Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.84 KB, 25 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA NHTM
1.1 Khái quát về NHTM.
1.1.1: Lịch sử ra đời của NHTM
NHTM là một trong năm loại hình ngân hàng trung gian mà các nhà nghiên
cứu đã tổng kết được, đó là: NHTM, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng đầu tư,
Ngân hàng phát triển, các tổ chức tín dụng và hợp tác. Và đây cũng là loại hình
chiếm lĩnh một vị trí đặc biệt trong nền kinh tế. Tuy ở mỗi quốc gia có các quan
điểm khác nhau về khái niệm NHTM nhưng nhìn chung họ đều thống nhất với
nhau: NHTM là loại hình ngân hàng hoạt động vì mục đích lợi nhuận thông qua
việc kinh doanh các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu. Theo quan điểm của các nhà
ngân hàng nước ta về NHTM được ghi trong luật các tổ chức tín dụng ban hành
tháng 5 năm 1990 như sau: “NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán .”
Theo các nhà nghiên cứu thì mầm mống sơ khai của ngân hàng có từ thời
trung cổ mà tiền thân của nó là những hiệu kim hoàn. Thời đó những người giầu
thường mang tiền bạc tới những tiệm kim hoàn và gửi ở đó để đảm bảo an toàn cho
tài sản của họ. Họ sẽ được nhận một chứng thư xác nhận quyền sở hữu về những
tài sản đi gửi nhưng đổi lại họ phải trả một mức phí cho hiệu kim hoàn đó. Lúc
đầu, những ông chủ đúc vàng dự trữ 100% để chi trả cho khách hàng. Sau một thời
gian dài họ nhận thấy rằng luôn luôn có một lượng tiền vàng tồn ở trong kho họ
giữ vì bên cạnh những người rút tiền thì cũng có những người khác đem tiền vào
gửi. Mặt khác, không phải ai cũng có tiền nhàn rỗi để gửi vào mà có rất nhiều
người đang cần vốn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Từ đó, các chủ hiệu kim
hoàn nghĩ ra một kiểu kinh doanh mới là chỉ giữ lại một số lượng nhất định để đáp
ứng yêu cầu rút tiền của khách hàng, phần còn lại họ sẽ cho người cần vốn vay.
Dần dần thì hoạt động cho vay ngày càng phát triển, vì vậy thay vì thu phí giữ tiền,
họ lại trả cho những người gửi một số tiền nhất định nào đó. Hoạt động này ngày
càng phát triển và được coi là nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng, và các tiệm


kim hoàn dần dần phát triển và hình thành nên ngân hàng.
Ở thời kỳ đầu, khoảng thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 các ngân hàng còn hoạt động
độc lập với nhau và thực hiện các chức năng như nhau, đó chính là trung gian
thanh toán và phát hành giấy bạc ngân hàng.
Sang thế kỷ 18, cuộc cách mạng kinh tế của các nước Tây Âu đã tạo ra một
khối lượng hàng hóa khổng lồ. Như vậy, một mặt nó đòi hỏi phải có khối lượng
vốn lớn, mặt khác nó thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển.
Các nghiệp vụ của ngân hàng như “đi vay”và “cho vay”, làm trung gian thanh toán
giữa các chủ thể kinh tế cũng như phát hành giấy bạc ngân hàng diễn ra hết sức sôi
nổi. Tuy nhiên các ngân hàng đều có quyền phát hành ra loại giấy bạc của riêng
mình đã làm cho có quá nhiều loại tiền lưu thông cùng một lúc. Hơn nữa nhà nước
không thể quản lý được khối lượng tiền được phát hành. Trong quá trình phát triển
của mình ngân hàng đã được phân hoá thành hai hệ thống.Thứ nhất là nhóm ngân
hàngđược phép phát hành tiền được gọi là ngân hàng phát hành, sau gọi là NHTW.
Thứ hai là nhóm ngân hàng không được phép phát hàng tiền, chỉ làm trung gian tín
dụng và trung gian thanh toán trong nền kinh tế, và được gọi là ngân hàng trung
gian .
