Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.27 KB, 35 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội Ngữ văn 12
Dàn ý Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội
A. Mở bài
+ Khái quát:
- Vị trí: nhân vật trung tâm.
- Vai trò: kết tinh cho giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm
- Mô tả khái quát về nhân vật: Nhân vật cô Hiền được miêu tả ở nhiều thời
điểm lịch sử khác nhau của dân tộc. Trải qua thời gian nhiều biến động, phẩm
chất và nét đẹp của một người Hà Nội vẫn tỏa sáng, như nhất, không hề phôi
pha trong con người này.
B. Thân bài:
+ Phân tích:
- Nếp sống thanh lịch dù thời cuộc có đầy biến động.
* Cái ăn
* Cái ở
* Cái mặc
- Thông minh, tỉnh táo và thức thời:
* Năm 1956, bán một trong hai ngôi nhà cho người kháng chiến ở.
* “Chú tuy chưa già nhưng đã đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao
sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dù họ có đủ tài để khơng phải sống ăn bám”
* Ứng xử với chính sách cải tạo tư sản của nhà nước.
Chồng muốn mua máy in => ngăn cản vì nhận rõ việc làm này sẽ vi phạm
chính sách.
Mở cửa hàng đồ lưu niệm để đảm bảo “đủ ăn” mà khơng bóc lột bất kì ai.
- Có đầu óc thực tế, sự trung thực, thẳng thắn:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

* Khơng có lịng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng, khơng có cái lãng mạn
hay mơ mộng viển vơng.
* Đã tính là làm, đã làm là không để ý đến lời đàm tiếu của thiên hạ => bản
lĩnh, có lập trường.
* Đi lấy chồng: dù giao du rộng nhưng chọn làm vợ một ông giáo cấp Tiểu học
hiền lành, chăm chỉ => cả Hà Nội “kinh ngạc”.
* Tính tốn cả chuyện sinh đẻ sao cho hợp lí, đảm bảo tương lai con cái.
* Khi cháu là cán bộ cách mạng về chơi, chồng và con gọi là "đồng chí", bà
nhắc nhở phải gọi là "anh Khải" => biết nhìn nhận mọi việc theo đúng bản
chất, thức thời nhưng không xu thời.
* Khi cháu - người cách mạng hỏi về cuộc sống mới khi giải phóng, bà nhận
xét thẳng thắn, sắc sảo, không giấu giếm
- Trân trọng, nâng niu, gìn giữ truyền thống văn hố người Hà Nội:
* Dặn dị bọn trẻ: “Là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn,
khơng được sống tuỳ tiện, bng tuồng”
* Coi việc giữ gìn nếp sống là một cách “tự trọng, biết xấu hổ”.
=> Là hạt bụi vàng của Hà Nội: Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc
phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh
vàng => biểu tượng của vẻ đẹp tinh tế, sức sống bất diệt của văn hoá Hà Thành.
Lưu ý: em có thể chọn thêm dẫn chứng để chứng minh.
+ Đánh giá:
- Nhân vật "một người Hà Nội" được soi chiếu ở nhiều thời điểm lịch sử. Mỗi
thời điểm đầy biến thiên ấy như thứ nước rửa ảnh làm hiện hình nổi sắc những
nét đẹp bất diệt: sự thanh lịch, sang trọng trong nếp sống, cách nói năng; trí
thơng minh, sự tỉnh táo, thức thời; đầu óc thực tế, trung thực, thẳng thắn…
- Đặt cô Hiền trong những biến động của lịch sử, nhà văn đã soi chiếu số phận

của một dân tộc qua cuộc đời của một cá nhân => thể hiện:
* Cái nhìn hiện thực mới mẻ

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

* Quan niệm về con người, niềm tin vào sự bất tử của những nét đẹp văn hóa
truyền thống.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: ngôn ngữ cá thể hóa (Lời nói của cơ Hiền
logic, rõ ràng thể hiện sự sắc sảo, thông minh, tự tin, am tường nhân thế)
- Liên hệ ngắn gọn với "chân dung người Hà Nội" hiện nay (ý mở rộng)
C. Kết bài:
Đánh giá tài năng của tác giả và thành công của tác phẩm
Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội - Mẫu 1
A. Mở bài Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải lớp 12
Nguyễn Khải tên đầy đủ là Nguyễn Mạnh Khải, sinh năm 1930 tại Hà Nội, quê
gốc ở Nam Định nhưng sinh sống ở nhiều nơi. Năm 1947, ông tham gia tự vệ
chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá. Nguyễn Khải bắt đầu
nghề báo, nghề văn từ năm 1950. Trong giai đoạn đầu của sự nghiệp sáng tác,
các tác phẩm của ông phản ánh hiện thực ở nông thơn theo xu hướng dị lên
trong q trình xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa.
B. Thân bài Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải.
Từ sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Nguyễn Khải đặc biệt
quan tâm đến những chuyển biến mạnh mẽ của cuộc sống, của tư tưởng, tình
cảm con người trước những biến động phức tạp của xã hội hiện đại. Nhà văn
nhìn nhận và đánh giá con người trong mối quan hệ đa chiểu phức tạp: để

thơng qua đó khẳng định và ca ngợi những giá trị cao đẹp của con người và
cuộc sống. Năm 2000, nhà văn Nguyễn Khải được Nhà nước tặng Giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật, ông mất năm 2008 tại Thành phố Hồ
Chí Minh.
Truyện Một người Hà Nội sáng tác năm 1990, in trong tập truyện Hà Nội trong
mắt tôi, Nhà xuất bản Hà Nội năm 1995. Qua truyện, nhà văn đã thể hiện cảm
nhận của mình về lối sống, về bản lĩnh văn hóa của một người Hà Nội. Từ đó
làm nổi bật bản chất tốt đẹp của những con người bình thường mà cuộc đời họ
gắn liền với những thăng trầm của lịch sử và quá trình phát triển của đất nước.
Cái nhìn mới về con người và cuộc sống của tác giả thể hiện qua những phát
hiện bất ngờ; những suy ngẫm thú vị và sâu sắc về “chất kinh kì” của một
người Hà Nội cụ thể là cơ Hiền. Nhân vật chính trong tác phẩm có vẻ đẹp rất
đặc trưng của người Hà Nội xưa, vừa khôn ngoan, sắc sảo, vừa đôn hậu, linh
hoạt trong cách hiểu người, hiểu đời.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

Tóm tắt nội dung tác phẩm như sau: Năm 1955, tác giả từ chiến khu Việt Bắc
trở về Hà Nội, có đến thăm cơ Hiền – một người họ hàng xa. Kháng chiến
chống Pháp, cô Hiền cùng gia đình ở lại Hà Nội. Hịa bình lập lại, đất nước tạm
chia làm hai miền, cô Hiền không di cư vào Nam mà vẫn ở lại Hà Nội với tài
sản là hai căn nhà, một để ở, một cho thuê.
Trong thời kì đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cơ Hiền khơn ngoan
tìm cách thích ứng dần với chế độ mới, lối sống mới. Năm 1965, khi đế quốc
Mĩ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, cô Hiền vẫn là một “nội tướng”
đảm đang việc quản lí gia đình, giáo dục con cái. Dũng, anh con trai cả của cô

lên đường nhập ngũ vào Nam chiến đấu. Ba năm sau, anh con trai thứ hai cũng
đăng kí nghĩa vụ quân sự nhưng được giữ lại học Đại học vì thi đậu điểm cao.
Năm 1975, miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, anh Dũng trở về Hà
Nội. Trong bữa tiệc cuối năm mừng ngày gia đình đoàn tụ, Dũng kể lại câu
chuyện cảm động về Tuất, người bạn cùng trung đoàn đã hi sinh ở cửa ngõ Sài
Gòn trước ngày chiến thắng và về người mẹ của Tuất đã nén nỗi đau mất con
để tiếp tục sống và làm việc.
Ở giai đoạn đầu thời kì đổi mới, Hà Nội cịn bộn bề khó khăn, thiếu thốn. Một
lần tác giả ra Hà Nội công tác, ghé thăm cô Hiền, thấy cô vẫn là một người Hà
Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Cô Hiền kể cho tác giả
nghe về sức sống kì lạ của cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị xô ngã sau cơn bão
lớn và bày tỏ niềm tin của cô vào cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Mở đầu tác phẩm, với vai trò là người cháu họ, tác giả đã giới thiệu cơ Hiền
bằng tình cảm q mến của mình: Chúng tơi gọi là cơ, cơ Hiền, là chị em đơi
con dì ruột với mẹ già tơi. Lối mở đầu giản dị, tự nhiên như vậy làm tăng tính
chân thực và sức thuyết phục của truyện.
Tác giả khơng miêu tả ngoại hình mà chỉ kể về tời nối, cách sống, cách ứng xử
của cô Hiền trong mối quan hệ với người thân trong gia đình, với bạn bè, với
thời cuộc… Người kể chuyện không chỉ quan sát mà đơi lúc cịn trực tiếp tham
gia vào câu chuyện, vì thế mà lời kể, lời bình có vẻ khách quan.
Chín năm kháng chiến chống Pháp, cơ Hiền ở lại Hà Nội cùng chồng con. Hịa
bình lập lại, đất nước tạm thời chia làm hai miền, cô không di cư vào Nam vì
cơ nghĩ rằng chồng cơ làm nghề dạy học nên chế độ nào cũng cắn. Nhưng
nguyên nhân chính là cô không thể rời xa Hà Nội. Trong sâu thẳm tâm hồn cô,
Hà Nội đã trở thành không gian sống quá quen thuộc nên không thể thiếu: Hà
Nội đối với cơ Hiền Đồng nghĩa với một tình u lớn lao, sâu sắc.
Lúc đầu, trong suy nghĩ của người cháu (tác giả), những người Hà Nội gốc như
cô Hiền thật khó gần, bởi căn nhà của cơ là một tịa nhà tọa lạc ngay tại một
đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024

