Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.92 KB, 85 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi công ty phải tạo ra được lợi thế cạnh
tranh. Hoạt động lập kế hoạch trong doanh nghiệp tuy chỉ là một mắt xích
trong hệ thống kế hoạch hoá doanh nghiệp, nhưng hoạt động này chi phối
những hoạt động khác, quyết định đến chất lượng của hoạt động sản xuất.
Hiện nay có quá nhiều doanh nghiệp kinh doanh nên cung vượt quá cầu, để
đảm bảo kinh doanh tốt phải chú ý đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ.Sảm
phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá cả phù hợp càng được thị trường
chấp nhận; hoạt động sản xuất là hoạt động duy nhất tạo ra sản phẩm, có sản
xuất thì mới có sản phẩm (loại trừ những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực dịch vụ), hoạt động sản xuất có tốt thì mới kích thích được tiêu thụ; tiêu
thụ tạo ra doanh thu cho công ty, nhưng sản xuất lại tiêu tốn nguồn lực của
công ty, lợi nhuận thu được càng cao khi sản phẩm tiêu thụ càng nhiều, chi
phí sản xuất càng thấp. Như vậy họat động sản xuất là một trong những nhân
tố quan trọng quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp.
Công tác lập kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp quyết định đến chi
phí sản xuất, đến chất lượng sản phẩm, đến khả năng đáp ứng nhu cầu thị
trường của một doanh nghiệp. Do vậy tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Hoàn
thiện công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty cổ phần bánh kẹo Hải
Châu” cho chuyên đề tốt nghiệp. Nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa hết sức
quan trọng; thứ nhất qua nghiên cứu thực trạng lập kế hoạch của công ty giúp
tôi hiểu biết thêm thực tế, đồng thời tôi có thể phần nào ứng dụng chuyên
ngành mình học vào thực tế; Thứ hai tìm hiểu thực tế công tác lập kế hoạch
tại công ty để thấy được những điểm mạnh, điểm yếu, những sai sót của công
ty làm bài học kinh nghiệm cho bản thân đồng thời mạnh dạn đưa ra một số
giải pháp để khắc phục.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương I: Lý thuyết chung về lập kế hoạch sản xuất của doanh
nghiệp
Chương II: Thực trạng công tác lập kế hoạch tại công ty cổ phần


bánh kẹo Hải Châu
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập kế
hoạch ở công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương I: Lý thuyết chung về lập kế hoạch sản xuất
của doanh nghiệp
I. Tổng quan về kế hoạch hóa trong doanh nghiệp
1. Khái niệm chung về kế hoạch hóa trong doanh nghiệp
Kế hoạch hoá đã từ lâu được sử dụng như một công cụ để thiết lập cũng
như thực hiện các quyết định về chiến lược, nó có thể hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau, nhưng hiểu một cách tổng quát nhất, kế hoạch hoá là một phương
thức quản lý theo mục tiêu, nó là “Kế hoạch hoá là một phương thức quản lý
theo mục tiêu, nó là hoạt động của con người trên cơ sở nhận thức và vận
dụng các quy luật kinh tế xã hội và tự nhiên, đặc biệt là các quy luật kinh tế
để tổ chức quản lý các đơn vị kinh tế - kỹ thuật, các ngành, các lĩnh vực hoặc
toàn bộ nền sản xuất xã hội theo mục tiêu thống nhất”
1
Kế hoạch hoá là hoạt động có chủ định của con người (của các nhà kế
hoạch, nhà quản lý) trên cơ sở nhận thức (tìm hiểu và phân tích) những quy
luật kinh tế xã hội, quy luật tự nhiên, đặc biệt là các quy luật kinh tế để hiểu
và nắm đựơc bản chất hoạt động những quy luật đó trên cơ sở đó dự đoán sự
phát triển của chúng ở hiện tại và trong tương lai. Và từ đó tổ chức và quản lý
các đơn vị kinh tế - kỹ thuật phù hợp để vừa phát huy được thế mạnh của đơn
vị mình, hạn chế khách phục điểm yếu vừa kịp thời thích ứng được với điều
kiện môi trường bên ngoài, nắm bắt thời cơ, tránh rủi ro (nếu có). Đồng thời
tác động đến những quy luật đó, biến chúng trở thành công cụ phục vụ lợi ích
cho mình.
Như vậy, kế hoạch là thể hiện ý đồ của chủ thể về sự phát triển trong
tương lai của đối tượng quản lý và các giải pháp để thực hiện. Kế hoạch xác
định xem một quá trình phải làm gì? Làm thế nào? Khi nào làm và ai sẽ làm?

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Kế hoạch hóa doanh nghiệp (DN) là phương thức quản lý DN theo mục
tiêu. Nó thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát triển phải đạt được
trong một khoảng thời gian nhất định của DN, những giải pháp, chính sách
nhằm đạt được mục tiêu đặt ra với hiệu quả cao nhất. Đồng thời tổ chức, thực
hiện và theo dõi, đánh giá kết quả. Hiểu theo một cách tổng quát nhất “Kế
hoạch hoá DN được hiểu là một quy trình ra quyết định cho phép xây dựng
một hình ảnh mong muốn của DN trong tương lai và quá trình tổ chức triển
khai thực hiện mong muốn đó”
2
Công tác kế hoạch hoá nói chung và kế hoạch hoá DN nói riêng đều bao
gồm các hoạt động: lập kế hoạch và công tác tổ chức thực hiện kế hoạch,
kiểm tra, điều chỉnh và đánh gía kế hoạch. Lập kế hoạch được coi là khâu giữ
vị trí quan trọng hàng đầu trong công tác kế hóa DN. Kết quả của hoạt động
soạn lập kế hoạch là một bản kế hoạch DN ra đời, bản kế hoạch này sẽ xác
định các mục tiêu, các chỉ tiêu mà DN muốn đạt được trong thời gian tới,
đồng thời đề xuất những chính sách cùng những giải pháp để đạt đựơc chúng.
Việc đưa ra các mục tiêu, các chỉ tiêu cùng những biện pháp đó không phải là
dựa trên tham vọng đơn thuần hay ý muốn sở thích của nhà quản lý hay cán
bộ lập kế hoạch, mà chúng được xây dựng dựa trên tiềm lực của công ty, điều
kiện thị trường và đối thủ cạnh tranh…Người cán bộ kế hoạch sẽ phải phân
tích một loạt những thông tin về môi trường bên trong ( tình hình tài chính
của DN, công nghệ DN đang nắm giữ so với đối thủ cạnh tranh ra sao, lực
lượng lao động của công ty ra sao…), thông tin về môi trường bên ngoài (tình
hình kinh tế trong nước và thế giới có xu hướng ảnh hưởng như thế nào tới
DN, đối thủ cạnh tranh đang hành động ra sao, môi trường văn hoá xã hội…).
Từ đó DN trả lời cho mình đựơc câu hỏi: mình đang đứng ở đâu; mình muốn
đi tới đâu và liệu có thể đạt đựơc mục tiêu không?; để đi tới đích thì nên chọn
con đường nào, con đường nào ngắn nhất, nhanh nhất và thuận lợi nhất;
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