Thời kỳ đầu khi hệ thống ngân hàng mới được phân hoá thì các ngân hàng
trung gian thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng mà ngân hàng đó có khả năng
đáp ứng như : nhận tiền gửi và cho vay, làm trung gian thanh toán. Sau này khi nền
kinh tế phát triển hơn thì hoạt động ngân hàng cũng từng bước được hoàn thiện.
Dựa vào tính chất kinh doanh và mục đích hoạt động mà người ta chia ra ngân
hàng trung gian thành 5 loại :
Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng phát triển.
Ngân hàng đầu tư.
Ngân hàng chính sách.
Các tổ chức tín dụng và hợp tác.
Trong 5 loại này thì NHTM là loại hình phổ biến nhất, giữ vị trí then chốt
trong nền kinh tế của quốc gia. Ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng được khai sinh

theo sắc lệnh 15 ngày 6/5/1951 của chủ tịch nước. Mặc dù được ra đời muộn hơn
rất nhều so với sự ra đời của các ngân hàng trên thế giới nhưng mô hình tổ chức
của nó thì vẫn theo mô hình cũ, lạc hậu, đó là mô hình ngân hàng một cấp. Chỉ đến
khi nền kinh tế nước ta được xác định là nền kinh tế thị trường theo định hướng
chủ nghĩa xã hội thì mô hình tổ chức của ngân hàng mới được thay đổi. Sự thay đổi
đó được đánh dấu ở Nghị định 53 ra ngày 26/3/1988, theo đó hệ thống Ngân hàng
Việt Nam là hệ thống ngân hàng hai cấp: Cấp NHTW đảm nhiệm chức năng độc
quyền phát hành tiền; quản lý nhà nước về tiền tệ và tín dụng; và là cơ quan quản
lý dự trữ ngoại hối của nhà nước. Cấp thứ hai là các NHTM trực thuộc NHTW có
chức năng hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng trực tiếp
đối với nền kinh tế. Pháp lệnh NHNN 5/1990 đã đánh dấu một bước ngoặt quan
trọng trong hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam. Từ đây hệ thống NHTM
Việt Nam bước sang một trang sử mới.
1.1.2. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường
1.1.2.1 NHTM là nơi thu hút tiền nhàn rỗi và cung ứng vốn cho nền kinh tế
Trong nền kinh tế, không chỉ có riêng ngân hàng làm nhiệm vụ thu hút
lượng tiền nhàn rỗi và cung cấp vốn cho các chủ thể thiếu vốn, nhưng NHTM vẫn
là tổ chức thực hiện công việc này hiệu quả nhất. Và đây được coi là chức năng cơ
bản nhất của ngân hàng, đồng thời tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng
khác. Khi thực hiện các chức năng làm trung gian tín dụng NHTM giống như chiếc
cầu để nối giữa những người có vốn mà chưa có ý tưởng kinh doanh và những
người có ý tưởng kinh doanh nhưng chưa có vốn. Hay nói cụ thể hơn là ngân hàng
“đi vay ” để “cho vay”. Ngân hàng thực được việc này dựa trên cơ sở ngân hàng là
một tổ chức chuyên kinh doanh về tiền tệ và tín dụng, có khả năng nhận biết khả
năng cung và cầu vốn trên thị trường, và đặc biệt là có uy tín khá cao. Dựa vào uy
tín của ngân hàng mà những người có tiền đem vào đó để gửi, họ vừa đạt được
mục đích là đảm bảo an toàn cho tài sản của mình mà lại vừa có thu nhập. Trên cơ
sở đó ngân hàng đã tập hợp được khối tiền nhàn rỗi và cho những người cần vốn
vay. Như vậy NHTM đã giúp góp phần tạo được lợi ích cho tất cả các bên. Đối với
người vay tiền sẽ thoả mãn được vốn để kinh doanh một cách nhanh nhất, chi phí

về thời gian và tiền bạc thấp nhất. Đối với bản thân NHTM thì sẽ kiếm được lợi
nhuận từ phần chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền cho vay. Cũng giống
như bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động kinh doanh trên thị trường, lợi nhuận
này sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Và đối với tổng thể
nền kinh tế, chức năng trung gian tín dụng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì các
thành phần kinh tế có vốn kịp thời để đáp ứng yêu cầu sản xuất và tái sản xuất mở
rộng. Ngoài ra khi có mặt của NHTM thì quá trình luân chuyển hàng hoá diễn ra
nhanh hơn. Như vậy hoạt động “đi vay ”để “cho vay” của NHTM chiếm một vị trí
quan trọng trong nền kinh tế. Và khi thực hiện tốt chức năng này thì sẽ tạo ra nền
tảng vững chắc để NHTM thực hiện các chức năng khác.
