Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

TIỂU LUẬN: Phân tích tình hình tài chính trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.77 KB, 101 trang )















TIỂU LUẬN:
Phân tích tình hình tài chính
trong việc nâng cao hiệu quả
quản lý tài chính và năng lực đấu
thầu của doanh nghiệp xây dựng







Chương I
Lý luận cơ bản về phân tích tình hình tài chính trong việc nâng cao hiệu quả
quản lý tài chính và năng lực
đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng


1.1. Vai trò của phân tích tình hình tài chính trong quản lý tài chính tại
các doanh nghiệp xây dựng
1.1.1. Đặc điểm kinh doanh xây dựng
Kinh doanh xây dựng có đặc điểm chính là:
Điều kiện và tình hình sản xuất trong xây dựng thiếu tính ổn định, luôn biến
động theo địa bàn và giai đoạn thi công. Cụ thể là trong xây dựng, con người và
công cụ lao động luôn phải di chuyển từ công trình này đến công trình khác, còn
sản phẩm của ngành này thì hình thành và đứng yên tại chỗ, một đặc điểm hiếm
thấy ở các ngành khác. các phương án xây dựng về mặt kỹ thuật và tổ chức sản
xuất cũng luôn thay đổi theo từng địa điểm và giai đoạn xây dựng . Đặc điểm này
gây khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, làm phát sinh nhiều chi phí cho khâu di
chuyển lực lượng sản xuất, đòi hỏi các tổ chức xây dựng phải chu ý tính cơ động,
linh hoạt và gọn nhẹ về mặt trang bị tài sản cố định sản xuất, đội ngũ lao động
cũng như các yếu tố đầu vào khác.
Chu kỳ sản xuất (thời gian thi công công trình xây dựng) thường rất dài
chịu ảnh hưởng rất lớn về khí hậu, thời tiết. Điều này làm cho vốn đầu tư xây dựng
công trình và vốn sản xuất của doanh nghiệp xây dựng thường bị ứ đọng lâu dài tại
công trình đang được xây dựng. Các tổ chức xây dựng thường dễ gặp phải rủi ro
ngẫu nhiên theo thời gian, công trình xây dựng xong dễ bị hao mòn vôhình do tiến
bộ của khoa học công nghệ.
Sản xuất xây dựng phải tiến hành theo đơn đặt hàng cho từng trường hợp cụ
thể thông qua hình thức ký kết hợp đồng sau khi trúng thầu vì sản phẩm xây dựng
rất đa dạng có tính cá biệt cao, chi phí lớn. Điều này có nghĩa quá trình mua bán
xảy ra trước lúc bắt đầu sản xuất .




Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng rất lớn của lợi nhuận chênh lệch do điều
kiện của địa điểm xây dựng đem lại. Cùng một loại xây dựng nhưng nếu nó được

đặt ở nơi có sản nguồn nguyên liệu, nhân công thì người nhận thầu có nhiều cơ hội
giảm bớt chi phi sản xuất và thu được lợi nhuận cao hơn.
Việc tiêu thụ sản phẩm xây dựng được tién hành trực tiếp giữa người mua
và người bán không qua khâu trung gian.
Quá trình cung và cầu xây dựng xảy ra tương đối không liên tục như các
ngành khác. Thị trường xây dựng phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường đầu tư, nhất là
lãi suất tín dụng để đầu tư và vào mức thu lợi đạt được của đầu tư.
Trong xây dựng không có giá cả thống nhất cho sản phẩm toàn vẹn. Chính
sách và chiến lược giá cả của chủ thầu xây dựng thường khó linh hoạt. Từ những
đặc điểm kinh doanh sản phẩm xây dựng như trên , công tác tổ chức kinh doanh
xây dựng cũng có những nét riêng biệt so với ngành khác cụ thể là:
Các giải pháp tổ chức kinh doanh xây dựng có tính cá biệt cao và luôn biến
đổi linh hoạt. Sau mỗi lần nhận được công trình mới cần phải một lần thay đổi cơ
cấu tổ chức và quản lý của doanh nghiệp kèm theo các biện pháp điều hành cho
phù hợp với địa điểm xây dựng mới.
Các giải pháp tổ chức kinh doanh rất phức tạp và phạm vi ảnh hưởng rộng
lớn về không gian và thời gian. Bộ máy quản lý xây lắp có thể trải rộng trên lãnh
thổ, nhất là công trình trải rộng trên các tuyến dài. Thời gian xây dựng một công
trình kéo dài qua nhiều năm. Việc phối hợp giữa các đơn vị thi công đòi hỏi trình
độ quản lý cao.
Quá trình tổ chức quản lý kinh doanh dễ bị gián đoạn do khoảng cách lớn,
do thời tiết, do nhận thầu công trình không liên tục, do suy thoái kinh tế. Việc duy
trì lực lượng lao động trong thời gian không có việc làm là một điều khó khăn.
Công tác quản lý sản xuất kinh doanh phụ thuộc nhiều vào chủ đầu tư, vào
khả năng thắng thầu và khó chủ động hơn các ngành khác.
Sự vận động của các quy luật kinh tế thị trường trong xây dựng cơ bản có
một số đặc điểm khác với các ngành khác nên chiến lược marketing về sản phẩm,