2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

Ngọc Sơn… Trong khi cán bộ và gia đình họ phải ở chen chúc trong những khu
nhà tập thể, có khi phải ở ngay dưới gầm cầu thang của nhà bạn bè. Theo cách
đánh giá, nhận xét chung, hồi đó thì: với người vơ sản, ở q rộng là một cái
tội. Trang phục của vợ chồng cô Hiền cũng sang trọng quá: Mùa đông ông mặc
áo ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt
cườm.
Cách ăn uống của gia đình cơ Hiền và gia đình tác giả cũng thật khác biệt: Lại
cái ăn nữa cũng không giống với số đông. Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có
một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi
đúng chỗ đã quy định. Gia đình tơi thì ăn uống bình dân hơn, vợ chồng con cái
ngồi xúm xít quanh cái mâm nhơm, thức ăn có khi múc ra đĩa, có khi cứ để
nguyên trong nồi, nồi lớn đặt giữa mâm, nồi nhỏ đặt cạnh mâm, cứ việc sục
muôi vào, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát con mắng cái, nhồm nhồm, hả hê,
khơng cần phải khn bó theo một quy tắc nào cả. Ăn cốt để sống, để làm việc,
hay hớm gì cái thứ lễ nghi rườm rà của… giai cấp tư sản.
Những khác biệt cơ bản ấy xét đến cùng đều xuất phát từ cách nhìn và cách
sống của các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Sự nghi ngại của người cháu
không phải là không có cơ sở: Cơ Hiền đích thị là tư sản rồi. Đã là tư sản thì
khơng thể tin cậy được. Việc mình mình biết, việc cơ mặc cơ, dính líu nhiều có
ngày lại rắc rối… Điều đáng nói là cơ Hiền vừa tìm cách thích ứng với cuộc
sống mới, vừa biết giữ gìn nếp sống và cách nghĩ riêng của mình.
Để làm nổi bật tính cách cơ Hiền, nhà văn đã đặt nhân vật này trước những
biến cố lớn của đất nước. Những biến động của lịch sử, xã hội thường tác động
đến nhận thức và cuộc sống của con người, làm thay đổi tính cách, nhưng nhân

vật cơ Hiền khơng phải là sản phẩm của hồn cảnh. Từ góc nhìn văn hóa, tác
giả khám phá và thể hiện tính cách rất đáng trân trọng của nhân vật này.
Cô Hiền là người sắc sảo và tế nhị. Sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc
thắng lợi, cán bộ và chiến sĩ ta từ chiến khu Việt Bắc về tiếp quản Thủ đô đều
sống trong tâm trạng vui sướng, hồ hởi: Chín năm xa phố phường, xa ánh điện,
khơng được vào rạp xem chiếu bóng hoặc cải lương, khơng được vào một cái
chợ đông người giữa ban ngày, bây giờ mỗi ngày đều ở Hà Nội, mỗi đêm ở Hà
Nội, mãi mãi cịn ở Hà Nội.
Nhưng tác giả băn khoăn vì sao những người như cơ Hiền lại có thái độ khác:
Chúng tơi thì vui thế, tại sao những người vốn sống ở Hà Nội chưa thật vui
nhỉ? Rồi tự lí giải: Họ đang tìm cách thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách
làm việc, cả cách nói năng nữa. Để khẳng định những suy nghĩ, phán đốn của
mình là đúng, tác giả kể một số câu chuyện nhỏ trong gia đình cơ Hiền mà
minh đã chứng kiến.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

Một lần, tác giả đến chơi, khi nghe đứa con kêu ầm lên: Mẹ ơi! Đồng chí Khải
đến thì cơ Hiền cau mặt gắt: Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa? Thấy chồng nắm
tay đứa cháu, hồn nhiên hỏi: Tại sao chủ nhật trước đồng chí khơng ra chơi, cả
nhà chờ cơm mãi, thì cơ thở dài, quay người đi. Bởi cái từ đồng chí hồi ấy là từ
của những người cùng lí tưởng, chí hướng dùng để gọi nhau. Cơ Hiền thấy
chồng mình gọi đứa cháu bằng đồng chí nghe khơng thuận tai nên đã có phản
ứng như vậy.
Khi cháu hỏi thăm về dân tình, thời thế thì cơ Hiền thành thực trả lời: Vui hơi

nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ? Theo cơ, chính phủ can
thiệp vào nhiều việc của dân q, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt
văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế
nào, thậm chí cả tiền công sá cho kẻ ăn người ở. Cô Hiền mạnh dạn, thẳng thắn
bày tỏ suy nghĩ, nhận xét của mình trước những hiện tượng chưa hợp lí của
cuộc sống mới.
Đối với những người giúp việc trong gia đình, cơ Hiền coi họ như người nhà.
Trước đây, nhà cô Hiền cũng thuê một anh bếp và một chị vú. Chị vú trông con
cho cô từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi. Trong suốt 26 năm trời, cô Hiền coi
anh bếp, chị vú tình nghĩa như người trong họ, đối xử rất tử tế, nên sau này khi
đã về quê, vợ chồng họ vẫn qua lại thân tình, ngày giỗ ơng chủ và ngày Tết đều
đem gạo, đậu xanh, miến và rượu, tồn của nhà làm cả, lên biếu cơ và các em.
Với thời cuộc, cô Hiền cũng bộc lộ rõ ràng thái độ của mình. Lúc người cháu
(tức tác giả) thân mật và tị mị hỏi cơ về thành phần giai cấp, về chuyện tại sao
cô không phải học tập cải tạo… thì cơ cười rất tươi: Tao chưa đủ tiêu chuẩn rồi
thản nhiên nói: Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại
không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được.
Đó là sự thật hiển nhiên. Cơ Hiền có cửa hàng làm và bán hoa giấy, cái nghề
không giàu nhưng đủ ăn. Các loại hoa giấy, lẵng hoa bằng tre, bằng mây rất đẹp
do tự tay cô làm ra, bán rất đắt nhưng chịu thuế rất nhẹ. Vì thế nên cô không bị
gán cho là thành phần tư sản giữa cái thời cải tạo và đấu tranh giai cấp rất quyết
liệt. Mấy bà bạn của cô Hiền thắc mắc: Trông bà như tư sản mà không bị học
tập cũng lạ nhỉ thì cơ nhẹ nhàng, hỏm hỉnh trà lời: Các bà không biết nhưng
Nhà nước lại rất biết.
Trong chuyện làm ăn, cô Hiền cũng tỏ ra khôn hơn các bà bạn và thức thời hơn
ơng chồng. Trước giải phóng, chồng cô dạy học, nhờ viết sách, in sách mà
kiếm được tiền, tậu hai căn nhà, một để ở và một cho th. Khi có chính sách
cải tạo tư sản năm 1956, cô Hiền đã kịp bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một
người bạn mới ở chiến khu về. Một năm sau, có cán bộ tới hỏi về nhà cửa, nhắc
tới ngôi nhà ở Hàng Bún, cô Hiền trả lời rất lịch thiệp: Xin mời anh tới ngôi


Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

nhà anh vừa nói, hỏi thẳng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin
mời anh trở lại.
Trong chế độ mới, chồng cô Hiền không được phép mở trường tư thục nên định
mua một máy in nhỏ để kinh doanh. Cô liền hỏi: ông có đứng máy được
khơng? ơng có sắp chữ được khơng?… ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ
này à? Chồng cơ tính vốn nhát nên rút lui ngay trước những câu hỏi dồn dập
nhưng rất thức thời của vợ. Những nhận xét của cô Hiền về cuộc sống mới sau
hịa bình qua cuộc trị chuyện với người cháu là chân thành và táo bạo: Chế độ
này khơng thích cả nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng
hay, thiếu ăn là vinh chứ không là nhục, nên tao cũng chỉ cần đủ ăn. Làm hoa
giấy không thể làm giàu được nhưng rất đủ ăn, lại nhàn, lại khơng phải lo sợ gì.
Tơi hỏi lại: “Cịn chú, còn các em?”. “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi
chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải ni một lũ ăn bám, dầu họ có đủ tài
để không phải sống ăn bám”.
Cô Hiền khôn ngoan, nhanh chóng thích ứng với cuộc sống mới mà vẫn khơng
đánh mất mình. Là người có đầu óc thực tế, mọi việc cơ Hiền đều tính tốn
trước và cơ ln luôn đúng. Suy nghĩ của cô Hiền linh hoạt và quyết đốn: Đã
tính là làm, đã làm là khơng thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ. Cô
Hiền tuyên bố thẳng thừng với đứa cháu: Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ,
kể cà chế độ. Những sự kiện lớn trong cuộc đời cổ đã chứng mình rằng điều đó
là đúng.
Trước tiên là việc hơn nhân, vốn là một cơ gái Hà Nội có nhan sắc, lại con nhà

giàu nhưng gần ba chục tuổi cô Hiền mới lấy chồng. Cô không lấy quan mà
công chẳng hứa hẹn gì với đám văn nhân tài tử lãng mạn viển vông mà chọn
một anh giáo Tiểu học đứng đắn hiền lành để kết bạn trăm năm. Điều ấy khiến
cả Hà Nội kinh ngạc vì con gái thường ham sang, ham giàu, cịn cơ Hiền lại
vượt qua thói thường ấy. Sự chọn lựa này cho thấy cơ Hiền có thái độ nghiêm
túc đối với hôn nhân, đặt trách nhiệm làm vợ, làm mẹ lên trên hết.
Ở cái thời dân ta sống khổ cực nhưng nhà nào cũng thích có nhiều con thì
quyết định chấm dứt sinh đẻ vào tuổi bốn mươi của cơ Hiền là hết sức đúng
đắn. Cơ nói với chồng: Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi,
nếu ông và tôi sống đến sáu chục tuổi thì con út đã hai mươi, có thể tự lập
được, khỏi phải sống bám vào các anh chị.
Cô Hiền không tin vào câu Trời sinh voi trời sinh cỏ, mà cô cho rằng con cái
phải được cha mẹ nuôi dạy chu đáo để sau này có thể sống tự lập. Như vậy,
trách nhiệm quan trọng của bậc làm cha mẹ là tạo dựng nhân cách và chuẩn bị
cho con cái một tương lai tốt đẹp. Tình yêu thương con của cơ Hiền là tình u
sáng suốt của một người mẹ có tầm nhìn xa trơng rộng.
Cơ Hiền đặc biệt coi trọng vai trò người phụ nữ trong việc quản lí gia đình.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

Theo cơ thì người vợ khơng chỉ là nội trợ mà cịn là nội tưởng. Cơ phê bình
người cháu: Mày bắt nạt vợ mày q, khơng để nó tự quyết định bất cứ việc gì,
vậy là hỏng. Người đàn bà khơng là nội tưởng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra
sao. Quan niệm về bình đẳng nam nữ của cô xuất phát từ thiên chức của phụ nữ
và cơ hiểu rõ vai trị quan trọng của người vợ, người mẹ trong gia đình.
Cơ Hiền quan tâm dạy dỗ con cái từ khi còn nhỏ, từ những chuyện nhỏ. Khi

ngồi vào bàn ăn, cô thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát đũa, cách
múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn. Cơ khơng coi những chuyện ấy là
vặt vãnh mà là văn hóa sống, văn hóa con người; hơn thế, đấy là văn hóa của
người Hà Nội. Cô khuyên con cháu: Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi
đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng.
Cách thu xếp việc nhà và dạy bảo con cái của cô Hiền thật khéo léo và chu đáo.
Cô quan tâm dạy bảo các con phải biết tự trọng, biết xấu hổ, nghĩa là biết giữ
gìn nhân cách. Đây là nền tảng cơ bản để sau này trưởng thành cỏ khả năng tự
lập, có đủ ý chí, nghị lực vượt mọi khó khăn, sống có ích cho gia đình, xã hội.
Năm 1965, Hà Nội phát động phong trào tuyển quân vào Nam chiến đấu. Đợt
đầu được 660 người, đều là những chàng trai ưu tú của Hà Nội. Dũng, con trai
cả của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học liền tình nguyện xin đi đánh Mĩ. Cô
Hiền đã chấp nhận cho con ra mặt trận với một tâm trạng giống như bao bà mẹ
khác. Khi người cháu hỏi: Cơ bằng lịng cho em đi chiến đấu chứ? Cô đã trả
lời: Tao đau đớn mà bằng lịng, vì tao khơng muốn nó sống bám vào sự hi sinh
của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng. Sao lại không đau đớn khi mà cô
hiểu trong chiến tranh, bom đạn không chừa một ai. Nhưng bằng lịng nghĩa là
cơ chấp nhận sự hi sinh. Việc nước là quan trọng hàng đầu. Lòng yêu nước của
cơ Hiền cũng giống như lịng u nước của người Hà Nội, sâu sắc và kiêu hãnh
biết bao!
Suốt ba năm trời, gia đình khơng hể nhận được tin tức gì của Dũng đang chiến
đấu ở chiến trường miền Nam ác liệt. Tuy vậy, khi đứa con trai thứ hai cũng
làm đơn xin đi đánh Mĩ thì cơ Hiền vẫn hết sức bình tĩnh. Cơ giãi bày với
người cháu những lời lẽ rất chân thành và cảm động: Tao không khuyến khích,
cũng khơng ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó
phải chết, cũng là một cách giết chết nó… Tao cũng muốn được sống bình đẳng
với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì.
Những lời nói xuất phát từ đáy lịng của cơ Hiền thể hiện một thái độ sống thật
đáng trân trọng. Cái tinh tế trong đời sống tình cảm của cơ Hiền chính là thái
độ biết chia sẻ trước đau thương, mất mát của bao người mẹ khác. Tác giả phản

