Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1.1. Khái quát chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
1.1.1. Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất.
1.1.1.1. Khái niệm về chi phí sản xuất.
Sản xuất của cải vật chất là hoạt động cơ bản của xã hội loài người, điều kiện tiên
quyết tất yếu của sự tồn tại và phát triển. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản
xuất của doanh nghiệp thực chất là sản xuất ra các sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu
thị trường và thu về lợi nhuận. Đó là quá trình doanh nghiệp bỏ ra những chi phí nhất
định, là chi phí về lao động sống gồm tiền lương, tiền công và các khoản trích theo
lương; còn chi phí lao động vật hóa gồm chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí nguyên vật
liệu, v.v. Mọi chi phí bỏ ra cuối cùng đều được biểu hiện bằng thước đo tiền tệ.
Chi phí sản xuất là tổng các hao phí về lao động sống và lao động vật hóa được
biểu hiện bằng tiền phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
trong một kỳ nhất định (tháng, quý, năm). Để tiến hành quá trình sản xuất sản phẩm,
cần chi dùng các chi phí lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Ba yếu tố
này đưa vào quá trình sản xuất hình thành nên chi phí sản xuất. Như vậy, các chi phí
này chi ra để hình thành nên giá trị sản phẩm là một tất yếu khách quan.
1.1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất.
Để quản lý và hạch toán chi phí sản xuất, người ta phân loại chi phí sản xuất theo
nhiều cách khác nhau:
a) Phân loại chi phí theo nội dung (tính chất) kinh tế của chi phí:
Theo cách phân loại này những khoản chi phí có chung tính chất kinh tế được xếp
chung vào một yếu tố chi phí, không kể chi phí đó phát sinh ở địa điểm nào và dùng
vào mục đích gì trong quá trình sản xuất kinh doanh. Phânloại theo cách này chi phí
được chia thành các yếu tố sau:
- Chi phí nguyên liệu vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên liệu, vật liệu, phụ
tùng thay thế, công cụ, dụng cụ, xuất dùng cho sản xuất, kinh doanh trong kỳ báo cáo
trừ nguyên liệu, vật liệu bán hoặc xuất cho XDCB.
- Chi phí nhân công: bao gồm toàn bộ chi phí trả cho người lao động (thường
xuyên hay tạm thời) về tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp, trợ cấp có tính
chất lương trong kỳ báo cáo trước khi trừ các khoản giảm trừ. Bao gồm cả chi phí
BHYT, BHXH, KPCĐ mà doanh nghiệp phải nộp Nhà nước theo quy định. Không
bao gồm chi phí nhân công cho XDCB hoặc được bù đắp bằng các nguồn kinh phí
khác như: Đảng, đoàn, v.v.,các khoản chi từ quỹ khen thưởng, phúc lợi.
- Chi phí khấu hao TSCĐ: bao gồm chi phí khấu hao toàn bộ TSCĐ của doanh
nghiệp dùng trong sản xuất kinh doanh kỳ báo cáo. Cách phân loại này giúp cho
doanh nghiệp biết được trong quá trình sản xuất kinh doanh cần chi dùng những chi
phí gì để từ đó phục vụ cho việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán chi phí.
b) Phân loại chi phí theo công dụng kinh tế của các loại chi phí
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được phân thành những khoản mục
tương ứng với những khoản mục giá thành, những chi phí có chung công dụng kinh tế
được xếp vào một khoản muc chi phí, không phân biệt tính chất kinh tế của chi phí đó
như thế nào. Theo quy định hiện hành, giá thành sản xuất gồm có ba khoản mục
chi phí:
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp: gồm có nguyên liệu, vật liệu chính, vật
liệu phụ, nhiên liệu tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hoặc thực
hiện các lao vụ, dịch vụ.
- Chi phí nhân công trực tiếp: là những khoản tiền phải trả, phải thanh toán cho
công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền
công, các khoản trích theo lương của công nhân sản xuất như BHXH, BHYT, KPCĐ,
v.v.(các khoản trích trên tiền lương theo tỷ lệ quy định).
- Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng
như tiền lương, phụ cấp phải trả cho nhân viên phân xưởng, chi phí công cụ, dụng cụ
xuất dùng cho phân xưởng, bộ phận sản xuất, các chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí
khác thuộc phạm vi phân xưởng.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp tính được giá thành các loại sản phẩm,
đồng thời xác định ảnh hưởng của sự biến động từng khoản mục đối với toàn bộ giá
thành sản phẩm, nhằm khai thác khả năng tiềm tàng trong nội bộ doanh nghiệp để hạ
thấp giá thành.
c) Phân loại chi phí căn cứ theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm sản xuất :
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất kinh doanh được phân thành chi phí khả
biến, chi phí bất biến và chi phí hỗn hợp.
- Chi phí biến đổi (Chi phí khả biến): là những chi phí biến động trực tiếp theo sự
thay đổi (tăng hoặc giảm) của sản lượng sản phẩm, hàng hoá hoặc doanh thu tiêu thụ
như chi phí nguyên liệu, vật liệu, chi phí tiền lương của công nhân trực tiếp, tiền hoa
hồng bán hàng.v.v. Nói cách khác, biến phí là chi phí thay đổi về tổng số khi mức độ
hoạt động thay đổi, chi phí 1 đơn vị hoạt động không đổi. Có 2 loại biến phí:
+ Biến phí thực thụ: chi phí thay đổi theo tỷ lệ với sự thay đổi mức độ hoạt động
như chi phí nguyên vật liệu, hoa hồng bán hàng, v.v.
+ Biến phí cấp bậc: chi phí thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi nhiều như
tiền lương khoán cho nhân viên bán hàng theo từng mức doanh thu, v.v.