1.1.2.2 NHTM là cầu nối giữa thị trường tài chính trong nước và quốc tế.
NHTM là đơn vị có chi nhánh rộng khắp không chỉ trong nội bộ một quốc
gia mà còn cả ở nước ngoài. Và lợi thế như vậy NHTM dễ dàng thu hút và mở
rộng vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước. Đối với những người muốn đầu tư vào
nước khác có hai cách: một là đầu tư trực tiếp và hai là đầu tư gián tiếp. Hình thức
đầu tư trực tiếp có thể đem lại lợi nhuận cao nhưng đổi lại người ta phải nghiên
cứu nhiều yếu tố như: môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý, cơ sở vật chất
hạ tầng... và khả năng thất bại cũng rất cao. Hình thức đầu tư nước ngoài được ưa
chuộng hơn là đầu tư gián tiếp, có nghĩa là các nhà đầu tư mua bán cổ phiếu , trái
phiếu ... trên thị trường chứng khoán. Mà NHTM là chủ thể tham gia trên thị
trường chứng khoán ấy, nếu họ hoạt động tích cực sẽ làm cho thị trường chứng
khoán sôi động, và như vậy họ không chỉ lôi kéo người đầu tư trong nước đầu tư
mà cả người đầu tư nước ngoài.
Mạng lưới hoạt động vượt qua biên giới quốc gia của các NHTM đem lại
một lợi thế rất quan trọng khác. Đó là họ có điều kiện để am hiểu về môi trường
pháp lý, môi trường kinh doanh, cơ sở vật chất hạ tầng ... của nước sở tại họ hoạt
động, từ đây họ có thể cung cấp thông tin đó cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
nước nhà. Đa phần các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước bị thiếu thông tin
hoặc có thông tin nhưng không đầy đủ và hoàn hảo nên dẫn đến có quyết sách sai
lầm. Vì vậy, đối với họ những thông tin mà ngân hàng cung cấp sẽ giúp ích cho họ

trong quá trình kinh doanh. Không chỉ các doanh nghiệp có lợi mà qua đó các chi
nhánh NHTM hoạt động ở nước ngoài vừa thu được phí tư vấn và vừa nâng cao
được uy tín. Khi nền kinh tế phát triển thì vai trò này sẽ được đề cao hơn nữa.
1.1.2.3 Vai trò trung gian thanh toán .
Vai trò này thực hiện được thì phải dựa trên cơ sở là Ngân hàng làm thủ quỹ
cho xã hội. Theo đó thì các NHTM mở tài khoản tiền gửi, thực hiện quản lý tài
khoản và tiến hành thu, chi theo lệnh của khách hàng. Nếu càng có nhiều đơn vị, cá
nhân mở tài khoản ở ngân hàng thì việc thu chi sẽ càng được thực hiện nhiều ngay
trên tài khoản và lượng tiền mặt trong lưu thông sẽ giảm. Việc giảm lượng tiền mặt
trong lưu thông đem lại lợi ích cho nhà nước mà người dân cũng được hưởng ích
lợi đó. Mặt khác khi việc thanh toán qua ngân hàng tăng lên sẽ làm cho tốc độ luân
chuyển vốn và hàng hoá tăng lên; vốn nhàn rỗi sẽ được tập trung nhiều hơn ở ngân
hàng để đầu tư cho nền kinh tế; tăng cường được sự quản lý của nhà nước đối với
các chủ thể kinh tế ... Phương thức TTKDTM ra đời không chỉ khắc phục được
nhược điểm của phương thức thanh toán bằng tiền mặt mà còn có ý nghĩa to lớn
khác. Chính vì thế mà phương thức thanh toán qua ngân hàng là xu hướng phổ biến
hiện nay. Nó cũng được coi là chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển kinh tế, xã hội,
