TIỂU LUẬN:
Nâng cao năng lực cạnh tranh
của dược phẩm Việt Nam
PHẦN MỘT: LỜI NÓI ĐẦU
Dược phẩm là một loại hàng hóa có tính chất đặc biệt, ảnh hưởng đến sức khỏe
và tính mạng của con người, là hàng hóa thiết yếu đối với bất kỳ quốc gia nào.
Phạm vi và nhu cầu sử dụng thuốc là vô cùng lớn.
Việt Nam là nước có dân số khá đông 86 triệu người, khí hậu nóng ẩm, dễ dẫn
đến nhiều dịch bệnh - một thị trường rộng lớn và nhiều tiềm năng nhưng ngành
dược nước ta vẫn chưa khai thác được. Phần lớn dược phẩm phải nhập khẩu, Việt
Nam mới chỉ sản xuất được các loại thuốc thông thường.
Khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, thuế và các hàng
rào bảo hộ khác giảm xuống dẫn đến sự tràn ngập của dược nước ngoài, không chỉ
chiếm giữ phân khúc thuốc đặc trị mà còn “lấn sân” sang phân khúc thuốc thông
thường, đẩy dược nội địa gặp rất nhiều khó khăn.
Vậy phải làm sao cho sản phẩm dược Việt Nam tồn tại và phát triển?
Qua quá trình học tâp và rèn luyện, được sự hướng dẫn của cô giáo – Th.S
Nguyễn Thu Thủy em xin mạnh dạn trình bày đề án chuyên ngành quản trị kinh
doanh tổng hợp với đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt
Nam”
Mục đích của đề tài nghiên cứu “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của dược
phẩmViệt Nam” là sử dụng phương pháp nghiên cứu truyền thống để phân tích thực
trạng của dược phẩm Việt Nam từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường năng lực
cạnh tranh trong lĩnh vực dược phẩm, góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập cho
người dân.
Nội dung của đề án bao gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm
dược Việt Nam.
Chương II: Phân tích năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm
Việt Nam
PHẦN HAI: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM
1. Quan niệm về dược phẩm:
Một trong các đối tượng nghiên cứu của báo cáo này là dược phẩm, vì thế cần
làm rõ khái niệm về dược phẩm. Dược phẩm có thể hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất là
công dụng chữa bệnh và thứ hai là sản phẩm của quá trình sản xuất, được lưu thông,
phân phối và buôn bán trên thị trường.
* Thứ nhất, đứng từ góc độ công dụng mà nhìn nhận, dược phẩm là một khái
niệm khá phức tạp. Theo Bộ y tế, dược phẩm là thuốc và các hoạt động liên quan
đến thuốc.
* Thứ hai, “dược phẩm” là một loại hàng hóa
Dược phẩm cũng như tất cả các loại hàng hóa khác được sản xuất và kinh
doanh trên thị trường, chịu tác động của các quy luật thị trường như quy luật giá trị,
quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…. Song dược phẩm là một loại hàng hóa đặc
biệt có những đặc điểm riêng khác với các loại hàng hóa thông thường khác.
→ Đứng từ góc độ thị trường mà xem xét thì dược phẩm:
- Độc quyền trong sản xuất và kinh doanh dược phẩm.
- Bí mật công nghiệp trong chế biến và sản xuất.
- Năng lực cạnh tranh của dược phẩm không chỉ phụ thuộc vào chất lượng,
giá cả, mà còn phụ thuộc vào trình độ chuyên môn của đội ngũ thày thuốc
của từng quốc gia.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh, cần giảm độc quyền, công khai về công
nghệ, đồng thời nâng cao năng lực và nhận thức của đội ngũ thày thuốc.
2. Quan niệm về năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là cái thể hiện rõ nhất năng lực cạnh tranh
của các chủ thể nói chung.
Theo tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 317, tháng 10 năm 2004 của TS Nguyễn
Văn Thanh: “Năng lực cạnh tranh cấp sản phẩm được hiểu là khả năng sản phẩm có
được nhằm duy trì được vị thế của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh”
Năng lực cạnh tranh sản phẩm được nhận biết thông qua lợi thế cạnh tranh
của sản phẩm đó với các sản phẩm khác cùng loại.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm có thể được đánh giá thông qua: giá sản
phẩm, sự vượt trội về chất lượng sản phẩm, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm, thương
hiệu… so với đối thủ cạnh tranh trên cùng một phân đoạn thị trường vào cùng một
thời điểm.
3. Các tiêu chí đánh giá sức cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam
3.1. Mức doanh thu của sản phẩm qua từng năm
Doanh thu là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện sản lượng và giá bán sản phẩm qua các
năm. Thông qua chỉ tiêu doanh thu từng năm, ta có thể biết được kết quả kinh doanh
là tăng hay giảm, có chiều hướng tốt hay xấu. Nhưng để xét xem việc kinh doanh
sản phẩm đó có hiệu quả hay không thì cần phải xét đến chi phí để sản xuất ra sản
phẩm, từ đó biết được lợi nhuận mà doanh nghiệp thu lại được. Doanh thu nhiều
hơn và có tốc độ tăng nhanh hơn tốc độ tăng của chi phí sẽ là cơ sở để các doanh
nghiệp ra quyết định mở rộng đầu tư sản xuất sản phẩm đó. Một sản phẩm duy trì
được doanh thu và lợi nhuận tăng cao thì đồng nghĩa với việc sản phẩm đó có năng
lực cạnh tranh cao và ngược lại. Đây là một trong những chỉ tiêu cơ bản nhất để
đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm khi tham gia thị trường.
3.2. Thị phần của sản phẩm trên thị trường qua từng năm
Thị phần thể hiện khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm. Một sản phẩm
có thị phần lớn và tăng dần sẽ là một sản phẩm có uy tín với người tiêu dùng, được
nhiều người tiêu dùng lựa chọn.
Thị phần đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Thị phần càng lớn thì
năng lực cạnh tranh của sản phẩm càng cao và ngược lại. Tuy nhiên với các sản
phẩm mới xâm nhập thị trường thì không thể lấy chỉ tiêu này để đánh giá được mà
phải kết hợp thêm chỉ tiêu Tốc độ tăng trưởng của doanh thu hay thị phần.
