Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.78 KB, 46 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Lời nói đầu
Cạnh tranh là động lực của sự phát triển. Nền kinh tế nào có mơi trường
cạnh tranh tốt, lành mạnh, kinh tế đất nước đó phát triển bền vững. Bước sang
giai đoạn mới - giai đoạn hội nhập và phát triển - Nền kinh tế nước ta đã và đang
có sự chuyển đổi lớn - mang diện mạo của cơ chế mở, tự do cạnh tranh. Nền
kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nhiệp phải chủ động trong quá trình sản
xuất kinh doanh của mình, nâng cao năng lực cạnh tranh ở phạm vi ngành, phạm
vi quiốc gia và trên trường quốc tế. Đặc biệt, khi Việt Nam đã chính thức là
thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO, việc tham gia
vào sân chơi chung cua thế giới mở ra nhiều cơ hội song cũng không ít thách
thức đối với nền kinh tế của Việt Nam. Trong đó việc phải bắt buộc tuân thủ
những luật chơi chung với sự cạnh tranh rất khốc liệt của tất cả các nền kinh tế
Quốc tế. Chính vì thế, trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao năng lực cạnh
tranh đối với tất cả các loại hàng hoá "Made in Viêt Nam", chú trọng vào các mặt
hàng thế mạnh, đang là vấn đề cấp thiết được đặt ra đối với mỗi ngành và toàn
bộ nền kinh tế. Tuy nhiên so với nhiều nước trong khu vực, năng lực cạnh tranh
của hàng hố Việt Nam chưa cao, cần có giải pháp phát triển, cải thiện theo
hướng hiệu quả nhất để phát huy được những ưu thế, tiềm năng của nước ta. Đó
cũng chính là lí do tơi chọn đề tài:
"Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam khi gia nhập tổ
chức thương mại thế giới WTO"
Kết cấu đề tài gồm 2 phần lớn:
A. Khái quát về tổ chức thương mại thế giới WTO:
I. Tổng quan về WTO.
II. Quá trình gia nhập WTO của Việt Nam.
B. Một số vấn đề về năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam:
I. Lý luận về cạnh tranh và kinh nghiệm của một số nước (ASEAN và
Trung Quốc).
II. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam và giải pháp


nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hoá khi gia nhập WTO của Việt Nam.

1


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

A. KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO.
I. Tổng quan về WTO:

WTO (World Trade Oganization) là tổ chức thương mại thế giới được
thành lập vào năm 1995, tiền thân là hiệp định chung về thuế quan và thương
mại GATT (General Agreement on Tariffs and Trade) bắt đầu chính thức có
hiệu lực từ năm 1948. WTO là một tổ chức kinh tế nhiều bên có quy tắc kinh tế
thương mại quốc tế chuẩn mực hiện nay. WTO cùng Quỹ tiền tệ thế giới và
ngân hàng thế giới được coi là ba trụ cột lớn của kinh tế thế giới. Sau đại chiến
thế giới GATT và WTO đã phát huy tác dụng quan trọng trong việc mở cửa thị
trường thương mại quốc tế, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, thu hút
đông đảo các nước phát triển tham gia thương mại nhiều bên, thúc đẩy phát triển
kinh tế thế giới.
Từ khi thành lập (1948), số thành viên của tổ chức này chỉ là 23, con số
này không ngừng tăng lên qua các năm. Đến nay đã có 150 quốc gia trên tồn
thế giới thm gia vào WTO.
1. Tơn chỉ:
Nâng cao mức sống, bảo đảm có việc làm đầy đủ và thu nhập thực tế, nhu
cầu có hiệu quả được nâng cao với biên độ ổn định lớn; mở rộng sản xuất và
thương mại về hàng hoá và dịch vụ nhằm mục đích phát triển bền vững, mở
rộng việc lợi dụng đầy đủ tài nguyên thế giới, bảo vệ môi trường; cần phải cố
gắng tích cực đảm bảo các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước chậm phát
triển nhận được phần tương ứng phát triển kinh tế của họ trong sự tăng trưởng

thương mại Quốc tế; thông qua sự sắp xếp cùng nhau có lợi, giảm thấp thiết thực
thuế quan và hàng rào thương mại khác trong quan hệ thương mại quốc tế, loại
bỏ sự phân biệt thương mại đối sử, xây dựng một hệ thống thương mại nhiều
bên hoàn chỉnh, càng có sức sống và lâu dài, quyết tâm duy trì nguyên tắc cơ
bản của thể chế thương mại, những thành quả cố gắng tự do hoá thương mại
trước vòng đàm phán Uruguay (1995) tiến đến tăng cường thực hiện mục tiêu
của thể chế này.
2. Chức năng cơ bản và địa vị pháp luật:
a. Chức năng:
• Quản lý và thực hiện hiệp định thương mại nhiều bên và hiệp định thương
mại các bên cùng cấu tạo nên quy tắc WTO.
• Là trụ sở và diễn đàn đàm phán thương mại nhiều bên đồng thời cung cấp
khuôn khổ cho kết quả đàm phán thương mại nhiều bên.
2


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

• Giải quyết tranh chấp theo cơ chế tranh chấp, tránh hạn chế sự cọ sát
chiến tranh thương mại, có lợi cho cân đối và phát triển cơng bằng thương mại.
• Giám sát và xem xét chính sách và cơ chế thương mại của các nước thành
viên.
• Điều hồ mối quan hệ với các tổ chức kinh tế có ảnh hưởng đến chính
sách thương mại như Tổ Chức Quỹ Tiền Tệ Thế Giới và Ngân Hàng Thế Giới,
nhằm đảm bảo tính thống nhất của quyết sách kinh tế toàn cầu.
b. Địa vị pháp luật:
WTO có tư cách pháp nhân, khi thực hiện chức trách có liên quan, có độc
quyền cần thiết và quyền miễn trừ. Đây không phải là cơ quan chuyên môn của
Liên Hợp Quốc, thành viên của nó gồm các quốc gia có chủ quyền, cũng bao
gồm khu vực thuế quan riêng lẻ.