về giá, vệ tiêu thụ, cạnh tranh , chiến lược thị trường cũng có những đặc điểm
riêng biệt.
1.1.2. Yêu cầu quản lý tài chính trong doanh nghiệp xây dựng
Vai trò của quản lý tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ
động , thậm chí có thể là tiêu cực đối với kinh doanh trước hết phụ thuộc vào khả
năng, trình độ của người quản lý, sau nữa nó phụ thuộc vào môi trường kinh
doanh, vào cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Để sử dụng tốt công cụ tài chính, phát huy vai trò tích cực của chúng
trong sản xuất kinh doanh, cần thiết phải tổ chức quản lý tài chính. Tổ chức quản
lý tài chính là việc hoạch định chiến lược về sử dụng tài chính và hệ thống các
biện pháp để thực hiện chiến lược đó nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của
doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Tổ chức quản lý tài chính doanh nghiệp
trong các doanh nghiệp xây lắp phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất: quản lý tài chính trong doanh nghiệp xây dựng phải tôn trọng
luật pháp. Trong nền kinh tế thị trường mục tiên chung của mọi doanh
nghidn’deeuf hưóng tới lợi nhuận tối đa. Một mặt, đây là động lực mạnh mẽ để
thúc đẩy cạnh tranh tăng trưởng kinh tế . Mặt khác, để đạt được lợi nhuận tối đa,
các doanh nghiệp có thể bất chấp tất cả thậm chí điều đó có thể phương hại đến lợi
ích quốc gia, lợi ích của doanh nghiệp khác. Từ đó dẫn đến sự hỗn loạn trật tự xã
hội và đó cũng chính là dấu hiệu của suy thoái kinh tế. Vì vậy song song với “bàn
tay vô hình ” của nền kinh tế thị trường dứt khoát phải có một “bàn tay hữu hình”
của Nhà nước diều chính nền kinh tế. Một nền kinh tế hoàn hảo cần thiết phải tồn
tại cả hai cơ chế: thị trường và sự quản lý của Nhà nước , cũng ví như tiêng vỗ tay
thì không thể thiếu một bàn tay.
Thứ hai: quản lý tài chính trong doanh nghiệp xây lắp cần tôn trọng
nguyên tắc hạch toán kinh doanh. Hạch toán kinh doanh là nguyên tắc quan trọng
nhất, quyết định sự sống còn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Hạch
toán kinh doanh chỉ có thể phát huy được tác dụng trong môi trường đích thực của
nó là nền sản xuất hàng hoá mà dỉnh cao là kinh tế thị trường. Sở dĩ như vậy là vì

yêu cầu tối cao của nguyên tắc này (lấy thu bù chi) đã hoàn toàn trùng hợp với




mục tiêu của các doanh nghiệp là kinh doanh để đạt được lợi nhuận tối đa. Do có
sự thống nhất đó nên trong nền kinh tế thị trường hạch toán kinh doanh không chỉ
có điều kiện để thực hiẹn mà còn là yêu cầu bắt buộc các doanh nghiệp phải thực
hiện nếu như không muốn mình bị phá sản. Để thực hiện dược yêu cầu lấy thu bù
chi và có lãi của nguyên tắc này, việc quản lý tài chính của doanh nghiệp phải
hướng vào hàng loạt các biện pháp như chủ động tận dụng, khai thác các nguồn
vốn , bảo toàn và phát huy có hiệu quả đồng vốn, việc đầu tư vốn phải bám sát nhu
cầu thị trường tất cả những biện pháp đó đều nhằm thực hiện một mục đích
xuyên suốt quá trình kinh doanh là kinh doanh phải có hiệu quả .
Thứ ba: quản lý tài chính doanh nghiệp xây dựng phải đảm bảo thu hút
các nguồn tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của doanh nghiệp . Để
thực hiện mọi quá trình sản xuất kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp phải có
một yếu tố tiền đề đó là vốn điều kiện. ở nước ta, chuyển sang nền kinh tế thị
trường đa thành phần, các doanh nghiệp Nhà nước chỉ còn là một bộ phận cùng
song song cùng tồn tại trong cạnh tranh Việc thu hút vốn cho đầu tư phát triển
những ngành nghề mới nhằm thu lợi nhuận cao trở thành động lực và đòi hỏi bức
bách đối với doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường khi đã có nhu cầu vốn tất
yếu nảy sinh cung ứng vốn. Thị trường vốn tất yếu được hình thành và quy luật
cung cầu về vốn sẽ có môi trường để hoạt động. Trong điều kiện đó các doanh
nghiệp có đầy đủ điều kiện và khả năng để chủ động khai thác, thu hút các nguồn
vốn trên thị trường nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh và phát triển của
mình. Vấn đề ở đây là người quản lý phải xác nhận chính xác nhu cầu vốn, cấn
nhắc, lựa chọn các phương án đầu tư sao cho có hiệu quả cao, lựa chọn các hình
thức thu hút thích hợp, sử ụng các đòn bẩy kinh tế như lãi suất vay, lợi tức cổ
phần để đủ sức huy động vốn kinh hoạt, sử dụng các nguồn vốn và cân dối khả

năng thanh toán
Thứ tư: quản lý tài chính trong xây dựng phải giữ vững nguyên tắc tiết
kiệm và hiệu quả. Cũng như đảm bảo vốn, việc tổ chức và sử dụng vốn một cách
tiết kiệm và hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triên của doanh nghiệp.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt
ra trước mối doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khăt khe: sản xuất theo giá




thị trường, bán nhữg sản phẩm (bao gồm hàng hoá và dịch vụ) mà thị trường cần
và chấp nhận được, chứ không thể bán cái mà doanh nghiệp không có. Để đáp ứng
được điều đó, người quản lý một mặt phải bảo toàn được số vốn bảo ra mặt khác
phải sử dụng các biện pháp nhằm tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao khả
năng sinh lời của vốn. Để thực hiện yêu cầu này, cán bộ quản lý tài chính doanh
nghiệp phải sử dụng cả hai chức năng phân phối và chức năng giám đốc của tài
chính.
Thứ năm: quản lý tài chính cần phải giữ đảm bảo an toàn phòng ngừa rủi
ro bát trắc. Đảm bảo an toàn đề phòng những rủi ro, bất chắc được coi là một trong
những nguyên tắc kinh doanh nói chung, trong quản lý tài chính doanh nghiệp nói
riêng. Đảm bảo an toàn là cơ sở vững chắc cho việc thực hiện các mục tiêu kinh
doanh có hiệu quả.
Nguyên tắc an toàn cần được quán triệt trong mọi khâu của quá trình quản
lý: an toàn trong việc chọn nguồn vốn, an toàn trong góp vốn đầu tư liên doanh, an
toàn trong sử dụng vốn. Để đảm bảo an toàn, trước khi ra một quyết định tài chính
cần cân nhắc, xem xét trên nhiều phương án, góc độ khác nhau.
Thứ sáu: quản lý tài chính doanh nghiệp luôn phải giữ “chữ tín”. Đây là
một tiêu chuẩn đạo đức, thể hiện văn hoá trong kinh doanh và là tiêu chuẩn
nghiêm ngặt trong quản lý tài chính. Trong thực tế đã cho thấy kẻ làm mất chữ tín,
chỉ tham lợi trước mắt sẽ bị bạn hàng xa lánh. Đó là một nguy cơ dẫn tới phá sản.