văn minh của đất nước. Người ta thấy rằng càng ở những nước có nền kinh tế phát
triển thì tỷ trọng TTKDTM càng lớn
1.1.3 Các nghiệp vụ chủ yéu của NHTM.
1.1.3.1 Các nghiệp vụ thuộc tài sản nợ và vốn.
Nghiệp vụ thuộc tài sản Nợ phản ánh nguồn vốn của ngân hàng. Từ sau cuộc
suy thoái kinh tế thế giới 1929-1930, phần lớn các NHTM trên thế giới đều chú
trọng đến việc quản lý tài sản Có. Tuy nhiên, tới năm 1960 người ta đã giành sự
quan tâm đến việc quản lý tài sản Nợ. Người ta nghiên cứu và chia bên tài sản Nợ
thành 3 nghiệp vụ như sau:
* Nghiệp vụ tiền gửi :
 Tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn hay còn được gọi là tiền gửi thanh toán mà đặc tính
của nó là khách hàng có thể rút bất cứ lúc nào. Đối với loại tiền gửi này mục đích

chính của khách hàng là bảo đảm an toàn cho tài sản của họ và sử dụng các tiện ích
trên tài khoản đó. Do đó mức lãi suất tiền gửi mà ngân hàng đưa ra hầu như không
ảnh hưởng đến số dư và sự biến động trên tài khoản. Đây là nguồn vốn rẻ nhất của
ngân hàng vì trước đây ngân hàng không trả lãi cho loại tiền gửi này, ngày nay hầu
hết các ngân hàng đều trả lãi, tuy nhiên đó chỉ là lãi suất khuyến khích nên rất thấp.
 Tiền gửi có kỳ hạn
Với loại này khách hàng được rút tiền ra sau một thời hạn nào đó mà khách
hàng đã cam kết với ngân hàng ví dụ như 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 24
tháng ... Trước đây, nếu khách hàng đến rút trước thời hạn dù chỉ là một ngày thì
ngân hàng không trả lãi. Khi sự cạnh tranh giữa các ngân hàng cao, để thu hút
khách hàng thì các ngân hàng đã cho khách hàng rút trước hạn hưởng lãi suất
không kỳ hạn. Mức lãi suất là nhân tố hấp dẫn, quyết định đến lượng tiền gửi vào
ngân hàng vì mục đích của khách hàng là hưởng lãi suất. Chi phí trả lãi cao nhưng
nguồn vốn này ổn định, ngân hàng có thể chủ động lập kế hoạch sử dụng vốn .
 Tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi tiết kiệm là tiền để dành của dân cư được gửi vào ngân hàng nhằm
mục đích hưởng lãi. Cũng giống như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm là loại
tiền gửi phi giao dịch. Mục đích của người gửi tiền là hưởng lãi suất cho nên càng
đưa ra mức lãi suất cao thì ngân hàng càng có thể thu hút được nhiều vốn hơn. Ở
Việt Nam có 3 loại tiền gửi tiết kiệm sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn : về bản chất thì giống tiền gửi không kỳ
hạn tuy nhiên khách hàng không được hưởng các dịch vụ thanh toán (trên tài
khoản loại này ) nên số dư của nó ít biến động và khách hàng được hưởng mức lãi
suất nhất định .
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ được rút
tiền sau một thời hạn nhất định. Cũng giống như tiền gửi tiết kiệm, yếu tố lãi suất
sẽ quyết định đến lượng vốn huy động, lãi suất cao sẽ kích thích người dân tiết
kiệm tiêu dùng để gửi vào ngân hàng.