những nguồn lực cần thiết cho DN để đi tới đích và việc sử dụng chúng nên
như thế nào…
Một bản kế hoạch hoàn hảo cho chúng ta thấy rõ được cái đích cần đến,
con đường có thể tới đích nhanh nhất và công cụ thực hiện để đi tới
đích...Nhưng để thực hiện được bản kế hoạch đã đề ra thì cần phải tiến hành
tổ chức thực hiện các công việc cụ thể (khâu tổ chức thực hiện kế hoạch).
Song chẳng một nhà quản lý hay một cán bộ kế hoạch có thể đảm bảo chắc
chắn rằng những tính toán của họ là hoàn toàn chính xác, là tương lai có thể
xảy ra đúng như thế này mà không phải là thế kia…Và cũng có thể trong quá
trình hoạt động bất ngờ xuất hiện những yếu tố mới là mà trước đó DN chưa
dự kiến được… Do đó kế hoạch hoá bao gồm cả những hoạt động kiểm tra,
theo dõi, điều chỉnh kế hoạch nhằm giúp DN xác định được tất cả các rủi ro,
quản lý những rủi ro đó.
2. Vai trò của kế hoạch hóa trong doanh nghiệp
Kế hoạch hoá vừa là công cụ để thiết lập vừa là công cụ để thực hiện các
quyết định chiến lược vừa là công cụ để quản lý của các nhà quản lý. Tuy
nhiên trong từng thời kỳ, từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể, thì hình thức và vai
trò của kế hoạch hoá lại được nhìn nhận khác nhau.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, kế hoạch hoá được thể hiện
những quyết định mang tính mệnh lệnh phát ra từ trung ương, hệ thống các
chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh là cơ sở để điều tiết mọi hoạt động tổ chức và
quản lý sản xuất kinh doanh của các DN. Trong nền kinh tế thị trường khi mà
nhà nước chỉ đóng vai trò là người gác cổng bảo vệ cho nền kinh tế, nền kinh
tế tự điều tiết hoạt động theo các quy luật nội tại: quy luật cung cầu, quy luật
giá trị, quy luật giá trị thặng dư… Thì hệ thống kế hoạch hoá tập trung mệnh
lệnh không còn phù hợp, chính nó là trở ngại trên con đường phát triển của
nền kinh tế cũng như của chính các DN. Nó kìm hãm tính năng động sang tạo
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của DN trong việc thích nghi với điều kiện thị trường, nền kinh tế bị mất động
lực phát triển, hạn chế tính năng động sáng tạo về công nghệ và áp dụng

thành tựu kỹ thuật mới, hiệu quả kinh tế thấp… Điều này không có nghĩa là
kế hoạch hoá nói chung và kế hoạch hoá DN không còn có tác dụng trong nền
kinh tế thị trường. Kế hoạch hoá vẫn là cơ chế quản lý cần thiết hữu hiệu của
nhà nước, của các ngành, các bộ, của DN chỉ có điều hình thức và vai trò của
nó đã khác:
 Kế hoạch hóa trong doanh nghiệp tập trung sự chú ý của các hoạt động
trong DN vào các mục tiêu. Kế hoạch và quản lý bằng kế hoạch trong cơ chế
thị trường vốn rất linh hoạt và thường xuyên biến động giúp các DN dự kiến
được những cơ hội, thách thức có thể xảy ra để quyết định nên làm cái gì, làm
như thế nào, khi nào làm và ai làm để đạt được mục tiêu đã xây dựng.
 Công tác kế hoạch hóa với việc ứng phó những bất định và đổi thay
của thị trường. Lập kế hoạch hoá trong DN là dự kiến những vấn đề của
tương lai, DN sẽ lường trước được các vấn đề, các tác động bên ngoài có thể
xảy ra trong thời gian tới (năm kế hoạch). Để ứng phó với những tác động đó,
DN đưa ra các quyết định nên làm như thế nào, các giải pháp dự phòng... Khi
xảy ra những điều bất thường và những tình huống đã dự báo trước, họ chỉ tập
trung vào giải quyết vấn để bất thường. Nhờ vậy DN xử lý một cách chủ
động, nhanh chóng và hiệu quả hơn những tác động bất thường đó.
 Công tác kế hoạch hóa với việc tạo ra khả năng tác nghiệp kinh tế cao
trong DN. Kế hoạch hóa cho phép nhìn nhận logic các nội dung hoạt động có
liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình tiến tới mục tiêu sản xuất sản
phẩm, dịch vụ cuối cùng. Trên cơ sở đó, nhà quản lý thực hiện các phân công,
tổ chức các hành động cụ thể, chi tiết theo trình tự, bảo đảm cho sản xuất
không bị rối loạn và ít tốn kém.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Như vậy kế hoạch hóa thay thế sự hoạt động manh mún, không được
phối hợp bằng sự nỗ lực có định hướng, thay thế luồng hoạt động thất thường
bởi một luồng đều đặn, thay thế những phán xét vội vàng bằng những quyết
định đã được cân nhắc kỹ lưỡng.
II. Kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp

1. Khái niệm kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
Hệ thống kế hoạch hoá trong DN bao gồm nhiều kế hoạch chức năng: kế
hoạch sản xuất và dự trữ, kế hoạch nhân sự, kế hoạch tài chính, kế hoạch R &
D và kế hoạch Marketing. Các kế hoạch chức năng này được xem như là các
kế hoạch tác nghiệp để chỉ đạo và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong đó kế hoạch sản xuất giúp DN trả lời câu hỏi: “ sản xuất cái gì”, “sản
xuất bao nhiêu”, “sản xuất ở đâu”, “sản xuất như thế nào” và nó được định
nghĩa: “kế hoạch sản xuất (còn gọi là kế hoạch cung ứng đối với DN cung cấp
dịch vụ) cho biết DN sẽ đáp ứng yêu cầu về sản phẩm của bộ phận Marketing
như thế nào”
3
.
Theo định nghĩa trên thì mục tiêu chính của kế hoạch sản xuất (KHSX)
là đưa ra những phương án sản xuất phù hợp nhất cho DN để sản xuất sản
phẩm vừa đáp ứng nhu cầu khắt khe của thị trường vừa tối ưu hóa việc sử
dụng các nguồn lực sản xuất, đảm bảo đem lại lợi nhuận cho DN thông qua
việc giảm thiểu chi phí đến mức thấp nhất có thể được. Do đó, KHSX phải
được xây dựng dựa trên các phân tích, đánh giá dự báo như cầu về sản phẩm
trên thị trường để chắc chắn rằng sản phẩm của DN được thị trường chấp
nhận; KHSX phải dựa trên năng lực sản xuất, tối ưu hóa việc sử dụng các yếu
tố nguồn lực sản xuất.
Thường KHSX sẽ phải xác định được các nội dung chính sau
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Khối lượng sản xuất cho mỗi sản phẩm. Thông qua việc mô tả sản
phẩm từ góc độ sản xuất ta có thể biết được sản phẩm cần những chi tiết hợp
thành như thế nào, với số lượng bao nhiêu để đáp ứng kế hoạch bán hàng và
chính sách dự trữ của công ty.
- Các sản phẩm khác nhau được sản xuất tại mỗi đơn vị sản xuất. Mỗi
sản phẩm sẽ được quyết định xem sản xuất ở phân xưởng (hay xí nghiệp), sử
dụng quy trình công nghệ nào, chi tiết hoặc công đoạn nào tự sản xuất hoặc

gia công bên ngoài.
- Sử dụng các yếu tố sản xuất: máy móc, nhà xưởng. Cần dùng những
loại loại máy móc, thiết bị nào, công suất bao nhiêu, lấy thiết bị từ nguồn nào,
cần nhà xưởng rộng bao nhiêu, bố trí như thế nào, kế hoạch khấu hao nhà
xưởng thiết bị… Thường thì việc xác định các yếu tố này được lập cho kế
hoạch sản xuất dài hạn. Kế hoạch sản xuất hàng năm xác định công suất của
hệ thống máy móc, thiết bị
- Cung ứng nguyên vật liệu và bán thành phẩm. Nhu cầu sử dụng và tồn
kho nguyên vật liệu, chất lượng và số lượng nguyên vật liệu, nguyên vật liệu
thay thế là gì, phương thức cung cấp… Các yêu cầu đối với nguồn nhân lực:
số lượng lao động, trình độ tay nghề, giới tính, tuổi tác…
- Các kế hoạch thuê ngoài nếu cần thiết
Và những mục tiêu này được xác định trên cơ sở thỏa mãn các ràng buộc
về mặt kỹ thuật, các mục tiêu của DN, các nguồn lực của các bộ phận khác.
2. Vai trò kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
KHSX nhằm tối ưu hóa việc sử dụng các yếu tố sản xuất. DN có thể sản
xuất nhiều loại sản phẩm (ví dụ công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu chủng
loại các mặt hàng rất đa dạng: bột canh, các loại kẹo, sôcôla, các loại bánh
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xốp), cũng có thể chỉ sản xuất một loại sản phẩm nhưng để hoàn thiện sản
phẩm đó có thể còn phải trải qua nhiều công đoạn. Ví dụ, để sản xuất một
chiếc máy tính DN cần phải sản xuất hoặc thuê gia công bên ngoài sản xuất
các bộ phận: màn hình, cây, ổ đĩa, bàn phím, con chuột, và một số bộ phận
khác, trong mỗi bộ phận đó lại được cấu tạo bởi các linh kiện nhỏ hơn. Khi có
đủ các bộ phận, để được một chiếc máy hoàn chỉnh phải tiến hành công đoạn
lắp ráp, công đoạn này lại bao gồm nhiều công đoạn nhỏ hơn, mỗi công đoạn
lại yêu cầu trình độ tay nghề kỹ thuật nhất định. Do đó, một phân xưởng hay
một nhóm thợ không thể đảm nhiệm tất cả các công việc, các dây chuyền sản
xuất cũng chỉ sử dụng được với một số công đoạn sản xuất hay với từng loại
sản phẩm nhất định. Kế hoạch sản xuất sẽ xác định rõ từng loại mặt hàng,

khối lượng của từng loại sản phẩm được sản xuất ở đâu (phân xưởng nào đảm
nhận hay thuê gia công chế biến ở đâu, thuê ai?) sao cho thích hợp với khả
năng sản xuất của từng đơn vị, đồng thời đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng
giữa các đơn vị sản xuất đảm bảo hoạt động sản xuất hoạt động trơn chu kịp
tiến độ đưa ra.
Kế hoạch sản xuất tác động đến việc xây dựng các kế hoạch khác. Hệ
thống kế hoạch hóa của doanh nghiệp bao gồm nhiều kế hoạch chức năng: kế
hoạch sản xuất và dự trữ, kế hoạch nhân sự, kế hoạch tài chính, kế hoạch
nghiên cứu và phát triển sản phẩm. Các kế hoạch chức năng này có mối quan
hệ qua lại với nhau, chúng tác động phụ thuộc lẫn nhau, khi lập kế hoạch này
cần dựa vào những kế hoạch chức năng khác. Ví dụ, kế hoạch nhân sự sẽ dựa
vào yêu cầu sử dụng lao động trong kế hoạch sản xuất để dự báo nhu cầu về
nhân sự trong năm kế hoạch, kế hoạch sản xuất cũng dựa vào kế hoạch nhân
sự để xác định năng suất sản xuất của doanh nghiệp…
Kế hoạch sản xuất là công cụ để kiểm soát tiến độ thực hiện. Ngoài
những nội dung cơ bản nêu trên của một bản kế hoạch sản xuất (khối lượng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sản xuất cho mỗi sản phẩm, cung ứng nguyên vật liệu và bán thành phẩm, sử
dụng các yếu tố sản xuất, phân công sản xuất, các kế hoạch thuê ngoài nếu
có), bản kế hoạch sản xuất cũng chỉ rõ những nội dung: số lượng mỗi sản
phẩm hay bộ phận của sản phẩm; khi nào thì bắt đầu sản xuất và khi nào thì
phải hoàn thành… Nhìn vào bản kế hoạch, doanh nghiệp có thể biết mình
đang ở giai đoạn nào, đã thực hiện kế hoạch được đến đâu từ đó có thể dự tính
được thời gian hoàn thành kế hoạch, có biện pháp thực hiện cần thiết để đảm
bảo tiến độ đề ra.
Như vậy sự có mặt của kế hoạch sản xuất giúp doanh nghiệp sử dụng các
yếu tố nguồn lực một cách tối ưu nhất khiến cho hoạt động sản xuất trở thành
nhân tố quan trọng đảm bảo sự thành công của DN, với các yêu cầu của quản
lý sản xuất: tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt, đảm bảo hệ thống sản
xuất hoạt động trơn chu và quản lý tốt các nguồn lực.