Biến phí được trình bày bằng phương trình sau: y
b
= v.Q (y
b
là biến phí; v là biến
phí đơn vị; Q là mức hoạt động)
- Chi phí bất biến (chi phí cố định hay định phí): là những chi phí không thay đổi
hoặc thay đổi ít khi khối lượng sản phẩm sản xuất (hay tiêu thụ) tăng hoặc giảm như
chi phí khấu hao tài sản cố định theo phương pháp đường thẳng; chi phí bảo hiểm; chi
phí trả lương cho các nhà quản lý, các chuyên gia; các khoản thuế; khoản chi phí thuê
tài chính hoặc thuê bất động sản; chi phí bảo hiểm rủi ro, chi phí điện thắp sáng doanh
nghiệp. Có hai loại định phí:
+ Định phí bắt buộc: bao gồm các chi phí liên quan đến máy móc thiết bị, cơ cấu
tổ chức như chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí bảo hiểm, thuê tài sản, v.v. Định phí bắt
buộc có bản chất lâu dài và không thể giảm đến 0.
+ Định phí không bắt buộc: bao gồm các chi phí liên quan đến nhu cầu từng thời
kỳ kế hoạch như chi phí quảng cáo, chi phí đào tạo, v.v. Kế hoạch cho định phí không
bắt buộc là kế hoạch ngắn hạn và có thể cắt giảm khi cần thiết.
Định phí được trình bày theo phương trình: y
đ
= F
- Chi phí hỗn hợp: gồm 2 yếu tố định phí và biến phí như chi phí nhân công trực
tiếp – trả lương theo vừa theo thời gian vừa theo sản phẩm.
+ Định phí: là phần chi phí tối thiểu như chi phí nhân công theo thời gian.
+ Biến phí: là phần chi phí theo mức sử dụng như chi phí nhân công trực tiếp
tính theo sản phẩm.
Chi phí hỗn hợp được trình bày theo phương trình: y = v.Q + F
(y là chi phí hỗn hợp v là biến phí đơn vị hoạt động
Q là số lượng đơn vị hoạt động F là tổng định phí)
Việc phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo phương pháp này, cho ta thấy mối
quan hệ giữa chi phí và sản lượng sản xuất sản phẩm, giúp cho các nhà quản lý tìm ra
các biện pháp quản lý thích hợp với từng loại chi phí để hạ thấp giá thành sản phẩm,
giúp doanh nghiệp xác định được sản lượng sản xuất, hoặc doanh thu để nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ba cách phân loại trên, người ta còn phân loại chi phí:
- Theo phương pháp tập hợp chi phí và đối tượng chịu chi phí gồm:
+ Chi phí trực tiếp: là chi phí có liên quan trực tiếp đến việc sản xuất ra một loại
sản phẩm hay thực hiện một công việc nhất định.
+ Chi phí gián tiếp: là chi phí có liên quan đến việc sản xuất ra nhiều loại sản
phẩm hay thực hiện nhiều công việc khác nhau.
- Căn cứ vào nội dung cấu thành của chi phí, chi phí sản phẩm bao gồm:
+ Chi phí đơn nhất: là chi phí chỉ do một yếu tố duy nhất cấu thành như chi phí
nguyên vật liệu, chi phí nhân công, v.v.
+ Chi phí tổng hợp: là những chi phí do nhiều yếu tố khác nhau tập hợp theo
cùng một công dụng như chi phí sản xuất chung.
1.1.2. Khái niệm, phân loại và ý nghĩa của giá thành
1.1.2.1. Khái niệm giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm (product cost) là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh
nghiệp đã bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị sản phẩm hoặc một
loại sản phẩm nhất định.
1.1.2.2. Ý nghĩa của giá thành sản phẩm:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh tiết kiệm chi phí để tăng lợi nhuận, tăng khả
năng cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần
phải hiểu sâu sắc ý nghĩa của giá thành sản phẩm.
- Giá thành là thước đo mức chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp, là căn cứ để doanh nghiệp xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh và đề ra các
quyết định kinh doanh phù hợp. Để quyết định sản xuất một loại sản phẩm nào đó
doanh nghiệp cần phải nắm được nhu cầu thị trường, giá cả thị trường và điều tất yếu
phải biết được chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp phải bỏ
ra. Trên cơ sở đó xác định hiệu quả kinh doanh của các loại sản phẩm. Qua đó, doanh
nghiệp lựa chọn loại sản phẩm để sản xuất và quyết định khối lượng sản phẩm sản
xuất nhằm đạt lợi nhuận tối đa.
- Giá thành là một công cụ quan trọng để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất
kinh doanh, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ chức kỹ thuật. Ý nghĩa này được
thực hiện thông qua việc phân tích sự biến động cơ cấu giá thành giữa các kỳ.
- Giá thành là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng chính sách giá cả
của doanh nghiệp đối với từng loại sản phẩm.
1.1.2.3. Phân loại giá thành sản phẩm:
a) Căn cứ vào tài liệu tính toán: giá thành sản phẩm được chia làm 3 loại giá
thành kế hoạch, giá thành thực tế, giá thành định mức.
- Giá thành kế hoạch: Là loại giá thành được xây dựng trước khi bắt đầu sản xuất
sản phẩm dựa trên các định mức kinh tế kỹ thuật, và dựa trên số liệu phân tích tình
hình thực hiện kế hoạch giá thành của kỳ trước.
- Giá thành thực tế: Là loại giá thành được xây dựng sau khi kết thúc một chu kỳ
sản xuất, hoặc một thời kỳ sản xuất, được xác định trên cơ sở chi phí thực tế đã chi ra
để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Giá thành định mức: Là loại giá thành được tính toán dựa trên cơ sở định mức
kinh tế kỹ thuật.
Cách phân loại này tạo cơ sở để phân tích, so sánh giữa giá thành thực tế và giá
thành kế hoạch, qua đó rút ra những kết luận, những biện pháp cần thiết để quản lý
cho phù hợp.
b) Căn cứ theo các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh và phạm vi chi
phí phát sinh: giá thành sản phẩm được phân làm 2 loại:
- Giá thành sản xuất: Bao gồm những chi phí phát sinh cho việc sản xuất sản phẩm
ở phân xưởng như:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là các khoản chi phí về nguyên liệu, vật liệu,
nhiên liệu sử dụng trực tiếp tạo ra sản phẩm dịch vụ.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm các khoản chi về tiền lương, tiền
công,các khoản trích nộp của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm dịch vụ mà doanh
nghiệpphải nộp theo quy định.