+ Tiền gửi tiết kiệm có mục đích : thường là loại tiết kiệm trung và dài hạn
nhằm mục đích lớn như: xây nhà ở, mua ô tô xịn ... Ngân hàng còn đưa ra một số

ưu đãi cho loại hình tiền gửi này là ngoài việc được hưởng lãi, khách hàng còn
được hỗ trợ thêm tiền nếu có nhu cầu.
Xét trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì bộ phận tiền gửi chiếm một tỷ
trọng lớn. Bộ phận này có ý nghĩa rất quan trọng vì ngoài ưu thế là chi phí rẻ và
nguồn vốn tương đối ổn định thì tỉ trọng của nó còn thể hiện uy tín của ngân hàng.
Tất cả các ngân hàng đều quan tâm đến phát triển nghiệp vụ này.
*Nghiệp vụ đi vay

Phát hành GTCG
Để thu hút được tối đa nguồn vốn từ hình thức này các ngân hàng thường
đưa ra nhiều loại hình đó là: phát hành theo mệnh giá; phát hành theo hình thức
chiết khấu. Trong từng loại ngân hàng còn chia nhỏ ra theo kỳ hạn trả lãi khác
nhau để phù hợp với mọi đối tượng khách hàng
Cùng với nghiệp vụ tiền gửi, nghiệp vụ này cũng thuộc nghiệp vụ huy động
vốn của ngân hàng. Khi áp dụng hình thức phát hành GTCG để huy động vốn thì
ngân hàng sẽ có ba điểm thuận lợi. Thứ nhất là ngân hàng không phải duy trì
DTBB nếu chỉ phát hành GTCG có thời hạn dưới một năm. Thứ hai là ngân hàng
sẽ chủ động về khối lượng vốn huy động hơn là nhận tiền gửi. Thứ ba là khi phát
hành GTCG ngân hàng đã ấn định thời gian đáo hạn của nó cho nên ngân hàng
cũng giữ vị thế là người chủ động về thời gian huy động. Thông thường việc phát
hành GTCG là để phục vụ một mục đích đặt ra trước đó của ngân hàng. Nhận thấy
các ưu điểm trên nên càng ngày các ngân hàng càng chú trọng đến nghiệp vụ huy
động vốn loại này.
Vay từ NHTW
Đây là nguồn vốn thường xuyên nhưng hết sức cần thiết đối với các
NHTM. Nguồn vốn này đảm bảo khả năng thanh toán của các NHTM khi không
vay được từ các nguồn khác, đôi khi nó là phao cứu hộ khi các NHTM đang ở bên
bờ vực sụp đổ. Thông qua các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu các GTCG, cho
vay lại theo hồ sơ tín dụng, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các
GTCG ngắn hạn khác ... NHTW thực hiện tái cấp vốn đối với các NHTM. Đây là

một nguồn để NHTM tạo nguồn vốn cho mình nhưng thông qua đó NHTW quản lý
vĩ mô đối với các NHTM và thực hiện chính sách tiền tệ đã đặt ra.
Vay từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác
Chi phí cho nguồn vốn này rất đắt, các ngân hàng chỉ vay trên thị trường tiền
tệ liên ngân hàng khi không thể huy động từ các nguồn khác. Nguồn vốn này
không chỉ có chi phí cao mà thường kém ổn định nên đối với loại này ngân hàng
thường vay trong thời gian ngắn, phổ biến là vay qua đêm. Trong quá trình hoạt
động của mình thì các đều phải sử dụng nghiệp vụ này, tuy nhiên mức độ sử dụng
nhiều hay ít lại phụ thuộc vào từng ngân hàng trong từng giai đoạn cụ thể nhưng
nói chung càng sử dụng ít càng tốt.
