chất “văn chương’ vào giờ dạy.
Chúng tôi nghĩ rằng, nếu giáo viên chỉ biết đặt câu hỏi hướng dẫn học sinh trả
lời, trao đổi, thảo luận mà khơng có những lời bình văn mượt mà ngọt ngào của
thầy và trị thì giờ Ngữ văn sẽ trở lên khơ khan, nhàm chán khơng khác gì một
cuộc phỏng vấn báo chí. Tuy vậy, có người lại cho rằng, giáo viên đặt nhiều
13


câu hỏi là tốt, là đổi mới, còn giáo viên giảng nhiều, bình nhiều thì lại sa vào
phương pháp độc diễn như cũ, chưa đổi mới. Vậy, chúng ta phải xác định lại,
có phải giáo viên chỉ biết đặt câu hỏi, hướng dẫn học sinh thảo luận tích cực
chủ động là thực sự đổi mới và dạy học có hiệu quả hay không? Theo tôi nghĩ,
giáo viên phải biết kế thừa những ưu điểm những mặt tích cực của phương
pháp dạy học truyền thống, kết hợp với phương pháp đổi mới, tích cực hố hoạt
động của học sinh thì giờ học Ngữ văn mới thành cơng, cụ thể là ngồi việc đưa
hệ thống câu hỏi đa dạng, phong phú, hướng dẫn học sinh hoạt động, chia
nhóm thảo luận, trao đổi. Giáo viên nên đưa thêm các lời bình giảng, phân tích
những chi tiết hình ảnh nghệ thuật có giá trị, để làm cho giờ học Ngữ văn thực
sự lôi cuốn học sinh. Để có những lời bình giảng, phân tích hay, phù hợp có dư
âm thì giáo viên phải chuẩn bị kĩ càng, chu đáo và được cụ thể hoá trong giáo

án. Như vậy, những lời bình giảng, phân tích của giáo viên trong giờ đọc – hiểu
văn bản là rất cần thiết, quan trọng góp phần làm nên dư vị ngọt ngào, khơi gợi
cảm xúc của học sinh khi tiếp nhận các giá trị văn chương. Và có một thực tế là
những giáo viên có những lời bình hay, độc đáo sẽ được học sinh nhớ mãi, ấn
tượng mãi.
Khi bình các thủ pháp nghệ thuật cũng phải chú ý lựa chọn. Trong mỗi khổ thơ
hoặc ngay trong một dòng thơ, tác giả cũng đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ
thuật khác nhau. Nếu bình tất cả thì khơng có thời gian, dẫn tới tình trạng san
bằng một cách bình quân mọi yếu tố nghệ thuật. Như vậy không thể làm nổi bật
cái hay, cái đẹp của các yếu tố nghệ thuật chủ yếu.
Khi nhận ra những tín hiệu nghệ thuật quan trọng phải tiến hành giảng
dạy cho mạch lạc ý tứ mà câu thơ thể hiện sau đó mới đi bình. Ở đây có rất
nhiều cách bộc lộ cách đánh giá trực tiếp của người viết, mượn lời người khác
để đánh giá, nhập vào tác giả mà suy luận, nhập vào nhân vật trữ tình mà tưởng
tượng, liên hệ với các câu thơ, bài thơ khác để thấy những nét độc đáo riêng ...
Tuy nhiên dù cách nào cũng vậy lời bình phải phù hợp với lời giảng trước hoặc
sau đó, giảng có sâu sắc thì lời bình mới tâm đắc. Nếu giảng hời hợt, chưa tới,
dù có bình tâm huyết đến mấy cũng sẽ thiếu sức thuyết phục, người đọc sẽ
khơng tin vào những lời bình rộng như thế. Thêm nữa, lời bình thể hiện rõ nhất
ở giọng điệu, cảm xúc, thái độ, độ tinh nhạy của mĩ cảm. Cho nên nó mang dấu
ấn cá nhân người viết rất đậm. Người được xem là có chất văn, hồn văn hay
khơng chủ yếu thể hiện ở những lời bình văn này.
VD: Ngữ văn 9 tiết 46 – tuần 10
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu
Cảm nhận của em về ba câu thơ cuối bài.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
- Giáo viên giảng bình:
Bức tranh tình đồng đội hiện lên với cái mảng màu nền hoang vắng,