Trong quản lý tài chính doanh nghiệp, để giữ chữ tín cần nghiêm túc, tôn trọng kỷ
luật thanh toán, các điều khoản trong hợp đồng kinh tế, các cam kết trong liên
doanh góp vốn và phân chia lợi nhuận.
1.1.3. Vai trò của phân tích tình hình tài chính trong quản lý tài chính
tại các doanh nghiệp xây dựng
Tài chính doanh nghiệp: là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc
huy động, tổ chức, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh.
Phân tích tài chính doanh nghiệp là quá trình xem xét, kiểm tra, đối
chiếu và so sánh số liệu về tài chính hiện hành với quá khứ. Qua đó người sử dụng
thông tin có thế đánh giá đúng thực trạng tài chính của doanh nghiệp , nắm vững




tiềm năng, xác định chính xác hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong
tương lai và triển vọng của doanh nghiệp .
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp không những cho biết tình hình
tài chính doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo mà còn cho thấy kết quả hoạt động
mà đạt được trong hoàn cảnh đó. Mục đích của phân tích tình hình tài chính giúp
cho người sử dụng thông tin đánh giá chính xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh
lời và triển vọng của doanh nghiệp. Do đó phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như ban giám đốc, hội
đồng quản trị, các nhà đầu tư, các cổ động, các chủ nợ, các khách hàng chính,
người cho vay, các ngân hàng, các nhà quản lý, các nhà bảo hiểm, các đại lý kể
cả các cơ quan Nhà nước và bản thân người lao động .
Tuy nhiên trong điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước hiện nay, các doanh nghiệp xây lắp cũng như các doanh
nghiệp ở Việt Nam khác đều bình đẳng trong kinh doanh. Tình hình tài chính của
doanh nghiệp xây dựng không chỉ là mối quan tâm đặc biệt của chủ đầu tư mà còn
là quan tâm của nhiều đối tượng khác. Sự quan tâm này dưới nhiều góc độ khác

nhau, song nhìn chung đều tập trung vào khả năng tạo ra các dòng tiền mặt, khả
năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa, mức độ rủi ro trong
kinh doanh của doanh nghiệp Bởi vậy phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp phải đạt được các mục tiêu chính sau:
Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp và các chủ doanh nghiệp mối quan
tâm của họ là lợi nhuận và khả năng thanh toán, việc phân tích tình hình tài chính
phải cung cấp đầy đủ các thông tin nhằm đánh gá tình hình tài chính đã qua, thực
hiện cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, sinh lợi rủi ro và dự đoán tình hình
tài chính nhằm đề ra quyết định đúng đắn.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng mối quan tâm của
họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp . Họ đặc biệt chú ý đến
lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thanh tiền nhanh, từ đó so sánh
với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng chú ý tới lượng




vốn chủ sở hữu, bởi vốn chủ sở hữu là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp
doanh nghiệp gặp rủi ro. Không mấy ai sắn sàng cho vay nếu các thông tin cho
thấy người vay không đảm bảo chắc chắn rằng khoản vay đó co thể và sẽ được
thanh toán ngay khi đến hạn.
Đối với các nhà cung cấp vật tư, thết bị hanhg hoá, dịch vụ họ phải quyết
định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hay không. Phân tích
tình hình tài chính cho thấy khả năng thanh toán hiện tại và sắp tới của khách
hàng. Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâp của họ hướng vào các yếu tố như sự
rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi , khả năng thanh toán vốn của doanh
nghiệp , mối quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như sự rủi ro, thời gian hoàn
vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn, khả năng điều hành và hiệu quả công
tác quản lý. Phân tích tình hình tài chính cung cấp thông tin về điều kiện tài chính,

tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và các tiềm năng tăng trưởng của doanh
nghiệp nhằm đảm bảo sự an toàn và hiệu quả cho các nhà đầu tư.
Ngoài ra tình hình tài chính doanh nghiệp cũng thu hút sự quan tâm của
các cơ quan quản lý Nhà nước như thuế, tài chính, thống kế, chủ quản bởi nó
cũng liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm của họ trong việc hướng dẫn, tư vấn,
kiểm tra việc thực hiện các thể lệ, chế độ chính sách do họ đề ra đối với doanh
nghiệp .
Như vậy, vai trò quan trọng nhất của phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp là giúp những người ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu
và đánh giá chính xác thực trạng và tiềm năng của doanh nghiệp .
1.2. Nội dung phân tích tình hình tài chính với việc nâng cao hiệu quả
quản lý tài chính của doanh nghiệp xây dựng
1.2.1.Thu thập thông tin trong phân tích tình tình tài chính
Trong phân tích tình hình tài chính cần phải thu thập và sử dụng mọi
nguồn thông tin từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những thông tin bên
ngoài , từ những thông tin số lượng đến những thông tin giá trị. Tuy nhiên để
đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính doanh nghiệp có thể sử dụng thông




tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là nguồn thông tin quan trọng hàng đầu.
Thông tin kế toán được phản ánh tương đối đầy đủ trong báo cáo tài chính.
Báo cáo tài chính: là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và hế độ
kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận) phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính
chủ yếu của đơn vị. (Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 200 - Mục tiêu và nguyên
tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính).
Hệ thống báo cáo tài chính được tổng hợp và trình bầy một cách tổng quát
và toàn diện tình hình tài sản, công nợ nguồn vốn, tình hình và kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp trong một kỳ hạch toán.