3. Cơ cấu tổ chức:
- Hội nghị bộ trưởng (MC) :là cơ quan quyền lực cao nhất của WTO, ít
nhất 2 năm họp một lần.
+ Thực hiện chức năng của WTO, nêu lên quyết định đối với đối với bất kì
việc gì trong hiệp định thương mạ nhiều bên.
+ Gồm: Các bộ trưởng, quan chức cấp thứ trưởng chuyên về cơng tác kinh
tế tài chính nước thành viên hoặc đại diện toàn quyền các nước thành viên.
- Đại hội đồng (GC) :
+ Thực hiện các chức năng của MC. Ngoài ra thực hiện chức năng hiệp
định WTO chỉ định, đặt ra quy tắc trình tự của mình.
+ Gồm: Tất cả các đại diện của các nước thành viên.
- Uỷ ban chuyên môn và các cơ quan chuyên trách: Dưới MC.
4. Nguyên tắc: 6 nguyên tắc:
1. Kinh tế thị trường và tự do cạnh tranh: Mở cửa thị trường, tự do hố
thương mại. Địi hỏi các nước gia nhập phải thực hiện kinh tế thị trường, lấy
kinh tế thị trường làm nền tảng.
2. Không phân biệt đối sử: Ưu đãi và hạn chế đòi hỏi hai bên thành viên
phải thực hiện, là hòn đá tảng và cốt lõi của WTO.
3. Sự ràng buộc thuế quan và cắt giảm thuế quan: Cơ sở ưu đãi sau các
cuộc đàm phán nhiều bên có sức ràng buộc các thành viên.
4. Nguyên tắc loại bỏ sự hạn chế số lượng nói chung: Bất kì là nước kí hiệp
địmh nào ngồi thuế, các khoản lệ phí khác ra, khơng được lập và duy trì hạn
ngạch, giấy cho phép xuất nhập khẩu hoặc các biện pháp khác nhằm hạn chế
hoặc ngăn chặn nhập.
3


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

5. Nguyên tắc thương mại cộng đồng: Chủ yếu nhằm chống lại sự bán phá

giá và chống sự trợ giá.
6. Nguyên tắc minh bạch: Hải quan nước kí kết hiệp định thực hiện có hiệu
quả về phân loại và tin giá đối với sản phẩm, tỷ xuất thu thuế đối với các loại lệ
phí khác, về hàng hố xuất nhập khẩu và các quy chế ngăn cấmvề chuyển khoản
thanh toán.
5. Quyền và nghĩa vụ của các thành viên:
a. Đối với các thành viên nói chung:
• Quyền lợi và nghĩa vụ:
Các mặt như hàng hố, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ theo hiệp nghị
GAAT/WTO hưởng thụ đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia về điều kiện
nhiều bên, lâu dài, ổn định.
Sử dụng các cơ quan giải quyết tranh chấp WTO, đồng thời tiếp nhân sự
giám sát của cơ quna giải quyết tranh chấp đối với mình, giải quyết cơng bằng,
các tranh chấp thương mại.
Tham gia đàm phán tập thể và hoạt động của thể chế thương mại nhiều bên
để có quyền chế định và quyền quyết định các quy luật kinh tế thương mại quốc
tế.
Được hưởng hiến pháp ngoại tệ, tự vệ nhằm đảm bảo an toàn kinh tế và ổn
định xã hội của nước mình, đồng thời khơng được lạm dụng những nguyên tắc
này để thực hiện chủ nghĩa độc quyền về thực chất.
• Sự ràng buộc:
Tự ràng buộc mình: Tuân theo cam kết của mình, đặc biệt đảm bảo luật
pháp trong nước không trái hiệp định, nguyên tắc của WTO.
Ràng buộc tập thể: Giám sát việc chấp hành hiệp nghị thương mại nhiều
bên.
Ràng buộc trả đũa: Nguyên tắc cùng có lợi và ưu đãi lẫn nhau. Đối phương
thường muợn cớ người khác vi phạm, nhưng cuối cùng cả hai đều đạt được thoả
hiệp, theo đúng nguyên tắc bình thường của tổ chức.
b. Đối với các nước đang phát triển (các nước chưa hồn thành cơng nghiệp hố
và đang trong giai đoạn phát triển)

Quy định các thành viên nước phát triển cung cấp viện trợ, kĩ thuật và mở
cửa tồn diện, đơn phương thị trường hàng hố và dịch vụ đối với các nước đang
phát triển.

4


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

• Hiệp định chống bán phá giá quy định: Các nước đang phát triển khi thực
hiện bán phá giá cần xem xét đặc biệt trong tình hình đặc thù đối với các sản
phẩm của các nước đang phát triển xuất khẩu.
• Hiệp nghị về cho phép xuất khẩu: Những cục kí và cấp giấy phép cần đặc
biệt xem xét giấp phép phân phối đặc biệt đối với những nhà buôn của các nước
đang phát triển và chậm phát triển.
• Hiệp định hàng rào kĩ thuật cản trở thương mại: Sự đãi ngộ đặc biệt,
khơng cản trở các nước này xuất khẩu.
• Hiệp nghị về biện pháp y tế và kiểm dịch: Các nước không áp dụng biện
pháp kiểm dịch để hạn chế xuất khẩu của các nước đang phát triển.
II. Quá trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO của Việt Nam

1. Bước đường gia nhập WTO:
Theo thời báo kinh tế Việt Nam số Tết Đinh Hợi 2007 đã nhận xét: "Việt
Nam là thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO.
Quá trình đàm phán 11 năm đã khép lại với bao kỉ niệm, những linh hoạt và trí
tuệ , những kiên trì và nỗ lực của Việt Nam đã đơm hoa thơm, kết trái ngọt".
Các cột mốc đáng nhớ:
- Tháng 01/1995: Việt Nam chính thức gửi đơn xin gia nhập WTO.
- Ngày 31/01/1995: Ban xem xét công tác gia nhập (WP) của Việt Nam
được thành lập.