3.Quy trình lập kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
Kế hoạch sản xuất giúp doanh nghiệp trả lời các câu hỏi: “sản xuất bao
nhiêu”, “sản xuất cái gì”, “sản xuất ở đâu”, “khi nào thì sản xuất” dựa trên các
ràng buộc về nhân sự, về cung ứng, về nhu cầu, về khả năng lưu kho, luồng
tiền, ta sẽ có quy trình lập kế hoạch sản xuất được xây dựng như sau:
Đầu tiên, cán bộ kế hoạch xác định các căn cứ nhất định để lập kế hoạch
sản xuất. Xuất phát từ các căn cứ này để các cán bộ kế hoạch xây dựng các kế
hoạch bộ phận trong kế hoạch sản xuất chung. Một trong các căn cứ quan
trọng được xác định:
Chiến lược kinh doanh trong dài hạn
Phân tích tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩn trong năm trước, kỳ
trước
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Dự báo nhu cầu thị trường
Năng lực sản xuất của doanh nghiệp
Cân đối quan hệ cung cầu
Sau khi xác định các căn cứ lập kế hoạch sản xuất, cán bộ kế hoạch bắt
tay vào lập kế hoạch sản xuất. Một bản kế hoạch sản xuất chung bao gồm các
kế hoạch bộ phận: kế hoạch năng lực sản xuất, kế hoạch sản xuất tổng thể, kế
hoạch chỉ đạo sản xuất, kế hoạch nhu cầu sản xuất, kế hoạch tiến độ sản xuất.
Trong mỗi kế hoạch bộ phận sẽ xây dựng các chỉ tiêu riêng, các chỉ tiêu này
được xây dựng dựa vào kế hoạch trước đó và các mối ràng buộc (ràng buộc
về mặt nhân sự, cung ứng, nhu cầu, khả năng lưu kho, luồng tiền).
Sơ đồ 1.1: Quy trình lập kế hoạch sản xuất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
4. Nội dung và phương pháp cơ bản của một kế hoạch sản xuất
4.1 Kế hoạch năng lực sản xuất
Năng lực sản xuất của doanh nghiệp là một trong những căn cứ quan
trọng mà bất cứ một doanh nghiệp nào khi lập kế hoạch không thể bỏ qua.
Bởi năng lực sản xuất thay đổi hàng năm, sự thay đổi này do có sự thay đổi về

điều kiện sản xuất (điều kiện về nhiệt độ, độ ẩm, nguồn nguyên liệu sử dụng,
trình độ người lao động, phương pháp sản xuất, tuổi thọ của hệ thống máy
móc…) và nó tác động trực tiếp đến hoạt động của nhà máy, nên doanh
nghiệp cần phải xác định lại năng lực sản xuất của mình trước khi lập kế
hoạch sản xuất.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Marketing
Nhu cầu
Xác định năng
lực sản xuất
Lập kế hoạch tiến
độ sản xuất
Lập kế hoạch nhu
cầu sản xuất
Lập kế hoạch chỉ
đạo sản xuất
Lập kế hoạch sản
xuất tổng thể
Nhân sự
Kế hoạch nhân sự
Mua sắm
Năng lực cung
cấp
Tồn kho, năng
lực
Tài chính
Luồng tiền
Năng lực sản xuất của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau, mà yếu tố quan trọng nhất là: công suất của máy móc thiết bị và mức độ
sử dụng máy móc thiết bị trong những điều kiện sản xuất nhất định.

4.1.1 Xác định công suất
Công suất thiết kế là mức sản lượng sản xuất tối đa của một hệ thống sản
xuất trong một thời kỳ nhất định. Thường đối với các DN sản xuất, công suất
được đo trực tiếp bằng sản lượng tối đa trong một khoảng thời gian và họ
thường sử dụng các thiết bị của mình ở mức thấp hơn công suất lý thuyết để
các nguồn lực của DN không bị căng ra tới mức giới hạn. Do đó họ không sử
dụng công suất lý thuyết làm cơ sở cho việc hoạch định năng lực sản xuất
thay vào đó họ dùng “công suất thực tế”
Công suất thực tế là công suất mà DN mong muốn đạt được trong khuôn
khổ những điều kiện sản xuất hiện tại. Những điều kiện này bao gồm: cách bố
trí hệ thống, điều kiện về nhiệt độ, độ ẩm, nguồn nguyên vật liệu sử dụng,
phương pháp sản xuất, trình độ của người lao động...Công suất lý thuyết
thường thấp hơn công suất thực tế.
4.1.2 Dự báo nhu cầu sử dụng công suất
Chủ động dự báo trước mức độ sử dụng công suất của mình trong kỳ kế
hoạch cho phép DN chủ động trong việc tìm nguồn cung cấp nguyên vật liệu,
vật liệu, nguồn cung cấp năng lượng dự phòng phục vụ cho hoạt động sản
xuất.
 Phương pháp xác định năng lực sản xuất
Trong phần này tôi chỉ xin đề cập đến phương pháp xác định năng lực sản
xuất đối với các DN sản xuất nhiều loại sản phẩm trên các dây chuyền khác
nhau. Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu sản xuất theo hình thức này (sản
xuất nhiều loại sản phẩm trên các dây chuyền khác nhau).
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đối với các DN sản xuất nhiều loại sản phẩm trên các dây chuyền khác
nhau ta có thể tính theo từng mặt hàng, sản phẩm hoặc có thể sử dụng
phương pháp tính năng lực sản xuất của một đơn vị máy móc, thiết bị.
Phương pháp này được thực hiện chủ yếu qua các bước sau:
Bước 1: Thu thập số liệu thống kê về năng suất giờ (hoặc năng suất ca
máy nếu không có số liệu thực tế về năng suất giờ máy) từ 1 đến 3 tháng sản