Các nguồn vốn khác của ngân hàng
Đó là đi vay từ các ngân hàng nước ngoài, vay từ những công ty mẹ của
ngân hàng( những công ty nắm giữ ngân hàng ); phát hành hợp đồng mua lại ... ở
các nước phát triển thì nghiệp vụ này mới phát sinh, còn các NHTM ở những nước
đang phát triển như Việt Nam thì hầu như không có và nếu có cũng không đáng kể.
* Vốn của ngân hàng
Cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động trên thị
trường thì phải tự tạo cho mình một lượng vốn nào đó, mức vốn này được gọi là
VTC. Tuỳ từng ngành nghề và tuỳ từng quốc gia mà pháp luật quy định chủ doanh
nghiệp phải có hay không phải có một lượng vốn tối thiểu nào đó. Riêng với ngành
ngân hàng thì tất cả các quốc gia đều quy định phải có vốn pháp định. Vốn pháp
định là một phận của VTC vì VTC còn bao gồm cả quỹ dự trữ và vốn coi như tự
có. Quỹ dự trữ của ngân gồm có quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc
biệt để bù đắp rủi ro. Quỹ dự trữ này được trích ra từ lợi nhuận sau thuế của ngân
hàng với hai mục đích: mục đích thứ nhất là đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh
doanh vì đây chính là nguồn bù đắp khi ngân hàng thực sự gặp rủi ro; mục đích thứ
hai là làm tăng thêm nguồn VTC cho ngân hàng. Đây là một trong số các chỉ tiêu
để đánh giá uy tín của một ngân hàng. Còn vốn coi như tự có bao gồm lợi nhuận
chưa chia, các quỹ khác chưa sử dụng như quỹ khấu hao TSCĐ, quỹ khen thưởng
phúc lợi, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ.

VTC của ngân hàng chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng nhưng nó có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước hết nó quyết định đến sự
ra đời của một ngân hàng, tiếp nữa nó quyết định đến quy mô hoạt động của ngân
hàng, là tiếng nói góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng trong quá trình thu hút
tiền gửi, cung cấp tiền vay cũng như các sản phẩm dịch vụ ngân hàng khác.
1.1.3.2 Nghiệp vụ tài sản Có
Nếu nghiệp vụ tài sản Nợ tạo nguồn vốn cho ngân hàng thì nghiệp vụ tài
sản Có là cách thức mà ngân hàng sử dụng nguồn vốn của mình. Để tạo được
nguồn vốn đã là khó nhưng phải sử dụng và quản lý nó làm sao có hiệu quả thì
càng khó hơn. Các nhà ngân hàng đã xác định được nghiệp vụ tài sản Có bao gồm
các nghiệp vụ cơ bản sau:
a Nghiệp vụ ngân quỹ
Đây chính là khoản dự trữ của ngân hàng để vừa đáp ứng nhu cầu thanh
khoản, tín dụng của ngân hàng và vừa đảm bảo được hoạt động kinh doanh tiền tệ
có hiệu quả. Nghiệp vụ này bao gồm các loại sau:
Tiền mặt tại quỹ: gồm tiền giấy và tiền làm loại được quản lý tại ngân
hàng lượng tiền mặt nhiều hay ít phụ thuộc vào quy mô hoạt động của ngân hàng
và thời gian kinh doanh. Loại này không mang lại lợi nhuận cho ngân hàng nhưng
các ngân hàng bắt buộc phải duy trì vì nó đảm bảo nhu câu rút tiền, nhu cầu tín
dụng của khách hàng. Nếu tiền tồn quý không hợp lý sẽ mang lại tai hại cho ngân
hàng hoặc là không đáp ứng được khả năng thanh khoản, hoặc là dự trữ dư thừa sẽ
mất đi khả năng sinh lời của đồng tiền. Vì vậy, các ngân hàng phải xác định để
mức độ duy trì tiền mặt tồn quỹ là hợp lý.
Tiền gửi tại các ngân hàng khác.
Mục đích của hoạt động này là duy trì hoạt động thanh toán giữa các ngân
hàng, giao dịch ngoại tệ, mua bán chứng khoán. Ngoài ra thì ngân hàng gửi còn

×