bảng lảng, hun hút tối:
14


“Đêm nay, rừng hoang sương muối”
một câu thơ mà gói gọn đầy đủ thông tin:- Thời gian đêm.
- Không gian rừng
- Đặc điểm “Hoang”  vắng u ám, mịt
mùng bí ẩn và đầy nguy hiểm.
- Thời tiết sương muốilạnh buốt, tê
tái.
Cái mịt mùng của đêm tối càng được tô đậm thêm bởi sự “hoang” rập
rình những nguy hiểm từ đại ngàn âm u, bởi sự tĩnh lặng buốt giá bưng bít
của sương muối. vậy mà, từ trong màn đêm mịt mùng ấy, một ngọn lửa đã
được thắp lên, bùng cháy và toả sáng ngọn lửa của tình đồng chí: “Đứng
cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Nếu thay cụm từ “Đứng cạnh bên nhau” bằng
một cụm từ khác, ví như : “Hai chúng ta chờ giặc tới” ,hay “Anh và tôi chờ
giặc tới”, hẳn, câu thơ cũng chẳng có gì đặc biệt và cũng chẳng có ngọn lửa
nào được thắp lên. Thế nhưng tác giả đã dùng “Đứng cạnh bên nhau” chứ
không phải là một cụm từ nào khác để tái hiện hình ảnh “Chờ giặc tới” của
hai anh vệ quốc quân. Cái ánh sáng toả ra từ ấy, cái hơi ấm cũng toả ra từ
ấy – từ cái tư thế “Đứng cạnh” đầy gắn kết, yêu thương, sát cánh chung
vai, đồng lịng đồng chí . Đứng cạnh để khẳng định rằng giữa hồn cảnh
khốn khó này, hiểm nguy này, ngồi chiến luỹ khơng bao giờ cơ độc. Và vì
thế hai người lính- dẫu trong hồn cảnh hết sức éo le, khốn đốn hiểm nguyvẫn giữ vững tư thế hiên ngang, tự tin, chủ động “ chờ giặc tới”. Cái không
gian mịt mùng tối tăm kia từ phía kẻ thù bỗng chốc trở thành đồng lỗ chỉ vì
một từ “ chờ”. Tính chất vị trí nguy hiểm, đe doạ khơng cịn, thay vào đó là
tính “đặc địa’, “ lợi thế’. Rừng hoang sương muối trở thành chiếc bình
phong hữu hiệu để hai người lính ẩn náu mai phục sẵn sàng xơng lên tiêu
diệt kẻ thù. Câu thơ cuối cùng thực sự đã chắp cánh cho tình đồng chí thăng

hoa:
“ Đầu súng trăng treo”.
Súng tượng trưng cho chiến tranh- trăng tượng trưng cho hồ bình.
Hai sự việc ấy nếu có mặt đặt cạnh nhau thì chỉ có thể trong tư thế đối lập.
Vậy mà ở đây trăng và súng hoà quện với nhau tạo nên một hình ảnh thơ
mộng, lung linh kỳ ảo và lãng mạn siêu thực về người chiến sĩ cách mạng.
Cái lạnh lẽo tối tăm của câu thơ thứ nhất đã tan biến, cái tâm lý căng não,
giương cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cũng đã tan biến, chỉ còn lại một
niềm bay bổng, phiêu du, thăng hoa, bát ngát. Ở đây chỉ duy nhất là sự tự do
bay lượn của tâm hồn niềm lạc quan chờ đợi bay bổng. Hai người chiến sĩ
trong một khoảnh khắc (có thế rất ngắn ngủi rất thống qua) đã cho phép
mình được thả lỏng, được bay bổng với giấc mơ hoà bình. Đấy mới là đỉnh
cao nhất của tình đồng chí. Bởi vì tình đồng chí đâu chỉ giúp người ta thêm ý
chí chiến đấu, Cao cả hơn và nhân văn hơn, tình đồng chí giúp người chiến
sĩ qn đi chiến tranh, quên đi gian khổ, để bay bổng với niềm ước mơ và
khát khao hồ bình. Có thể nói, cuốn theo hồn thơ Chính Hữu “ Đồng Chí”
15