Thông tin do báo cáo tài chính cung cấp cho phép đánh giá thực trạng tài
chính của doanh nghiệp xây lắp trong kỳ hoạt động đã qua và những dự đoán trong
tương lai. Thông tin của báo cáo tài chính là căn cứ quan trọng cho việc đề ra các
quyết định về quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư vào
các doanh nghiệp xây dựng của các chủ doanh nghiệp , chủ sở hữu, các nhà đầu tư
, các chủ nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp .
Hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp Việt Nam hiện nay ban hành
theo Quyết định sô 167/2000/QĐ-BTC ngày 25 tháng 10 năm 2000 của Bộ trưởng
bộ Tài chính gồm:
Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển
tiền tệ. Nội dung và kết cấu cụ thể như sau:
* Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính chủ yếu phản ánh tổng hợp
quát tình hình tài sản của doanh nghiệp theo giá trị và nguồn hình thành tài sản ở
một thời điểm nhất định. Như vậy Bảng cân đối kế toán phản ánh mối quan hệ cân
đối tổng thể giữa “tài sản” và “nguồn vốn” của doanh nghiệp, thể hiện phương
trình kế toán cơ bản :
Tài sản = nợ phải trả + nguồn vốn chủ sở hữu
Bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị tài sản và nguồn vốn tại một thời
điểm . Thời điểm đó thường vào ngày cuối cùng của kỳ hạch toán . Tuy vậy so




sánh số liệu giữa hai thời điểm trên bảng cân đối kế toán cũng co thể thấy được
một cách khái quát sự biến động của tài sản , nguồn vốn của doanh nghiệp trong
kỳ. Bảng cân dối kế toán là tài liệu quan trọng phản ánh một cách tổng quát năng
lực tài chính, tình hình phân bổ và sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng như triển
vọng kinh tế tài chính trong tương lai.
Bảng cân đối kế toán được kết cấu dưới dạng bảng cân đối số dư các tài

khoản kế toán và sắp xếp trật tự các chỉ tiêu theo yêu cầu quản lý. Bảng cân đối kế
toán được chia làm hai phần (có thể kết cấu theo kiểu hai bên hoặc một bên) là
phần “tài sản” và phần ”nguồn vốn”.
Phần tài sản: phản ánh toàn bộ giá trị hiện có của doanh nghiệp đến cuối
kỳ hạch toán đang tồn tại dưới các hình thái và trong tất cả các giai đoạn, các khâu
của quá trình kinh doanh. Các chỉ tiêu phản ánh trong phần tài sản được sắp theo
nội dung kinh tế của các loại tài sản của doanh nghiệp trong quá trình tái sản xuất .
Về mặt kinh tế: Các chỉ tiêu phản ánh bên có thể hiện giá trị tài sản theo
kết cấu hiện có tại doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo như tài sản (TSCĐ, vật
liệu, hàng hoá, ), tiền tệ (tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, ) các khoản đầu
tư tài chính hoặc dưới hình thức nợ phải thu ở tất cả các khâu, các giai đoạn trong
quá trình sản xuất, kinh doanh (thu mua, tiêu thụ, ) Căn cứ vào nguồn số liệu
này, trên cơ sở tổng số tài sản và kết cấu tài sản hiện có mà đánh giá một cách tổng
quát quy mô tài sản, năng lực và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Về mặt pháp lý: Các chỉ tiêu bên Tài sản phản ánh toàn bộ số tài sản hiện
có đang thuộc quyền quản lý, quyền sử dụng của doanh nghiệp.
Phần “Nguồn vốn” phản ánh “nguồn hình thành” các loại tài sản của
doanh nghiệp đến cuối kỳ hạch toán. Các chỉ tiêu ở phần nguồn cốn được sắp xếp
theo từng nguồn hình thành tài sản của đơn vị (nguồn vốn của bản thân doanh
nghiệp - vốn chủ sở hữu), nguồn đi vay, nguốn vốn chiếm dụng, Tỷ lệ và kết cấu
của từng nguồn vốn trong tổng số nguồn vốn hiện có phản ánh tính chất hoạt động,
thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Về mặt kinh tế: Số liệu phần “Nguồn vốn” của Bảng Cân đối kế toán thể
hiện quy mô, nội dung, thực trạng tài chính của doanh nghiệp.




Về mặt pháp lý: Số liệu của các chỉ tiêu thể hiện trách nhiệm pháp lý của
doanh nghiệp về số tài sản đang quản lý, sử dụng đối với Nhà nước, với cấp trên

(về nguồn vốn của Nhà nước) với các nhà đầu tư, với cổ đông, với liên doanh, với
ngân hàng, tổ chức tín dụng (về các khoản vốn vay) với khách hàng, với các đơn vị
kinh tế khác.
ở cả hai phần ngoài cột chỉ tiêu còn có các cột phản ánh mã số của chỉ
tiêu, cột số đầu năm và số cuối kỳ.
* Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Báo cáo ”Kết quả hoạt động kinh doanh “là một báo cáo kế toán tài
chính phản ánh tổng hợp doanh thu, chi phí và kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Ngoài ra báo cáo này còn phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ của
doanh nghiệp đối với Nhà nước cũng như tình hình thuế giá trị gia tăng bán hàng
nội địa trong một kỳ kế toán.
“Báo cáo kết quả kinh doanh”cũng là báo cáo tài chính quan trọng cho
nhiều đối tượng khác nhau nhằm phục vụ cho việc đánh giá hiệu quả hoạt động và
khả năng sinh lãi của doanh nghiệp.
Thông qua số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh, có thể kiểm tra được
tình hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước về
các khoản thuế và các khoản phải nộp khác, đánh giá được xu hướng phát triển
của doanh nghiệp qua các ký khác nhau.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh gồm 3 phần:
- Phần phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi
kỳ hoạt động (Phần I: Lãi lỗ) phần này có nhiều chỉ tiêu liên quan đến doanh thu,
chi phí của hoạt động sản xuất kinh doanh và các chỉ tiêu liên quan đến thu nhập
chi phí của từng hoạt động tài chính và các hoạt động bất thường cũng như toàn bộ
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu thuộc phần
này đều được theo dõi chi tiết theo số quý trước, quý này và quý kể từ đầu năm.
- Phần phản ánh trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà
nước gồm các chỉ tiêu liên quan đến các loại thuế, các khoản phí và các khoản
phải nộp khác (Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước). Các chỉ