- Đầu năm 2002: Việt Nam gửi bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ
tới WTO và bắt đầu tiến hành song phương đối với một số thành viên.
- Ngày 09/10/2004: Việt Nam và EU đạt được thoả thuận song phương.
- Ngày 09/06/2005: Việt Nam và Nhật Bản đạt được thoả thuận song
phương cơ bản.
- Ngày 18/07/2005: Việt Nam và Trung Quốc đạt được thoả thuận xong
phương.
- Ngày 31/05/2006: Kí thoả thuận kết thúc đàm phám song phương bằng
thoả thuận song phương với Mỹ.
- Ngày 13/10/2006: Việt Nam hồn tất đàm phán đa phương. Cuộc đàm
phán trước đó diễn ra căng thẳng và tưởng chừng không kết thúc được cho đến
phút chót.
- Ngày 07/11/2006: Phiên họp đặc biệt của đại hội đồng WTO đã thông qua
quyết định kết nạp WTO. Bộ trưởng Trương Đình Tuyển thay mặt chính phủ
Việt Nam kí nghị định thư gia nhập. Theo quy định 30 ngầy sau khi ban thư kí
WTO nhận được văn bản phê chuẩn, quy chế chính thức có hiệu lực.

5


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

- Ngày 29/11/2006: Quốc hội Việt Nam phê chuẩn kết quả thoả thuận.
- Ngày 06/12/2006: Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết kí lệnh công bố nghị
quyết phê chuẩn nghị định thư.
- Ngày 11/12/2006: Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ ngoại giao Phạm Gia
Khiêm gửi ban thư kí WTO thơng báo hồn tất thủ tục phê chuẩn. Cùng ngày
Đại diện Thương mại Việt Nam bên cạnh WTO tại Geneva chuyển tới chủ tịch
đại hội đồng WTO.
- Ngày 11/01/2007: Quy chế thành viên chính thức có hiệu lực.

2. Tác động của hội nhập WTO với Việt Nam:
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu: Trong bối cảnh tồn cầu
hố, sự mở cửa các nền kinh tế nội địa, sự tăng cường các thể chế kinh tế quốc
tế và quyền lực của các cơng ty xun quốc gia đã đóng gáp vào việc thúc đẩy
cấu trúc thị trường được hội nhập trên phạm vi tồn cầu.
Thực tế khơng thể phát triển chỉ nhờ lợi thế so sánh, nó khơng phải chìa
khố vàng dẫn các nước đến sự thịnh vượng. Điều quan trọng là phải nắm bắt
được lợi thế cạnh tranh qua tri thức, đổi mới, nguồn vốn để đạt được những chỉ
tiêu tăng trưởng bền vững.
a. Thuận lợi:
• Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu (do áp dụng việc cắt giảm hàng rào
thuế quan) với nguồn tài nguyên phong phú và chi phí lao động rẻ. Hiện nay,
hàng xuất khẩu của Việt Nam phải chịu mức thuế quan phi tối huệ quốc(NonMFN) vào khoảng 40%,mức cao hơn nhiều so với tỷ lệ thuế quan trong WTO.
VD: Thuế quan đánh vào dệt may Việt Nam vào Mỹ hiện tại cao gấp 3 lần
mức thuế quan nếu như Việt Nam là thành viên của WTO.
• Thu hút nhiều vốn đầu tư trưc tiếp FDI, môi trường đầu tư lành mạnh, hệ
thống pháp luật thuận lợi, hồn chỉnh, gọn gàng.
• Bảo vệ được quyền lợi hợp pháp dựa vào cơ quan giải quyết tranh chấp
WTO, những vụ kiện thương mại.
Trong những năm qua, Việt Nam phải chịu nhiều tổn thất trong thương mại
quốc tế với các đối tác nước ngồi vì Việt Nam khơng phải là thành viên của
WTO, để có thể dựa vào hệ thống này nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng.
VD: Việc sản phẩm cá Basa của Việt Nam phải chịu mức thuế bán phá giá
của Mĩ (bán dưới mức chi phí thị trường, làm tổn hại đến các nhà sản xuất Mĩ.
Do chưa gia nhập, việc đàm phán để duy trì xuất khẩu cá Basa sang Mĩ chỉ trên
cơ sở của hiệp định-Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kì.Và
kết quả khơng thể ngăn Mĩ thực hiện hàng bán phá giá vào sản phẩm cá Basa.