Nếu sản phẩm có tốc độ tăng thị phần cao thì sản phẩm có năng lực cạnh tranh
cao và ngược lại.
3.3. Chất lượng sản phẩm so với sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh
Khi đời sống của người dân ngày càng nâng cao hay đối với những nước có
thu nhập cao thì giá cả không phải mối quan tâm hàng đầu của họ nữa. Người tiêu
dùng quan tâm nhiều đến chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là sự kết hợp
hài hòa của năng suất lao động, trình độ công nghệ, mức độa an toàn của sản phẩm,
các biện pháp bảo vệ thực vật… Mặt khác, khi hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra, để
nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thì yếu tố chất lượng sản phẩm đóng góp
quan trọng cho sự tồn tại của sản phẩm trên thị trường. Sản phẩm đó không chỉ đạt
tiêu chuẩn quốc gia mà phải đạt tiêu chuẩn quốc tế. Khi đó, chất lượng sản phẩm
nói lên năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
3.4. Giá cả sản phẩm
Đây là chỉ tiêu định lượng mà ta dễ dàng nhận thấy nhất.
Nếu các nhân tố khác không đổi thì sản phẩm nào có được giá bán thấp hơn sẽ
có được năng lực cạnh tranh tốt hơn. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá thành của sản
phẩm là chi phí sản xuất, nhu cầu về sản phẩm…Trong đó chi phí sản xuất là yếu tố
nảh hưởng lớn nhất đến giá bán sản phẩm. Chi phí sản xuất thấp hơn sẽ làm giá bán
sản phẩm thấp hơn, nó sẽ có sức cạnh tranh tốt hơn về giá. Vì vậy, giá là một công
cụ cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường.
3.5. Mức hấp dẫn của sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh
Được đánh giá thông qua kiểu dáng, màu sắc, bao bì sản phẩm. Trong cuộc
sống hiện đại thì tiêu chí này ngày càng có vai trò quan trọng. Một sản phẩm có
mẫu mã, màu sắc, kiểu dáng đẹp sẽ có sức hấp dẫn lớn đối với khách hàng. Mặc dù
đây chỉ là chi tiêu định tính nhưng là yếu tố không thể thiếu tạo nên sức cạnh tranh
của sản phẩm.
3.6. Thương hiệu của sản phẩm
Thương hiệu là một khái niệm khá trừu tượng, nó “ vô hình ” nhưng là cái đích
mà sản phẩm luôn muốn hướng tới.
Một sản phẩm chỉ có được thương hiệu khi có được lòng tin và ấn tượng tốt
của khách hàng. Người tiêu dùng yên tâm khi sử dụng và họ sẵn sàng trả giá cao
hơn. Thương hiệu là một phương tiện giúp nhà sản xuất hay các nhà phân phối làm
nổi bật tính riêng biệt cũng như ưu thế của sản phẩm của mình so với đối thủ cạnh
tranh. Một thương hiệu thành công là một thương hiệu luôn có lượng lớn khách
hàng trung thành.
Vì vậy thương hiệu có ý nghĩa to lớn đối với năng lực cạnh tranh của sản phẩm
và ngày càng trở nên quan trọng trong điều kiện hội nhập.
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DƯỢC PHẨM
VIỆT NAM
1. Thực trạng dược phẩm Việt Nam
Như đã nói ở trên, sản phẩm dược phẩm rất đa dạng, theo xuất sứ có thể chia
dược phẩm thành hai loại: thuốc đông y và thuốc tân dược và đề tài này nghiên cứu
về thuốc tân dược của Việt Nam.
1.1. Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh thuốc ở Việt Nam
Năm 2008 là một năm đầy biến động của nền kinh tế toàn cầu. “Khủng hoảng
tài chính”, “giảm phát kinh tế”, “phá sản”, vv là những cụm từ được nhắc đến
nhiều nhất trong gần 100 năm qua. Năm 2009 nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy sự
phát triển kinh tế được áp dụng nhưng nhìn chung nền kinh tế toàn cầu vẫn đang
trong giai đoạn dần hồi phục. Việt Nam đã là thành viên của WTO, cho nên mặc dù
Việt Nam mới hội nhập nhưng cũng đã chịu những ảnh hưởng sâu sắc. Cũng như
nhiều ngành khác, các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm gặp rất nhiều khó khăn
do diễn biến phức tạp của thời tiết, dịch bệnh, và việc ảnh hưởng của sự suy giảm
kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia dược Việt Nam
được xem là đang nằm trong giai đoạn tăng trưởng.
1.2. Tình hình tiêu dùng thuốc tân dược của Việt Nam
Trong những năm gần đây, khi đời sống ngày càng được nâng cao thì người
dân ngày càng gia tăng các khoản chi tiêu về dịch vụ y tế, đặc biệt là chi tiêu cho
dược phẩm.
Bảng 1: Tiêu dùng thuốc trong nước giai đoạn 2001 – 2008
Năm Tổng trị giá tiền thuốc sử dụng
(1.000USD)
Bình quân tiền thuốc đầu
người (USD)
2001 472.356 6,0
2002 525.807 6,7
2003 608.699 7,6
2004 707.535 8,6
2005 817.396 9,85
2006 956.353 11,23
2007 1.136.353 13,39
2008 1.425.657 16,45
Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam
Thông qua tiêu dùng thuốc trong nước như bảng trên ta có thể thấy rằng giai
đoạn từ 2001-2008, tiêu thụ thuốc tân dược của Việt Nam đạt mức tăng trưởng bình
quân hàng năm là 19,9%. Nếu như năm 2002 mới chỉ tăng 11,3% so với năm trước
đó, thì đến năm 2008 đã tăng 25,5% so với năm 2007. Tổng doanh thu toàn thị
trường năm 2008 đạt mức 1,4 tỷ USD, chiếm 1,6% GDP của cả nước. Nếu như năm
2001 việc chi tiêu cho tiền thuốc theo đầu người mới chỉ ở mức 6,0 đô la Mỹ, thì
năm 2008 con số này đã lên tới 16,45 đô la Mỹ, tăng gấp gần 3 lần năm 2001. Nếu
so sánh với phần thu nhập tăng thêm, thì có thể nhận thấy rằng người dân đang có
xu hướng chi tiêu ngày càng nhiều hơn cho dược phẩm.