+ Chi phí sản xuất chung: chi phí sử dụng chung cho hoạt động sản xuất
kinhdoanh của doanh nghiệp ví dụ như: Chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí
nguyên vật liệu, công cụ lao động nhỏ, chi phí dịch vụ mua ngoài .v .v .
- Giá thành toàn bộ: bao gồm toàn bộ chi phí phát sinh cho quá trình sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm, cụ thể như sau:
+ Giá thành sản xuất của toàn bộ sản phẩm tiêu thụ.
+ Chi phí bán hàng: chi phí liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ như chi
phí tiền lương, và các khoản phụ cấp của nhân viên bán hàng, nhân viên đóng gói, bốc
vác, vận chuyển, chi phí nguyên vật liệu, dụng cụ phục vụ cho việc bán hàng.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: chi phí sử dụng cho bộ máy quản lý và điều
hành doanh nghiệp.
1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Chi phí biểu hiện mặt hao phí , còn giá thành
biểu hiện mặt kết quả của quá trình sản xuất, đây là hai mặt thống nhất của từng quá
trình, vậy chúng giống nhau về mặt chất. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều
bao gồm các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá.
1.1.4. Khái quát chung về phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
1.1.4.1. Nội dung phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp sản xuất.
Khi nghiên cứu về chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp sản xuất ta thấy giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế phản ánh toàn bộ
chi phí trực tiếp sản xuất ra sản phẩm. Giá thành là một chỉ tiêu liên quan đến việc
đánh giá chất lượng quản lý lao động, vật tư, tiền vốn của quá trình sản xuất. Vấn đề
hạ giá thành sản phẩm trên cơ sở đảm bảo chất lượng sản phẩm có nghĩa là doanh
nghiệp đã tiết kiệm được lao động sống và lao động vật hóa để nâng cao lợi nhuận,
giảm giá bán để tăng sức cạnh tranh. Từ lý do cơ bản trên mà trong hoạt động phân
tích chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm doanh nghiệp sản xuất được
tính theo trình tự sau:
- Phân tích tình hình hoàn thành kế hoạch giá thành sản phẩm bao gồm phân tích
tình hình thực hiện kế hoạch giá thành toàn bộ sản phẩm, phân tích tình hình thực hiện
kế hoạch giá thành sản phẩm có thể so sánh được.
- Phân tích tình hình hoàn thành kế hoạch chi phí trên 1.000
đ
giá trị sản lượng hàng
hóa tiêu thụ bao gồm phân tích chung tình tình hoàn thành kế hoạch chi phí trên
1.000
đ
giá trị sản lượng hàng hóa tiêu thụ, và phân tích nhân tố ảnh hưởng tới mức độ
tăng, giảm chi phí trên 1.000
đ
giá trị sản lượng hàng hóa tiêu thụ.
- Phân tích sự biến động các khoản mục chi phí trong giá thành một loại sản phẩm
sản xuất bao gồm khoản mục chi phí sản xuất chung, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp,
nhân công trực tiếp, và các yếu tố ảnh hưởng đến các khoản mục chi phí này.
- Phân tích sự biến động của chi phí ngoài sản xuất bao gồm chi phí bán hàng, chi
phí quản lý doanh nghiệp.
Để tiến hành phân tích chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm, dựa vào
đặc điểm kinh doanh của công ty mà những số liệu cần thiết cho việc phân tích được
lấy từ các nguồn số liệu:
- Báo cáo kết quả kinh doanh: Nội dung của Báo cáo kết quả kinh doanh là phản
ánh tổng hợp doanh thu, chi phí và kết quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh
trong doanh nghiệp. Ngoài ra Báo cáo này còn phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ
của doanh nghiệp đối với Nhà nước cuãng như tình hình thuế GTGT của doanh
nghiệp trong một kỳ kế toán. Báo cáo này có các chỉ tiêu liên quan đến doanh thu, chi
phí của hoạt động sản xuất kinh doanh và các chỉ tiêu liên quan đến thu nhập, chi phí
của hoạt động tài chính, bất thường cũng như toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh.
- Bảng tính giá thành sản phẩm: Cho biết các khoản mục chi phí trong giá thành
của một đơn vị sản phẩm.
- Sổ chi tiết nguyên vật liệu: Cho biết loại nguyên vật liệu sử dụng vào sản xuất
sản phẩm, đơn giá của nguyên vật liệu, trị giá nguyên vật liệu đưa vào sản xuất.
- Sổ lương của công nhân trực tiếp sản xuất: Cho biết tổng số tiền lương của cán
bộ công nhân viên của công ty, tổng quỹ lương, tổng số lao động.
- Bảng chấm công: Là cơ sở để tính lương cho công nhân trực tiếp sản xuất.
- Hóa đơn bán hàng: Cho biết giá bán, doanh thu, tổng giá thanh toán v.v.
Số liệu của các tài liệu trên là cơ sở sử dụng trong phân tích chi phí sản xuất kinh
doanh và giá thành sản phẩm tính theo năm sản xuất của công ty.
1.1.4.2. Nhiệm vụ của phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân
làm cho chi phí sản xuất và giá thành sản xuất thực tế tăng hay giảm so với chi phí sản
xuất và giá thành sản xuất kế hoạch và so với năm trước và tìm ra khả năng tiết kiệm
chi phí sản xuất và giảm giá thành sản xuất, khuyến khích người lao động triệt để tiết
kiệm trong sản xuất, nâng cao năng suất lao động, hiệu suất công tác, đánh giá hiệu
quả kinh tế trong việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đề ra những
biện pháp hữu hiệu cho kỳ tới nhằm phát hiện và khai thác mọi khả năng, tiềm năng
phấn đấu hạ thấp giá thành sản xuất sản phẩm .