6



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

• Cơ hội việc làm: Đối với các ngành cần nhiều lao động (dệt may thuỷ sản,
hàng thủ công và nông nghiệp).
b. Thách thức:
Thách thức lớn nhất là việc đảm bảo khả năng cạnh tranh của từng doanh
nghiệp, từng ngành nói riêng và tồn quốc gia nói chung.
Việc mở cửa tạo ra mơi trường thuận lợi cho kimh doanh sẽ làm cho doanh
nhân nước ngồi có sự tiếp cận rộng gơn với thị trường Việt Nam. Nhiều ngành
dịch vụ rơi vào bất lợi.
VD: Tại vòng đàm phán Đoha đã đạt được những yêu cầu khó khăn hơn
đối với nghành nơng nghiệp của các thành viên như: Xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu,
thực hiện chuẩn quốc tế về đảm bảo an toàn thực phẩm, xoấ bỏ hàng rào thuế
quan.
(Những vấn đề cụ thể sẽ được đề cập đến trong phần sau)

B. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ VIỆT NAM
KHI GIA NHẬP WTO.
I. Lý luận về cạnh tranh và kinh nghiệm của một số nước (Trung Quốc và các
nước Asean).

1. Lý luận về cạnh tranh:
a. Quan niệm về cạnh tranh của kinh tế chính trị Mác-Lênin:
• Khái niệm:
Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất
hàng hoá nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ
hoặc tiêu dùng hàng hoá để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Cạnh tranh có thể diễn ra giữa những người sản xuất với người tiêu dùng.
VD:Người sản xuất muốn bán được hàng hoá với giá cao cịn người tiêu dùng

thì lại muốn mua với giá rẻ; hoặc giữa những người tiêu dùng để mua những
hàng hoá rẻ hơn, chất lượng hơn; hoặc giữa những người sản xuất với người sản
xuất nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng
hoá, như điều kiện về vốn lao động, nguồn nguyên liệu thị trường, giành giật nơi
đầu tư có lợi... để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Trong cuộc cạnh tranh
này người ta có thể dung nhiều biện pháp khác nhau. Chẳng hạn để gình giật thị
trường tiêu thụ, họcó thể dùng biện pháp cạnh tranh giá cả như giảm giá cả hàng
hoá để đánh bại đối thủ, hoặc cạnh tranh phi giá cả như dùng thông tin, quảng
cáo sản phẩm, quảng cáo dây truyền sản xuất để kích thích tiêu dùng.
7


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Vai trò của cạnh tranh:
• Mặt tích cực:
Cạnh tranh có vai trị rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh
mẽ nhất thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc ngươi sản xuất phải thường xuyên
năng động, nhạy bén, thường xuyên cải tiến kĩ thuật, áp dụng tiến bộ khoa học
công nghệ, nâng cao tay nghề, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất,
chất lượng và hiệu quả kinh tế. Đó chính là cạnh tranh lành mạnh. Thực tế cho
thấy, ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì ở đó thường trì trệ
bảo thủ, kém phát triển.
• Mặt tiêu cực:
Đó chính là cạnh tranh không lành mạnh như dùng những thủ đoạn vi phạm
đạo đức hoặc vi phạm pháp luật nhằm thu được nhiều lợi ích nhất cho mình, gây
hai cho tập thể, cộng đồng, xã hội như làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, ăn cắp
bản quyền, tung tin phá hoại đối thủ, hoặc cạnh tranh làm phân hoá giầu nghèo
hoặc tổn hại đối vơíu mơi trường sinh thái v.v...
b. Quan điểm về cạnh tranh dựa trên mơ hình năm lực lượng của Michael Porter:

• Khách hàng:
Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thì sự tín nhiệm
của khách hàng có thể được coi như là một phần thưởng vơ giá của doanh
nghiệp. Sự tín nhiệm đó được có được là do doanh nghiệp đã cung cáp những
sản phẩm phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Trong trường hợp nhà cung cấp
giữ vị trí độc quyền thì khách hàng lệ thuộc hồn tồn vào nhà cumg cấp. Chính
vì vậy trong nền kinh tế thị trường, chúng ta cần có luật chống độc quyền.
• Các đối thủ cạnh tranh theo nghành:
Mức độ căng thẳng của sự cạmh tranh của các đối thủ không phải là biến số
dễ dàng đo được. Trong một số ngành cạnh tranh có thể là "bóp nghẹt", trong
khi đó ở một số ngành khác mối quan hệ giữa các doanh nghiệp lại được coi là
"lịch sử" hay "có trật tự", các yếu tố xác định mức độ tranh giành: Tăng trưởng
của ngành, chi phí cố định hoặc chi phí lưu kho, sự vượt cơng suất khơng liên
tục, những khác biệt về sản phẩm, sự xác định của các nhãn hàng và chi phí
chuyển của khách hàng, số doanh nghiệp và quy mô tương ứng của chúng, sự đa
dạng của các đối thủ cạnh tranh, lợi ích của công ty, hàng rào rút khơi cao.
Trong thực tế các nhà đầu tư đặc biệt khơng thích những cuộc chiến cạnh tranh
thơng qua giá cả vì nó sẽ làm giảm lợi nhuận co cả ngành.
• Các nhà cung cấp:
Những nhà cugn cấp vật tư nguyên vật liệu thiết bị cho doanh nghiệp có thể
làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp bằng việc tăng giá, giảm chất lượng vật tư
8


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

cung cấp hoặc giảm các dịch vụ đi kèm sẽ có thể gây áp lực cho các doanh
nghiệp khi số lượng các nhà cung cấp ít, khơng có loại thay thế khi chi phí cho
việc chuyển sang các nhà cung cấp khác rất tốn kém.
• Các doanh nghiệp sẽ tham gia thị trường (đối thủ tiềm ẩn):