1.3. Tình hình sản xuất thuốc
Trước nhu cầu sử dụng dược phẩm ngày càng gia tăng đã làm cho ngành dược
phẩm đẩy mạnh sản xuất. Trong giai đoạn từ 2001 – 2008, công nghiệp dược nội
địa phát triển vững chắc cả về lượng và chất, sản lượng thuốc tân dược trong nước
cũng đã có tăng trưởng vượt bậc. Sản lượng thuốc nội địa đã tăng từ 170,390 triệu
đô la Mỹ ( 2001 ) lên đến 715,435 triệu đô la Mỹ chiếm khoảng 50,18% thị trường
dược phẩm năm 2008. Hiện nay, sản xuất dược trong nước đã đảm bảo đáp ứng
được khoảng 50,2% nhu cầu trong nước
Hoạt động sản xuất thuốc trong nước đã bắt đầu có nhiều tiến triển. Các cơ sở
sản xuất kinh doanh thuốc đã có thể dần dần bắt kịp với nhu cầu tiêu dùng dược
phẩm trong nước. Đồng thời tốc độ tăng trưởng sản xuất và kinh doanh cũng tăng
lên từ 2001 đến 2007 (126,34%). Do khủng hoảng kinh tế toàn cầu diễn ra nên năm
2008 tốc độ tăng trưởng giảm so với năm 2007 còn 119,11%. Vượt qua khủng
hoảng, chắc rằng với tốc độ tăng trưởng như vậy trong tương lai dược phẩm Việt
Nam sẽ đạt được mức tăng trưởng song hành với mức tăng về nhu cầu sử dụng
dược phẩm của người dân.
Bên cạnh việc tăng trưởng về sản lượng sản xuất, các doanh nghiệp dược cũng
đẩy mạnh việc đa dạng hóa các dòng sản phẩm. Trong 3 năm trở lại đây, mỗi năm
có khoảng 2.000 loại thuốc mới đăng ký và được cấp phép đăng ký lưu hành, trong
khi vào thời điểm năm 2003 mỗi năm chỉ có khoảng 700 sản phẩm mới được đăng
ký mỗi năm. Hiện nay cả nước có 171 doanh nghiệp sản xuất dược phẩm, trong đó
92 doanh nghiệp sản xuất tân dược, còn lại là các doanh nghiệp về đông dược.
Ngoài ra còn có 6 doanh nghiệp sản xuất vaccine và sinh phẩm y tế. Trong thời gian
vừa qua, đa số doanh nghiệp dược đã tích lũy được nguồn vốn khá lớn từ việc gia
tăng sản lượng tiêu thụ và thu hút nguồn vốn đầu tư của nước ngoài, nhờ vậy mà
các doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng để tiếp tục đầu tư nâng cao năng lực
sản xuất.
1.4. Chủng loại và chất lượng sản phẩm
Thuốc sản xuất trong nước đang cố gắng thoát ra khỏi những danh mục hoạt
chất generic, hướng tới những nhóm thuốc đang tăng tỷ lệ sử dụng, thuốc chuyên
khoa (như : thuốc tim mạch, tiểu đường, thần kinh, nội tiết, ). Các dạng bào chế
cũng được phát triển hơn (như : thuốc tác dụng kéo dài, thuốc tiêm đông khô, thuốc
sủi bọt, ).
Chất lượng thuốc trong nước đã được cải thiện rõ rệt. Theo thống kê của Bộ y
tế, đến cuối năm 2009 số nhà máy sản xuất dược phẩm trong nước đạt tiêu chuẩn
GMP (Good Manufacturing Practice – Thực hành tốt sản xuất thuốc) là 92 nhà máy.
Thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ bắt đầu chú trọng đến các tiêu chuẩn
này trong vài ba năm gần đây, nhưng cũng đang nỗ lực để gia tăng sức cạnh tranh
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm dược nội địa. Ngoài thực hiện
theo tiêu chuẩn GMP, chất lượng dược phẩm còn được quản lý theo ISO 9001:2000
(hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về quản lý), ISO 14000:2004 (hệ thống tiêu chuẩn
quốc tế về môi trường),…
Mặc dù đang trong giai đoạn phát triển, nhưng dược phẩm Việt Nam vẫn phải
phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Do ngành công nghiệp hóa
dược của Việt Nam còn hạn chế, nên có đến 90% nguyên liệu cho sản xuất thuốc
tân dược phải nhập khẩu. Với việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập
khẩu, sản xuất dược nội địa có thể sẽ gặp nhiều rủi ro như rủi ro về giá cả nguyên
liệu, rủi ro về chất lượng nguyên liệu…
1.5. Hệ thống phân phối sản phẩm
Dược phẩm tiếp cận người tiêu dùng qua hệ thống điều trị và hệ thống phân
phối thương mại
Hệ thống điều trị bao gồm các bệnh viện, các cơ sở điều trị tại các cấp. Tổng
số cơ sở khám chữa bệnh tại Việt Nam năm 2007 là 13.438 đơn vị - Đây là kênh
phân phối mà hầu hết các công ty dược luôn mong muốn và quan tâm phát triển do
số lượng tiêu thụ rất lớn. Các doanh nghiệp dược tiếp cận và mở rộng thị trường
thông qua hình thức chi hoa hồng hoặc chiết khấu cho các bác sĩ và dược sĩ của các
bệnh viện.