đối với người đọc cịn đó và mãi mãi cịn đó như một minh chứng cho một
qúa khứ hào hùng gắn liền với một miền đất, một đoàn quân, cho một hồn
thơ tráng lệ và lãng mạn đến tận cùng.
Ví dụ: Ngữ văn 9 Tiết 56,57 Tuần 12 bài thơ “ Bếp lửa” của Bằng Việt.
Bình giảng nhan đề Bếp lửa.
Cái bếp lửa là hình ảnh quen thuộc với bất kỳ con người nào trên trái
đất này ngay cả khi các cơng nghệ khí đốt hiện đại ra đời thì cái bếp lửa bập
bùng vẫn luôn truyền vào tim mỗi con người hơi ấm tự nhiên kỳ diệu và
hạnh phúc. chiếc bếp lửa với tư cách độc lập cùng ý nghĩa ngun thuỷ của
nó đã là biểu tượng của tình yêu thương. Vậy nên, khi nhà thơ Bằng Việt
chọn cái tên Bếp lửa cho thi phẩm của mình người ta đã biết đó là bài thơ về

tình u hạnh phúc. Và ở đây là tình yêu của hai bà cháu. Tình u bà cháu
mn đời vẫn là tình u cao cả nhất, độ lượng nhất và tuyệt đối nhất: hy
sinh tuyệt đối cho tuyệt đối ( từ người bà) và đón nhận tuyệt đối ( từ người
cháu) . Tấm lịng tình u mà bà dành cho cháu đều ngả ngón trong cái bếp
lửa . Có thể nói, bếp lửa trở thành hình tượng quán xuyến trong bài thơ. Cái
bếp lửa – nơi bà nhóm lên, dập đi hàng ngày cũng là nơi bà để lộ tất cả sự
quan tâm, săn sóc cháu. Bếp lửa là tình bà nồng ấm , bếp lửa là tay bà chăm
chút, bếp lửa gắn với kỷ niệm quá khứ đời bà.Ngày ngày, bà nhóm bếp lửa
cũng là nhóm lên niềm vui sự sống, niềm yêu thương chi chút dành cho con
cháu và mọi người. Bếp lửa hay là chính trái tim của bà!
Nhà thơ hồn tồn có thể đặt tên cho thi phẩm của mình là “bà tôi’.
Nhưng hai từ bà tôi không thể hiện được gì cả. Bếp lửa mới chính là một tựa
đề đắt giá. Bếp lửa là tình yêu, cất giữ tình yêu và là khởi nguồn của tình
yêu. Hơn thế nữa, bếp lửa là nơi ủ giữ ngọn lửa tình yêu và lưu truyền tình
yêu từ thế hệ này sang thế hệ khác.Có lẽ thế mà bốn mươi bốn năm qua,
“Bếp lửa” vẫn được đọc nhiều, yêu nhiều. Đó là vinh dự của nhà thơ khi thi
phẩm của mình thực sự sống trong lịng độc giả.
Ví dụ 3: Ngữ văn 9 tiết 111-112 văn bản “Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải.
Viết lời bình cho haikhổ thơ sau:
“Ta làm con chim hót
..................................
Dù là khi tóc bạc”.
Giáo viên bình.
Từ niềm say mê giao cảm với thiên nhiên, nhân vật trữ tình vươn tới
một khát vọng hoá thân – hoá thân thành một bộ phận của thiên nhiên cuộc đời, hoá thân để giao cảm viên mãn nhất và tuyệt đối nhất, làm con
chim để “hót vang trời”, làm một nhành hoa để tô điểm hương sắc đất trời,
làm một nốt trầm êm dịu để hoà vào bản nhạc xuân tưới mát vạn vật, tất cả
đều quá nhỏ bé, quá bình dị nhưng lại đầy hữu ích với cuộc đời, khát vọng
hố thân ấy tươi đẹp và đáng trân trọng biết bao. Điệp từ “Ta” được lặp lại
ba lần như thể muốn khẳng định thêm điều tâm niệm ấy, ước muốn trong