xuất ổn định (phải thu thập được ít nhất là 90 số liệu thì năng lực sản xuất
được xác định có thể tin cậy được)
Bước 2: Từ những số liệu đã thu thập được ở bước 1 chọn ra 25 số liệu
tốt nhất, đây là những số liệu cao nhất lấy theo thứ tự từ trên xuống dưới. Sau
đó tính năng lực bình quân lần thứ nhất theo công thức:
N
bq1
= tổng các N
i
/ 25
Trong đó N
i
là năng suất ca theo số liệu thống kê, i chạy từ 1 đến 25
Bước 3: từ dãy số liệu thu thập ở bước một chọn ra những số liệu thoả
mãn điều kiện N
i
> N
bq1
, sau đó tính tiếp N
bq2
N
bq2
= tổng N
i
/ k
Với k là số các số liệu thoả mãn điều kiện ở bước 3, i chạy từ 1 đến k
N
bq2
được lấy là mức năng suất ca máy trung bình tiên tiến, và năng lực
sản xuất của máy móc thiết bị sẽ bằng với năng suất giờ trung bình tiên tiến là

N
bq2
/8 (tấn/ giờ)
 Cân đối năng lực sản xuất.
Sau khi xác định được năng suất của nhà máy, ta xem xét năng lực của
từng phân xưởng hoặc từng bộ phận trên dây truyền để xác định năng lực thừa
hay thiếu so với kế hoạch. Những công việc này được thực hiện thông qua các
bước:
Bước 1: Vẽ sơ đồ khối dây truyền sản xuất của nhà máy
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bước 2: Xác định năng lực của các bộ phận hay phân xưởng trên dây
truyền theo bán thành phẩm
Bước 3: Tính đổi năng lực của các bộ phận hoặc phân xưởng ra sản
phẩm cuối cùng theo công thức
N
is
= N
i
/ a
is
Trong đó: N
is
là năng lực của bộ phận i tính theo sản phẩm cuối cùng S
N
i
là năng lực của bộ phận i tính theo bán thành phẩm
a
is
hệ số tiêu hao bán thành phẩm i cho 1 đơn vị sản phẩm
cuối cùng S

Bước 4: Vẽ sơ đồ so sánh năng lực sản xuất của các bộ phận so với bộ
phận chủ đạo hoặc so với kế hoạch sản xuất. Bổ sung sơ đồ
Bước 5: Xác định năng lực thừa thiếu của các bộ phận so với bộ phận
chủ đạo và kế hoạch sản xuất theo công thức: N
Cti
= N
CĐtp
x a
is
Trong đó: N
Cti
là năng lực cần thiết của bộ phận i
N
CĐtp
là năng lực bộ phận chủ đạo tính theo thành phẩm
a
is
là hệ số tiêu hao bán thành phẩm i cho một đơn vị sản
phẩm cuối cùng s
Bước 6: Cuối cùng là xác định các biện pháp nâng cao năng lực của
khâu yếu, tận dụng năng lực dư thừa.
Sau khi xác định được năng suất sản xuất, DN lấy đó là một căn cứ quan
trọng để xác định quy mô sản xuất của cả năm kế hoạch.
4.2 Kế hoạch sản xuất tổng thể (kế hoạch SXTT)
Nội dung của kế hoạch sản xuất tổng thể trả lời cho DN câu hỏi “ sản
xuất bao nhiêu” theo thời gian, cùng những cách thức tốt nhất có thể để vừa
đáp ứng nhu cầu vừa giảm thiểu chi phí tới mức thấp nhất hoặc để đạt được
mục tiêu chiến lược của công ty thông qua việc điều phối quy mô sản xuất,
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mức độ sử dụng lao động, sử dụng giờ phụ trội, thuê gia công va các yếu tố

kiểm soát khác.
Có nhiều phương pháp để xây dựng kế hoạch sản xuất tổng thể, nhưng
thông thường DN hay sử dụng phương pháp đồ thị. Phương pháp này có
nhiều ưu điểm: dễ hiểu, dễ sử dụng, không yêu cầu cần có nhiều số liệu, sử
dụng ít biến số, cho phép so sánh được nhu cầu dự báo và công suất hiện tại.
Phương pháp này được tiến hành theo các bước sau
 Xác định nhu cầu cho mỗi kỳ
Xác định công suất giờ chuẩn, giờ phụ trội và thuê gia công cho mỗi kỳ
 Xác định chi phí lao động, thuê gia công và chi phí lưu kho
 Tính đến chính sách của DN với lao động hoặc mức lưu kho
 Khảo sát các kế hoạch và ước lượng chi phí
Số lượng nhân công được tính theo công thức:
SL x D
T
Trong đó: SL là sản lượng sản phẩm dự kiến sản xuất trong một ngày
trong kỳ
D là định mức giờ công / sản phẩm
T là thời gian sản xuất trong một ngày
Mức sản xuất trung bình được xác định theo công thức:
NC
tb
=
SL
DK
T
Trong đó: NC
tb
mức sản xuất trung bình theo thời gian
SL
DK