Bảng 2: Các cơ sở trong hệ thống điều trị
Năm 2006 2007
Bệnh viện 903 956
Phòng khám đa khoa khu vực 847 829
Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức
năng
51 51
Trạm y tế xã, phường 10672 10851
Trạm y tế của cơ quan, xí nghiệp 710 710
Các cơ sở khác 49 41
Tổng 13232 13438
Nguồn: Bộ Y tế
Hệ thống thương mại: bao gồm các chi nhánh, đại lý, nhà phân phối và các nhà
thuốc. Hiện nay các doanh nghiệp dược trong nước đang nỗ lực xây dựng kênh
phân phối thương mại để giảm bớt sự phụ thuộc vào kênh phân phối điều trị vốn
đang bị cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Hệ thống phân phối này chủ yếu đang là sân
chơi của các nhà phân phối nội địa trong khi chỉ có ba nhà phân phối nước ngoài ở
thị trường là Zeullig Pharma, Diethelm, Megaproduct.
Bảng 3: Cơ cấu hệ thống phân phối thương mại.
Năm 2005 2006 2007
Công ty thương mại 680 800 800
Công ty xuất nhập khẩu 79 89 90
Công ty sản xuất 174 178 180
Nhà cung ứng nước ngoài 270 320 370
Các điểm bán lẻ 29.541 39.319 39.016
Nguồn: Bộ Y tế
Với kênh phân phối thương mại, thương hiệu sản phẩm được người tiêu dùng
nhận diện tốt hơn nhất là trong điều kiện thị trường của Việt Nam khi mà sản phẩm
của các doanh nghiệp trong nước chủ yếu là thuốc phổ thông (generic). Hiện nay,
Việt Nam có rất ít các nhà thuốc, đại lý đạt tiêu chuẩn GPP ( Thực hành tốt phân
phối thuốc ).
1.6. R&D nội địa chưa phát triển
Công nghiệp hóa dược của Việt Nam còn khá yếu với công nghệ lạc hậu do
ngành công nghiệp hóa dược chưa thực sự được chú trọng đầu tư. Dược Việt Nam
mới chỉ tập trung vào công nghiệp bào chế, trùng lắp trong dòng sản phẩm, chưa
chú trọng phát triển nguồn dược liệu, ít chú ý vào các loại thuốc chuyên khoa đặc
trị. Hiện tại, dược phẩm Việt Nam mới chỉ đang ở giai đoạn bậc 2.5 trên thang đo
tối đa bậc 5 về tiến bộ công nghệ. Ở giai đoạn này, hầu như thuốc sản xuất là loại
generic (các thuốc đã hết bản quyền công nghệ gốc). Với việc sản xuất hàng
generic, có thể cho rằng dược nước ta nghiên cứu và sản xuất sản phẩm mới chỉ
dừng lại ở mức ‘R&C’ (nghiên cứu và sao chép).
1.7. Kết quả hoạt động xuất – nhập khẩu dược phẩm Việt Nam
Cùng với tốc độ phát triển kinh tế của cả nước, dược phẩm Việt nam đã không
ngừng phát triển, đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao
năng lực cạnh tranh, hiệu quả hoạt động và xây dựng thương hiệu trên thị trường.
Lượng thuốc sản xuất trong nước đã đáp ứng được 50.2% nhu cầu tiêu dùng (năm
2009) và dành cho xuất khẩu sang các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực và trên
thế giới.
*Về xuất khẩu:
Theo Cục quản lý dược Việt Nam, xuất khẩu dược phẩm trong những năm gần
đây cũng có nhiều khởi sắc, tổng giá trị xuất khẩu năm 2007 đạt 22,1 triệu USD,
tăng 22,1% so với năm 2006 và năm 2008 trị giá tiền thuốc xuất khẩu đạt 33,32
triệu USD thấp hơn 17,1% so với kế hoạch năm 2008 (39,0 triệu) do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Tuy nhiên, so với giá trị sản xuất thuốc trong
nước, con số này còn quá khiêm tốn. Xuất khẩu dược phẩm năm 2008 chỉ mới đạt
tỷ trọng 5,6% so với tổng giá trị dược phẩm sản xuất trong nước.
Công ty Dược Hậu Giang cho biết, mấy năm trở lại đây công ty này đã xuất
khẩu được một số đơn hàng sang Nga, Campuchia, tuy nhiên số lượng xuất khẩu
còn rất nhỏ. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của công ty là Kim Tiền Thảo, thuốc
kháng sinh, một số loại vitamin tổng hợp và một số mặt hàng khác theo yêu cầu của
đối tác. Các đối tác của công ty chủ yếu là các Việt kiều, mua hàng của công ty rồi
bán các nước sở tại.
Hình 1: Biểu đồ xu hướng về kim ngạch xuất khẩu dược phẩm Việt Nam.
16.429
17.656
18.1
33.32
22.1
0
5
10
15
20
25
30
35
2004 2005 2006 2007 2008
Năm
Triệu USD
Lượng thuốc xuất khẩu
Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam
Theo biểu đồ trên có thể thấy rằng trong những năm gần đây kim ngạch dược
phẩm được xuất khẩu ra nước ngoài đang có xu hướng tăng lên. Giai đoạn từ năm
2004 đến năm 2006, kim ngach xuất khẩu có tăng nhưng mức tăng không cao: năm
2005 tăng 1.227 triệu USD so với năm 2004 ( 7.47% ), và năm 2006 tăng 1.671
triệu USD so với năm 2005 ( 9.46% ). Nhưng đến năm 2007, kim ngạch xuất khẩu
tăng mạnh 22.1 triệu USD và tăng vọt vào năm 2008 ( tăng 12.22 triệu USD so với
năm 2007 ( 57.92% ) . Nguyên nhân dẫn đến kết quả này có thể là do việc Việt Nam
gia nhập WTO đã tạo điều kiện cho dược phẩm Việt Nam được tiếp cận với các thị
trường lớn, nhiều tiềm năng, với điều kiện cạnh tranh công bằng hơn. Việc xuất
khẩu các mặt hàng dược phẩm ra thị trường thế giới cho thấy chất lượng sản phẩm
dược Việt Nam ngày càng được nâng cao và bước đầu được thị trường thế giới chấp
nhận.
* Về nhập khẩu:
Theo Cục quản lý dược Việt Nam, năm 2008 Việt Nam đã nhập khẩu 923,288
triệu USD trong đó nguyên liệu là 163,536 triệu USD, thành phẩm là 759,752 triệu
USD tăng 13,8% so với năm 2007. Do ngành dược Việt Nam chủ yếu sản xuất
thuốc generic nên vẫn còn nhiều loại thuốc chuyên khoa đặc trị, thuốc mới vẫn phải
nhập khẩu, đặc biệt là thuốc hiếm nhập khẩu cho nhu cầu điều trị tại bệnh viện.