trẻo ấy. Và ở câu thơ cuối, khi nhà thơ không viết là “ta là một nốt trầm” mà
16


“ta nhập vào hồ ca một nốt trầm”, thì lúc này, nhân vậy trữ tình khơng
dừng lại ở khát vọng nữa, mà thực sự đã hoá thân theo khát vọng của
mình.Nhà thơ viết những câu thơ này khi đang nằm trên giường bệnh chờ
đến giây phút cuối cùng của vòng quay “sinh – lão – bệnh – tử”. Trong cái
giây phút ấy, người ta đã không nghĩ đến cái chết mà nghĩ tới sự hoà nhập
trọn vẹn vào vạn vật vũ trụ là đã đạt đến cõi Niết Bàn rồi, đã giác ngộ viên
mãn rồi.
Đến khổ thơ thứ năm, một cảm xúc mùa xuân mới mẻ độc đáo đã hình
thành đầy đủ và có tên gọi riêng rất giàu sức gợi cảm “Mùa xuân nho nhỏ”.
Vâng! “Mùa xuân nho nhỏ” ấy đã:
“Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
Đúng thế, nhân vật trữ tình đã hoá thân thành “Một mùa xuân nho
nhỏ”- một mùa xuân với bản năng dâng hiến, bản năng hi sinh, bản năng tô
đẹp cuộc đời cho đất nước mãi mãi đẹp tươi. Các từ láy “nho nhỏ”, “lặng
lẽ”, nghệ thuật đảo ngữ “lặng lẽ dâng” thể hiện tình cảm chân thành khiêm
tốn của tác giả. Điệp ngữ “Dù là” làm nổi bật sự tha thiết, vần thơ như một
lời thề giữ trọn vẹn lẽ sống từ tuổi hai mươi- sung sức tươi trẻ hay “tóc bạc”già cỗi, yếu ớt, xế bóng mãn chiều. Con người-mùa xuân ấy vẫn không
ngừng dâng hiến, khơng ngừng trút tồn bộ sức lực, tình u, trí tuệ phục vụ
cho cuộc đời một cách lặng lẽ đầy say mê, hân hoan tự nguyện.
Có thể nói, hai khổ thơ như một bức thông điệp chân thành sâu sắc
được cất lên từ tâm linh của người sắp qua đời gửi tới cuộc sống, tới mỗi
người. Bức thông điệp ấy đáng được đón nhận, đáng trân trọng và ngợi ca.
Chương III. Phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu.
I/ Phương pháp nghiên cứu.

- Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã vận dụng và phối hợp nhiều
phương pháp trong đó có các phương pháp cơ bản sau:
1.Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Đọc các tài liệu giáo trình có liên quan đến vấn đề thơ và phương pháp
giảng dạy thơ trữ tình.
2. Phương pháp điều tra quan sát:
Thơng qua việc dự giờ thăm lớp, qua thưc tế dạy học.
3. Phương pháp tổng kết và đúc rút kinh nghiệm.
- Tìm hiểu thực trạng việc dạy học của giáo viên qua các bài thơ trữ tình
trong sách giáo khoa Ngữ văn THCS.
4. Phương pháp đàm thoại:
Trao đổi với giáo viên trong tổ KHXH về vấn đề dạy Ngữ văn nói chung
và dạy thơ trữ tình nói riêng.
5. Phương pháp thực nghiệm:

17


Tiến hành thực nghiệm để kiểm nghiệm tính khả thi và tác dụng của các
ý kiến đóng góp về phương pháp giảng dạy thơ trữ tình từ đó điều chỉnh cho
hợp lý hơn.
II/ Kết quả nghiên cứu.
Thực tế qua gần 2 năm nghiên cứu thơ và phương pháp giảng dạy thơ trữ
tình tơi dã áp dụng phương pháp giảng dạy thơ trữ tình vào mơn Ngữ văn lớp 7
bài 13 tiết 53, 54 “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh.
1) Mục đích thực nghiệm:
- Ứng dụng phương pháp giảng dạy thơ trữ tình vào bài
- Kiểm tra khả năng tiếp thu cảm và hiểu của học sinh
- Từ đó kiểm chứng tính khả thi của những giải pháp trên về giảng dạy thơ trữ tình.
2) Nội dung thực nghiệm:

- Tiết 53, 54 văn bản “Tiếng gà trưa”
(Xuân Quỳnh)
A- MỤC TIÊU CẦN ĐẠT.

1- Kiến thức:
- Giúp học sinh cảm thụ được vẻ đẹp trong sáng, đằm thắm của những kỉ
niệm tuổi thơ và tình cảm bà cháu. Những tình cảm quê hương đó chính là cơ
sở của tình cảm tạo sức mạnh cho người chiến sĩ trên đường chiến đấu trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ.
- Nghệ thuật sử dụng điệp ngữ - điệp câu để nối mạch cảm xúc, biểu hiện cảm xúc
bình dị.
2- Kĩ năng:
- Luyện cho học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm bài thơ.
Từng bước khai thác giá trị của tác phẩm, qua đó thấy được nghệ thuật
biểu hiện tình cảm, cảm xúc của nhà thơ ở các chi tiết đời thường và giản dị.
nước.

3- Thái độ: Bồi dưỡng tình yêu gia đình, tình bà cháu, tình yêu quê hương đất
B- CHUẨN BỊ.