ánh chân thực và tinh tế những giằng xé âm thầm giữa tình yêu con với tình
yêu nước, giữa nỗi lo âu với ý thức về danh dự đã diễn ra trong tâm trạng cơ
Hiền. Khơng bà mẹ nào muốn con mình gặp gian khổ, hiểm nguy, nhưng cũng
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

khơng bà mẹ nào muốn thấy con phải sống đớn hèn, nhục nhã. Cô Hiền hiểu
con, tôn trọng danh dự của con nên chấp nhận để con vào Nam chiến đấu.
Qua chi tiết này, tác giả muốn khẳng định cá tính và bàn lĩnh của cơ Hiền là
khơng cố tạo uy tín, danh dự bằng những lời nói khơng thành thực, ln sống
đúng với bản chất của mình, đã sống là phải sống cho tử tế. Ngẫm ra trong đời,
để làm một người tử tế là chuyện cực khó. Người ta chỉ giữ được sự tử tế khi
có lòng tự trọng, biết phân biệt phải trái và biết hi sinh. Qua đó, ta thấy cái
chuẩn trong suy nghĩ của cơ Hiền là lịng tự trọng. Lịng tự trọng khơng cho
phép con người sống hèn nhát, ích kỉ, trốn tránh trách nhiệm công dân.
Những phẩm chất mà cô Hiền có được là do tiếp thu từ truyền thống gia đình,
từ năng lực tự ý thức, từ kinh nghiệm sống đúc rút trong cuộc sống đời thường
của một người vợ, người mẹ. Tình u Hà Nội của cơ Hiền khơng hời hợt hay
cảm tính mà sâu sắc vì nó gắn với một niềm tin: Hà Nội là chuẩn mực về văn
hóa của người Việt Nam. Mỗi cơng dân Hà Nội phải có ý thức giữ gìn và phát
huy chuẩn mực đó.
Cơ Hiền đã may mắn hơn bà mẹ của Tuất, may mắn hơn hàng ngàn, hàng vạn
bà mẹ khác. Tháng 12 năm 1975, cả dân tộc đang say sưa tận hưởng vinh
quang chiến thắng thì Dũng, con trai lớn của cô Hiển trở về. Anh đeo ba lô
bước vào đến giữa nhà, cơ Hiền hỏi: Anh muốn mua gì? Người con trai gầy
ốm, đen đủi, chẳng cịn dấu vết gì của một chàng thư sinh Hà Nội, nên người

mẹ không sao nhận ra được.
Cô Hiền tổ chức liên hoan mừng con trai chiến thắng trở về. Khách mời là bạn
bè thân thiết của vợ chồng cô, gồm các công dân Hà Nội, những tên tuổi đã
thành danh ở đất kinh kì Vì thế nên bữa tiệc sang trọng và kiểu cách. Ngày
thường, cô Hiền và các bà bạn ăn mặc bình dân: áo bơng ngắn, quần thâm, đi
dép, đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu, nhưng hôm
nay, các vị khách ăn mặc thật đẹp. Mấy ơng thì khốc áo ba-đờ-xuy, thắt cà vạt.
Mấy bà tuy tóc đã bạc, hoặc nửa xanh nửa bạc, nhưng khoác áo nhung, áo dạ,
đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển. Cịn cơ Hiền thì xuất hiện như diễn viên
sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh…
Cô Hiền tâm sự với người cháu về cách sống của mình: Khi sống giữa những
người bình dân, tất cả đều có quyền ăn nói thơ tục, nhưng sống với những
người quý phái mình phải xử sự ra sao? Xã hội nào cũng có giai tầng thượng
lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị… Cái chuẩn đó là tinh túy của lối
sống, của văn hóa, đạo đức, của văn minh tiến bộ. Cơ Hiền đã cố gắng gìn giữ
lối sống đó, dù là trong hồn cảnh khó khăn.
Anh Dũng đã sống đúng với lời mạ dạy về cách sống của người Hà Nội. Nồm
1965, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác Hệt, vừa tốt nghiệp
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

trung học, Dũng tình nguyện xin vào Nam đánh Mĩ. Anh đã chiến đấu suốt
mười năm và may mắn trở về nguyên vẹn. Biết bao đồng dội của anh khơng có
mặt trong ngày tồn thắng. Dũng xúc động kể rằng 660 thanh niên ưu tú của
Hà Nội lên đường cùng anh ngày ấy, bây giờ còn lại khoảng chừng trên dưới
bốn chục. Hơn 600 người đã hiến dâng tuổi thanh xuân và sinh mạng của mình

cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nhớ về những đồng đội đã hi sinh, Dũng xót xa thương Tuất, người bạn cùng
trung đoàn. Ngày vào Nam, lúc tàu qua ga Hàng cỏ, Tuất nghe rõ tiếng mẹ
mình phát trên loa của phịng phát thanh nhà ga nhưng anh khơng thể xuống để
từ biệt mẹ. Đấy cũng là những lời cuối cùng của mẹ mà Tuất nghe thấy. Anh đã
hi sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy ngày. Có biết
bao bà mẹ Hà Nội vô cùng thương con và đầy nghị lực như mẹ của anh, họ đã
nén chịu nỗi đau mất con, tiếp tục sống, tiếp tục dựng xây cuộc sống hịa bình.
Gặp lại Dũng, bạn chiến đẩu của con, người bà run bần bật nhưng khơng khóc.
Có thể nói những người mẹ Hà Nội đã góp phần tơ đậm cốt cách tinh thần
người Hà Nội nói riêng và phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam nói
chung.
Tác giả đã tìm hiểu và khai thác một góc khuất của chiến tranh mà trước đó văn
học mới chỉ đề cập đến cái hùng tráng mà chưa nói đến bi kịch của từng gia
đình, từng số phận con người sau chiến tranh. Vinh quang chiến thắng được
tính bằng máu nên khơng thể vì niềm vui hội ngộ trong cuộc sống hịa bình mà
mọi người được phép quên đi.
Cô Hiền quan niệm rằng đã mang danh là người Hà Nội thì phải biết hướng tới
cái đẹp. Đó là cái đẹp tỏa chiếu từ chiều sâu văn hóa của đất Thăng Long.
Khơng phải ngẫu nhiên mà mỗi tháng, cô Hiền lại tổ chức mời cơm bạn bè một
lần. Trong những dịp ấy, cô và bạn bè được sống lại khơng khí của một thời
vàng son thuở trước. Tuy đã lùi vào dĩ vãng nhưng nó chưa hề mất đi bởi đây là
nét đặc trưng của người Hà Nội, là dấu hiệu để phân biệt nếp sống kinh kì với
nếp sống tỉnh lẻ.
Ở cuối truyện, tác giả kể về lần từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội cơng tác
có đến thăm cơ Hiền. Nhiều năm trơi qua, gia đình cơ Hiền đã thay đổi rất
nhiều. Chồng cơ đã mất, các con đã lập gia đình riêng. Cơ Hiền ngồi bảy mươi
tuổi, tuy đã già yếu nhưng vẫn là người của hôm nay, thuần túy Hà Nội, khơng
pha trộn. Phịng khách của gia đình cơ Hiền được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ: bộ
sa lông cổ bằng gỗ gụ, cái sập gụ chân quỳ chạm trổ rất đẹp cùng nhiều đồ gia

bảo khác. Nhìn bà lão tóc bạc đang chăm chú lau cái bát thủy tiên men đỏ trong
khung cảnh ngoài trời mưa rốt, tác giả cảm thấy Tết quá, Hà Nội quá, muốn ở
thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội. Cô Hiền đã nâng niu trân trọng những
gì tốt đẹp của truyền thống văn hóa Thăng Long. Tính cách của cơ Hiền khiến
cho tác giả nghĩ về tâm lí sống ồ ạt, xơ bồ của đám đơng vừa thốt khỏi cái
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

chết, cái khổ. Họ dễ gì có được sự bình tĩnh đế thưởng thức vẻ đẹp trang trọng
của một dị hoa thủy tiên.
Cơ Hiên than thở về tuổi già hay nghĩ ngợi lan man mọi chuyện y hệt một bà
già nhà quê. Cô kể cho người cháu nghe chuyện gió bão làm cây si cổ thụ ở
đền Ngọc Sơn bật gốc đổ nghiêng, tán đè lên hậu cung… Lúc đầu, cơ nghĩ đó
là sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời. Nhưng cây si khơng chết mà
được cứu sống, sau một tháng nó lại trổ ra lá non. Từ chuyện ấy, cô Hiền suy
ngẫm: Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được.
Sự khác biệt giữa lối sống của người Hà Nội xưa với người Hà Nội thời hiện
đại gợi lên nhiều suy nghĩ khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Có người cho
là thời thế đổi thay, đương nhiên con người cũng đổi thay. Có người thất vọng
trước thực tại và hoài vọng quá khứ. Tác giả cũng không khỏi lo âu khi thấy Hà
Nội đang giàu lên, náo nhiệt hơn trước nhiều nhưng đó chỉ là phần xác. Ơng
khơng tin rằng lớp trẻ đang hăm hở làm giàu cịn có ý thức biết giữ gìn, u cái
đẹp, còn giữ nét thanh lịch, hào hoa của người Hà Nội. Ơng tức và đau vì gặp
một số người thiếu văn hóa đến mức đáng giận và đáng thương như người mà
ông hỏi đường, anh chàng đi xe đạp, cơ con gái …
Nhưng cơ Hiền khơng bình luận một lời nào về những nhận xét có phần bực

bội của người cháu mà cô lại kể cho người cháu nghe chuyện cây si sống lại
nhờ nỗ lực của thành phố. Đấy là bằng chứng cho thấy người Hà Nội hôm nay
khơng phải chỉ coi trọng vật chất mà vẫn cịn quan tâm đến đời sống văn hóa,
tinh thần. Chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị bão đánh bật rễ rổi lại hồi
sinh gợi nhiều suy nghĩ về lẽ đời, về quy luật bất diệt của sự sống. Sức sống, vẻ
đẹp truyền thống văn hóa của người Hà Nội cũng mạnh mẽ, trường tồn như
vậy.
Truyện Một người Hà Nội chân thực và sinh động một phần là do tác giả đóng
vai người kể chuyện để kể về những nét đặc trưng trong tính cách của người Hà
Nội. Chất Hà Nội ẩn chứa trong chiều sâu tâm hồn và tính cách của nhân vật cơ
Hiền. Từ lời ăn tiếng nói đến nền nếp gia đình, từ cách giáo dục con cháu đến
cách thức tổ chức cuộc sống và cách làm cho sang trọng bản thân… Tất cả đều
được cô Hiền thu xếp đâu vào đấy. Cô Hiền luôn cổ ý thức rằng mình là người
Hà Nội, từ trong cách ăn mặc cho đến những thú chơi thanh cao đòi hỏi sự kiên
trì, tì mẩn như gọt củ thủy tiên sao cho hoa nở đúng giao thừa. Cô Hiền không
chỉ là biểu tượng của một thời vàng son đã qua mà cịn là hiện thân của truyền
thống văn hóa Tràng An vững vàng qua bao biến thiên của lịch sử.
Đặt tên truyện là Một người Hà Nội, có lẽ tác giả muốn tô đậm bản lĩnh, cốt
cách của người Hà Nội. Họ ln có ý thức và tự hào mình là người Hà Nội, đại
diện cho cả nước. Ca dao có câu: Chẳng thơm cũng thể hoa nhài – Dẫu không
thanh lịch cũng người Tràng An. Chất Hà Nội ở nhân vật cô Hiền biểu lộ qua
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