1.1.4.3. Ý nghĩa của phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
a) Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản xuất sản phẩm giúp doanh nghiệp
kiểm tra, đánh giá một cách chính xác, toàn diện và khách quan tình hình thực hiện
các chỉ tiêu về chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
Để thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình đòi hỏi chủ doanh
nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp phải xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch về chi
phí sản xuất kinh doanh, kế hoạch giá thành, v.v. Trong doanh nghiệp sản xuất thì kế
hoạch về chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành là một chỉ tiêu hết sức quan trọng,
đòi hỏi nhà quản trị phải có kế hoạch đầy đủ, đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn
của nó. Đồng thời phải có một cái nhìn tổng thể, toàn diện về quá trình thực hiện kế
hoạch về chi phí sản xuất và giá thành. Để làm được điều này đòi hỏi các nhà quản trị
phải tiến hành hoạt động phân tích để thấy được quá trình thực hiện các kế hoạch này
và đánh giá một cách chính xác các nhân tố ảnh hưởng đó.
b) Phân tích chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm giúp doanh nghiệp
thực hiện tốt và đúng đắn nguyên tắc của công tác tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh
và tính giá thành sản phẩm.
Do các thông tin thu thập cho hoạt động phân tích được tập hợp theo những
nguyên tắc nhất định. Để thông tin có được từ hoạt động phân tích là đầy đủ chính xác
thì đòi hỏi quá trình tập hợp và tính toán các chỉ tiêu về chi phí sản xuất kinh doanh và
giá thành sản phẩm phải chính xác. Để đáp ứng được đòi hỏi này thì quá trình hạch
toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm phải phản ánh được nội
dung kinh tế, thời điểm hay khoảng thời gian phát sinh và được theo dõi, ghi chép tính
toán thống nhất theo cùng một phương pháp trong suốt cả kỳ hạch toán. Bên cạnh đó,
công tác phân tích giúp doanh nghiệp nhận thấy những điểm không phù hợp với
những nguyên tắc hạch toán đã được quy định, từ đó đưa ra những chỉnh sửa phù hợp
trong kỳ kế toán sau.
c) Phân tích giúp doanh nghiệp tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng đến biến động giá
thành và chi phí sản xuất kinh doanh cũng như cung cấp những thông tin đầy đủ, kịp
thời để nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra các quyết định sản xuất kinh doanh kịp thời,
có hiệu quả.
Việc tính toán, phân tích chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm cho
phép doanh nghiệp biết được sản lượng và mức giá bán hợp lý, đảm bảo bù đắp chi
phí bỏ ra. Và việc phân tích này cũng cho biết rằng, với tình trạng chi phí hiện tại của
doanh nghiệp thì doanh nghiệp cần bán ra mức sản lượng là bao nhiêu để đạt được lợi
nhuận tối đa, hòa vốn hoặc tại mức lỗ là ít nhất. Hơn nữa, phân tích chi phí sản xuất
kinh doanh còn thể hiện được kết cấu của từng loại chi phí trong tổng chi phí, đối với
mỗi loại hình doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ tiến hành xem xét kết cấu đã hợp lý
hay chưa, từ đó có các hoạt động đầu tư, điều chỉnh cho phù hợp.
Việc tính toán chính xác và đầy đủ chi phí đã bỏ ra, chi phí kết tinh trong giá thành
sản phẩm sẽ giúp cho nhà quản trị doanh nghiệp biết được bức tranh thực tế bao quát
toàn bộ về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là vấn đề
quan trọng trọng việc quyết định đầu tư và xử lý đầu ra cho quá trình sản xuất kinh
doanh. Trên cở sở tính toán, phân tích chi phí cần tìm ra biện pháp điều chỉnh cho phù
hợp với những đòi hỏi, yêu cầu của thị trường mà doanh nghiệp tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh.
1.1.5. Các phương pháp phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
1.1.5.1. Phương pháp so sánh.
Phương pháp so sánh được sử dụng rộng rãi và là một trong những phương pháp
chủ yếu dùng để phân tích hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp. Thật ra phương
pháp này được sử dụng trong tất cả các ngành khoa học và trong cuộc sống hàng
ngày. Có thể nói phương pháp so sánh không thuộc quyền sở hữu của một ngành khoa
học nào. Nhưng phương pháp so sánh đã được phát triển và đúc kết thành lý luận một
cách có hệ thống trong môn phân tích hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp.
Nội dung của phương pháp này là tiến hành so sánh đối chiếu các chỉ tiêu phản
ánh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh
doanh; chỉ tiêu phản ánh điều kiện hoạt động kinh doanh và chỉ tiêu hiệu quả hoạt
động kinh doanh). Tuỳ theo yêu cầu, mục đích, tuỳ theo nguồn số liệu và tài liệu phân
tích mà sử dụng số liệu chỉ tiêu phân tích khác nhau.
Về hình thức phân tích: để thuận tiện cho công tác phân tích, phương pháp so
sánh đối chiếu chủ yếu thực hiện theo hình thức bảng phân tích.
C
hỉ
tiêu
Đ
ơn
vị
t
ính
T
hực
hiện
k
ỳ
trướ
c
Kỳ phân
tích
So sánh
K
ế
hoạc
h
T
hực
hiện
V
ới kỳ
trướ
c
V
ới kế
hoạc
h
I
. Kết
quả
kinh
doan
h
1
.
Hiện
vật
2
. Giá
trị
I
I.
Điều
kiện
kinh
doan
h
1
. Lao
động
2
.
Tiến
vốn
3
. Chi
phí
I
II.
Hiệu
quả
kinh
doan
h
1
.
Tổng
hợp
2
. Chi
tiết
Tác dụng của phương pháp so sánh đối chiếu là có thể đánh giá được các chỉ tiêu
số lượng và các chỉ tiêu chất lượng phản ánh trong hệ thống các báo biểu và trong
những tài liệu hạch toán.
Khi sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu cần giải quyết những vấn đề cơ bản
như:
- Xác định số gốc để so sánh
- Xác định điều kiện so sánh
- Xác định mục tiêu so sánh.
Về số gốc để so sánh khi xác định phụ thuộc vào mục đích cụ thể của phân tích.