Thị trường dược Việt Nam với dân số đông và năng lực sản xuất nội địa đang
còn nhiều hạn chế nên đang là một thị trường rất hấp dẫn đối với các công ty dược
nước ngoài. Những tập đoàn dược có tên tuổi lớn như Sanofi-Aventis, GSK,
Servier, Pfizer, Novatis Group … đã xuất hiện tại Việt Nam và hoàn toàn chiếm
lĩnh thị trường trong nước cho phân khúc thuốc đặc trị cũng như đang thâm nhập
sâu hơn nữa phân khúc thuốc phổ thông.
Theo cam kết gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam, từ
1/9/2009, các công ty dược phẩm nước ngoài có quyền mở chi nhánh tại Việt Nam
và được tham gia nhập khẩu trực tiếp dược phẩm. Việt Nam đang tiếp tục phải giảm
thuế cho sản phẩm y tế là 5% và 2,5% cho thuốc nhập khẩu trong vòng 5 năm sau
khi gia nhập WTO.
Hình 2: 10 quốc gia xuất khẩu dược phẩm lớn nhất vào Việt Nam.
23
25
27
34
37
41
50
82
105
143
0 20 40 60 80 100 120 140 160
Australia
United Kingdom
Hongkong
Thailand
Singapore
Germany
Switzerland
South Korea
India
France
Quốc gia
Triệu USD
Nguồn: Tạp chí thương mại
Các tập đoàn nước ngoài gia tăng thị phần tại Việt Nam nhờ vào lợi thế về tài
chính và sản phẩm: Nguồn lực tài chính mạnh đã cho phép các tập đoàn này chi hoa
hồng ở mức cao cho các bệnh viện và nhà phân phối, cũng như tăng cường tài trợ
cho các trường y – dược, các cuộc hội thảo khoa học; Các sản phẩm nước ngoài hầu
hết có giá trị cao, hiện diện ở tất cả các phân khúc từ phổ thông đến đặc trị.
2. Phân tích năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam
2.1 . Mức doanh thu của dược phẩm Việt Nam qua các năm
Trong những năm gần đây, công nghiệp dược nội địa phát triển vượt bậc cả về
chất và lượng. Các sản phẩm trong nước đã được người tiêu dùng quan tâm và sử
dụng với số lượng khá lớn.
Hình 3: Tăng trưởng tiêu dùng và sản xuất thuốc.
1425.657
1136.353
956.353
817.396
707.535
608.699
525.807
472.356
715.435
600.63
475.403
395.157
305.95
241.87
200.29
170.39
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
năm
USD (1000)
tổng tiêu dùng sản xuất thuốc nội
Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam.
Theo thống kê của Bộ Y tế, tổng giá trị tiền thuốc sử dụng tăng mạnh trong
năm 2008: tổng giá trị khoảng 1.425 triệu USD tăng 25,4% so với năm 2007. Để
đáp ứng nhu cầu đó, thuốc nội địa cũng ngày càng gia tăng sản xuất: thuốc sản xuất
trong nước năm 2008 đạt giá trị 715.435 tăng 25,4% so với năm 2007.
Bên cạnh việc tăng trưởng về sản lượng sản xuất, các doanh nghiệp dược cũng
đẩy mạnh việc đa dạng hóa các dòng sản phẩm. Trong 3 năm trở lại đây, mỗi năm
có khoảng 2.000 loại thuốc mới đăng ký và được cấp phép đăng ký lưu hành, trong
khi vào thời điểm năm 2003 mỗi năm chỉ có khoảng 700 sản phẩm mới được đăng
ký mỗi năm.
2.2. Thị phần dược phẩm Việt Nam
Thị trường dược Việt Nam với dân số đông và năng lực sản xuất nội địa đang
còn nhiều hạn chế nên đang là một thị trường rất hấp dẫn với dược phẩm nước
ngoài.
Hình 4: doanh thu của một số công ty dược ở Việt Nam
9302
16243
17214
18930
21176
35333
40384
Domesco
DHG Pharma
Novartis Group
Pfizer Group
Servier Group
GSK Group
Sanor-Aventiscor
Nguồn: Tạp chí thương mại.
Theo thống kê trên, doanh thu lớn chủ yếu thuộc về các tập đoàn nước ngoài.
Đây là điều tất yếu vì Việt Nam là một thị trường giàu tiềm năng và vẫn có thể tiếp
tục khai thác được, đồng thời dược phẩm trong nước còn chưa có khả năng cung
cấp các loại thuốc đặc trị có giá trị cao.
Hình 5:Các nhóm thuốc trong và ngoài nước đăng ký trong năm 2008
552
223
84
51
260
16
34
83
38
61
48
28
4
4
453
105
99
96
84
66
59
44
39
34
32
21
20
10
0 100 200 300 400 500 600
Chống nhiễm khuẩ- ký sinh trùng, vius
Vitamin và thuốc bổ
Thuốc tác dụng trên dạ dày, ruột
Thuốc tim mạch
Hạ nhiệt - giảm đau - chống viêm phi steroid
Thuốc tâm thần, an thần
Hormon và cấu trúc hormon
Thuốc đường hô hấp
Thuốc gan - mật
Chống dị ứng
Thuốc tác dụng đến máu
Thuốc về mắt
Chống động kinh
Dung dịch điều chỉnh nước và điện giải
Thuốc nước ngoài
Thuốc trong nước
Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam
Theo thống kê của Cục quản lý dược Việt Nam, năm 2008 số lượng các nhóm
thuốc đăng ký là khá lớn. Trong đó, thuốc tân dược trong nước vẫn chủ yếu tập
trung vào các loại thuốc thông thường chống viêm nhiễm, giảm đau, hạ sốt, thuốc
bổ chiếm đến hơn 50% số lượng đăng ký thuốc nội địa năm 2008. Đối với nước
ngoài thì số lượng đăng ký cũng tập trung nhiều vào các loại chống viêm nhiễm
nhưng đồng thời các loại thuốc đặc trị cũng được tiến hành đăng ký nhiều gấp hơn
hai lần thuốc nội địa như thuốc an thần, tâm thần (thuốc nội địa: 16 đăng ký, thuốc
ngoại: 66 đăng ký); thuốc chống động kinh (thuốc nội địa: 4 đăng ký, thuốc ngoại:
20 đăng ký)… Điều này chứng tỏ, thuốc ngoại đang có xu hướng “ lấn sân ” sang
phân khúc thị trường thuốc thông thường. Đây sẽ là khó khăn lớn cho dược phẩm
nội địa khi phải cạnh tranh với dược phẩm nước ngoài được đầu tư nguồn vốn lớn
và khoa học kĩ thuật hiện đại.