tính cách lịch lãm, qua thái độ ung dung tự tại, bình tĩnh trước những biến động
của thời thế, qua sự khơn ngoan, sâu sắc của trí tuệ và chân thành, nồng hậu

của tình cảm. Cơ Hiền ln tin tưởng rằng người Hà Nội thời nào cũng đẹp đẽ
và thanh lịch.
Từ nhân vật cơ Hiền, người đọc có thể nhận ra nhiều nét đẹp trong lối sống.
Nối lối sống là hổi đến quan niệm, nguyên tắc làm cơ sở cho những ứng xử có
ý thức của con người. Qua suy nghĩ và hành động của cô Hiền, ta thấy nổi bật
lên bản lĩnh một con người luôn luôn dám là mình: là mình khi đề cao lịng tự
trọng, là mình trong quan hệ với cộng đồng, đất nước, là mình trong chiêm
nghiệm lẽ đời.
Lời bình luận của tác giả ở cuối truyện đã thể hiện tình cảm mến yêu và
ngưỡng mộ đối với cô Hiền: Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một
hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi
vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất
kinh kì chói sáng những ánh vàng. Giọng kể của tác giả vừa có niềm lo âu, tiếc
nuối lại vừa chan chứa cảm giác tin tưởng, tự hào. Hà Nội đang phát triển, giàu
sang và hiện đại, liệu những vẻ đẹp xưa có được bảo tồn? Qua cách kể chuyện,
Nguyễn Khải thường đặt một sự việc dưới nhiều góc nhìn để cho bạn đọc tự rút
ra kết luận chứ khơng áp đặt phải theo cách đánh giá của mình; vì thế mà vừa
tạo được quan hệ bình đẳng vừa thể hiện được ý kiến của cá nhân. Giọng kể
thay đổi linh hoạt, có đối thoại, có bình luận… Ngơn ngữ giản dị đời thường
nhưng giàu ngụ ý và đậm chất trữ tình, triết lí… thể hiện sự quan sát sắc sảo,
những suy ngẫm, chiêm nghiệm sâu sắc của một người từng trải nên khá hấp
dẫn.
C. Kết luận bài văn Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải.
Truyện ngắn Một người Hà Nội và nhân vật cô Hiền để lại nhiều thiện cảm,
giúp người đọc hiểu sâu hơn về con người và Thủ đô Hà Nội. Bức chân dung
nghệ thuật về một người Hà Nội đã được Nguyễn Khải miêu tả rất thành công
bằng vốn sống dày dặn và ngòi bút tinh tế. Phải chăng đây cũng là tình cảm của
biết bao con người ln hướng về Thủ đô – trái tim của đất nước. Ở tác phẩm
này, Nguyễn Khải còn gián tiếp đặt ra vấn đề: Nhà văn phải có thái độ tỉnh táo,
sáng suốt khi đi sâu tìm hiểu và soi chiếu vào những ngóc ngách của đời

thường để tìm ra vẻ đẹp của con người và cuộc sống.
Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội - Mẫu 2
Nguyễn Khải là nhà văn giỏi quan sát chuyện đời, chuyện người, say mê giảng
giải, triết lí về mọi sự bằng một tư duy phân tích sắc sảo. Nét độc đáo ở những
trang viết của ông là mối quan hệ giữa "chuyên người" với "chuyện mình",
giữa "chuyện đời" với "cái tôi" trải nghiệm chặt chẽ đến mức ln có xu hướng
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

làm thành một kết cấu trần thuật kép: vừa "phản ánh" vừa "biểu hiện", vừa
nhằm "tác động" vừa "tự nhận thức", vừa xác định chân lí theo kinh nghiệm cá
nhân vừa muốn bàn bạc, đối thoại với những kinh nghiệm khác. Chính cái tơi
tác giá, một cái tơi có khá năng in đậm dấu ấn lên câu chuyện (rất thông minh
khi phát hiện và lật xới vấn để, dễ dàng nắm bắt được trạng thái tinh thần thời
đại phía sau những ứng xử thường ngày, kể chuyện mà cứ như đang suy nghĩ luận bàn về câu chuyện với rất nhiều đúc kết khôn ngoan) đã giúp Nguyễn
Khải khẳng định vị trí chắc chắn trong tâm trí những bạn đọc yêu thích thứ văn
chương giàu chất trí tuệ mà vẫn tựa vững trên tấm lịng trìu mến, thân thiện đối
với con người. Khi tự chia hành trình sáng tác của mình thành hai giai đoạn
(trước năm 1978 và từ 1978 trở đi), nhà văn khơng chỉ muốn nói đến mối quan
hệ giữa "con người" và "thời thế", đến những sự điều chỉnh cần thiết và tất yếu
trong thế giới quan của ông ở giai đoạn thứ hai, mà cịn gián tiếp triết lí về cái
hữu hạn của nghệ thuật trước cái vô hạn của đời sống. Từ đây ông sẽ lấy triết lí
này làm nguyên tắc sáng tạo: khước từ cung cách độc thoại của kiểu nhà văn
đứng cao hơn bạn đọc để làm một người đề xuất vấn đề, gợi mở đối thoại, chia
sẻ cảm xúc và chiêm nghiệm riêng trên tinh thần tôn trọng bạn đọc, trao cho họ
quyền phán xét chân lí. Nếu trước năm 1978, Nguyền Khải chủ yếu theo đuổi

cảm hứng chính luận và tập trung vào các vấn đề chính trị - xã hội thì từ năm
1978 về sau, ơng dành mối quan tâm chủ yếu cho con người, trước hết là con
người cá nhân, có thân phận, danh phận, bổn phận cụ thể đang đan dệt nên cái
dịng cháy sơi sục, ồn ào, đầy biến động của cõi nhân gian. Một người Hà Nội,
được hoàn thành ngày 19 - 1 - 1990 (theo ghi chú cuối truyện) là một truyện
ngắn nghiêm túc, một cuộc đối thoại cởi mở về con người: Phải chăng bản lĩnh
cá nhàn, lòng tự trọng của mỗi cá nhân là cốt lõi của nhân cách? Phải chăng sự
sâu sắc, thâm trầm, lối sống sang trọng, lịch lãm, có vãn hố làm nên vẻ đẹp
của người Hà Nội?
Được viết trong bối cảnh xã hội Việt Nam trên con đường đổi mới đang biến
chuyên mau lẹ, nhiều cuộc "đụng độ" gay gắt giữa hai hệ giá trị cũ - mới xảy ra
khi cơ chế kinh tế thị trường phát huy ảnh hướng rộng khắp và quan hộ giao
lưu đa chiều đem đến nhiều kinh nghiệm mới mẻ, làm mất giá nhiều kinh
nghiệm cũ, Một người Hà Nội là nơi tác giả gửi gắm những điểu mình chiêm
ngẫm và trăn trư vé khả năng bảo tồn những giá trị mà ông tin là tinh tuý nhất
của người Việt: văn hoá Thăng Long, Tràng An. Liệu mảnh đất ngàn năm văn
hiến ấy trước cơn lốc kinh tế thị trường có đánh mất gương mặt tinh thần sang
trọng, hào hoa được hun đúc suốt trường kì lịch sử? Ma Văn Kháng khi viết
Mùa lá rụng trong vườn (1985) cũng đã ít nhiều chạm đến câu hỏi này. Cùng
thời điểm đó, đạo diễn Trần Văn Thuỷ làm bộ phim tài liệu nghệ thuật Hà Nội
trong mắt ai đã khơng giấu cái nhìn phê phán có tính cảnh báo đối với những
biểu hiện phi ván hố cúa thủ đơ đang hàng ngày bày ra ngay trước mắt du
khách (bộ phim đem lại những tiếp nhận đa chiều). Một người Hà Nội có thể
xem như một tiếng nói đối thoại sắc sảo Nguyễn Khải góp vào mối quan tâm
chung của những ai nặng lòng với vẻ đẹp kinh kì (ý hướng đối thoại rất rõ vì
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập

miễn phí

nhà văn đã đưa truyện này vào một tập truyện có tên Hà Nội trong mắt tơi, in
năm 1995). Người đọc dễ dàng nhận ra Nguyễn Khải dành cho Hà Nội một
tình yêu và niềm tự hào sâu sắc đến thế nào và ông cũng coi trọng truyện ngắn
Một người Hà Nội thế nào. Với ông, Hà Nội là "đất kinh kì" (tên một truyện
khác trong tập), là nơi hội tụ tinh hoa cả nước: "cái nước sông Hồng, cái gió
sơng Hổng nó lạ lắm, nó làm ra văn chương Bắc Hà, văn chương Hà Nội". Mà
đâu chỉ văn chương! Chọn một người phụ nữ như nhân vật bà Hiền làm một
"lát cắt" nhỏ về Hà Nội, ông muốn kí thác tình u bền chặt và sự kì vọng đối
với truyền thống văn hoá dân tộc vào những con người ln ln biết cách ni
dưỡng "nếp nhà". Chính nhờ họ mà nét đẹp riêng của kinh kì qua bao nhiêu
thăng trầm lịch sử vẫn nguyên cốt cách, không gì có thể làm phiêu tán, phơi
pha. Tính thời sự của tác phẩm do vậy lại gắn với nhu cầu đối thoại về văn hoá
Hà Nội. Người như bà Hiền có phải là hiện thân của cái văn hố ấy khơng?
Bà Hiền - điểm tựa chính cho chủ đề tác phẩm, được khắc hoạ nổi bật ở cả hai
mặt: tính cách và tư tưởng. Qua điểm nhìn của người kể chun xưng "tơi",
tính cách bà Hiền hé lộ dần, một tính cách "động" mà hố ra ổn định từ đầu đến
cuối. Tư duy nghiên cứu đã đảm bảo cho câu chuyên liên tục là những khám
phá bất ngờ, "níu chân" bạn đọc. Từng bước hoàn thiện chân dung bà Hiền theo
dòng chảy thời gian với bao đổi thay thời cuộc, mỗi lần gặp gỡ nhân vật là
thêm một lần người kê chuyện ngỡ ngàng. Tác phẩm xâu chuỗi bốn tình huống
nhận thức, cố ý tạo nên mạch truyện tưởng lan man, ngẫu hứng mà kì thực đan
xen uyển chuyển, chặt chẽ, kết dính thành một hành trình nhận thức từ thấp đến
cao (tình huống bà Hiền chọn chồng, tình huống bà bị "ngờ" là tư sản, tình
huống các con bà tình nguyện đi chiến đấu và tình huống bà phải bày tỏ thái độ
trước lối sống thủ đô thời kinh tế thị trường). Cảm quan lịch sử ở đây rất đậm
nét. Mỗi tình huống tương ứng với một hồn cảnh lịch sử cụ thể, những phát
hiện của người kể chuyện về bà Hiền là mạch phát triển tuần tự: từ hoài nghi
đến nể phục, từ e ngại đến tin cậy, từ tị mị đến cảm động, trân trọng. Tình

huống nhận thức trong Một người Hà Nội khác với trong Chiếc thuyền ngồi
xa của Nguyễn Minh Châu ở chỗ: khơng gay cấn, éo le, người kể chuyện
không "bừng ngộ" mà "tiệm ngộ" dần dần cùng độ dài thời gian suy tư, chứng
nghiệm, giống như một mạch ngầm văn bản. Có thể xem bà Hiền như chứng
nhân cho những biến thiên lịch sử kéo dài từ trước Cách mạng tháng Tám đến
thời kì đất nước tưng bừng cơng cuộc đổi mới. Qua bao biến động dữ dội, Bà
Hiền vẫn vững vàng một bản lĩnh sống, đầy trách nhiệm công dãn mà không
khi nào đánh mất mình "một đời khơng để bị ai cám dỗ". Bà ln lấy lịng tự
trọng làm ngun tắc xử thế, lấy văn hoá làm thước đo giá trị sống: "là người
Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, khơng được sống luỳ tiện,
bng tuồng". Bà là một "thể phách" và một "tinh anh" của Hà Nội, vượt lên
mọi biến suy của thời gian, mọi nông nổi của thói thời thượng để người đọc
được nhẹ nhõm mãi niềm tin "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài - Dẫu không
thanh lịch cũng người Tràng An" (ca dao).
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