tiêu ở phần này cũng được chi tiết thành số còn phải nộp kỳ trước, số phải nộp kỳ
này, số đã nộp trong kỳ này và số còn phải nộp đến cuối kỳ này cùng với số phải
nộp, số đã nộp luỹ kế từ đầu năm đến cuối kỳ báo cáo.
- Phần phản ánh số thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn lại,
được giảm và thuế giá trị gia tăng bán hàng nội địa (Phần III “Thuế giá trị gia
tăng được khấu trừ, thuế giá trị gia tăng được hoàn lại, thuế GTGTđược giảm,
thuế GTGT bán hàng nội địa’). Phần này chi tiết các chỉ tiêu liên quan đến thuế
GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, đã hoàn lại, được giảm, đã giảm và số thuế
giá trị gia tăng còn được khấu trừ, còn được hoàn lại, còn được giảm cuối kỳ
* Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh việc hình thành
và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Thông tin về
lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp cung cấp cho người sử dụng thông tin có cơ
sở để đánh giá khả năng tạo ra các khoản tiền và việc sử dụng những khoản tiền đó
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo Chuẩn mực kế toán Việt nam số 24 - “Báo cáo lưu chuyển tiền tệ”
trên bao gồm tiền tại quỹ, tiền đang chuyển và các khoản tiền gửi không kỳ hạn,
còn các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn (không quá 3 tháng
kể từ ngày mua khoản đầu tư đó), có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành một
lượng tiền nhất định và không có nhiều rủi ro trong chuyển đến thành tiền (Kỳ
phiếu ngân hàng, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi ). Doanh nghiệp được
trình bày các luồng tiền từ hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động
tài chính theo cách thức phù hợp nhất với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp.
* Thuyết minh báo cáo tài chính.
Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành của hệ thống
thuyết minh báo cáo tài chính của doanh nghiệp, được lập để giải thích và bổ sung
về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà
các báo cáo tài chính khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết được.

Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của
doanh nghiệp; nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp lựa chọn đế áp




dụng; tình hình và lý do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn vốn quan
trọng; phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu và các kiến nghị của doanh
nghiệp.
Mặc dù mỗi loại báo cáo tài chính cung cấp những thông tin khác nhau,
nhưng không báo cáo nào chỉ phục vụ cho một mục đích hoặc cung cấp thông tin
cần thiết để đáp ứng mọi yêu cầu sử dụng. Mỗi báo cáo trong hệ thống báo cáo tài
chính có mối liên hệ tương hỗ lẫn nhau, chúng phản ánh những khía cạnh khác
nhau của cùng một nghiệp vụ, cùng một sự kiện. Vì vậy để đánh giá đúng đắn về
thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp phải xem xét các báo cáo tài chính
trong một hệ thống và thực hiện phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp thông
qua các báo cáo tài chính của nó.
1.2.2. Hiệu quả quản lý tài chính
Để hiểu khái niệm hiệu quả quản lý tài chính trước hết cần xem xét khái
niệm hiệu quả.
Hiệu quả là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các
mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong
những điều kiện nhất định. Hiệu quả được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau
nên hình thành nhiều khái niệm khác nhau như hiệu quả tổng hợp, hiệu quả kinh
tế, hiệu quả chính trị xã hội, hiệu quả trực tiếp, hiệu quả gián tiếp, hiệu quả tương
đối, hiệu quả tuyệt đối Xét theo góc độ chủ thể nhận được kết quả (lợi ích) và bỏ
ra chi phí để có được kết quả có khái niệm hiệu quả quản lý tài chính.
Hiệu quả quản lý tài chính: phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế
mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra , trình độ sử
dụng các nguồn lực để có được lợi ích kinh tế. Hiệu quả quản lý tài chính là mối

quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp , các nhà đầu tư. Hiệu quả quản lý tài
chính chỉ liên quan đến việc thu chi có liên quan trực tiếp.
1.2.3. Đánh giá khái quát tình hình tài chính
Đánh giá khái quát tình hình tài chính là việc xem xét, nhận định chung về
tình hình tài chính doanh nghiệp. Công việc này sẽ cung cấp cho người sử dụng
thông tin biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp có khả quan hay




không.Việc đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp được thực hiện
thông qua các chỉ tiêu.
1.2.3.1. Phân tích tình hình biến động của tài sản và nguồn vốn của
doanh nghiệp
* Phân tích tình hình biến động về quy mô tài sản và nguồn vốn
Để đánh giá trước hết tiến hành so sánh tổng số nguồn vốn, tổng tài sản
của kỳ so với đầu năm cho thấy quy mô của tài sản cũng như khả năng huy động
vốn của doanh nghiệp. Ngoài ra cần xem xét biến động từng khoản mục trong tổng
tài sản hoặc nguồn vốn để thấy được mức độ đảm bảo cho quá trình kinh doanh.
Có thể lập bảng phân tích theo mẫu sau:









Bảng 1.1 Phân tích tình hình biến động quy mô tài sản


Tài sản

Số đầu năm

Số cuối năm

Tăng giảm
Số tuyệt đ
ối
Số tương
đối (%)

A. Tài sản lưu động
và đầu tư ngắn hạn
(100=110+120+130+1
40+150+160)




I. Tiền









II Các khoản đầu tư tài
chính ngắn hạn




III

Các khoản phải thu




IV
.
Hàng tồn kho




V Tài sản lưu động khác




VI

Chi sự nghiệp






B. Tài sản cố định và
đầu tư dài hạn
(200=210+220+230+2
40+241)




I Tài sản cố định




II Các khoản đầu tư tài
chính dài hạn




III

Chi phí xây dựng cơ
bản dở dang





IV
.
Các khoản ký quỹ, ký
cược dài hạn





Tổng cộng tài sản
(250=100+200)














Bảng 1.2 : Phân tích tình hình biến động quy mô nguồn vốn







nguồn vốn

Số đầu năm

Số cuối năm

Tăng giảm
Số tuyệt đ
ối
Số tương
đối (%)

A. Nợ phải trả
(300=310+320+330)




I.