Nếu như phân tích để nghiên cứu nhịp độ biến động tốc độ tăng trưởng các chỉ tiêu thì
số gốc để so sánh là trị số của chỉ tiêu kỳ trước hoặc nếu nghiên cứu thực hiện nhiệm
vụ kinh doanh trong từng khoảng thời gian thường so sánh với cùng kỳ năm trước.
Về điều kiện so sánh khi xác định sẽ khác nhau theo thời gian và không gian.
Như khi so sánh theo thời gian cần đảm bảo tính thống nhất về nội dung kinh tế của
chỉ tiêu. Thông thường nội dung kinh tế của chỉ tiêu ổn định và quy định thống nhất.
Cũng cần đảm bảo tính thống nhấtvề phương pháp tính các chỉ tiêu. Trong hoạt động
kinh doanh các chỉ tiêu có thể được tính theo các phương pháp khác nhau. Vì vậy khi
so sánh cần lựa chọn hoặc tính lại các trị số chỉ tiêu theo phương pháp thống nhất.
Ngoài ra cần đảm bảo tính thống nhất về đơn vị tính các chỉ tiêu cả về số lượng, thời
gian và giá trị.
Về mục tiêu so sánh khi xác định cần phân biệt xác định mức độ biến động tuyệt
đối hay mức độ biến động tương đối của chỉ tiêu phân tích.
- Mức độ biến động tuyệt đối, xác định bằng cách so sánh trị số của chỉ tiêu giữa 2
kỳ (kỳ phân tích và kỳ lấy làm gốc).
- Mức độ biến động tương đối là kết quả so sánh giữa kỳ phân tích với kỳ gốc dã
được điều
chỉnh theo hệ số của chỉ tiêu liên quan.
Phương pháp so sánh đối chiếu trong phân tích hoạt động kinh doanh bao gồm
nhiều phương thức khác nhau. Sử dụng công thức nào là tuỳ thuộc vào mục đích và
yêu cầu của công tác phân tích quyết định. Nói chung có những phương thức so sánh
đối chiếu sau:
a) So sánh chỉ tiêu thực hiện với chỉ tiêu nhiệm vụ đặt ra trong phân tích
Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường, mọi vận động kinh tế đều phải
được xây dựng và hoàn thành theo nhiệm vụ, mục tiêu đề ra. Vì vậy muốn biết trong
kỳ phân tích đã thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu đề ra như thế nào, cần phải so sánh
chỉ tiêu thực hiện với chỉ tiêu nhiệm vụ đề ra để tìm số chênh lệch bằng số tuyệt đối
hoặc số tương đối. Sau khi so sánh đối chiếu như thế có thể nêu ra phương hướng để
đi sâu phân tích tức là có thể sử dụng các phương pháp khác của phân tích để xác định
cụ thể hơn, chi tiết hơn các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của chúng đến quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp.
b) So sánh chỉ tiêu thực hiện kỳ phân tích với chỉ tiêu thực hiện kỳ trước hoặc với
những chỉ tiêu thực hiện của những kỳ trước:
Trong hoạt động kinh doanh không phải tất cả các chỉ tiêu đều đặt ra nhiệm vụ
thực hiện, một số chỉ tiêu không thể đặt ra như số sản phẩm dịch vụ vi phạm chất
lượng, v.v Tuy vậy, trong kỳ phân tích vẫn phát sinh những số thực tế. Như vậy,
không thể so sánh chỉ tiêu thực tế với chỉ tiêu nhiệm vụ đề ra. Do đó tiến hành so sánh
chỉ tiêu thực tế kỳ phân tích với chỉ tiêu thực hiện kỳtrước để đánh giá và phân tích.
Ngoài ra các chỉ tiêu tuy đã so sánh số thực hiện với nhiệm vụ đề ra nhưng vẫn
chưa đủ, cần tiến hành so sánh thực hiện của kỳ phân tích với thực hiện kỳ trước để
đánh giá đầy đủ và sâu sắc. Việc so sánh đó nhằm đánh giá tình hình phát triển kinh
doanh.
So sánh chỉ tiêu thực hiện kỳ phân tích với chỉ tiêu thực hiện kỳ trước không chỉ
hạn chế ở một kỳ trước mà có thể là hàng loạt thời kỳ kỳ tiếp nhau một cách liên tục.
Phương thức này tạo khả năng thu được những tài liệu chính xác hơn vì có thể loại trừ
những tình hình khác nhau hoặc những yếu tố ngẫu nhiên có ảnh hưởng đến chỉ tiêu
dùng cho một thời kỳ nào đó. Tuy nhiên, việc so sánh này chỉ được sử dụng khi các
thời kỳ so sánh có điều kiện hoạt động tương tự nhau.
c) So sánh các chỉ tiêu giữa các đơn vị tương tự nội bộ và ngoài doanh nghiệp
Phương thức này thường so sánh những chỉ tiêu trong kỳ phân tích giữa các bộ
phận, khu vực kinh doanh hoặc giữa các doanh nghiệp của một ngành sản xuất.
1.1.5.2. Phương pháp loại trừ.
Khi phân tích một quá trình kinh doanh thường có nhiều nhân tố ảnh hưởng và dẫn
đến những kết quả nhất định. Cần phải biết cũng như cần phải xác định được mối liên
hệ lẫn nhau giữa các nhân tố. Để giúp cho người làm công tác phân tích biết được
nhân tố nào là quan trọng nhất, có tác động lớn nhất đến chỉ tiêu phân tích cần phải
xác định chính xác mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố.
Khi xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, thường thấy những nhân tố cá
biệt có ảnh hưởng ở những chiều hướng đối lập nhau, không cùng một chiều. Một số
nhân tố có ảnh hưởng tích cực, có tác dụng thúc đẩy kinh doanh. Trái lại, một số nhân
tố có ảnh hưởng tiêu cực, kìm hãm sự phát triển kinh doanh. Cần phải xác định mức
độ ảnh hưởng các nhân tố cả khi kinh doanh tốt và không tốt. Bởi vì qua việc xác định
này có thể thấy rõ mức độ ảnh hưởng của một nhân tố tích cực nào đó không những
có thể bù lại mức độ ảnh hưởng của một nhân tố tiêu cực khác mà có khi còn vượt cả
mức độ ảnh hưởng tiêu cực của nhân tố đó để làm cho hoạt động kinh doanh đạt được
kết quả nhất định. Như thế, rõ ràng tác động của các nhân tố tích cực cũng không
giống nhau.