Vẻ đẹp "người Hà Nội" trong bà Hiền thể hiện trước hết ở việc gìn giữ "nếp
nhà". Gốc gác Hà Nội cho bà một căn cốt vững vàng từ nền giáo dục gia đình.
Cha mẹ bà đã là bằng chứng cho việc người ta có thể giàu có mà vẫn lương
thiện, giàu có mà khơng "trọc phú". Cơ Hiền thuở trẻ được cha mẹ cho mở
phòng tiếp khách văn chương (gọi là xa lông văn học). Với ai đó thì đây là cơ
hội để lấy được tấm chồng danh giá hoặc chỉ đơn giản, có dịp phơ diễn sự thức
thời (kiểu bà Phó Đoan xây sân quần trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng chẳng
hạn), nhưng với cô Hiền và gia đình cơ, đấy là nhu cầu giao tiếp để mở mang
tầm mắt, để hấp thụ thêm cái tao nhã cứa văn chương nghệ thuật. Thế nên việc

cô Hiền chọn chồng đã khiến tất cả người quen biết bất ngờ. Họ bất ngờ vì họ
tư duy theo thói thường. Cơ Hiền đứng ngồi cái thói thường ấy. Có lẽ cô nhắm
tới một cuộc hôn nhân đảm bảo duy trì truyền thống "giàu có lương thiện" của
gia đình và cơ phải đóng vai người "nội tướng" để giữ vững "nếp nhà". Đấy là
sự lựa chọn của bản lĩnh cá nhân và của tình yêu Hà Nội sâu xa trong máu thịt.
Những năm Hà Nội bị tạm chiếm, gia đình cô không tản cư (điều này gây ra sự
ngờ vực ở khơng ít người về lập trường u nước của cơ) nhưng thực chất cơ
khơng tản cư chỉ vì "khơng thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở
vùng đất nào khác". Một tình yêu kiên định bắt nguồn từ một niềm tin vững
chắc vào sự ngay thẳng (nhưng có lẽ cũng vì vậy mà cực đoan nghĩ rằng chỉ ở
Hà Nội mới duy trì được lối sống đẹp?)
Khi Hà Nội được giải phóng, khi "văn hố thời chiến", "văn hố bình dân" lên
ngơi, bà Hiền càng có ý thức ni dưỡng dưới mái nhà mình nét thanh lịch vốn
có, từ cách ăn, cách mặc đến cách xưng hơ. Theo bà, đấy cũng là văn hố, bà
muốn các con bà nhận ra "văn - hoá - người" ngay từ những chuyện nhỏ nhặt,
thường tình nhất: "Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ, cịn sau này
muốn sống ra sao là tuỳ". Bà không uốn mình theo lối ứng xử dễ dãi của số
đơng. Cái sâu sắc ở người phụ nữ, người mẹ, người Hà Nội ấy không phải ai
cũng nhận ra. Nhân vật "tôi" lúc đầu đã nghĩ bà "đích thị là tư sản" nên bảo vợ
con "tránh xa" để khỏi liên luỵ, rồi sau đó lại cho bà là kẻ thủ cựu, cố chấp,
khơng hợp thời. Có lẽ mãi sau này, khi gặp những kẻ khơng cịn khả năng "biết
xấu hổ", khơng cịn lịng tự trọng mà chỉ cịn sự trăng tráo thơ bỉ, "tơi" mới thật
hiểu trí lự của bà Hiền. Có một người mẹ như thế, tất sẽ có những người con
"không sống bám vào sự hi sinh của bạn bè", tình nguyện đăng kí xin đi đánh
Mĩ. Trong bữa tiệc gia đinh mừng ngày Dũng trở về từ chiến trường miền Nam,
người - con - trai - bà - Hiền đã nói rất ít về những chuyện vui, những chiến
cơng:
"Anh nói rằng trong nửa năm nay, anh khơng ngớt nghĩ về những người từ Hà
Nội ra đi cách đây đúng mười năm. Sáu trăm sáu mươi người. Bây giờ còn lại
khoảng trên dưới bốn chục" (Hà Nội của anh đã khơng tiếc máu xương cho Tổ

quốc hồ bình, thống nhất). Rồi anh kể về tình yêu mẹ của người đồng đội tên
là Tuất, về sự can đảm phi thường của mẹ Tuất lúc anh đến báo tin Tuất đã hi
sinh. Niềm vui được sống trở về không làm chàng trai còn rất trẻ ấy quên chia
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

sẻ nỗi đau của người khác. "Chất Hà Nội" từ thế hệ người mẹ như bà Hiền, như
mẹ Tuất đang được chuyển giao thật tự nhiên sang thế hệ những người con như
Dũng, Tuất. (Đối diện với họ, nhân vật tơi phải giật mình bởi những nhận xét
ồn ào, vội vã: "tơi đã nói điều gì thất thố?").
Để có thể gìn giữ nghiêm cẩn nề nếp gia phong, người phụ nữ đương nhiên
phải đóng vai trị "nội tướng" (tục ngữ có câu "Đàn ơng xây nhà, đàn bà xây tổ
ấm"). Bà Hiền thực hiện tư tưởng nam nữ bình quyền theo cách riêng: dứt
khốt mà vẫn thừa tinh tế. Bà chủ động chấm dứt sinh đẻ với nhận thức thật
đúng đắn: sinh con nghĩa là phải nuôi dạy con nên người, phải chuẩn bị chu
đáo cho mỗi đứa con có khả năng sống tự lập "khỏi phải sống bám vào anh chị"
(lại vẫn lấy nguyên tắc tự trọng làm chuẩn). Bà chê trách người cháu: "Mày bắt
nạt vợ mày q, khơng để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng". Bà
điều hành gia đình bằng những phép tính khơn ngoan, nhìn xa trơng rộng "và
ln tính đúng vì khơng có lịng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vơ.
Khơng có sự lãng mạn hay mơ mộng vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không
thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ". Như vậy chồng và con bà không
nể trọng sao được? Có một chi tiết nhỏ tưởng bình thường mà thật đắt giá: thấy
cậu con trai xưng hô không hợp với quan hệ gia đình (gọi anh là đồng chí), bà
"cau mặt gắt" nhưng khi ơng chồng cũng phạm chính lỗi đó, bà chí "thở dài,
quay người đi". Một người vợ biết tôn trọng chồng là biết nhượng bộ, nhường

nhịn đúng lúc. Nghiêm khắc, kĩ lưỡng uốn nắn con cái từng li từng tí, nhưng bà
bao giờ cũng hiểu con và luôn biết dành cho chúng quyền tự quyết định. Bà
đảm dang, tháo vát mà khơng ích ki lạnh lùng. Tình nghĩa thuỷ chung của vợ
chồng chị vú em đối với gia đình bà nói lên điều đó.
Nhưng một người "nội tướng" mẫu mực chúng ta có thể gặp ở nhiều nơi. Cái
làm nên tính cách riêng của bà Hiền, khiến bà - một phụ nữ bình thường trong
hàng triệu phụ nữ Việt Nam - trở nên cá biệt, phi thường chính là bản lĩnh cá
nhân, sự lịch lãm và lối sống sang trọng. Dù có lúc bị ngờ vực, bị soi xét bằng
cái nhìn định kiến, bao giờ bà Hiền cũng vẫn là mình - một cái tơi khôn ngoan,
giàu tự trọng, biết người biết ta. Thuở trẻ trung, nhan sắc hơn người, bố mẹ lại
giàu có, cơ Hiền đã khơng bng mình cho thói hợm hĩnh, đua địi ăn chơi
hưởng lạc như vơ số kẻ tầm thường khác. Sau này người phụ nữ ấy sẽ tạo lập tổ
ấm của mình bằng chính bàn tay tài hoa, chăm chỉ và cái đầu giỏi tính tốn, cho
nên gia đình bà lúc nào cũng giữ được phong cách sống đàng hồng, ấm áp. Bà
"có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại khơng bóc lột ai cả"
(giữa những cái nhìn kì thị với sự giàu sang cực đoan đến mức cháu cũng nghi
ngại cơ, thì phải có bản lĩnh lớn lắm mới có thể ung dung mà sống như bà
Hiền). Không bao giờ xu thời, nhưng cũng không quay lưng với thời cuộc, bà
tự giác điều chỉnh công việc làm ăn mỗi khi cơ chế thay đổi. Tỉnh táo và công
bằng, bà phê phán sự lạc quan tự mãn thái quá của nhiều người trong những
ngày đất nước mới độc lập: "Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến
làm ăn chứ!" (có phải lại thêm một cái giật mình tự phản tính của tác giả?). Bà
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

khơng tán thành quan điểm "khơng khuyến khích cá nhân làm giàu" của chế độ

mới nhưng không phản kháng mà cố gắng thu xếp sao cho gia đinh mình vừa
khơng vi phạm luật pháp vừa khơng đánh mất truyền thống riêng. Một câu nói
nhẹ nhàng giải thích việc bà không bị "học tập cải tạo" cho thấy bà rất công
tâm: "các bà không biết nhưng Nhà nước lại rất biết". Con người ấy ln độc
lập trong nhìn nhân đánh giá và rất ít vướng vào định kiến.
Thơng minh, thức thời, tháo vát,... đó là tính cách của bà Hiền trong cuộc sống
đời thường. Tính cách ấy rất đáng để nể phục. Nhưng bản lĩnh ứng xử trước
thời cuộc (ln "là mình" mà khơng thiếu trách nhiệm với cộng đồng, tính tốn
khơn ngoan mà vẫn đằm thắm một tấm lịng đơn hậu) mới thực sự là những giá
trị làm nên nhân cách của bà, làm nên văn hoá sống, làm nên cái đẹp. Khi hàng
trăm thanh niên ưu tú của Hà Nội lên đường đánh đế quốc Mĩ, người con trai
cả của bà Hiền tình nguyện nhập ngũ, bà khơng ngăn cản con, cũng khơng
nhân đó mà khoe lịng yêu nước. Bà trả lời thẳng thắn "tao đau đớn mà bằng
lòng". Trong văn học thời chiến tranh của ta hình như chưa một bà mẹ nào phát
biểu thế cả. Nguyễn Khải đã rất sâu sắc để cho nhân vật công khai đối thoại với
những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa ái quốc. Người đọc nào yêu chuộng sự
trung thực sẽ rất cảm động vì tin vào cuộc đấu tranh nội tâm - dù chỉ được hé
mở qua một câu nói - chắc chắn nhiều giằng xé mà người mẹ - người công dân
như bà Hiền phải trải qua. Bà mẹ nào có thể vui khi đứa con phải đi vào nơi
hiểm nguy, nhưng bà hiểu con "nó dám đi cũng là biết tự trọng". Bà không che
giấu niềm kiêu hãnh: "tao khơng muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè".
Với việc ra đi của đứa con thứ hai, bà vẫn ứng xử trên nguyên tắc tự trọng và
niềm kiêu hãnh như vậy vì theo bà, ngăn cản con là "bảo nó tìm đường sống để
các bạn phải chết", "đấy cũng là cách giết nó". Bà đặt danh dự cao hơn sự sống,
mất danh dự tức là chết về tinh thần, nhân phẩm.
Mang đậm cốt cách Hà Nội, trong sâu thẳm con người bà Hiền là cái tâm linh
của Hà Nội. Tâm linh ấy được bồi đắp trên truyền thống của mảnh đất nghìn
năm văn hiến. Khi con người tin rằng mình đang giữ gìn một giá trị, thì tự khắc
nó tìm được khả năng đề kháng trước mọi biến suy và cám dỗ. Bà Hiền ý thức
mình là người Hà Nội nên cái mà bà tha thiết bảo vệ và phát huy là cái chất Hà