Không chỉ trong khâu sản xuất mà ngay cả trong khâu phân phối thuốc ngoại
cũng đang “ lấn át ” thuốc nội.
Hệ thống bệnh viện là một trong những đối tượng khách hàng quan trọng của
dược phẩm. Theo đánh giá về thị phần các loại thuốc được sử dụng trong bệnh viện
hiện nay bao gồm cả thuốc nội và thuốc ngoại được sử dụng trong hình sau:
Hình 6 : Cơ cấu phân phối thuốc trong bệnh viện 2008
16.60%
60.70%
83.40%
39.30%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
120%
Giá trị Số lượng
Thuốc nội Thuốc ngoại
Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam
Như vậy có thể thấy rằng thuốc nội địa áp đảo thuốc ngoại về số lượng (chiếm
tới 60.7%) nhưng giá trị thuốc nội chỉ chiếm 16.6% trong khi thuốc ngoại là 83.4%.
Nguyên nhân là do trong bệnh viện hầu hết mục đích sử dụng các loại thuốc thường
là dùng cho các bệnh đặc trị. Trong khi dược phẩm trong nước chủ yếu là các loại
thuốc thông thường với giá trị thấp. Điều này gây hạn chế lớn đối với dược nội địa.
Để có thể cung cấp được các loại dược phẩm cho bệnh viện, các doanh nghiệp phải
cạnh tranh tương đối khó khăn do hầu hết thị phần này do các doanh nghiệp nước
ngoài chiếm giữ, với các loại thuốc đặc trị. Trong những năm gần đây khi các bệnh
viện tiến hành đấu thầu thuốc nên đã làm tăng sức ép cạnh tranh đối với các doanh
nghiệp. Nhưng nó đồng thời cũng là cơ hội mới đối với những doanh nghiệp có khả
năng cung cấp các loại dược phẩm với chất lượng cao và giá thuốc hợp lý. Tuy
nhiên để có thể đáp ứng được các yêu cầu về sản phẩm cung cấp cho khối bệnh
viện, dược nội địa phải có các chiến lược cạnh tranh cụ thể hơn.
Hệ thống thương mại bao gồm các doanh nghiệp phân phối, đại lý và các cơ sở
bán lẻ. Nếu xét về thị phần các loại thuốc trong nước và nước ngoài tại hệ thống
phân phối thương mại hiện nay có thể thấy rằng số lượng dược nội địa chiếm tỷ lệ
khá lớn trong khi giá trị lại không cao so với dược nước ngoài.
Hình 7: Cơ cấu phân phối thuốc trong hệ thống thương mại 2008
32.80%
71.10%
67.20%
38.90%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
120%
Giá trị Số lượng
Thuốc nội Thuốc ngoại
Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam.
Phần lớn các nhà thuốc trên thị trường chính là người tiếp xúc trực tiếp với các
trình dược viên. Các nhà thuốc sẽ chịu trách nhiệm đưa thuốc tới tận tay người tiêu
dùng. Như biểu đồ trên có thể thấy rằng phần lớn các nhà thuốc phân phối chủ yếu
là các loại thuốc ngoại do các loại này đem lại lợi nhuận cao, dễ tiêu thụ, phần chiết
khấu mà các hãng dược phẩm nước ngoài trả cho các cơ sở kinh doanh cũng khá
cao. Cũng chính vì vậy để có thể kéo dài được mối liện hệ đối với các nhà thuốc các
doanh nghiệp sản xuất trong nước phải cạnh tranh về giá cả các mặt hàng có thể
đảm bảo được thị phần. Do các doanh nghiếp sản xuất trong nước phần lớn là chưa
có khả năng đáp ứng được nhu cầu về thuốc đặc trị nên hiện nay thị phần dành cho
các loại thuốc biệt dược do công ty nước ngoài chiếm giữ.
2.3 Chất lượng sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh
Trong những năm qua chất lượng thuốc tân dược trong nước đã từng bước
thay đổi chất lượng theo chiều hướng tiến bộ.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của mình các doanh nghiệp đã
tập trung đầu tư cho việc sản xuất đạt tiêu chuẩn GMP. Số lượng các doanh nghiệp
sản xuất đạt tiêu chuẩn GMP tăng dần qua các năm, điều này đã thể hiện các doanh
nghiệp dược Việt Nam đã thực sự nhập cuộc với sự cạnh tranh trên thị trường.
Bảng 4: Số lượng doanh nghiệp đạt GMP, GSP, GLP qua các năm
Nnăm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
3/2009
GMP 18 25 31 41 45 57 66 74 89 92
GLP 0 6 16 26 32 43 60 74 89 92
GSP 0 3 8 11 30 42 64 79 106 110
Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam.
Việc thực hiện GP’s đã thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, cùng với việc
áp dụng hệ thống quản lý chất lượng đã tạo điều kiện để chất lượng thuốc tương
đồng với các nước về kỹ thuật và chỉ tiêu chất lượng. Các phòng kiểm tra chất
lượng của các nhà máy GMP được đầu tư trang thiết bị đạt GLP đáp ứng yêu cầu
kiểm soát chất lượng nguyên liệu đầu vào cũng như kiểm tra chất lượng sản phẩm
trước khi đưa ra thị trường, đây là một yếu tố quan trọng để giúp quản lý và đảm
bảo chất lượng thuốc. Đến hết năm 2008, 89 nhà máy đạt tiêu chuẩn GMP đã chiếm
khoảng 90% tổng trị giá thuốc sản xuất trong nước.