Để sử dụng phương pháp loại trừ cần biết nguyên tắc sử dụng của nó.
Nếu giữa các chỉ tiêu nhân tố với chỉ tiêu kết quả có mối quan hệ hàm số thuận
Z = x + y + v
Giả sử một trong các nhân tố thay đổi còn các nhân tố khác cố định ta có:
Trong đó:
Z - Chỉ tiêu kết quả (phân tích).
x, y, v - Chỉ tiêu nhân tố
Z
1
, x
1
, y
1
, v
1
- chỉ tiêu kỳ phân tích ứng với chỉ tiêu kết quả và các nhân tố.
Z
0
, x
0
, y
0
, v
0
- chỉ tiêu kỳ gốc ứng với chỉ tiêu kết qủa và các nhân tố.
– Mức độ ảnh hưởng của nhân tố i đến chỉ tiêu kết quả (phân tích) (i =
x, y, v)
Kết quả tính toán theo 2 phương án khác
Nếu chỉ tiêu kết quả bị ảnh hưởng bởi hai
Nếu chỉ tiêu kết quả bị ảnh hưởng bởi nhiều tố
khai triển chỉ tiêu kết quả theo các nhân tố
- Nếu trong công thức mối liên quan
- Công thức trung gian dùng để triển
a) Phương pháp thay thế liên hoàn:
Phương pháp thay thế liên hoàn được sử dụng
Để đánh giá (xác định) mức độ ảnh
Hiệu của phép thế thứ nhất với phép
Ví dụ:
Để xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố thứ nhất x đến chỉ tiêu phân tích ta
tính hai phép thế:
- Phép thế 1:
-
Ảnh hưởng của nhân Ảnh hưởng của nhân
Để xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố thứ hai y đến chỉ tiêu phân tích Z ta
cũng tính 2 phép thế:
- Phép thế 1:
Khi sử dụng phương pháp thay thế liên hoàn, phải xác định chính xác thứ tự
thay thế các nhân tố ảnh hưởng. Nếu thứ tự thay thế các nhân tố bị thay đổi tùy tiện
thì kết quả tính toán không đúng, mặc dù tổng ảnh hưởng của các nhân tố không
đổi. Muốn xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố một cách đúng đắn thì phải
nghiên cứu nội dụng kinh tế của quá trình kinh doanh tức là phải xác định mối liên
hệ thực tế của hiện tượng được phản ánh trong trình tự thay thế liên hoàn.
Ảnh hưởng của nhân tố y:
-
-
Khi sử dụng phương pháp thay thế liên hoàn, phải xác định chính xác thứ tự thay
thế các nhân tố ảnh hưởng. Nếu thứ tự thay thế các nhân tố bị thay đổi tùy tiện thì kết
quả tính toán không đúng, mặc dù tổng mức ảnh hưởng của các nhân tố không đối.
Muốn xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố một cách đúng đắn thì phải nghiên
cứu nội dung kinh tế của quá trình kinh doanh tức là phải xác định mối liên hệ thực tế
của hiện tượng được phản ánh trong trình tự thay thế liên hoàn.
Nói chung, khi có hai nhân tố ảnh hưởng có 2 lần thay thế, có ba nhân tố thì có 3
lần thay thế.v.v. tổng quát có n nhân tố thì có n lần thay thế và phải tính (n-1) phép
thế.
b) Phương pháp số chênh lệch:
Phương pháp số chênh lệch là một trong những phương pháp loại trừ và thường
được sử dụng trong phân tích kinh doanh. Thông thường khi có hai nhân tố cá biệt
ảnh hưởng đến một quá trình kinh doanh thì sử dụng phương pháp số chênh lệch vì nó
đơn giản hơn phương pháp
thay thế liên hoàn.
Muốn xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố cá biệt phải tìm số chênh lệch
giữa chỉ tiêu kỳ phân tích (quyết toán) với chỉ tiêu kỳ gốc (kế hoạch). Nhân số chênh
lệch của mỗi một nhân tố với số tuyệt đối của nhân tố khác cũng tức là chỉ tiêu cá biệt.
Khi xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố chất lượng thì nhân số chênh lệch của chỉ
tiêu đó với kỳ phân tích (quyết toán) của nhân tố số lượng. Nói một cách khác là lấy
số chênh lệch của nhân tố thứ nhất (nhân tố số lượng) nhân với kỳ gốc của nhân tố thứ
hai (nhân tố chất lượng) thì có mức độ ảnh hưởng của nhân tố thứ nhất - nhân tố số
lượng. Lấy số chênh lệch của nhân tố thứ hai (nhân tố chất lượng) nhân với số kỳ
phân tích của nhân tố thứ nhất (nhân tố số lượng) sẽ được mức độ ảnh hưởng của
nhân tố thứ hai.
Khi có ba nhân tố ảnh hưởng với một quá trình kinh doanh vẫn có thể sử dụng
phương pháp số chênh lệch.
Để hiểu rõ nội dung của phương pháp, hãy xét 2 trường hợp sau:
+ Có 2 nhân tố: Z - Chỉ tiêu phân tích
x,y – Chỉ tiêu nhân tố
Z
0
, Z
1
- Chỉ tiêu phân tích kỳ gốc và kỳ phân tích
X
0
,y
0
, x
1
,y
1
- Chỉ tiêu nhân tố kỳ gốc và kỳ phân tích
- Chênh lệch của chỉ tiêu i
Cùng thêm bớt một đại lượng, giả sử là
Có 3 nhân tố:
Cùng thêm bớt một đại lượng, giả sử là
Tổng quát:
- Có bao nhân tố thì có bấy nhiêu nhóm tích số
- Mỗi nhóm tích số có một số chênh lệch của một nhân tố nhất định
- Trước số chênh lệch của nhân tố là số kỳ phân tích, sau số chênh lệch là số kỳ
gốc
- Tổng giá trị các tích số bằng giá trị số chênh lệch của chỉ tiêu phân tích
Phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch chỉ khác nhau về
mặt tính toán, còn kết quả tính vẫn như nhau. Có thể nói phương pháp số chênh lệch
là một hình thức đơn giản của phương pháp thay thế liên hoàn.