Nội. Bà khơng chỉ dạy dỗ con cái sống có văn hố mà cịn nỗ lực tạo dựng một
mơi trường văn hố trong gia đình (mỗi tháng đều tổ chức một bữa ăn bạn bè
làm sống dậy những nét sinh hoạt và giao tiếp sang trọng, đẹp đẽ như truyền
thống kinh kì). Giữ nếp nhà là cách để giữ nếp người. Sau bao nhiêu biến thiên
của lịch sử, giữa thời buổi kinh tế thị trường đầy tâm lí thực dụng mà phòng
khách nhà bà Hiền - thế giới riêng của bà - vẫn giữ nguyên phong cách lịch
lãm, quý phái của hơn nửa thế kỉ trước với tấm bình phong bằng gỗ chạm, bộ
sa lông gụ, sập gụ, tủ chùa, lọ men Thuý hồng, lư hương đời Hán, liễn hấp sâm
Giang Tây,... Những thứ đồ trưng bày đều là cổ vật q giá, mang trong mình
tính trang nghiêm, cổ kính của nhiều tầng văn hoá, biểu hiện cốt cách văn hố
của chủ nhân. Căn phịng khách có thể coi là biểu tượng cho con người có thế
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

giới tâm hổn thanh sạch, ln bình tâm trước mọi đổi thay. Và con người - chủ
nhân của không gian ấy - cũng là một "cổ vật" hay một giá trị khơng phai nhồ
của một thời vàng son. Hình ảnh bà Hiền đang lau đánh chiếc bát thuỷ tiên
tưởng như đơn giản mà chứa đựng tất cả cái khơng khí Tết Hà Nội đặc trưng,
đó sẽ là hình ảnh chắc chắn trong tương lai con người hiện đại phải nặng lịng
hồi nhớ khi cái nhịp sống cơng nghiệp và xu hướng đơ thị hố ào ạt có nguy
cơ tước đoạt hết những khoảng không gian yên tĩnh để di dưỡng tinh thần. Nhà
văn đã dự cảm trước nguy cơ đó khi nêu câu hỏi: “Dân Hà Nội nhảy tàu lên
Lạng Sơn buôn bán đủ thứ mà lại không bn được vài ngàn củ thuỷ tiên", "ví
thử có thuỷ tiên liệu cịn có người biết gọt tỉa thuỷ tiên?". Và cịn đáng buồn
hơn nếu cách sống ồ ạt xơ bồ đã khiến con người khơng cịn biết bình tĩnh mà
thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một giò thuỷ tiên. Phòng khách nhà bà Hiển

là thế giới thực nhưng cũng đầy tính tượng trưng. Bà vẫn tỉnh táo, thức thời, có
điều bà đã vượt lên trên thói thường nhờ cái tầng văn hố tâm linh vơ hình mà
ám ảnh. Mối bận tâm của bà bây giờ có thể chỉ là chuyên cây si cổ thụ ở đền
Ngọc Sơn. Cây si ấy gợi liên tưởng đến sức sống trường tồn của tự nhiên mà
cũng là sự hữu hạn của tự nhiên. Chính ý thức con người (việc làm kịp thời của
Sở Văn hố Hà Nội) sẽ khắc phục tính hữu hạn đó. Cây si nối quá khứ với hiện
tại, là hoá thân của linh hồn Hà Nội, là niềm tin của người Hà Nội vào những
giá trị bất diệt. Cuộc đời bà Hiền cũng như câu chuyện về cây si đã làm sáng tỏ
chân lí mà nhà vặn tâm niệm: "nói cho cùng, để sống được hằng ngày, tất nhiên
phải nhờ vào những giá trị tức thời. Nhưng sống cho có phẩm hạnh, có cốt cách
nhất định phải dựa vào những giá trị bền vững”.
Câu chuyện kết thúc khi những hồi nghi, bất bình của người kể chuyện vể
cách ứng xử thô bạo ông gặp trên đường phố Hà Nội đã được hố giải bởi
những chiêm nghiệm của bà cơ "ngoài bảy mươi tuổi" mà vẫn "giỏi quá",
"khiêm tốn và rộng lượng quá". Bước ngoặt nhận thức khiến người kể chuyện,
trong niềm hi vọng lạc quan, đã nảy ra một so sánh thật đẹp: "Một người như
cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu
vào lớp đất cổ". "Hạt bụi vàng" nhỏ bé nhưng là tinh tuý tạo nên ánh vàng
"sáng chói" cho đất kinh kì. Nó cũng trở thành biểu tượng cho con ngựời Hà
Nội: bình dị mà lớn lao, hữu hạn về thân xác mà vô hạn về tâm hồn. Trong cảm
hứng ngợi ca, tự hào, ngòi bút Nguyên Khải khơng khỏi thống gợn chút rưng
rưng tiếc nuối (hay một nỗi lo âu vẻ viễn cảnh phôi pha cái đẹp cổ truyền trước
dòng chảy cuồn cuộn của dời sống thời kinh tế thị trường), phải chăng vì thế
mà ơng mơ ước: "Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội
hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng!".
Một người Hà Nội rất đậm dấu ấn của tư duy tiểu thuyết: cốt truyện được nới
lỏng, ít sự kiện, biến cố nhưng được kết cấu thành nhiều tình huống nhận thức.
Sau mỗi lần gặp gỡ, người kể chuyện lại có thèm một phát hiện mới, một nhận
thức mới về bà Hiền, để cuối cùng người đọc tự hoàn chỉnh chân dung người
phụ nữ Hà Nội ấy. Thường xuyên tác giả đặt một sự việc, một vấn đề dưới

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

nhiêu cách nhìn (khi cơng khai, khi ngầm ẩn), biện pháp đối sánh này là sản
phẩm cua tư duy dân chủ trong tiểu thuyết, tạo ra quan hệ bình đẳng giữa nhà
văn và bạn đọc, đưa đời sống vào nhiều "toạ độ" đánh giá để mời gọi bạn đọc
tham gia đối thoại. Bà Hiền có phải người Hà Nội điển hình khơng? Cách sống
của bà, những ứng xử của bà có gì hạn chế?,... tất cả thực ra vẫn cịn là những
giả định, hình dung, những câu hỏi ngỏ vì tác giả đã ln nhấn mạnh vào cái
nhìn chủ quan của người kể chuyên. Như vậy, tôn trọng kinh nghiệm cá nhân
khơng có nghĩa người đọc phải coi kinh nghiệm ấy là chân lí. Truyện khơng sa
vào lí luận nặng nề hay nhàm tẻ mà có sự đan xen giọng điệu khá linh hoạt:
đằng sau / ẩn trong giọng của người kể chuyện, thấp thống có những giọng
khác. Hình tượng người kể chun ưa triết lí, suy ngẫm, lại xưng "tơi", thậm
chí tự tiết lộ tên mình là Khải (lời con trai bà Hiền: "Mẹ ơi! Đồng chí Khải
đến"), nghĩa là mang rất nhiều chi tiết tiểu sử tác giả, đã gợi cảm giác thân mật
và tin cậy, rất thích hợp cho cuộc giao tiếp cởi mở giữa nhà văn với người đọc.
Qua hình tượng người kể chuyện, hiển hiện một Nguyễn Khải có nhu cầu tự
vấn, tự nhận thức lại về nhiều vấn đề tưởng đã là chân lí. Cảm hứng triết luận
nghiêm túc khơng hồn tồn lấn át cảm hứng tự trào - đấy là cái duyên riêng
của tác giả Một người Hà Nội.
Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội - Mẫu 3
“Một người Hà Nội“ là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Khải. Qua
đó, tác giả thể hiện cái nhìn vơ cùng mới mẻ của nhà văn về con người, cuộc
sống với một hình thức nghệ thuật in đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.
Ngay từ cách đặt tên nhan đề “Một người Hà Nội” nhà văn đã mở ra hình

tượng trung tâm của tác phẩm là một người Hà Nội mang trong mình vẻ đẹp hà
Nội thuần túy khơng trộn lẫn. Bên cạnh đó cịn mở ra khơng gian nghê thuật cổ
kính, mảnh đất Kinh Kì, nghìn năm văn hiến đã trải qua cùng những thay đổi
của thời đại. Cũng từ nhan đề có thể soi sáng được tư tưởng và chủ đề của tác
phẩm.
“Một người Hà Nội” với nhân vật chính là cơ Hiền – người xuất thân từ gia
đình Hà Nội giàu có, thân thiện. Ở cơ Hiền thấm sâu vẻ đẹp tinh thần, văn hóa
cốt cách của một người Hà Nội gốc, tạo nên nơi người đọc về vẻ đẹp ấy sẽ bền
vững, không bị nhạt nhịa theo thời gian. Cơ cũng là người có tình yêu và gắn
bó sâu sắc với mảnh đất hà Nội. Ngay cả khi nơi đây có đang oằn mình trong
bom đạn thì cơ vẫn bám trụ lại mảnh đất này bằng tình yêu và niềm tin mãnh
liệt vào sự trường tồn của Hà Nội.
Ở cơ Hiền người ta nhìn thấy hội tụ đầy đủ vẻ đẹp ngoại hình, tính cách và tâm
hồn. Về ngoại hình cơ mang vẻ đẹp q phái, sang trọng của mọt người phụ nữ
gốc Hà Nội. Bên cạnh đó, cơ là người thẳng thắn, có cái nhìn nhạy bén, sâu sắc
trước thực tế và là người dám bộc lộ quan điểm sống của mình, dám thẳng thắn
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

nói lên và sóng thật với chính mình. Ở cơ cịn là người có lối sống văn minh
hiện đại nhưng giữ được lối sống đẹp, không xô bồ, bon chen. Một người hà
Nội như cô Hiền mang vẻ đẹp riêng trong cốt cách và nó được tỏa sáng trong
bất kì hồn cảnh nào. Cơ Hiền thể hiện là người hiểu được giá trị của cuộc
sống, biết hướng đến giá trị cuộc sống và biết hài hòa giữa vật chất và tinh
thần. Ngồi ra, cơ vẫn giữ được thói quen thời trẻ của mình đó là giao lưu với
văn nhân, nghệ sĩ, một cuộc sống phóng khống về tinh thần và một tâm hồn