Nợ ngắn hạn




II

Nợ dài hạn





III

Nợ khác





B.Nguồn vốn chủ sở
hữu (400=410+420)




I.

Nguồn vốn , qũy




II

Nguồn kinh phí, qũy
khác






Tổng cộng nguồn vốn
(430=300+400)






1.2.3.2. Phân tích quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn
Trên lý thuyết, nguồn vốn của một doanh nghiệp luôn bảo đảm đầy đủ cho mọi
hoạt động có nghĩa là:
Tài sản lưu động + Tài sản cố định = Nguồn vốn chủ sở hữu
Nếu lấy ký hiệu trên bảng cân đối kế toán ta có :
(I + IV + V + VI)A tài sản + IB tài sản = B nguồn vốn chủ sở hữu
Trong thực tế hiếm có doanh nghiệp nào được như vậy mà thường chỉ xảy ra một
trong hai trường hợp sau:
Trường hợp 1: (I + IV + V + VI)A tài sản + IB tài sản > B nguồn vốn chủ sở hữu




Thể hiện doanh nghiệp thiếu vốn để trang trải cho tài sản của mình. Để hoạt động
kinh doanh bình thường , doanh nghiệp phải huy động thêm vốn từ các khoản vay
hoặc đi chiếm dụng vốn từ đơn vị khác.
Trường hợp 2: (I + IV + V + VI)A tài sản + IB tài sản < B nguồn vốn chủ sở hữu
Trường hợp này vốn chủ sở hữu không sử dụng hết cho tài sản, nên đã bị các đối

tượng và doanh nghiệp khác chiếm dụng hoặc số vốn thừa được doanh nghiệp đầu
tư cho các hoạt động khác ngoài sản xuất .
1.2.3.3. Vốn luân chuyển thuần (hoạt động thuần) là chỉ tiêu phản ánh
phần chênh lệch giữa tổng giá trị thuần của tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
với tổng số nợ ngắn hạn.Một doanh nghiệp muốn hoạt động không bị gián đoạn thì
cần thiết phải duy trì một mức vốn luân chuyển hợp lý để thỏa mãn các khoản nợ
ngắn hạn, dự trữ hàng tồn kho đầy đủ. Vốn hoạt động thuần càng lớn thì khả năng
thanh toán của doanh nghiệp càng cao. Tuy nhiên nếu vốn hoạt động thuần quá
cao sẽ làm giảm hiệu quả đầu tử vì lượng tài sản lưu động quá nhiều so với nhu
cầu và vì phần dư này không làm tăng thêm thu nhập doanh nghiệp.
Vốn hoạt động
thuần
=
Tổng giá trị thuần của
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
-

Tổng số nợ
ngắn hạn

1.2.4. Phân tích cơ cấu nguồn vốn và tình hình bảo đảm nguồn vốn
cho hoạt động sản xuất kinh doanh
1.2.4.1. Phân tích cơ cấu nguồn vốn:
Phân tích cơ cấu nguồn vốn là việc xem xét tỷ trọng từng loại nguồn vốn
chiếm tổng số nguồn vốn cũng như xu hướng biểu tượng của từng nguồn vốn cụ
thể. Qua đó đánh giá sự biến động về mặt tài chính cũng như mức độ độc lập về tài
chính của doanh nghiệp. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao trong tổng
số nguồn vốn thì doanh nghiệp đủ khả năng tự chủ về mặt tài chính và mức độ độc
lập của doanh nghiệp đối với các chủ nợ (Ngân hàng, nhà cung cấp) là cao. Ngược
lại, nếu công nợ phải trả chiếm chủ yếu trong tổng số nguồn vốn (cả về số tuyệt

đối và tương đối) thì khả năng đảm bảovề mặt tài chính của doanh nghiệp sẽ thấp.




Khi phân tích cơ cấu nguồn vốn cần tính ra và so sánh tỷ trọng của từng
nguồn vốn chiếm trong tổng số giữa cuối kỳ so với đầu năm, giữa kỳ phân tích so
với kỳ gốc, dựa vào xu hướng báo động về tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn
để nhận xét về mức độ bảo đảm và độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp.
Đồng thời so sánh sự biến động giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc cả về số tuyệt đối
và tương đối theo từng nguồn vốn cụ thể để nhận xét.
Cũng qua phân tích cơ cấu nguồn vốn, các nhà phân tích nắm được các chỉ
tiêu liên quan đến tình hình tài chính doanh nghiệp. Từ đó giúp các nhà phân tích
có cơ sở để xác định đúng tính hợp lý về cơ cấu nguồn vốn và xu hướng hoạt động
của cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Có thể sử dụng bảng phân tích theo bảng
1.3 như sau:
Bảng 1.3: Mẫu phân tích cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp
Số đầu kỳ Số cuối kỳ
nguồn vốn Số tuyệt
đối
Tỷ trọng
(%)
Số tuyệt
đối
Tỷ
trọng(%)