sản lượng dự kiến sản xuất theo nhu cầu đã dự báo
T thời gian sản xuất
Chi phí nhân công được tính theo công thức: C x T x C
1
Trong đó: C là chi phí nhân công trong giờ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
C
1
là phí tuyển và đào tạo trên 1 đơn vị sản phẩm
T là thời gian sản xuất
Sơ đồ 1.2: Xác định định mức sản xuất bằng phương pháp đồ thị
Thường thì giữa nhu cầu sản xuất trung bình và sản lượng dự kiến theo
thời gian có sự chênh lệch với nhau. Dựa vào đây công ty có thể có rất nhiều
sự lựa chọn cho mình:
 Hoặc là sản xuất với quy mô trung bình, không cần thuê ngoài hoặc
làm thêm giờ. Lựa chọn phương án này, công ty chủ động trong sản xuất, tiết
kiệm được chi phí sản xuất. Nhưng nhược điểm lớn nhất là không đáp ứng
được nhu cầu của thị trường vào những tháng lượng tiêu thụ tăng cao, có
những tháng lượng tiêu thụ thấp sẽ dẫn đến tồn kho thành phẩm nhiều làm
tăng chi phí lưu kho
 Hoặc công ty có thể sản xuất ở mức sản lượng dự kiến thấp nhất, nếu
thiếu sẽ thuê ngoài. Nhược điểm của phương án này là khiến công ty phụ
thuộc quá nhiều vào bên ngoài trong hoạt động sản xuất trong khi doanh
nghiệp lại chưa huy động hết toàn bộ năng lực sản xuất của mình.
 Hoặc công ty sẽ sản xuất theo nhu cầu của từng tháng kết hợp với thuê
ngoài và làm thêm giờ để thoả mãn nhu cầu. Lựa chọn phương án này, họ vừa
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
SL
DK
Nhu cầu trung bình

T
có thể đáp ứng được nhu cầu thị trường, vừa giảm được lượng tồn kho không
cần thiết và giảm sự phụ thuộc của mình vào bên ngoài.
Với 3 sự lựa chọn này, cán bộ lập kế hoạch phải xác định tổng chi phí
cho từng phương án, họ thường lựa chọn phương án nào có chi phí thấp nhất
kết hợp với đặc điểm sản xuất, thế mạnh của công ty mình. Với những công
ty sản xuất sản phẩm giá trị lớn, cồng kềnh, khối lượng lớn trên một dây
truyền sản xuất liên tục như: sản xuất xi măng, sản xuất than… thì không thể
chọn cách chỉ sản xuất ở mức thấp nhất còn lại thuê ngoài. Bởi khi đó, họ
phải đối mặt với rủi ro sản phẩm chất lượng kém làm mất uy tín trên thị
trường, thậm chí gây lỗ.
Sau khi đã so sánh giữa các phương án sản xuất trong những điều kiện
sản xuất nhất định, công ty phải chọn cho mình phương án sản xuất tối ưu
nhất để đưa vào kế hoạch sản xuất tổng thể.
4.3 Kế hoạch chỉ đạo sản xuất tìm phương pháp lập
Kế hoạch chỉ đạo sản xuất xác định chi tiết số lượng mỗi sản phẩm trong
một thời gian nhất định để đáp ứng nhu cầu của kế hoạch sản xuất tổng thể.
Kế hoạch sản xuất tổng thể lập dưới dạng tổng quát cho nhóm sản phẩm,
nó liên quan đến việc xác định những thông tin: cần hoàn thành bao nhiêu tấn
sản phẩm và khi nào phải hoàn thành, những thông tin này chỉ mang tính định
hướng. Bộ phân sản xuất chỉ biết là đến một thời điểm xác định t nào đó họ
phải hoàn thành được một khối lượng sản phẩm là bao nhiêu (một số A chẳng
hạn). Họ chưa thể định hình được cần sản xuất cụ thể những mặt hàng cụ thể
nào, số lượng từng mặt hàng đó, sản xuất theo lô hay đơn chiếc... Thông qua
kế hoạch chỉ đạo sản xuất, các phân xưởng (xí nghiệp) biết rõ được trong từng
quý, từng tháng phải hoàn thành bao nhêu sản phẩm, bao nhiêu bán thành
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phẩm, cho chúng ta biết cần chuẩn bị những gì để thoả mãn nhu cầu và đáp
ứng kế hoạch sản xuất tổng thể.
Như vậy kế hoạch chỉ đạo sản xuất là sự cụ thể hóa kế hoạch sản xuất

tổng thể, nó cho biết loại sản phẩm nào sản xuất dứt điểm trong từng tháng,
quý, loại sản phẩm nào sản xuất đều trong các tháng hay quý theo nhu cầu thị
trường, theo tính chất tiêu dùng mùa vụ hay đơn hàng. Đồng thời kế hoạch chỉ
đạo sản xuất là sự thể hiện kế hoạch sản xuất tổng thể trên chương trình chỉ
đạo sản xuất tương ứng thích hợp với khả năng sản xuất của các đơn vị thỏa
mãn tốt nhất cho các dự báo kế hoạch.
Bảng 1: Ví dụ kế hoạch sản xuất nhóm hàng Amplifier của một công ty
điện tử.
Tháng Giêng Hai Ba
Kế hoạch sản
xuất tổng thể
(tổng số lượng
Ampeflier)
1500 1200 …
Tuần 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Kế hoạch chỉ
đạo sản xuất
( loại
Ampeflier và
số lượng mỗi
loại cần sản
xuất)
Loại 240W 100 100 100 100 …
Loại 170W 500 500 450 450 …
Loại 75W 300 100 …
4.4 Kế hoạch nhu cầu sản xuất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Kế hoạch nhu cầu sản xuất được lập ngay sau khi xây dựng kế hoạch sản
xuất tổng thể và kế hoạch chỉ đạo sản xuất, nó sẽ xác định nhu cầu các
phương tiện, các yếu tố sản xuất: lao động, máy móc thiết bị, diện tích cho