nghệ sĩ, là người biết yêu và trân trọng cái đẹp. Tuy vậy, cô vẫn là người có đầu
óc thực tế trong việc lựa chọn chồng. gần 30 tuổi cô mới lấy chồng. Nhưng
người chồng cô chọn không mơ mộng một người làm quan hay làm nghệ sĩ.
Người cô chọn là một ông giáo dạy tiểu học hiền lành chăm chỉ. Cơ Hiền là
người có đầu óc thực tế, khơn ngoan việc gì cũng tính tốn trước sau, đã tính là
làm, đã làm là khơng sợ lời đàm tiếu từ thiên hạ. Phải là người hiểu đời, trải đời
có bản lĩnh cơ mới vượt lên những chuyện thị phi được mất ở đời như thế.
Trong quan hệ với gia đình cơ làm trịn bổn phận của một người vợ đảm đang,
thông minh, tài giỏi trong việc làm kinh tế và tài giỏi trong việc quản lý gia
đình. Đồng thời trong cách dạy con cái thì cơ Hiền là người mẹ nghiêm khắc.
Từ dáng ngồi trên bàn cơ cũng chấn chỉnh và dạy con phải có lịng tự trọng.
Một người mẹ có lịng tự trọng và ý thức rõ trách nhiệm của một cơng dân có
lịng u nước. Trong quan hệ với người ở cô hiền là người sống tình nghĩa
nhân hậu, có trước có sau và gần gũi với mọi người như người thân trong gia
đình. Chính vì vậy mà Nguyễn Khải ví cơ như “hạt bụi vàng” và nhà văn trân
trọng vẻ đẹp cốt cách và tâm hồn của một người Hà Nội như cô Hiền.
Ngồi cơ Hiền, mặc dù khơng trọng tâm miêu tả nhưng Nguyễn Khải cũng
khắc họa lại hững nhân vật Hà Nội khác trong tác phẩm. Đó là những thanh
niên hà Nội đại diện cho thế hệ trẻ có tự trọng, có trách nhiệm với quê hương,
Tổ quốc. Những chàng trai mang trong mình lí tưởng sống cao đẹp sẵn sàng xả
thân vì Hà Nội, vì Tổ quốc mình. Đặc biệt là Dũng – chàng trai có lịng u
nước sâu sắc, sống có lí tưởng và trách nhiệm. Đó là Tuất một chàng trai biết
kiềm lại cam xúc của bản thân để hướng đến những điều lớn lao hơn. Và là mẹ
Tuất- người mẹ phải gánh chịu sự mất mát to lớn, đánh đổi cả đứa con thân yêu
của mình. Một người mẹ đầy nghị lực và bản lĩnh.
Tất cả tô lên một bức tranh khắc họa nhân vật là những con người hà Nội luôn
âm thầm và lặng lẽ bằng những cách khác nhau để bảo vệ sự trường tồn của Hà
Nội, bảo vệ những vẻ đẹp cốt cách và tâm hồn của những người Hà Nội.
Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội - Mẫu 4
Một người Hà Nội là truyện ngắn giàu tính triết luận, được sáng tác trong bối

cảnh đổi mới văn học sau 1986. Triết luận vốn là một nét trội trong phong cách
văn xuôi Nguyễn Khải thuộc giai đoạn sáng tác từ cuối những năm bảy mươi
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

(của thế kỉ XX) trở đi, gắn liền với việc soi xét đối tượng dưới các góc độ văn
hố, lịch sử và triết học.
Trước đó, sáng tác của Nguyễn Khải đầy ắp cảm hứng chính luận, chuyên đề
cập các vấn đề thời sự, chính trị của đất nước và thường lấy tiêu chí chính trị,
đạo đức cách mạng để bàn luận, đánh giá sự kiện, con người. Rõ ràng, sự
chuyển đổi từ cảm hứng chính luận sang cảm hứng triết luận đánh dấu một
bước phát triển đáng ghi nhận trong tư duy nghệ thuật của nhà văn. Hứng thú
quan sát, thể hiện những vấn đề thế sự, đặc biệt là vấn đề khẳng định bản lĩnh
cá nhân của con người giữa một hồn cảnh sống mà cái “tơi” chưa được nhìn
nhận cơng bằng, thoả đáng, tất cả đều liên quan tới việc chuyển đổi cảm hứng
nói trên. Các sáng tác lúc này vẫn khơng thiếu tính thời sự, nhưng giá trị của
chúng đã vượt ra khỏi cái khung thời sự nhất thời để gây ám ảnh lâu dài. Việc
nhà văn có ý thức tơ đậm kinh nghiệm, thể nghiệm của cá nhân mình trong việc
trình bày mọi vấn đề đã làm cho những trang viết của ông thấm đượm tinh thần
đối thoại dân chủ, thoát li dần kiểu áp đặt chân lí một chiều trước đây.
Với một sáng tác mang tính triết luận, việc xếp đặt các nhân vật được miêu tả
trong đó vào các phạm trù tốt – xấu, chính diện - phản diện quen thuộc một
thời đã trở nên bất cập. Sự đánh giá về nhân vật có thể rất đa chiều. Lời khen
hay lời chê của tác giả (thể hiện qua nhân vật kể chuyện xưng “tơi”) lúc này
cũng chỉ có giá trị tham khảo thuần t, khơng hề mang tính chất “chân lí”,
khơng phải là kết luận tối hậu. Trong Một người Hà Nội, “tơi” nhìn nhận bà

Hiền là “một hạt bụi vàng”, đó là quyền của “tơi”. Người khác có thể có cách
nhìn nhận khác, tất nhiên, không thể không tham khảo cách nhìn có tính chất
gợi ý mà “tơi” đưa ra. Nếu không hiểu nguyên tắc đánh giá này, lại lấy cách
xây dựng nhân vật trong truyện của Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác trước
làm hệ quy chiếu, độc giả rất dễ có những phán quyết vơ lí về tác giả trên các
vấn đề quan điểm, lập trường chính trị, hoặc ngược lại, ra sức tán dương nhân
vật bà Hiền, gán cho bà những phẩm chất tốt đẹp (theo mong muốn hay tưởng
tượng, suy diễn của chính độc giả) mà bản thân nhân vật “tơi” khơng nói tới
trong câu chuyện của mình.
Nếu căn cứ vào những gì đã được thể hiện trong truyện ngắn, độc giả có thể đặt
lại tên tác phẩm Một người Hà Nội thành Nghĩ về một người Hà Nội. Dĩ nhiên,
đây là đặt cho mình, nhằm mục đích lĩnh hội đúng tinh thần tác phẩm, cảm
nhận đúng ý nghĩa của “thành phần” suy nghĩ trong kết cấu truyện ngắn này.
Quả là chuyện kể khơng có gì thật đặc biệt, nhưng suy nghĩ, đánh giá của nhân
vật “tôi” thì lại chứa đựng nhiều điều thú vị. Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn
Khải vốn là thế: tỉ trọng những lời phân tích, bình luận bao giờ cũng lớn, nhiều
khi lấn át cả sự miêu tả, trần thuật khách quan về đối tượng.
Viết Một người Hà Nội, điều cơ bản mà nhà văn hướng đến chưa hẳn là ca ngợi
một con người, cho dù người đó đáng ca ngợi bao nhiêu đi chăng nữa. Cảm
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

hứng chính của ơng là khám phá bản sắc văn hoá Hà Nội - cái quyết định vận
mệnh và vị thế của Hà Nội trong lịch sử, cũng là cái làm nền tảng cho bước
phát triển mới của nó trong tương lai. Khơng phải ngẫu nhiên mà khi ngắm
hình ảnh bà Hiền “lau đánh cái bát bày thuỷ tiên”, ơng đã có một ghi chú tưởng

như là bâng quơ: “nếu là một thiếu nữ thì phải hơn”, rồi cảm thán: “thấy Tết
quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội”. Cũng hồn
tồn hợp lơ gíc việc nhà văn đã kết lại truyện ngắn như thế này: “Một người
như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm
sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội
hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng!”. Lơ gích
thì lơ gích nhưng vẫn lạ. Ai đã từng quen với giọng văn tinh sắc, tỉnh táo, thậm
chí là “lọc lõi” của Nguyễn Khải, hẳn phải ngỡ ngàng trước cái giọng “bốc” lên
khá đột ngột mà nhà văn biểu lộ ở đây. Một chút giỡn đùa với chính văn mình
hay niềm xúc động tận đáy tâm can cứ bật ra không nén được? Trả lời quyết
hẳn theo bề nào cũng khó, nhưng điều có thể khẳng định chắc chắn là: Nguyễn
Khải thật sự yêu quý Hà Nội, có những suy nghĩ thâm trầm về “đất kinh kì” và
tha thiết được thấy một Hà Nội hiện đại, đẹp, sang, xứng với bề dày văn hố
truyền thống của nó.
Hình tượng bà Hiền được xây dựng lên như để chứng minh có một tinh thần Hà
Nội, một linh hồn Hà Nội thực sự đã và đang tồn tại, để lại dấu ấn đậm nét
trong những người con của nó. Bà Hiền khơng phải là một “tấm gương” kiểu
mẫu hiểu theo nghĩa thông thường để các tổ chức xã hội nêu lên cho mọi người
học tập, theo cách người ta vẫn thường làm nhằm mục đích tuyên truyền, vận
động. Bà chỉ là người dân bình thường, dù xuất thân là con nhà “tư sản”, dù đã
có một thời “vang bóng” (mà thực ra, “tư sản” thì cũng có thể là người dân
bình thường được chứ!). Tác giả (và người kể chuyện) hiểu vậy nên chọn cách
giới thiệu, chuyện trò về bà thật dung dị. Bà là một người bà con xa, người dì
họ của “tơi”, thế thơi! Mọi việc bà làm đều tự nhiên, như cuộc sống hàng ngày,
chẳng gây chấn động gì tới xung quanh cả. Ấy vậy, ai dám bảo chất Hà Nội ở
bà không đậm đặc? Vả lại, muốn khám phá bề sâu văn hố của một vùng đất,
tuyệt đối khơng được bỏ qua những điều tưởng là nhỏ nhặt. Nhiều khi chính
chúng lại cung cấp cứ liệu thuyết minh về vấn đề có sức nặng hơn hẳn những
chuyện to tát. Dõi theo mạch kể của nhân vật “tơi”, người đọc thấy quả khơng
có gì đáng gọi là “sự kiện” việc bà Hiền lấy chồng, quản lí gia đình, sinh con,

dạy con, cho con đi bộ đội, tiếp khách, bài trí nơi ở, duy trì nếp sinh hoạt riêng.
Một câu bình phẩm của “tơi”, rằng, việc bà lấy ai không lấy, lại lấy một ông
giáo cấp tiểu học hiền lành chăm chỉ làm chồng đã “khiến cả Hà Nội phải kinh
ngạc”, phần nhiều chỉ là một cách nói ngoa ngơn khá đặc thù của văn chương.
Nếu quả người ta có kinh ngạc, thì đó là sự kinh ngạc trước một chuyện không
ngờ lại xảy ra bình thường (thậm chí là tầm thường) q như thế. Tuy vậy, nếu
bình tâm suy xét, ta lại thấy trong tất cả những cái bình thường kia lại chứa
đựng một triết lí sống đáng vị nể, vừa thể hiện bản lĩnh cá nhân một con người,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