A

Nợ phải trả




I Nợ ngắn hạn



II

Nợ dài hạn



III

Nợ khác



B

Nguỗn vốn chủ sở hữu



I Nguỗn vốn qũy



II


Nguồn kinh phí, quỹ khác



Tổng cộng nguồn vốn



(tài liệu sử dụng để phân tích là Bảng cân đối kế toán phần “nguồn vốn”
1.2.4.2. Phân tích tình hình biến động về cơ cấu tài sản
Phân tích cơ cấu về tài sản là chỉ tiêu hết sức có ý nghĩa. Một doanh nghiệp
có cơ cấu tài sản hợp lý không những sử dụng hiệu quả mà còn tiết kiệm được vốn
trong kinh doanh. Việc phân tích thông qua lập bảng theo mẫu sau:





















Bảng 1.4: Mẫu phân tích cơ cấu tài sản của doanh nghiệp

Số đầu kỳ Số cuối kỳ
tài sản Số tuyệt
đối
Tỷ trọng
(%)
Số tuyệt
đối
Tỷ
trọng(%)

A

Tài sản lưu động




I Vốn bằng tiền




II


Đầu tư ngắn hạn




III

Các khoản phải thu




IV

Hàng tồn kho




V

Tài sản lưu động khác




B

Tài sản cố định và đầu tư dài hạn





Tổng cộng tài sản




(tài liệu sử dụng để phân tích là Bảng cân đối kế toán phần “tài sản”





1.2.4.3. Phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có
tài sản. Các tài sản này được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn
vay - nợ. Việc cung ứng đầy đủ nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
là một vấn đề cốt yếu để đảm bảo cho quá trình kinh doanh liên tục và có hiệu quả.
Do vậy cần phải tập hợp các biện pháp tài chính cần thiết cho việc huy động và
hình thành nguồn vốn.
Có thể phân loại nguồn vốn (nguồn tài trợ) tài sản dùng cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành 02 loại:
- Nguồn tài trợ thường xuyên: là nguồn vốn mà doanh nghiệp được sử
dụng thường xuyên, lâu dài vào hoạt động kinh doanh. Nguồn tài trợ thường
xuyên bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay - nợ dài hạn , trung hạn (
trừ vay, nợ quá hạn ).
- Nguồn tài trợ tạm thời: là nguồn vốn mà doanh nghiệp tạm thời sử dụng
vào hoạt động kinh doanh trong khoảng thời gian ngắn. Nguồn tài trợ tạm thời bao

gồm các khoản vay ngắn hạn, nợ ngắn hạn, các khoản vay - nợ quá hạn kể cả các
khoản chiếm dụng bất hợp pháp của người bán, người mua, của người lao động
Các nguồn vốn bảo đảm cho hoạt động sản xuất - kinh doanh (nguồn tài
trợ tài sản) của doanh nghiệp được thể hiện khái quát qua bảng 1.5:
Bảng 1.5 : Các nguồn tài trợ tài sản của doanh nghiệp
Tổng
số tài
sản
TSCĐ - TSCĐ hữu hình
- TSCĐ vô hình
-TSCĐ thuê mua
- Đầu tư dài hạn.
Vốn chủ sở hữu
Thường
xuyên
Nguồ
n tài
trợ
- Vay dài hạn trong hạn
- Nợ dài hạn, trung hạn




TSLĐ - Tiền
- Nợ
- Đầu tư ngắn hạn
- Hàng tồn kho
-VV
- Vay ngắn hạn

- Nợ ngắn hạn
- Chiếm dụng bất hợp
pháp
Tạm thời

Để phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, trước hết cần liệt kê tất cả các nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong
thời kỳ (kỳ kế hoạch và kỳ báo cáo) để biết được tình hình biến động của nguồn
vốn trên. Từ đó đánh giá tình hình bảo đảm nguồn vốn trên cho hoạt động sản xuất
kinh doanh và đánh giá được tính hợp lý của sự biến động về nguồn vốn. Đối với
các khoản chiếm dụng bất hợp pháp, trong bất kỳ trường hợp nào cũng cho thấy
hoạt động tài chính của doanh nghiệp là bất thường.
Tiếp theo, so sánh tổng nhu cầu về tài sản (tài sản cố định và tài sản lưu
động) với nguồn vốn chủ sở hữu hiện có đủ hoặc lớn hơn tổng số nhu cầu về tài
sản thì doanh nghiệp cần sử dụng số thừa này một cách hợp lý (đầu tư vào tài sản
lao động, tài sản cố định, hoạt động kinh doanh, trả nợ vay ) tránh bị chiếm dụng
vốn. Ngược lại, khi nguồn vốn không đáp ứng đủ nhu cầu về tài sản thì doanh
nghiệp có biện pháp huy động và sử dụng phù hợp (huy động nguồn tài trợ tạm
thời hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư tránh đi chiếm dụng vốn bất hợp pháp.




1.2.5. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
1.2.5.1. Phân tích tình hình thanh toán
Tình hình thanh toán của doanh nghiệp phản ánh rõ nét chất lượng hoạt
động tài chính của doanh nghiệp. Nếu hoạt động tài chính có hiệu quả, doanh
nghiệp sẽ ít công nợ, ít bị chiếm dụng vốn, ít đi chiếm dụng vốn và ngược lại.
Tình hình thanh toán của doanh nghiệp thể hiện qua các chỉ tiêu sau:
- Tỷ lệ các khoản phải thu so với các khoản phải trả (%):

Tỷ lệ các khoản phải thu so
với các khoản nợ phải trả

=
Tổng số khoản phải
thu
x 100%
Tổng số khoản phải trả

Chỉ tiêu này phản ánh các khoản doanh nghiệp bị chiếm dụng so với các
khoản đi chiếm dụng. Nếu tỷ lệ này lớn hơn 100% chứng tỏ doanh nghiệp bị
chiếm dụng vốn, còn nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 100% chứng tỏ doanh nghiệp đi chiếm
dụng vốn của doanh nghiệp khác.
- Tỷ suất nợ phải trả tổng quát (%)
Tỷ suất nợ phải trả tổng
quát