Các đói thủ tiềm ẩn thường xuất hiện ở khu vực mới hình thành bởi vì khu
vực này nhu cầu lớn, lợi nhuận cao thì khách hàgn chưa kịp làm quen với những
sản phẩm có uy tín. Mối đe doạ này phụ thuộc vào ba nhân tố: Độ hấp dẫn của
khu vực, độ lớn của các rào chắn vào khu vực, phản ứng từ phía các nhà sản
xuất trong khu vực đối với đối thủ mới.
Quy mô rào cản ở các khu vực bao gồm quy mô sản xuất của một doanh
nghiệp ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, quy mơ càng lớn thì gái thành càng
thấp. Chính vì vậy mà một daonh nghiệp mới nhảy vào khu vực thì quy mơ
doanh nghiệp mới cần vượt qua ngưỡng: Giá thành sản phẩm cần thấp hơn giá
mà thị trường chấp nhận, có quy mơ phải vượt ngưỡng quy mô của các doanh
nghiệp hoạt động trong khu vực.
Nhân tố quyết định quy mơ rào cản đầu vào cũng chính là khả năng liên kết
của doanh nghiệp đối với hệ thống kênh tiêu thụ. Một doanh nghiệp mới tham
gia khu vực để cho hệ thống kênh tiêu thụ sản phẩm cho mình phải dùng biện
pháp giảm giá hoặc ưu đãi khác. Quyết định quy mô rào cản đầu vào bao gồm cả
hệ thống chính sách; thủ tục cấp giấy phép, thủ tục đăng kí chất lượng sản phẩm
nhãn mác và đó là một rào cản; chính sách thuế xuất nhập khẩu.
• Các sản phẩm thay thế:
Nếu các sản phẩm thay thế cho các sản phẩm của ngành là sẵn có thì khách
hàng có thể chuyển sang các sản phẩm thay thế đó nếu các doanh nghịêp đang
tồn tại đạt giá cao. Vì thế mối đe doạ của các sản phẩm thay thế là một lực lượng
thị trường quan trọng tạo ra giới hạn đối với các mức mà giá mà các doanh
nghiệp đã đặt ra. Tầm quan trọng của mối đe doạ này phụ thuộc vào ba yếu tố:
giá và cơng dụng của các sản phẩm thay thế, chi phí chuyển đổi đối với khách
hàng, khuynh hướng thay thế của người mua, khả năng sản phẩm thay thế tăng
lên cùng sự già cõi, sự lạc hậu của sản phẩm trong khu vực (khu vực đang trong
gai đoạn suy thoái) bên cạnh đó do tiến bộ của khoa học cơng nghệ, xuất hiện
sản phẩm mới đáp ứng tốt hơn nhu cầu và thị hiếu của khách hàng.
c. Thực tế cạnh tranh:
Môi trường thường xuyên biến động của thực tiễn hoạt động sản xuất kinh

doanh cho thấy khơng có một mơi trường nào ở trạng thái cạnh tranh hoàn hảo
hoặc hoàn toàn độc quyền, nó chỉ có ý nghĩa tương đối vì năng lực thực tế, điều
kiện củ quan và kể cả "cơ may" của các doanh nghiệp không thể đồng nhất. Mọi
9


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nền kinh tế thị trường đều có trạng thái cạnh tranh khơng hồn hảo, ở đâu đó
giữa hai cực này. Cả hai lực lượng độc quyền và cạnh tranh kết hợp với nhau
trong việc xác định phần lớn giá cả. Vì thế càng khẳng định rõ hơn: Xác định
một nền kinh tế là có tính cạnh tranh hay độc quyền trở nên có ý nghĩa tương
đối. Tuy nhiên cũng khơng phải là vì tính tương đối và sự phức tạp cảu vấn đề
mà khơng thể phân biệt rạch rịi giữa tình trạng độc quyền và tính cạnh tranh về
ngun tắc, người ta có thể coi một nền kinh tế có nhiều yếu tố cản trở sự cạnh
tranh là một nền kinh tế thiếu cạnh tranh và ngược lại.
Cạnh trnanh là hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, do đó cạnh tranh
chỉ xuất hiện dưới những tiền đề kinh tế và pháp lý cụ thể. Ngày nay nền kinh tế
thị trường được khẳng định là một sựphát triển tất yếu là động lực phát triển nội
tại của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh cũng chỉ thẹc sự diễn ra khi pháp luật
thừa nhận và bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu, khi tự do thương mại
theo đó là tự do kinh doanh. Cạnh tranh cũng chỉ thực sự diễn ra khi khơng có
bất kì một quy định hay hành vi nào ngăn cản sự nhập cuộc của các daonh
nghiệp tiềm năng - những doanh nghiệp chuẩn bị gia nhập thị trường.
Điều đó có nghĩa là cạnh tranh chỉ xuất hiện được khi khơng có độc quyền
dưới bất cứ hình thức nào. Ngày nay nhu cầu năng cao hơn nữa hiệu quả và sức
cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế đang đòi hỏi
phải tạo ra cơ sở pháp lý cho tự do kinh tế. Có thể có nhiều định nghĩa khác
nhau cạnh tranh song nhìn chung, cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua hay ganh
đua của một thành viên của một thị trường hàng hoá, sản phẩm cụ thể nhằm mục

đích lơi kéo về phía mình ngày càng nhiều khách hàng, thị trường và thị phần
của thị trường. Như vậy về phương diện kinh tế, cạnh tranh được hình thành trên
cơ sở của tiền đề là: Có sự hiện diện của các thành viên thương trường có ự chạy
đua vì mục tiêu kinh tế của các thành viên và chúng đều diễn ra trên một thị
trường hàng hoá cụ thể. Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của công
quyền và đời sống kinh tế, người ta phân thị trường thành hai hình thái: Cạnh
tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết.
Cạnh tranh tự do là hiện tượng khơng thể có trong thế giới hiện đại vì kinh
tế thị trường hiện đại ln có nhu cầu được điều tiết và nhà nước nào cũng có
chính sách kinh tế riêng và vì thế ln tìm cách hướng các hạot động kinh tế vào
mục tỉêu kinh tế (vĩ mơ) của mình. căn cứ vào mục đích tính chất của các
phơưng thức cạnh tranh người ta phân nhóm các hành vi cạnh tranh dựa trên các
hình thái kin tế thị trờng gồm hai loại: Cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh
khơng lành mạnh. Tuy nhiên, vì được bảo hộ bởi các nguyên tắc về quyền tự do