1.2. Nội dung cơ bản về phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
1.2.1. Đánh giá chung tình hình thực hiện kế hoạch chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm.
Đánh giá chung tình hình thực hiện chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm
nhằm cung cấp những thông tin khái quát về tình hình chi phí kinh doanh và giá thành
sản phẩm. Phương pháp phân tích chủ yếu là so sánh, gốc so sánh là các chỉ tiêu kỳ
trước, kỳ kế hoạch, chỉ tiêu bình quân của ngành hoặc của thị trường đối với các chỉ
tiêu sau:
1.2.2.1. Đánh giá chung tình hình thực hiện kế hoạch chi phí
a) Tổng mức chi phí thực hiện.
Là chỉ tiêu khái quát về tình hình thực hiện chi phí (hoạt động) trong kỳ, được so
sánh đơn giản giữa tổng chi phí thực hiện và chi phí kế hoạch
Hệ số khái quát tình hình thực hiện chi phí (H) =
+ H > 1: Chi phí tăng so với kế hoạch
+ H < 1: Chi phí giảm so với kế hoạch
Do trong chi phí có một phần là chi phí khả biến – biến đổi cùng với sự thay đổi
của khối lượng hoạt động – nên hệ số này chưa phản ánh được bản chất của sự tăng,
giảm chi phí.
b) Tỷ suất chi phí
Tỷ suất chi phí cho biết cần bao nhiêu đồng chi phí để tạo ra một đồng doanh thu.
Hay nói cách khác, chi phí chiếm tỷ trọng là bao nhiêu trong doanh thu.
Tỷ suất chi phí =
Đây là một chỉ tiêu dùng để đo lường hiệu quả của việc điều hành, quản lý chi phí
của doanh nghiệp. Mỗi ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau thường có một tỷ
suất chi phí khác nhau.
c) Mức tiết kiệm chi phí
Mức bội chi hay tiết kiệm chi phí là phần chênh lệch giữa chi phí thực hiện thực tế
so với chi phí thực hiện được tính trên cơ sở tỷ suất chi phí kế hoạch và doanh thu
thực tế.
Mức bội chi (+)
hay tiết kiệm (-)
1.2.2.2. Đánh giá chung tình hình biến động giá thành đơn vị.
Chi phí thực hiện
Chi phí kế hoạch
Tổng chi phí
Doanh thu
x 100%
=
Doanh thu
kỳ thực hiện
x
Tỷ suất chi phí
thực hiện
Tỷ suất chi phí
kế hoạch
-
Mục đích phân tích: nêu lên những nhận xét ban đầu về kết quả thực hiện kế hoạch
giá thành đơn vị.
Phương pháp phân tích: tính ra mức chênh lệch và tỷ lệ chênh lệch của tình hình
thực hiện giá thành đơn vị của từng loại sản phẩm so với kế hoạch hay so với kỳ
trướ
c. Sau k
hi tính toán mức chênh lệch và tỷ lệ chênh lệch, lập bản phân tích để có
căn cứ nêu lên các nhận xét về kết quả thực hiện kế hoạch giá thành. Từ đó có thể
đánh giá chung tình hình biến động giá thành của toàn bộ sản phẩm, theo từng loại sản
phẩm để cho ta nhận thực một cách tổng quát khả năng tăng giảm lợi tức của doanh
nghiệp là do tác động ảnh hưởng của nhân tố giá thành của từng loại sản phẩm. Phân
tích đánh giá tình hình biến động của tổng giá thành còn là cơ sở định hướng và đặt
vấn đề cần phải đi sâu nghiên cứu giá thành của những loại sản phẩm có ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất đến biến động của tổng giá thành sản phẩm.
1.1.6. Mối quan hệ giữa chi phí và giá thành với quyết định kinh doanh.
Quá trình ra quyết định của doanh nghiệp là việc lựa chọn từ nhiều phương án
khác nhau, trong đó mỗi phương án được xem xét bao gồm rất nhiều thông tin của hệ
thống kế toán của công ty nhất là các thông tin về chi phí đầu tư nhằm đạt được lợi ích
kinh tế cao nhất. Các nhà quản trị thường phải đứng trước sự lựa chọn từ nhiều
phương án kinh doanh khác nhau với số loại, số lượng, khoảng mục chi phí và thu
nhập khác nhau, nhưng chúng có một đặc điểm là đều gắn với thông tinh kế toán, do
đó đòi hỏi các nhà quản trị phải xem xét, cân nhắc để ra quyết định đúng đắn nhất. Để
làm việc đó, nhà quả trị cần sử dụng công cụ thích hợp giúp cho họ phân biệt những
thông tin thích hợp với những thông tin không thích hợp trong các quyết định kinh
doanh.
Chi phí hợp lệ và vấn đề tính giá bán tối thiểu
Giá bán tối thiểu = Chi phí hợp lệ + Lợi nhuận kế hoạch (định mức)
- Chi phí hợp lệ (chi phí chênh lệch, chi phí tăng thêm, chi phí thất thoát, v.v.): tất
cả chi phí đều có thể là chi phí hợp lệ ngoại trừ chi phí chìm và các chi phí phát sinh
trong tương lai nhưng không có sự khác nhau giữa các phương án.
- Nhận dạng chi phí hoặc doanh thu hợp lệ:
Để nhận dạng các chi phí (doanh thu) hợp lệ trong tiến trình phân tích ra quyết
định lựa chọn các phương án, nhà quản trị có thể thực hiện các công việc sau đây:
+ Nhận dạng tất cả các chi phí và doanh thu có liên quan đến từng phương án.
+ Loại bỏ những chi phí chìm.
+ Loại bỏ những chi phí và doanh thu bằng nhau giữa các phương án.
+ Ra quyết định dựa trên những chi phí và doanh thu còn lại.