SGK, SGV, Ngữ văn 7 (tập 1), giáo án.
- Vẽ tranh minh hoạ (sgk), ảnh chân dung Xuân Quỳnh, tập thơ “Hoa dọc
chiến hào” và “Sân ga chiều em đi”.
C- PHƯƠNG PHÁP:

bình.

Dạy theo phương pháp kết hợp giữa đọc sáng tạo gợi tìm và đặt câu hỏi, giảng
D- TIẾN TRÌNH GIỜ DẠY:


18


- ổn định.
- Kiểm tra bài cũ.
- Bài mới.
- Giới thiệu bài để tạo sự hứng thú cho HS tôi đưa ảnh chân dung Xuân
Quỳnh cho cả lớp xem và giới thiệu:
“Thế là đã được gần 20 năm kể từ ngày Xuân Quỳnh rời xa trần thế. Cái
ngày 29/8 định mệnh năm 1988 ấy mãi in sâu vào trong trái tim những người
yêu thơ chị một nỗi buồn da diết đớn đau.
Vâng! Gần 20 năm nhưng hình ảnh người nữ sĩ tài hoa, nhân hậu ấy khơng ai
có thể qn.
Nhắc đến chị người ta thường nói đến những bài thơ tình cháy bỏng yêu
thương. Nhưng trong tân hồn người phụ nữ đa cảm mãnh liệt ấy có một góc
khơng mạnh mẽ, không sôi nổi mà sâu lắng thiết tha là tình yêu cuộc sống.
“Tiếng gà trưa” là một trong những bài ca cuốc sống. Có thể khơng phải là bài
thơ đặc sắc của Xuân Quỳnh nhưng “Tiếng gà trưa” hội tụ cái chất Xuân
Quỳnh: giản dị và hiền hậu mà hơm nay cơ cùng các em tìm hiểu”.
(?) Dựa vào chú thích SGK trình bày
những nét cơ bản về tác giả Xuân
Quỳnh.
- Định hướng cho HS trả lời, GV bổ
sung: Thơ Xuân Quỳnh thường viết về
những tình cảm gần gũi, bình dị trong
cuộc sống hàng ngày, biểu lộ những
dung cảm sâu xa và khát vọng chân
thành của một trái tim phụ nữ đằm
thắm, thiết tha nhân hậu.


I/ Tìm hiểu tác giả tác phẩm:
1) Tác giả: Xuân Quỳnh (1942 1988).
- Quê ở La Khê ven thị xã Hà Đông,
tỉnh Hà Tây.
- Là một trong những nhà thơ nữ xuất
sắc trong nền thơ hiện đại Việt Nam.
- Tác phẩm chính: “Hoa dọc chiến
hào”; “Hoa cỏ may”; “Sân ga chiều
em đi”; “Tự hát”…

(?) Bài thơ ra đời vào thời kỳ nào?

2) Tác phẩm: Bài thơ ra đời vào thời
kì đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ
in trong tập “Hoa dọc chiến hào”
(1968).

GV mở rộng

Như nhiều tác phẩm đương thời, thơ
Xuân Quỳnh cũng hướng vào chủ đề
bao trùm của cả nền văn học lúc ấy là
lòng yêu nước và cổ vũ tinh thần chiến
đấu. Nhưng trong bài thơ này, cũng
như nhiều tác phẩm khác của mình,
Xuân quỳnh khai thác cảm xúc từ
những điều gần gũi, bình dị, những kỉ
niệm của chính mình, để từ đó góp vào
19



những tình cảm chung của thời đại.
Xuân Quỳnh mất mẹ từ lúc còn chưa
biết đội khăn tang, người cha lại
thường vắng nhà đi làm xa lên hai chị
em xuân Quỳnh sống với bà suốt cuộc
đời thơ ấu. Qua những chi tiết sinh
hoạt đời thường, bài thơ “Tiếng gà
trưa” của Xuân Quỳnh đã gợi lại một
cách cảm động những kỉ niệm đẹp của
tuổi thơ và tình cảm hai bà cháu.
3) Đọc - chú thích:
- Đọc