10


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

kinh doanh, tự do thế ước và tự do lập hội và sự giục giã của lợi nhuận nên thực
trạng của thương trường luôn diễn ra theo hướng không lành mạnh.
d. Các yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh ngành:
• Tác động cảu môi trường quốc tế:
Môi trường quốc tế ảnh hưởng rất lớn đến cạnh tranh của ngành. Ngày nay
xu thế khu vực hoá và quốc tế hoá nền kinh tế thế giới là xu hướng có tính khách
quan. Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng mở cửa và hội
nhập. Nền kinh tế quốc dân nước ta trở thành một phân hệ mở cửa của một hệ
thống lớn là khu vực và thế giới. Hoạt động kinh doanh của nhiều doang nghiệp
phụ thuộc vào sự thay đổi chính trị trên trường quốc tế, các quy định pháp luật

của các quốc gia, luật pháp và các thông lệ quốc tế, ảnh hưởng của các yếu tố
kinh tế quốc tế. Mức độ thịnh vượng, khủng hoảng, những thay đổi trong qunn
hệ buôn bán quốc tế, các yếu tố kĩ thuật cơng nghệ văn hố xã hội...tất cả đều
ảnh hưởng đến hạot động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có thể tạo cơ
hội cũng như thách thức đối với sự tồn tại và phát triển cảu ngành.
• Tác động của môi trường kinh tế quốc dân:
Môi trường kinh tế quốc dân bao gồm mọi nhân tố cảu nền kinh tế quốc
dân nằm ngồi mơi trường cạnh tranh nội bộ ngành tác động trực tiếp hoặc
gaínn tiếp đến hoạt động kinh doanh cảu các doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế
có vai trị quan trọng hàng đầu và ảnh hưởng có tính quyết định đến hoạt động
kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng mạnh đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thường là trạng thái phát triển cảu nền
kinh tế. Tăng trưởng, ổn định hay sinh thái. Việc tạo ra môi trường kinh doanh
lành mạnh hay khơng lành mạnh hay khơng hồn tồn phụ thuộc vào yếu tố luật
pháp và quản lí nhà nước về mặt kinh tế.Việc ban hành hệ thống luật pháp có
chất lượng và đưa vào đời sống là điều kiện đầu tiên đảm bảo mơi trường kinh
doanh bình đẳng, tạo điều kiện cho mọi daonh nghiệp có cơ hội cạnh tranh lành
mạnh cùng hệ thống luật pháp, quản lí nhà nước về mặt kinh tế là nhân tố tác
động lớn đến hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Các chính sách đầu
tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu...sẽ tạo ra sự ưu tiên hay kìm
hãm sự phát triển của từng ngành, tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp thuộc ngành kinh tế nhất định. Trình độ kĩ thuật
cơng nghệ, nhân tố văn hoá xã hội, nhân tố tự nhiên ảnh hưởng rất lớn, đòi hỏi
phải nghiên cứu, ứng dụng phù hợp nhất.
• Tác động của mơi trường bên trong doanh nghiệp:
∙ Chất lượng hoạt động Marketing nhằm xác định nhu cầu của khách hàng,
thị hiếu cảu khách hàng để trên cơ sở đó hoạch định các chính sách kích thích
11



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

tiêu thụ. Chất lượng hoạt động Marketing của doanh nghiệp ngày càng cao,
phạm vi càng rộng thì càng góp phần giúp cho doanh nghiệp có lợi thế cho cạnh
tranh.
∙ Khả năng sản xuất nghiên cứu và phát triển khả năng này thể hiện ở doanh
nghiệp sản xuất những sản phẩm có chất lương cao hơn, giá thành thấp hơn so
với các đối thủ cạnh tranh. Khả năng nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp
có vai trị rất quan trọng, nó có thể giúp cho daonh nghiệp có vai trị quan trọng,
nó có thể giúp cho các doanh nghiệp vẫn giữ được vị trí hàng đầu trong khu vực
cạnh tranh hoặc có thể làm cho doanh nghiệp tụt hậu trong khu vực.
∙ Nguồn nhân lực: Là năng lực trình độ cán bộ quản lý, trình độ tay nghề
đạo đức của người lao động, giá trị của các mối quan hệ trong lao động trong
doanh nghiệp đối với các đối thủ cạnh tranh.
∙ Tình hình tài chính: Điều kiện tài chính thường được xem là phương pháp
đánh giá vị trí cạnh tranh tốt nhất cho các doanh nghiệp so với đối thủ và điều
kiện tài chính của doanh nghiệp thường được đánh giá thơng qua các chỉ tiêu
như khả năng thanh toán của doanh nghiệp, can nợ, vốn luôn chuyển, lượng tiền
mặt, tỉ xuất lợi nhuận,...
∙ Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp: Quản trị doanh nghiệp tác động mạnh
mẽ đến hoạt động lao động sáng tạo của đội ngũ lao động, đến sự đảm bảo cân
bằng giữa doanh nghiệp với môi trường bên ngồi cũng như cân đối có hiệu quả
các bộ phận bên trong doanh nghiệp, quan hệ nhân quả giữa hia hoạt động này
ảnh hưởng đến hiệu quả cơ cấu tổ chức thông qua các chỉ tiêu tốc độ giao thiết
bị, tính kịp thời, độ chính xác của các quyết định.
2. Kinh nghiệm của một số nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hàng
hoá (một số nước ASEAN và Trung Quốc):
a. Đối với Thái Lan:
Mặc dù Thái Lan là một trong 5 nước sáng lập ra ASEAN (8/1967), khối
kinh tế khu vực được coi là phát triển năng động nhất hiện nay, đồng thời, Thái