sản xuất... phục vụ cho hoạt động sản xuất.
Phương pháp rất hay được sử dụng trong công tác lập kế hoạch nhu cầu
sản xuất là phương pháp MRP (phương pháp tính nhu cầu phụ thuộc). Trước
tiên, phương pháp này đòi hỏi người làm kế hoạch phải xác định được nhu
cầu độc lập, nhu cầu phụ thuộc.
Nhu cầu độc lập là những nhu cầu về sản phẩm cuối cùng, các chi tiết,
phụ tùng, linh kiện... nhằm thỏa mãn yêu cầu khách hàng (nhu cầu bên ngoài).
Nhu cầu này không phụ thuộc vào kế hoạch tính toán của DN mà phụ thuộc
vào khách hàng và thị trường.
Nhu cầu phụ thuộc là nhu cầu phát sinh từ nhu cầu độc lập. Điều đó có
nghĩa nhu cầu phụ thuộc được tính toán từ nhu cầu độc lập thông qua việc
phân tích sản phẩm thành các bộ phận, các cụm chi tiết, các cụm linh kiện, vật
tư, nguyên vật liệu. Một phương pháp phổ biến rất hay được sử dụng để tính
toán nhu cầu phụ thuộc là phương pháp MRP.
Phương pháp tính toán nhu cầu sản xuất MRP dựa theo định mức: để
sản xuất sản phẩm A, B, C trước hết cần phải xác định nhu cầu cấp I (bộ phận
A
1
), rồi xác định nhu cầu cấp II ( ví dụ cụm linh kiện D
i
), nhu cầu cấp III (linh
kiện rời F
1
)…Các cấp nhu cầu này được xác định thông qua việc phân tích kết
cấu sản phẩm.
Trình tự lắp ráp sản phẩm (A, B, C) được thể hiện theo sơ đồ:
Sơ đồ 1.3: Sơ đồ trình tự lắp ráp sản phẩm
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Để phục vụ cho việc tính toán, các nhu cầu cấp I, cấp II, cấp III được
tổng hợp theo kiểu một ma trận. Đồng thời doanh nghiệp cũng sẽ lập kế

hoạch sản xuất theo đơn đặt hàng của từng tháng và chúng cũng được thể hiện
dưới dạng ma trận. Căn cứ vào thời gian của các đơn hàng, ta xác định thời
gian cần thiết để lắp ráp sản phẩm từ nhu cầu cấp I (ví dụ là 1), nhu cầu cấp II
(giả sử là 2), nhu cầu cấp III (giả sử là 3). Khi đó nhu cầu các cấp được tính
toán theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.4: Sơ đồ nhu cầu sản xuất
4.5 Kế hoạch tiến độ sản xuất
Kế hoạch tiến độ sản xuất giúp doanh nghiệp trả lời cho câu hỏi: khi nào
bắt đầu hoặc kết thúc một nhiệm vụ sản xuất cụ thể. Thông qua kế hoạch tiến
độ sản xuất doanh nghiệp có thể theo dõi thời gian của từng bước, thứ tự của
các bước công việc.
Để lập kế hoạch tiến độ sản xuất có rất nhiều phương pháp: phương pháp
điều kiện sớm, phương pháp điều kiện muộn, phương pháp biểu đồ
GANTT…
Phương pháp điều kiện sớm. Theo phương pháp này doanh nghiệp sẽ
bắt đầu nhiệm vụ sản xuất sớm nhất ngay khi có thể, nhờ vậy mà doanh
nghiệp chủ động lập kế hoạch, chủ động trong sản xuất, đồng thời sử dụng tối
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Các bộ phận
(D
i
)
1
Sản phẩm
(A, B,C)
Linh kiện rời
(F
i
)
3

Cụm linh
kiện (E
i
)
2
Nhu cầu sản
xuất trong tháng
(A, B, C)
(4)
Nhu cầu cấp III
(7)
(7) = (3) x (6)
Nhu cầu cấp II
(6)
(6) = (2) x (5)
Nhu cầu cấp I
(5)
(5) = (1) x (4)
ưu máy móc thiết bị, nhân công. Song nhược điểm lớn nhất của phương pháp
này khiến cho lượng tồn đọng sản phẩm lớn, làm tăng chi phí lưu kho
Phương pháp điều kiện muộn. Bắt đầu nhiệm vụ sản xuất muộn nhất khi
có thể (bằng cách lấy thời hạn đơn hàng trừ bù thời gian chu kỳ sản xuất).
Phương pháp này khắc phục được nhược điểm của phương pháp trước nó
nhưng khi sử dụng phương pháp này cũng đem lại rủi ro lớn, nếu có tình
huống bất thường diễn ra gây chậm trễ ở khâu nào đó thì có thể sẽ không
hoàn thành sản phẩm đúng thời hạn.
Hai phương pháp trên, mức độ chính xác dựa vào số lượng của đơn
hàng, bản chất của công việc, mức độ phức tạp của công việc và bốn tiêu
chuẩn sau đây: giảm thiểu thời gian hoàn thành, tối đa mức sử dụng công
suất, giảm thiểu tồn kho sản phẩm dở, giảm thiểu thời gian chờ đợi của khách.

Nếu đơn hàng quá nhiều với số lượng lớn thì doanh nghiệp không thể áp dụng
được phương pháp điều kiện muộn, nên áp dụng phương pháp điều kiện sớm
để đảm bảo thời gian giao hàng. Hay đối với những sản phẩm có trình độ
công nghệ, kỹ thuật cao nếu áp dụng phương pháp điều kiệm muộn có thể dẫn
đến tình trạng để đảm bảo thời hạn giao hàng hay khi công ty muốn đưa sản
phẩm ra thị trường sớm hơn đối thủ cạnh tranh... có thể làm cho chất lượng
của sản phẩm không được đảm bảo...
Phương pháp biểu đồ GANTT. Đây được coi là một phương pháp lập kế
hoạch tiến độ tốt và được sử dụng rộng rãi trong các công ty. Nó thường
được dùng để lập kế hoạch tiến độ sản xuất cho một nhiệm vụ sản xuất mà
sản phẩm không quá phức tạp, phương pháp được tiến hành qua các bước:
 Phân tích nhiệm vụ sản xuất thành các bước công việc
 Thiết lập mối liên hệ giữa các bước công việc
 Thể hiện mối quan hệ này trên công cụ trực quan.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nhìn vào biểu đồ GANTT, DN có thể theo dõi tiến độ thực hiện chương
trình sản xuất, xác định thời gian hoàn thành toàn bộ chương trình sản xuất
đồng thời biết được khoảng thời gian dự trữ của công việc (thời gian có thể
chậm trễ). Ví dụ một phân xưởng phải hoàn thành các chi tiết A, B, C, D theo
các ràng buộc: thời gian sản xuất A = 2h, B = 5h, C = 3h, D = 7h. Và các mối
liên hệ giữa các công việc: B & D thực hiện sau A, C sau B&D
Bảng 1.1: Biểu đồ Gantt cho việc hoàn thành nhiệm vụ.
Thời gian
Cong
việc
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
A
B
C
D