GV giới thiệu cách đọc:
- Nhịp: 3/2; 2/3 nhấn mạnh điệp câu điệp ngữ, tiếng gà trưa ở đầu các đoạn
2, 3, 4, 7.
- Chú ý giọng đọc vui, bồi hồi, phân
biệt lời mắng yêu của bà với lời kể, tả
trữ tình của nhà thơ - trong vai anh bộ
đội đang nhớ nhà, nhớ bà, nhớ quê.
GV cùng HS đọc toàn bài từ 1 đến 2 - Giải thích từ khó theo ba chú thích
lần. GV nhận xét cách đọc của HS .
trong SGK.
- GV bổ sung thêm:
+ Gà mái mơ: Gà mái lông màu hoa
mơ, vàng nhạt xen trắng lốm đốm.
II/ Phân tích bài thơ:
(?) Bài thơ được viết theo thể thơ gì?
1) Thể thơ: Thơ ngũ ngơn trữ tình, có

- GV mở rộng nhân vật trữ tình.
một số câu 3 tiếng.
- Nhịp chủ yếu 3/ 2 hoặc 2/ 3 hoặc 1/
(?) Nhận xét về nhịp và vần thơ.
2/ 2.
- GV tích hợp với bài thơ “Đêm nay - Vần khá phong phú linh hoạt: Vần
Bác không ngủ” của Minh Huệ
chân, bằng, trắc; vần liền, bằng,
cách…
2) Phân tích bài thơ:
- Nghe thấy tiếng gà nhảy ổ
(?) Theo em cảm hứng của tác giả “Cục…cục tác cục ta”.
- Khi tác giả dừng chân trong một xóm
được khơi gợi từ sự việc gì?
(?) Tác giả nghe thấy âm thanh nhỏ giữa chặng đường hành quân
“cục…cục tác cục ta” trong hoàn cảnh
nào?
GV diễn giải 2 câu đầu là những dòng
20


kể chuyện tâm tình khơng gian của
câu chuyện mở ra vừa cụ thể, vừa mơ
hồ. Vơ hình dung Xn Quỳnh đã nối
sợi dây kí ức trong lịng người đọc.
Trong khơng gian im ắng ấy tiếng gà
nhảy ổ vang lên, báo hiệu sự sống mới
chào đời.
- GV tích hợp với thơ Lưu Trọng Lư
và thơ Hồ Xuân Hương

(?) Mạch cảm xúc trong bài thơ diễn
biến như thế nào?
(?) Em có nhận xét gì về nghệ thuật
thể hiện câu thơ:
“Cục…cục tác cục ta
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”

GV mở rộng

- Nghe âm thanh đó tác giả cảm thấy:
“Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”
- Định hướng HS.
“Cục…cục tác cục ta” qua việc lặp âm
và sử dụng dấu chấm lửng, tác giả mơ
phỏng rất sát tiếng gà nhảy ổ. Chính
việc mô phỏng rất sát ấy là điều kiện
để xuất hiện các câu thơ sau một cách
chân thực. Cả 3 câu sau tác giả đều sử
dụng lối ẩn dụ chuyển đổi cảm giác,
lấy thính giác thay cho thị giác, lặp
động từ “Nghe” ở vị trí đầu câu 3 lần,
đem lại cảm giác tiếng gà vừa như mở
ra (theo hướng từ gần đến xa, buổi
trưa trong xóm nhỏ - những chặng
đường hành quân đã qua - tuổi thơ đã
xa) vừa như ngưng lại: Nghe gọi về

tuổi thơ.
- Sức lay động của tiếng gà trưa diễn
tả thật kỳ diệu bằng 3 hình ảnh:
+ Xao động nắng trưa: tiếng gà tác
động đến thiên nhiên, nắng trưa vốn
gay gắt, rát bỏng, hanh hao chợt trở
lên xao động lung linh, xao xuyến
sống động.
+ Bàn chân đỡ mỏi: Tiếng gà tác động
đến cơ thể làm cho con người khoẻ
khoắn tỉnh táo hơn. bàn chân rệu đi vì
“Hành quân xa” như có vị thuốc tiên
trở lên đỡ mỏi, hồi sức trở lại.
+ Gọi về tuổi thơ: Tiếng gà trưa tác
động đến kỉ niệm chạm vào miền kí
21