Hệ thống kiểm nghiệm thuốc ngày càng được tăng cường và hiện đại. Nhiều
trung tâm kiểm nghiệm cấp tỉnh có khả năng kiểm nghiệm các thuốc thiết yếu. Các
trung tâm kiểm nghiệm cũng đã triển khai công tác kiểm tra chất lượng theo qui
chế, kiểm nghiệm sàng lọc để ngăn ngừa thuốc giả, thuốc kém chất lượng, thuốc
quá hạn sử dụng, thuốc bất hợp pháp lưu hành trên thị trường.
Bảng 5: Số liệu về tỷ lệ mẫu thuốc không đạt chất lượng qua các năm
Năm Tổng số mẫu lấy để
kiểm tra chất lượng
Số mẫu không
đạt TCCL
Tỷ lệ thuốc không đạt
TCCL (%)
2001 35.751 1.167 3,26
2002 32.573 1.054 3,23
2003 31.966 986 3,08
2004 29.315 895 3,05
2005 29336 867 3,0
2006 29.819 947 3,18
2007 25.460 839 3.30
2008 25.320 744 2,94
Nguồn: Cục Quản lý dược
Thuốc không đạt chất lượng năm 2008 chiếm tỷ lệ 2,94% so với số lượng
mẫu lấy kiểm tra chất lượng trên toàn quốc, thấp hơn so với năm 2007 (3,30%).
Trong đó kháng sinh 26,9% (25/93 mẫu), kháng viêm 12,9% (12/93 mẫu), thuốc
tiêu hoá 11,8% (11/93 mẫu) với các chỉ tiêu không đạt chất lượng là hàm lượng, độ
ẩm, độ hoà tan và độ tan rã ; tỷ lệ thuốc đông dược và dược liệu 26,7% (22/93 mẫu)
với các vi phạm về chất lượng ở chỉ tiêu độ ẩm và độ nhiễm khuẩn. Thuốc đông
dược phần lớn được sản xuất ở các doanh nghiệp chưa đạt GMP, phòng kiểm tra
chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu nên tỷ lệ thuốc đông dược không đạt chất
lượng chiếm tỷ lệ cao: 22/49 mẫu thuốc sản xuất trong nước phải thu hồi. Điều đó
minh chứng cho lộ trình thực hiện GP’s là đảm bảo trước hết cho chất lượng thuốc
sản xuất và lưu hành trên thị trường.
Bảng 6 : Số liệu về thuốc không đạt chất lượng phải thu hồi
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng 55 70 77 62 56 66 83 93
Nguồn: Cục Quản lý dược
2.4. Giá cả dược phẩm.
Theo thống kê của Cục quản lý dược Việt Nam, thuốc nội địa đã đáp ứng được
50,2% nhu cầu trong nước. Các loại mặt hàng do doanh nghiệp sản xuất thuốc trong
nước cung cấp vẫn là các loại thuốc thông thường và có giá thành tương đối thấp so
với các sản phẩm cùng loại do nước ngoài cung cấp. Các sản phẩm này vẫn được thị
trường tin dùng là do thuốc nội có giá thành không cao trong khi chất lượng vẫn bảo
đảm, phù hợp với mức sống cũng như khả năng chi trả của người dân Việt Nam.
Trong khi giá nguyên liệu sản xuất kháng sinh ngày một tăng thì một số nhà sản
xuất có thể coi đây là cơ hội để chiếm lĩnh thị trường. Nguyên liệu Amoxicillin,
Ampicillin do Việt Nam sản xuất có giá thấp, chính vì vậy các doanh nghiệp trong
nước đã tiếp tục thực hiện cạnh tranh để có thể chiếm được thị phần nhỏ về các loại
thuốc thông dụng. Tuy nhiên khi chỉ sản xuất ban đầu là các dạng thuốc cơ bản
cũng đồng nghĩa với việc dư cung do các mặt hàng này được nhiều doanh nghiệp
trong nước cùng tham gia sản xuất và cung cấp.
Đồng thời do công nghiệp hóa dược của Việt nam hiện nay còn hạn chế, nên
có đến 90% nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược phải nhập khẩu. Việc phụ thuộc
nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu dẫn đến các rủi ro gây ảnh hưởng đến giá thuốc
trên thị trường như: rủi ro về tỷ giá, rủi ro về biến động giá nguyên vật liệu… Vì
vậy, các doanh nghiệp sản xuất luôn ở trong thế bị động; chỉ một sự thay đổi nhỏ
trong giá nhập dược liệu sẽ làm biến động giá thuốc trên thị trường
Hình 8: Thay đổi giá nguyên liệu năm 2008 so với 2007.
80%
34%
2%
0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90%
Hạ nhiệt-giảm đau-
chống co thắt
Vitamin
Kháng sinh
Nguồn: Tạp chí thương mại.
Năm 2008, các nguyên liệu nhập khẩu chính như kháng sinh tăng trung bình
2% (đặc biệt Cephalexin Bp có giá trị nhập khẩu cao đã tăng giá đến 11,7%),
vitamin tăng 34% và nguyên liệu của thuốc giảm đau, hạ sốt tăng 80%. Ðây là
nguyên nhân chính gây ra những điều chỉnh mạnh về giá thuốc trên thị trường Việt
Nam năm 2008 .
Để khắc phục được tình trạng này, các doanh nghiệp sản xuất phải có kế hoạch
chủ động để đối phó với mọi biến động của thị trường. Đông thời, Việt Nam có
tiềm năng lớn về nguồn dược liệu, nhưng hiện nay chưa thực sự được chú tâm quy
hoạch và khai thác. Điều này gây nên một sự lãng phí lớn.