vừa bộc lộ kiểu ứng xử đặc trưng của đất kinh kì. Bà Hiền biết rõ mình là ai
(câu tuyên bố “thẳng thừng” của bà đối với nhân vật “tơi” đã chứng thực điều
đó: “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”), và cũng tương tự thế,
bà hiểu sâu xa mình là người Hà Nội. Sau năm 1954, gia đình bà chẳng di cư
vào Nam vì “khơng thể rời xa Hà Nội”. Đây khơng đơn giản chỉ là một biểu
hiện của tình u đối với nơi đã sinh ra và ni dưỡng mình, mà còn là một
biểu hiện của niềm tin vào thế tồn tại bền vững của mảnh đất đã trải qua nhiều
thăng trầm của lịch sử, có văn hố riêng đã thấm vào máu thịt cư dân nơi này.
Bà Hiền có thể không nghĩ một cách rành rọt như vậy, nhưng tác giả và nhân
vật “tơi” - một sự hố thân của ơng - thì ý thức về điều này q sâu sắc. Nhân
vật “tơi” cũng khó lịng qn lời bà Hiền răn lũ con của anh: “Chúng mày là
người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, khơng được sống tuỳ
tiện, bng tuồng”. Hố ra vậy, làm người Hà Nội vừa là một vinh dự, vừa là
một trách nhiệm. Bà Hiền hẳn là luôn đau đáu về vấn đề này, chẳng thế mà dù
đã ngoài bảy mươi, bà vẫn để lộ tâm sự đó của mình khi hỏi người cháu (“tơi”)

vừa mới từ thành phố Hồ Chí Minh ra thăm: “Anh ra Hà Nội lần này thấy phố
xá thế nào, dân tình thế nào?” Ngỡ đó chỉ là một câu hỏi xã giao thông thường
mà thực chất lại gửi gắm bao nỗi niềm, bao phấp phỏng và hi vọng về tương lai
của Hà Nội.
Những điều vừa nói trên chứng minh sự gắn bó làm một, rất máu thịt, giữa bà
Hiền và Hà Nội. Nhưng cốt lõi ứng xử của người Hà Nội được thể hiện qua bà
Hiền là cái gì? Khi kể về bà, nhân vật “tơi” rất hay nói đến chữ tính: “tính thế
là đúng”, “Mọi sự mọi việc đều được các bà tính trước cả. Và ln tính
đúng…”, “đã tính là làm”, “Cơ tơi tính tốn việc nhà việc nước đại khái là như
thế”, “cơ muốn mở rộng sự tính tốn…”. Dĩ nhiên, đã “tính đúng” thì người đó
là người khơn (“cơ khơn hơn các bà bạn của cơ”), người “có đầu óc rất thực
tế”, biết thích ứng. Với người “khơn”, mọi điều khó mấy xem ra cũng có thể
thu xếp được một cách khá nhẹ nhàng: là “tư sản” mà khi ở với chính quyền
mới, gia đình bà Hiền khơng bị hề hấn gì, bà lại có khả năng ni cả gia đình
đủ ăn mà khơng phải dính dáng gì tới hai chữ “bóc lột”… Bà Hiền có thể “cười
rất tươi” - một kiểu cười q đỗi tự tin - khi ơng cháu thóc mách: “Tại sao cô
không phải học tập cải tạo, cô giấu cũng tài nhỉ?” Nói ra tồn những chuyện
như thế về bà Hiền, phải chăng tác giả muốn kết luận rằng cái “bản sắc” của
người Hà Nội là tính và khơn? Sự thực hồn tồn khơng phải thế. Đằng sau
mỗi câu chuyện kể về bà Hiền, tác giả luôn luôn cho ta thấy sự tồn tại của một
bản lĩnh sống vững vàng, một khả năng tự ý thức rất cao, một lịng tự trọng
khơng thể nghi ngờ.
Tự trọng ở đây gắn liền với việc khơng để mình rơi vào tình trạng nhục nhã,
sống giữ được cốt cách và đặc biệt là không quên trách nhiệm với cộng đồng
(một tinh thần trách nhiệm không cần tuyên bố ồn ào, bốc đồng, hời hợt).
Những lời thổ lộ của bà Hiền xung quanh việc bằng lòng cho hai đứa con đi bộ
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

đội thể hiện rõ điều này: “Tao đau đớn mà bằng lịng, vì tao khơng muốn nó
sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”, “Tao
khơng khuyến khích, cũng khơng ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường
sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”, “Tao cũng muốn
được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ có
hay hớm gì”… Khơng phải khơng có những ngộ nhận về tính cách người Hà
Nội. Trong truyện, tác giả đã khéo tạo ra một tình huống để làm rõ vấn đề này.
Trong khi nhân vật “tôi”, giữa một bữa tiệc, đã “nói hơi nhiều” những ý chê
trách Hà Nội trong sự so sánh nó với những vùng miền khác, thì nhân vật
Dũng, con bà Hiền, mới từ chiến trường miền Nam trở về, đã kể cho mọi người
nghe về phản ứng tâm lí của một người mẹ Hà Nội có con hi sinh: “Bà níu chặt
lấy một cánh tay của cháu, người bà run bần bật nhưng không khóc, và bà nói
run rẩy: “Nín đi con, nín đi Dũng! Cô đã biết cả. Cô biết từ mấy tháng nay rồi”.
Đúng là một sự đối trọng. Câu chuyện của Dũng tự nó nói lên bao điều!
Ta đã phân tích khả năng tính của bà Hiền, một người Hà Nội. Tính khơng phải
bao giờ cũng gắn với thói thực dụng. Nhiều khi, nó là địi hỏi bắt buộc của một
cách tồn tại giữa thời cuộc có nhiều thay đổi, xáo trộn khó lường. Bà Hiền quá
nhạy cảm về vấn đề này. Bà có chính kiến, chủ kiến riêng về nhiều chuyện “vĩ
mô” của nhà nước, chế độ. Khi đứa cháu nói: “Nước được độc lập vui q cơ
nhỉ?”, bà đã trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn
chứ?”. Theo bà “Chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập
thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao,
trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền cơng sá cho kẻ ăn người
ở…”. Bà cũng nhận ra có cái gì đó khơng phù hợp trong cách nghĩ “khơng
thích cá nhân làm giàu”: “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ
đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dù họ có đủ tài để khơng phải
sống ăn bám”. Đặc biệt, bà có một quan điểm hết sức khác thường: “Xã hội lúc

nào cũng phải có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá
trị…”. Chưa hết, bà còn phát biểu về cái huyền vi của sự sống mà càng ngày ta
càng phải thừa nhận: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể
lường trước được”.
Như vậy, trong cái tính của bà Hiền có chứa đựng một “tầm nhìn xa” đáng để
cho nhân vật “tơi” phải thốt lên khâm phục: “Bà vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và
rộng lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc…”. Chính tầm nhìn xa
có ở bà Hiền, rộng ra là có ở nền văn hố của đất kinh kì đã tạo nên cái mà trên
kia ta đã gọi là thế tồn tại uyển chuyển và ngoan cường của Hà Nội, vượt lên
trên mọi ba động của đời sống chính trị. Chi tiết bà Hiền kể cho nhân vật “tôi”
nghe về sự hồi sinh sau cơn bão của cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn mang ngụ ý
triết lí sâu sắc. Các nhân vật trong truyện dường như chỉ “luận” về sự kiện này
xoay quanh sự tiếp nối của nhiều thế hệ người Hà Nội. Kì thực, ý nghĩa của nó
trong cấu trúc chỉnh thể của tác phẩm cịn lớn hơn thế. Cũng cần lưu ý: nhiều
quan điểm được nói ra từ miệng bà Hiền cũng là cái mà nhân vật “tôi” và tác
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập
miễn phí

giả tỏ ra tâm đắc. Lời trần thuật khách quan về đối tượng đã quyện chặt với lời
phân tích mang theo cách đánh giá riêng của người viết. Đây quả là một nét đặc
sắc của văn Nguyễn Khải - một nhà văn vẫn được nhiều người viết khác cùng
thế hệ bái phục về “năng khiếu” có thể gài lồng được vào sáng tác của mình
những tư tưởng riêng đầy táo bạo, khơng dễ phát ngơn, về đời sống.
Nói về “dân” Hà Nội, người ở nhiều vùng miền khác vẫn thường thừa nhận
thanh lịch là đặc điểm nổi bật. Vậy, ở một người khơn ngoan, giỏi tính tốn như
bà Hiền, nét thanh lịch ấy có tồn tại khơng và nếu có thì nó được biểu hiện như

thế nào? Thực ra, khơng hề có sự đối chọi nào giữa các phẩm chất ấy trong con
người bà Hiền cả. Đừng lầm về kiểu xưng hô bỗ bã của bà đối với con cháu
(vốn nó biểu hiện rõ tư cách của con người quyết đốn, ý thức mình là “nội
tướng” trong gia đình), mà hãy nhìn vào thực chất của vấn đề, biểu hiện qua
thái độ chu tất trong nết ăn, nết mặc, trong cử chỉ lau đánh cái bát đựng hoa
thuỷ tiên, trong việc duy trì một cách “bướng bỉnh” cái nền nếp sinh hoạt xa
lông một thời vẫn thường bị định kiến là “tư sản”. Không, trong ngày thường,
một người như bà Hiền đã hoà nhập rất tốt vào cuộc sống chung, cũng “áo
bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh
cổ hay bịt đầu”.
Nhưng bà, cũng như các bạn của mình, khơng vì vậy mà khơng được quyền
sống cho mình. Họ, lúc cần, đã biết rũ bỏ “đồng phục” để hoá thân thành
những con người khác, đáng để cho những kẻ yêu cái đẹp ngắm nhìn: “bà chủ
xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc
hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển”.
Tất cả những điều đó cũng là biểu hiện cụ thể của bản lĩnh sống - một vấn đề
hết sức nghiêm túc cần được nhìn nhận thấu đáo trong hồn cảnh sống của đất
nước, của thời đại bây giờ.
Nhìn chung, bà Hiền đúng là một người Hà Nội, dù bà không thuộc “típ” điển
hình quen thuộc mà văn học cách mạng một thời ưa xây dựng trong cảm hứng
ngợi ca. Dĩ nhiên, bà cũng đã dành được sự ngợi ca, quý trọng rất mực của
nhân vật “tôi”, của tác giả, nhưng đây là sự ngợi ca, quý trọng xuất phát từ một
tiêu chí đánh giá khác với trước. Cái lõi của tiêu chí đó chính là sự khẳng định
bản lĩnh cá nhân của con người trong đời sống - điều sẽ khiến cho con người
trong khi biết thích ứng với thời đại thì vẫn đóng góp được nhiều cho việc cải
biến, cải tạo mơi trường tồn tại của mình theo hướng tích cực.
Viết về một mẫu người như bà Hiền, văn Nguyễn Khải trở nên khối hoạt hơn
bao giờ hết. Hồn tồn có thể nói bà Hiền chính là nhân vật lí tưởng (không
nhất thiết phải là nhân vật anh hùng, nhân vật phi thường) của sáng tác Nguyễn
Khải giai đoạn từ khoảng 1978 trở đi (theo sự tự phân chia của chính nhà văn).

Qua bà cũng như qua các nhân vật khác thuộc loại này, nhà văn đã thực sự có
đóng góp cho việc dân chủ hố hoạt động sáng tác văn học nước nhà. Các
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024
2242 6188


×