ức, dắt lối con người ngược dòng thời
gian trở về với tuổi thơ.
(?) Từ âm thanh tiếng gà trưa tác giả - Liên tưởng đến tiếng gà trưa của thời
liên tưởng tới điều gì?
thơ ấu.
Hết tiết 1.GV dẫn dắt chuyển ý vào tiết 2
(?) Phần nội dung tác phẩm có mấy - Trong bài thơ tiếng gà trưa xuất hiện
câu thơ tiếng gà trưa, xuất hiện ở 4 lần, tất cả ở vị trí đầu khổ thơ. Mỗi
những vị trí nào ?
lần đều có một giá trị mở ra một nội
dung liên tưởng mới .
(?)ở lần thứ nhất tiếng gà trưa khơi - Lần 1:hình ảnh những con gà mái với

dậy những hình ảnh thân thương nào? những ổ trứng hồng.
“ổ rơm hồng những trứng
Này con gà mái mơ
Khắp mình hoa đốm trắng
Này con gà mái vàng
Lơng óng như màu nắng”
(?) Màu sắc của gà và trứng đã gợi tả - Vẻ đẹp tươi sáng, đầm ấm, bình dị, hiền
những vẻ đẹp riêng nào trong cuộc hoà.
sống làng quê ?
(?) em có nhân xét gì về giá trị nghệ - Câu thơ sóng đơi từng cặp
thuật?
- Từ “này”được nhắc đến hai lần có
tác dụng liệt kê.
- Nghệ thuật đảo “khắp mình” lên
trước “hoa đốm trắng”.
- Nghệ thuật so sánh lơng óng như
màu nắng .
- Việc pha chế (hồng, trắng, vàng cùng
màu ổ rơm, màu nắng,… đã tạo ra bức
tranh kí ức có một vẻ đẹp lộng lẫy.
GV bình nâng cao

Bình
Nghệ thuật phối sắc của Xuân
Quỳnh cùng với cấu trúc song hành
đối xứng, điệp từ, so sánh, Xuân
Quỳnh như chạm khắc vào “Tiếng
gà trưa” một bức tranh gà sống động
đẹp đẽ, không phải là bức tranh gà
Đông Hồ ngày xưa mà là bức tranh

22


ngập đầy màu sắc: màu vàng của
rơm, màu hồng của trứng, màu trắng
đốm hoa của gà mái mơ, màu vàng
óng của gà mái vàng. Tất cả như
giao thoa như quện vào nhau thật
rực rỡ làm nên bức hoạ. Bức hoạ
lung linh sắc màu tươi sáng trong
veo sống động ấy đích thị là sắc màu
tuổi thơ.

(?) Nếu vẽ bức tranh này em sẽ tơ màu
- Gam màu tươi sáng mát dịu.
gì ?
(?)Trong âm thanh tiếng gà trưa lần 2
và 3 nhiều kỉ niệm tình bà cháu hiện - Lời bà mắng: “Gà đẻ mà mày nhìn/
rồi sau này lang mặt”
về đó là những kỷ niệm nào?
- Cách bà chăm chút từng quả trứng:
“Tay bà khum soi trứng/ dành từng
qủa chắt chiu/ Cho con gà mái ấp”
- Nỗi lo của bà: “ Cứ hằng năm hằng
năm / Khi gió mùa đơng tới/ Bà lo đàn
gà toi/ mong trời đừng sương muối”.
- Và niềm vui của cháu: “ôi cái quần
chéo go/ ống rộng dài quét đất/ cái áo
cánh trúc bâu/ đi nghe qua sột soạt”.
(?) Chi tiết bà mắng yêu gợi cho em

- Đây là chi tiết rất thực đời thường:
những cảm nghĩ gì về tình bà cháu ?
lời mắng yêu vì bà muốn cháu mình
sau này được xinh đẹp, hạnh phúc.
- Chi tiết này thể hiện chân thực tình
cảm giản dị mà trong tình yêu bà dành
cho cháu
- Cháu nhớ kỷ niệm này vì cháu nhận
được tình yêu ấy của bà.
(?) Nét đặc sắc của nghệ thuật thể hiện - Câu thơ bình dị lấy ngơn ngữ thường
từ những điều gợi ra của tiếng gà trưa nhật, dễ đi vào lòng người và đó là
phong cách thơ của Xuân Quỳnh.
?
- Chi tiết đặc tả động tác soi trứng rất
cẩn trọng của người bà.
- Cụm từ “hằng năm” lặp lại hai lần về
một thời gian khó.
- Nhịp thơ thay đổi ngắt nhịp linh hoạt
(3/2; 1/4; 2/3) làm cho nhịp thơ chậm.
- Từ ôi ! Biểu cảm trực tiếp.
23


(?) Cảm nghĩ của em về người bà từ - Người bà thơn q chịu thương chụi
hình ảnh bà chắt chiu từng quả trứng khó chắt chiu từng niềm vui nhỏ trong
trên tay?
cuộc sống còn nhiều vất vả lo toan.
- Là nỗi lo vì niềm vui của cháu.
(?) Nỗi lo của bà trong đoạn thơ này - Là nỗi lo chân thật của người bà nơi
gợi lên những cảm nghĩ gì trong em?