=
Tổng số nợ phải trả
x 100%
Tổng nguồn vốn (Tổng tài
sản)
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn công ty bỏ ra thì có bao nhiêu
đồng nợ phải trả. Đây là chỉ tiêu phản ánh tổng quát tình hình công nợ của doanh
nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ công nợ của công ty càng lớn. Quản trị
công ty cần xác định rõ nguyên nhân khê đọng các khoản phải trả nhằm sớm có
biện pháp xử lý công nợ, làm lành mạnh hoá tình hình tài chính.
- Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (%)
Tỷ suất nợ phải trả tổng
quát


=
Tổng số nợ phải trả
x 100%
Vốn chủ sở hữu




Để có nhận xét , đánh giá đúng đắn về tình hình thanh toán của doanh
nghiệp, khi phân tích còn phải sử dụng các tài liệu hạch toán hàng ngày nhằm:
- Xác định tính chất , thời gian và nguyên nhân các khoản phải thu, phải
trả;
- Các biên pháp mà đơn vị áp dụng để thu hồi nợ và thanh toán nợ;
- Nguyên nhân dẫn đến các khoản tranh chấp nợ phải thu , phải trả
Có thể lập bảng phân tích theo mẫu sau:
Bảng 1.6: Bảng phân tích tình hình thanh toán các khoản nợ phải thu
và nợ phải trả




Chỉ tiêu
Tổng số còn phải thu hay
phải trả
Số nợ quá hạn
Đầu
kỳ
Cuối
kỳ

Cuối kỳ so
với đầu kỳ
Đầu
kỳ
Cuối
kỳ
Cuối kỳ so
với đầu năm

 Tỷ lệ

 Tỷ lệ

1 2 3 4 5 6 7 8 9
I.Các khoản phải thu
- Phải thu từ khách hàng
- Trả trước cho người bán
- Cho vay
- Phải thu tạm ứng
- Phải thu nội bộ
- Phải thu khác
II.Các khoản phải trả

2.1. Nợ dài hạn
- Vay dài hạn
- Nợ dài hạn
2.2. Nợ ngắn hạn
- Vay ngắn hạn





- Phải trả cho người bán
- Người mua trả trước
Doanh thu nhận trước
- Phải trả công nhân viên
- Thu
ế và các khoản nộp Nhà
nước

- Phải trả nội bộ
- Phải trả khác
Tổng cộng

1.2.5.2. Phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán
Nhu cầu và khả năng thanh toán của doanh nghiệp là cơ sở đánh giá tình
hình thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và triển vọng trong tương lai. Để phân
tích đầu tiên cần tính ra và so sánh số đầu kỳ, số cuối kỳ các chỉ tiêu phản ánh khả
năng thanh toán như:
- Hệ số thanh toán tổng hợp
- Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn
- Hệ số thanh toán của tài sản lưu động
- Hệ số thanh toán nhanh
Trong đó quan trọng là hai chỉ tiêu hệ số thanh toán nhanh và hệ số thanh
toán tổng hợp. Sau đó dựa vào các tài liệu hạch toán liên quan, tiến hành thu thập
số liệu liên quan đến các khoản có thể dùng để thanh toán với các khoản phải
thanh toán của doanh nghiệp và sắp sếp các chỉ tiêu này vào bảng phân tích theo
trình tự nhất định. Tiêu chí sắp xếp của các chỉ tiêu nhu cầu thanh toán là mức độ
khẩn trương của việc thanh toán, còn với chỉ tiêu khả năng thanh toán là khả năng
huy động. Doanh nghiệp bảo đảm được khả năng thanh toán trong từng giai đoạn

nếu các khoản có thể dùng để thanh toán lớn hơn các khoản phải thanh toán còn
nếu ngược lại các nhà quản lý phải tìm kế sách huy động nguồn tài chính đảm bảo




cho việc thanh toán nếu không muốn bị rơi vào tình trạng phá sản. Bảng phân tích
có dạng như bảng 1.7.
Đồng thời trên cơ sở bảng phân tích trên cần tính ra chỉ tiêu “hệ số khả
năng thanh toán tổng hợp (H
k
)” và “hệ số thanh toán nhanh (H
n
)” như sau:
- Hệ số khả năng thanh toán tổng hợp (H
k
)
Hệ số khả năng thanh toán tổng
hợp (H
k
)

=
Khả năng thanh toán
Nhu cầu thanh toán
Chỉ tiêu này có thể tính cho cả thời kỳ hoặc cho từng giai đoạn (hiện thời,
tháng tới , quý tới ). Nếu H
k
>1 chứng tỏ doanh nghiệp bảo đảm khả năng thanh
toán và tình hình tài chính bình thường hoặc khả quan. Nếu H

k
<1

chứng tỏ doanh
nghiệp không có khả năng thanh toán. H
k
càng nhỏ bao nhiêu thì doanh nghiệp
càng mất dần khả năng thanh toán bấy nhiêu. Khi H
k
= 0 thì doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán và bị phá sản.
- Hệ số thanh toán nhanh (H
n
):
Hệ số khả năng thanh
toán nhanh (Hn)

=
Tổng số vốn bằng tiền và các khoản đầu tư
ngắn hạn
Tổng số nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán nhanh cho biết với số vốn bằng tiền và các
chứng khoán ngắn hạn có thể chuyển đổi nhanh bằng tiền mặt hiện có, doanh
nghiệp có điều kiện thanh toán kịp thời các khoản nợ ngắn hạn hay không. Trị số
này nếu lớn khả năng thanh toán của doanh nghiệp tương đối khả quan, còn nếu
nhỏ cho thấy doanh nghiệp còn khó khăn cho thanh toán công nợ và do đó phải
bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền để thanh toán.
Tuy nhiên nếu tỷ suất này quá lớn sẽ không tốt vì nó cho thấy vốn bằng
tiền quá nhiều vòng quay vốn chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Bảng 1.7 : Bảng phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán

×