Nhìn vào sơ đồ ta có thể biết được tổng số thời gian cần thiết để hoàn
thành nhiệm vụ sản xuất là 12 tháng, công việc B&D chỉ được thực hiện sau
khi A đã hoàn thành, C chỉ được thực hiện sau khi B&D hoàn thành. Và để
rút ngắn thời gian hoạt động, thì ta nên rút ngắn thời gian hoàn thành các công
việc A, D, và C, rút ngắn thời gian công việc B không có tác dụng rút ngắn
thời gian hoàn thành công việc vì C chỉ được thực hiện sau khi B&D (B&D
được bắt tay vào làm sau khi A kết thúc) hoàn thành, mà thời gian để hoàn
thành công việc D nhiều hơn thời gian hoàn thành công việc B.
Vấn đề “Sản xuất cái gì?”, “sản xuất bao nhiêu?” phải xuất phát từ vấn
đề “Sản xuất cho ai?”, từ nhu cầu thị trường, trong khi nhu cầu về các sản
phẩm trong nền kinh tế thị trường luôn luôn biến đổi. Do đó doanh nghiệp
phải có một kế hoạch chính xác, chặt chẽ và khoa học để có thể ứng phó được
với mọi biến đổi bất thường, đáp ứng được nhu cầu thị trường bất cứ khi nào.
Đặc biệt, đối với những doanh nghiệp sản xuất với khối lượng lớn, giá trị
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cao…trên một dây truyền sản xuất liên tục thì việc xác định khi nào sẽ sản
xuất, sản xuất bao nhiêu liên quan chặt chẽ tới kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
Hiện nay, việc lập kế hoạch sản xuất tại đa số các doanh nghiệp vừa và
nhỏ của Việt Nam, trong đó có công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu vẫn còn
nhiều hạn chế. Do đó, hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất là vấn đề vô
cùng cần thiết mà tất cả các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần bánh
kẹo Hải Châu nói riêng cần thực sự quan tâm trong điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay.
III. Đặc điểm của ngành sản xuất bánh kẹo và ảnh hưởng của nó tới kế
hoạch sản xuất
1. Đặc điểm của ngành bánh kẹo
Thứ nhất, trên thị trường bánh kẹo sản phẩm cực kỳ nhạy cảm về giá,
nếu chất lượng sản phẩm tương đương nhau nhưng chỉ cần một sự chênh lệch
nhỏ về giá cũng làm thay đổi cơ cấu thị phần của công ty, công ty nào có gía

rẻ hơn chắc chắn chiếm được thị phần nhiều hơn. Thị trường đa dạng về
chủng loại, có nhiều nhà sản xuất và cung cấp cả trong nước và ngoài nước,
nên người tiêu dùng rất dễ lựa chọn, chi phí chuyển đổi từ việc đang sử dụng
sản phẩm của nhà sản xuất này sang sử dụng sản phẩm của nhà sản xuất khác
thấp. Nên chỉ cần đối thủ cạnh tranh có sự thay đổi như giảm giá, hay giá giữ
nguyên nhưng nâng cao chất lượng (hoặc tăng khối lượng sản phẩm)… cũng
có thể thu hút được lượng lớn khách hàng về phía mình. Do đó, càng hạ thấp
giá thành sản phẩm (trong đó chi phí nguyên liệu chiếm từ 60- 75%) càng tốt.
Điều này đòi hỏi hệ thống định mức phải khoa học, lượng phế phẩm trong
quá trình sản xuất càng ít càng tốt.
Thứ hai, thị trường bánh kẹo có tính chất mùa vụ, chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ nền văn hóa dân tộc và thời tiết. Thị trường thường tiêu thụ mạnh vào
tháng 1, tháng 2, tháng 12 trong đó tháng 1 tiêu thụ mạnh nhất chiếm hơn
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
17% sản lượng cả năm, sau đó là tháng 12 chiếm hơn 12% sản lượng cả năm
và tháng 2 chiếm khoảng 10%, những tháng còn lại mức tiêu thụ trung bình
chiếm khoảng 6 – 7% sản lượng tiêu thụ của cả năm. Một số mặt hàng chỉ bán
vào các thời điểm nhất định trong năm: Bánh trung thu chỉ tiêu thụ và tiêu thụ
mạnh vào tháng tám âm lịch (rằm trung thu), các loại mứt chỉ bán vào những
ngày cuối năm âm lịch và thường thì các gia đình mua để làm quà, thắp
hương ngày tết. Một số sản phẩm, thị trường tiêu thụ ổn định qua các tháng:
các loại bột canh...Do đó kế hoạch tiến độ sản xuất và kế hoạch dự báo nhu
cầu công suất phải bám sát vào tính thời vụ của sản phẩm để xác định nhu cầu
công suất cũng như thời gian sản xuất. Vào những tháng hè, thị trường tiêu
thụ giảm doanh nghiệp chỉ nên huy động công suất trung bình, tránh lãng phí
nguồn lực và lượng tồn kho quá lớn không mong muốn; những tháng nhu cầu
tiêu dùng tăng đột biến thì doanh nghiệp lại phải huy động tối đa công suất,
sản xuất vào thời điểm sớm nhất có thể để đáp ứng nhu cầu thị trường. Đối
với những sản phẩm như mứt tết, bánh trung thu thời gian tiêu thụ ngắn
nhưng lại lớn do đó doanh nghiệp cần phải huy động tối đa công suất và áp

dụng điều kiện sản xuất sớm để chiếm ưu thế trên thị trường.
Bảng 1.2: Tình hình tiêu thụ sản phẩm theo mùa năm 2005 – 2006
Mùa
Sản lượng tiêu thụ
Tháng 2005 % 2006 %
Mùa lạnh
1 102534 17,7 112398 17,61
2 592234 10,2 68144 10,68
3 415346 7,2 432212 6,77
Mùa nóng
4 424255 7,3 549541 8,61
5 392532 6,8 465246 7,29
6 31724 5,5 32035 5,02
7 396512 6,9 405375 6,35
8 383257 6,6 421582 6,6
9 327153 5,7 339167 5,31
Mùa lạnh
10 315456 5,5 358462 5,62
11 483267 8,3 490125 7,68
12 715364 12,4 795735 12,46
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

×