q trong cuộc sống cịn nhiều khó
khăn.
- Nỗi lo ấy biểu hiện tình yêu thương
giản dị, thầm lắng của người bà .
-Nghèo nhưng hiền thảo
(?) Như thế, trong kỉ niệm tuổi thơ của - Hết lịng vì con cháu
cháu, hình ảnh bà hiện lên với những - Chịu đựng, nhẫn nại, hi sinh.
đức tính cao quý nào?
- Tuổi thơ gắn với niềm vui lúc nhỏ,
(?) Những chắt chiu lo toan của bà trong lành ở gia đình và làng quê.
được bù lại bằng niềm vui được quần - Vui vì có quần áo mới, nhưng vui
áo mới gợi cho em cảm nghĩ gì về tuổi hơn vì tình cảm ấm áp bà dành cho.
thơ và tình bà cháu?
- áo quần bà sắm cho là vật bình
thường nhưng khơng phải ai cũng có
được nếu khơng được bà u thương.
- Niềm vui ấy tạo ra từ bao chắt chiu
cần kiệm lo toan của bà.
Do vậy niềm vui thật thiêng liêng,
không dễ gì qn được.
GV mở rộng

Tục ngữ có câu “già được bát canh, trẻ
được manh áo mới” cảm xúc của
những đứa trẻ được quần áo mới còn
giữ nguyên vẻ tươi mới trong hồi ức
tuổi thơ. Dường như nhân vật trữ tình
khơng cịn là chủ thể của nỗi nhớ mà
đã nhập hẳnn vào lỗi nhớ hoá thân
thành đứa trẻ hồn nhiên như ngày nào

xúng xính trong bộ quần áo mới đang
tung tăng theo bà đi chúc tết hay chơi
cùng chúng bạn mỗi độ xuân về.

- Niềm vui tuổi thơ nghèo cơ cực ở
nông thôn Việt Nam thật đơn sơ, giản
(?) Em có ước mơ giống hay gần dị và cảm động biết bao. Giờ đây sống
giống với anh bộ đội này hồi nhỏ mũi cịn cay vì những hình ảnh, kỷ
24


khơng?
( HS tự bộc lộ )

niệm ấy gắn bó với tình yêu thương
che chở của bà.
- Tình bà cháu của tác giả Bằng Việt
trong bài “Bếp Lửa’.

(?) Tình yêu thương chăm sóc của bà
đối với cháu trong miền quê nghèo
khó ấy giúp em liên tưởng đến tình bà
cháu của tác giả nào mà em biết?

Lần thứ 4 gợi suy tư về hạnh phúc:
HS đọc 2 khổ cuối.
+ Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
(?) Lần thứ 4 tiếng gà trưa gợi lên Giấc ngủ hồng những trứng
những suy tư gì?

+ Gợi suy tư về cuộc chiến đấu hơm
nay:
Cháu chiến đấu ... vì tình yêu Tổ
quốc, vì tiếng gà, vì bà... ổ trứng hồng
tuổi thơ.
- Tiếng gà trưa và những ổ trứng hồng
là hình ảnh của cuộc sống chân thành,
bình n, no ấm.
(?) Vì sao con người có thể nghĩ rằng - Tiếng gà trưa thức dậy bao tình cảm
“Tiếng gà trưa mang bao nhiêu hạnh bà cháu, gia đình, q hương.
phúc”?
- Đó là âm thanh bình dị của làng quê
đem lại những niềm yêu thương cho
con người.
- Mơ những điều tốt lành, những điều
vui và hạnh phúc.
(?) Như thế, trong giấc ngủ hồng
những trứng, con người chỉ có thể mơ - Khẳng định những niền vui chân thật
những điều gì?
và chắc chắn của con người về mục
đích chiến đấu hết sức cao cả (Vì lịng u Tổ
(?) Nhận xét ý nghĩa của từ vì được quốc), nhưng cũng hết sức bình thường (Tiếng
lặp lại liên tiếp ở các câu thơ?
gà cục tác. ổ trứng hồng tuổi thơ).
- ổ trứng và tiếng gà là những điều
chân thật, thân thương, quí giá là biểu
tượng hạnh phúc ở mỗi miền quê.
(?) Vì sao người chiễn sĩ có thể nghĩ Vì thế cuộc chiến đấu hơm nay cịn có
25



×