2.5. Mức hấp dẫn của sản phẩm về chủng loại, mẫu mã, bao gói so với đối thủ
cạnh tranh
Dược phẩm là một loại hàng hóa đặc biệt có tác động trực tiếp đến tính mạng
và sức khỏe của người tiêu dùng nên dược phẩm có quy định chặt chẽ về chất lượng
thuốc và thời hạn sử dụng hay còn gọi là “ tuổi thọ của thuốc ”. Trong thời hạn sử
dụng thuốc sẽ phát huy tốt tác dụng, nếu quá thời hạn thuốc đó có thể giảm chất
lượng hoặc gây tác động xấu tới sức khỏe. Có nhiều loại thuốc dễ bị biến dạng dưới
tác động của môi trường nếu không được bảo quản đúng điều kiện, vì vậy, thuốc
phải được đóng bao gói đúng quy định và có kho bảo quản đảm bảo tiêu chuẩn.
Bao gói là yếu tố rất quan trọng đối với các sản phẩm tân dược của các doanh
nghiệp trong ngành và chất lượng bảo quản thuốc. Vì mỗi loại sản phẩm khác nhau
lại cần có cách thức bảo quản khác nhau: dạng bìa, vỏ hộp nhựa, bình thủy tinh,
bình nhựa Mỗi loại cần có tiêu chuẩn để đảm bảo yêu cầu an toàn riêng của ngành
y tế. Do tính chất cá biệt về mặt bao bì nên các doanh nghiệp ít có khả năng tự gia
công bao bì cho sản phẩm của mình. Chính vì vậy mà thuốc tân dược phải chịu sức
ép lớn từ các nhà cung cấp bao bì cho ngành tân dược.
2.6. Thương hiệu thuốc Việt Nam
Thương hiệu là giá trị kết tinh của quá trình hoạt động, là yếu tố quyết định sự
phát triển của mỗi doanh nghiệp. Thương hiệu chính là một điều kiện quan trọng
nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời thể hiện uy tín của sản phẩm
được người tiêu dùng tin tưởng. Để có thể tạo được thương hiệu cho sản phẩm thì
ngoài việc phải đảm bảo chất lượng sản phẩm thì khâu phân phối và quảng cáo
đóng vai trò vô cùng quan trọng giúp quảng bá sản phẩm đến người tiêu dùng một
cách nhanh chóng và hiệu quả.
Để có thể mở rộng mạng lưới phân phối thuốc, các doanh nghiệp đã áp dụng
chính sách tỷ lệ chiết khấu đối với khách hàng mua với số lượng lớn và điều tra thị
trường để có thể tiến gần đến thị trường hơn. Tuy nhiên nếu so với các doanh
nghiệp nước ngoài thì việc tiếp cận này còn khá chậm và chưa thực sự đáp ứng
được yêu cầu thực tế. Việc điều tra nhu cầu thị trường chủ yếu hiện nay là do các
công ty thương mại thực hiện, tuy nhiên sự gắn kết giữa nhà sản xuất và người phân
phối lại chưa chặt chẽ. Điều này đã tạo ra một sự lệch lạc về thông tin thị trường
tương đối lớn cho các doanh nghiệp trong ngành. Mặc dù các nhà sản xuất dược
phẩm hiện nay luôn có bộ phận nghiên cứu thị trường, tuy nhiên họ lại phụ thuộc
quá nhiều vào các đơn đặt hàng của các công ty thương mại và một phần thông tin
từ các nhà thuốc. Chính vì thế mà đôi khi có sự lệch lạc về nhu cầu dược phẩm dẫn
đến khả năng tiếp cận thị trường để đáp ứng đúng và kịp thời nhu cầu của người
tiêu dùng của dược nội địa còn kém. Như vậy vấn đề chính ở đây đó là điều kiện
tiên quyết để người tiêu dùng biết và sử dụng là việc tiếp cận nhu cầu thực sự của
thị trường phải được tập trung và chú ý một cách thỏa đáng.
Quảng cáo là một công cụ hữu hiệu để tạo nên hình ảnh cho sản phẩm. Mặc dù
trong thời gian vừa qua các doanh nghiệp đã tiến hành nhiều hoạt động quảng bá như
hội chợ, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, tài trợ cho các hoạt động
xã hội…nhưng vẫn chưa thực sự hiệu quả. Do người dân không thể tự kê đơn thuốc
cho mình mà phải thông qua các bác sĩ hoặc dược sĩ. Chính vì vậy mà việc thông tin
quảng cáo thuốc thường hướng vào các bác sĩ. Đồng thời do thiếu hiểu biêt về các
kiến thức y dược học nên người tiêu dùng sẽ không thể hiểu được hết tác dụng mà
loại dược phẩm đó đem lại. Các doanh nghiệp trong nước hiện nay cũng đã bắt đầu
sử dụng đội ngũ trình dược viên để có thể tiếp cận với các bác sĩ, các nhà thuốc…Tuy
nhiên như vậy chưa đủ vì các doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh bằng
cùng một phương thức với các doanh nghiệp dược nước ngoài vốn đã có kinh nghiệm
và tiềm lực mạnh về tài chính. Đây có thể coi là một điểm hạn chế của dược phẩm
Việt Nam khi tiến hành cạnh tranh trên thị trường.
Tình hình sản xuất kinh doanh thuốc phát triển, theo đó hoạt động thông tin
quảng cáo thuốc cũng phát triển, số lượng hồ sơ đăng ký thông tin quảng cáo tăng
lên đáng kể (123 %) so với năm 2007, trong đó thông tin quảng cáo thuốc nước
ngoài tăng 136% so với năm 2007. Đồng thời số lượng các quảng cáo vi phạm quy
chế cũng có xu hướng tăng lên nhưng không nhiều. Số liệu cụ thể như sau:
Bảng 7: Tình hình thông tin quảng cáo thuốc
Năm Hồ sơ quảng cáo thuốc
trong nước
Hồ sơ quảng cáo
thuốc nước ngoài
Tổng số
2005 994 469 1463
2006 695 575 1270
2007 525 671 1196
2008 563 915 1478
Nguồn: Cục Quản lý dược
Bảng 8: Số liệu về tình hình vi phạm quy chế Thông tin quảng cáo
Năm Công ty trong nước
vi phạm
Công ty nước
ngoài vi phạm
Tổng số
2005 4 12 16
2006 16 13 29
2007 24 8 32