Cần chú ý là những thông tin thích hợp trong tình huống quyết định này không
nhất thiết thích hợp trong tình huống quyết định khác. Nhận định này xuất phát từ
quan điểm những mục đính khác nhau cần có những thông tin khác nhau (quan điểm
có bản của kế toán quản trị và được vận dụng thường xuyên trong các quyết định kinh
doanh). Đối với mục đích này thì nhóm thông tin này thích hợp, nhưng đối với mục
đích khác thì lại cần những thông tin khác.
Trong kinh doanh, thông tin có sẵn thường rất ít để có thể lập một báo cáo thu
nhập, vì vậy nhà quản trị phải biết các nhận những thông tin nào là thích hợp, không
thích hợp trong điều kiện thông tin giới hạn đó để ra quyết định. Có như vậy việc đề
ra quyết định mới nhanh chóng và đáp ứng nhu cầu kịp thời.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, khi mà yếu tố tốc đọ là một yếu tố quan
trọng đối với sự thành bại của doanh nghiệp thì việc đề ra những quyết định kinh
doanh nhanh chóng và chính xác có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sinh lợi của
doanh nghiệp. Phân tích dựa trên những thông tin thích hợp, kết hợp với việc xem xét
trực tiếp báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, đó chính là công cụ tốt nhất nhằm
hướng dẫn các nhà quản trị thực hiện chức năng quyết định có hiệu quả trong các tình
huống không thường xuyên và đặc biệt này.
Ứng dụng của kỹ thuật phân tích chi phí hợp lệ
- Quyết định nên mua ngoài hay tự sản xuất:
Quyết định này thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất, hầu hết
sản phẩm được sản xuất từ những chi tiết rời sau đó sẽ được lắp ráp lại tạo thành
thành phẩm. Những chi tiết rời này có thể được mua sẵn từ bên ngoài hoặc do một bộ
phận của doanh nghiệp tự sản xuất. Những chi tiết rời đó các nhà quản trị doanh
nghiệp sẽ phải đứng trước quyết định nên mua ngoài hay doanh nghiệp tự sản xuất,
quyết định nào có lợi hơn? Về cơ bản cần xem xét trên cả hai mặt chất lượng và số
lượng. Ở đây, giả sử chất lượng đã đảm bảo theo đúng yêu cầu về mặt kỹ thuật nên
chỉ cần đi sâu nghiên cứu về mặt số lượng. Mặt số lượng của quyết định được thể hiện
qua chi phí cần để sản xuất hoặc để mua vào loại chi tiết rời cá biệt nào đó. Cũng như
mọi quá trình phân tích đề ra quyết định, các yếu tố phải xem xét ở đây là các chi phí
chênh lệch giữa chi phí sản xuất và chi phí mua vào.
Quá trình xem xét các quyết định nên tự sản xuất hay mua ngoài cần phải kết hợp
với việc xem xét các cơ hội kinh doanh khác thì mới có thể đi đến quyết định đúng
đắn.
- Quyết định nên bán ngay hay tiếp tục sản xuất
Quyết định này thường gặp ở các DN sản xuất có quy mô sản xuất khởi đầu từ một loại nguyên liệu
chung, qua giai đoạn sản xuất chế biến sẽ tạo ra nhiều bán thành phẩm khác nhau. Các bán thành phẩm
này có thể tiêu thụ được ngay hoặc được tiếp tục sản xuất theo những quy trình riêng cho từng loại để tạo
thành những sản phẩm khác nhau rồi đem tiêu thụ.
Ví dụ: xí nghiệp lọc dầu có thể bán ngay sản phẩm dầu thô hoặc tiếp tục chế biến
thành xăng, nhớt, v.v. rồi mới bán; xí nghiệp súc sản, có thể bán ngay thịt heo hoặc
tiếp tục chế biến.
- Quyết định giữ lại hay loại bỏ một bộ phận:
Những quyết định về việc khi nào thì loại bỏ hay tiếp tục kinh doanh là một trong
những quyết định phức tạp nhất mà nhà quản trị phải thực hiện, vì đó là quyết định
phải chịu tác động của nhiều nhân tố. Quyết định cuối cùng là việc đánh giá ảnh
hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Chi phí cố định trực tiếp (CPCĐ bộ phận) là những khoản CPCĐ phát sinh ở
từng bộ phận sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: tiền lương của bộ phận quản lý
từng bộ phận, khấu hao TSCĐ sử dụng riêng từng bộ phận, chi phí quảng cáo từng bộ
phận
- Chi phí cố định gián tiếp (CPCĐ chung) là những khoản CPCĐ phát sinh chung
phục vụ cho hoạt động của toàn doanh nghiệp, được phân bổ theo các tiêu thức thích
hợp. Ví dụ trên phân bổ theo doanh thu tiêu thụ từng ngành hàng. Các CPCĐ gián tiếp
như: tiền lương của nhân viên quản lý và hội đồng quản trị doanh nghiệp, chi phí
quảng cáo cho lợi ích toàn doanh nghiệp, chi phí khấu hao TSCĐ của văn phòng làm
việc của doanh nghiệp.
- Doanh thu sau khi trừ chi phí biến đổi được gọi là đóng góp biên hay còn gọi
là số dư đảm phí
Việc xem xét một quyết định có nên loại bỏ một bộ phận kinh doanh thường có
nhiều phương án khác nữa. Giả sử doanh nghiệp có thể tận dụng tài nguyên của hàng
gia dụng, nếu ngưng kinh doanh để cho thuê, thì số tiền cho thuê là một khoản thu,
hoặc có thể thay thế để kinh doanh mặt hàng khác có lợi nhuận cao hơn.
1.2.2. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành đơn vị sản phẩm.
1.2.2.1. Ý nghĩa và chỉ tiêu phân tích
Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm trên cơ sở giá thành đơn
vị của sản phẩm qua các kỳ khác nhau, so sánh giữa kế hoạch và thực tế giúp doanh
nghiệp có được những nhận xét ban đầu về kết quả thực hiện kế hoạch giá thành đơn
vị.
1.2.2.2. Nội dung, trình tự và phương pháp phân tích