lan còn là thành viên của Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông
Mê Công (gồm Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam, ký ngày 17/9/1957),
nhưng quá trình hội nhập thực sự của Thái Lan với nền kinh tế thế giới bắt đầu
thể hiện rõ nét vào cuối những năm 80 thế kỷ XX, khi kinh tế Thái Lan rơi vào
cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.
Vào thời kỳ này, Chính phủ Thái Lan thực hiện 2 cuộc cải cách quan trọng:
Khu vực kinh tế tư nhân được chính thức thừa nhận là động lực phát triển của
nền kinh tế quốc dân. Nhà nước khuyến khích khu vực kinh tế này đi đầu trong
lĩnh vực đầu tư vì khu vực kinh tế quốc doanh gặp nhiều khó khăn trong lĩnh
12


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

vực tài chính. Kinh doanh được tự do triệt để, do vậy, khu vực kinh tế tư nhân
đã phát huy được những lợi thế của kinh tế thị trường; Chính phủ Thái Lan đã
ban hành những chính sách ưu đãi đặc biệt cho ngành công nghiệp sản xuất hàng
xuất khẩu. Đồng thời, Bộ Thương mại Thái Lan từng bước hoàn thiện hệ thống
các cơng cụ hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu. Bộ Tài chính Thái Lan thực thi
việc giảm thuế xuất nhập khẩu, nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động kinh
tế đối ngoại. Hai cải cách kinh tế nêu trên đã đánh dấu quá trình hội nhập thực
sự của nền kinh tế Thái Lan với nền kinh tế thế giới và khu vực.
Từ giữa thập kỷ 90 thế kỷ trước trở lại đây, nền kinh tế thế giới nói chung
và nền kinh tế Thái Lan nói riêng đã có những biến đổi sâu sắc. Vì vậy, Thái
Lan đã tự đánh giá và điều chỉnh để đưa ra chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế
phù hợp với tình hình mới. Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế gồm 4 nội dung
chủ yếu: Đào tạo nguồn nhân lực; tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài; nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu và tăng cường thâm
nhập vào các nước mới mở cửa.
• Đào tạo nguồn nhân lực

Các cơng trình nghiên cứu về các yếu tố của sự phát triển, cho thấy có mối
quan hệ tỷ lệ thuận giữa GDP tính theo đầu người và tỷ lệ học sinh tốt nghiệp
trung học phổ thông cũng như đại học. Tuy nhiên, ở Thái Lan, mối quan hệ đó
diễn ra khơng hồn tồn như vậy. Khi GDP tính theo đầu người ở mức 1000
USD/năm, tỷ lệ học sinh vào trung học phổ thông so với lứa tuổi tại Thái Lan,
Hàn Quốc và Braxin lần lượt là 9%, 27% và 11%. Khi GDP tính theo đầu người
tại nhóm nước này tăng lên tới 2000 USD/năm, tỷ lệ đó lần lượt là 26%, 52% và
21%. GDP tính theo đầu người tiếp tục tăng lên tới mức 3000 USD/năm, tỷ lệ
đó hầu như không đổi tại Thái Lan, trong khi tại Hàn Quốc là 85% và tại Braxin
là 35%.
Trong tình hình hiện nay, khi Thái Lan đang nỗ lực thay đổi cơ cấu hàng
hóa xuất khẩu theo hướng sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng cơng nghệ cao,
từng bước thay thế những sản phẩm xuất khẩu có chi phí lao động cao, nhằm
giảm thiểu những tác động tiêu cực của sự giảm sút khả năng cạnh tranh của các
sản phẩm xuất khẩu, thì nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực trở nên thực sự cần
thiết. Do đó, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội lần thứ 8 (1997 - 2001) của Thái
Lan đã khẳng định, nguồn nhân lực có học vấn cao thực sự là nhân tố thiết yếu
cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Trên cơ sở đó, mục tiêu đề
ra cho năm 2020 của Thái Lan là nâng tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học so với
lứa tuổi lên khoảng 40%, tương đương với tỷ lệ của Hàn Quốc và Nhật Bản hiện
nay. Đồng thời, phát triển hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật, nhằm tạo thêm

13


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

cơ hội học tập cho thế hệ thanh niên hiện nay. Đây là nhân tố quan trọng nhất để
biến mục tiêu đạt mức GDP trên đầu người khoảng 12.000 USD vào năm 2020
trở thành hiện thực.

• Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
Trong cuộc chạy đua quyết liệt nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong khu vực Đơng á, ngay sau khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, Thái Lan
đã thay đổi những chính sách của mình để tạo mơi trường đầu tư hấp dẫn hơn
so với các nước trong khu vực. Cụ thể: nâng mức sở hữu nước ngoài lên 49%
đối với các dự án thơng thường, 100% đối với các dự án có trên 80% sản phẩm
xuất khẩu. Ngoài ra, đối tác nước ngồi cịn được phép điều chỉnh tỷ lệ sở hữu
lên trên 51% trong trường hợp đối tác Thái Lan gặp khó khăn về tài chính. Bên
cạnh đó, Bộ Tài chính Thái Lan hủy bỏ quy định phải có 30% sản phẩm xuất
khẩu trở lên, mới được hưởng miễn giảm thuế trong các ngành cơng nghiệp chế
tạo.
Hiện nay, khi q trình tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực đang
tiếp tục được thúc đẩy, để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu,
Thái Lan nhất thiết phải thu hút FDI cho các ngành sử dụng công nghệ cao. Tuy
nhiên, để đạt được điều đó, Thái Lan cần phải phát triển mạng lưới ngành công
nghiệp hỗ trợ một cách thích ứng (mạng lưới cơng nghiệp hỗ trợ của Thái Lan
được coi là khâu yếu nhất trong thu hút FDI).
Vì những địi hỏi đó, Thái Lan quyết tâm xây dựng một cơ cấu công nghiệp
đa dạng (gồm 14 ngành), mà nịng cốt là các cơng ty đầu tư đến từ các nước
công nghiệp phát triển, đặc biệt là các cơng ty từ Nhật Bản và Mỹ. Trong nước,
Chính phủ Thái Lan cố gắng đảm bảo sự ổn định về chính trị, đầu tư vào việc
xây dựng cơ cở hạ tầng một mức thích ứng, ngăn chặn sự gia tăng tiền lương,
đảm bảo nguồn cung về nhân viên kỹ thuật và đội ngũ công nhân tay nghề cao,
cũng như các yếu tố đầu vào cho các ngành công nghiệp. Theo họ, một cơ cấu
công nghiệp hỗ trợ đa dạng được phát triển tốt sẽ là yếu tố tốt nhất để thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay.
•Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu
Một số sản phẩm xuất khẩu với chí phí lao động cao của Thái Lan đã mất
dần khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Phần lớn trong số đó (như các
sản phẩm dệt may, giầy dép, thực phẩm đóng hộp…) là những sản phẩm xuất

khẩu truyền thống của Thái Lan. Mặt khác, phần giá trị gia tăng trong các sản
phẩm xuất khẩu của Thái Lan rất thấp (chẳng hạn tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá
thành của máy tính, thiết bị bán dẫn, điện dân dụng, dệt may và ô tô lần lượt là
36%, 28%, 60%, 50% và 47%).

14


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Để khắc phục thực trạng đó, trong q trình hội nhập với nền kinh tế thế
giới trong giai đoạn hiện nay, Chính phủ Thái Lan đã đưa ra chương trình nâng
cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, nhằm tiếp tục duy trì và phát triển
những lợi thế so sánh của mình. Chương trình đó được chia thành hai nội dung
chính: Thứ nhất, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp từ chi phí lao động
cao sang sử dụng hàm lượng cơng nghệ cao; Thứ hai, khuyến khích sự phát triển
và áp dụng công nghệ hiện đại nhằm làm tăng phần giá trị gia tăng trong các
ngành công nghiệp sử dụng chi phí lao động cao.
Nội dung thứ nhất của chương trình trên thực sự là một cuộc cách mạng
cơng nghiệp. Các ngành công nghiệp như chế tạo ô tô và xe máy, công nghiệp
điện máy và điện tử sẽ là những ngành công nghiệp dẫn đầu của nền kinh tế
Thái Lan trong tương lai không xa. Liên quan đến nội dung thứ hai, hai ngành
công nghiệp được ưu tiên đầu tư là công nghiệp Dệt may và công nghiệp Thực
phẩm. Sự đổi mới công nghệ trong các ngành này sẽ được Quỹ Phát triển xuất
khẩu hỗ trợ về mặt tài chính. Chính phủ Thái Lan hy vọng sự đổi mới cơng nghệ
đó sẽ cắt giảm chi phí cho từng đơn vị sản phẩm, đồng thời làm tăng thêm giá trị
cho hàng xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Để đảm bảo thực hiện tốt chương trình nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng xuất khẩu, Cơ quan Quản lý đầu tư Thái Lan (BOI) đã cụ thể hóa thành 4
nhiệm vụ sau: Khuyến khích đầu tư cơng nghệ, nhằm làm tăng giá trị hàng hóa

trong các ngành công nghiệp truyền thống (dệt may, đồ chơi, giầy dép và một số
ngành công nghiệp nhẹ); Hỗ trợ hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) các
sản phẩm mới và nâng cao chất lượng sản phẩm trong những ngành vốn đã có
khả năng cạnh tranh mạnh (chế biến nơng sản, hải sản); Đầu tư nâng cao năng
suất lao động, tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp có
nhiều tiềm năng (sản xuất phụ tùng ơ tơ, các ngành sử dụng công nghệ cao như
IC, bán dẫn và màng silicon); Giảm chi phí sản xuất trong các ngành cơng
nghiệp nói chung, đặc biệt là những ngành cơng nghiệp còn non trẻ.
Như vậy, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Thái Lan
không chỉ mang lại sự thành cơng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, mà
cịn hứa hẹn một sự thành cơng trong việc phát triển nền công nghiệp hiện đại và
hiệu quả cho đất nước này.
•Tăng cường thâm nhập vào các nước mới mở cửa
Trong những năm gần đây, mục tiêu quan trọng trong chiến lược hội nhập
kinh tế quốc tế của Thái Lan là tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, đặc biệt
là thâm nhập vào các nước mới mở cửa như Campuchia, Lào, Trung Quốc và
Việt Nam, là những nước láng giềng của họ. Sự gần gũi về mặt địa lý đã tạo cho

15


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Thái Lan những lợi thế nhất định so với các chủ đầu tư khác. Thái Lan đã ký kết
hợp tác kinh tế với tất cả các nước láng giềng, chẳng hạn như: Tam giác kinh tế
phía Nam, tứ giác kinh tế phía Bắc, lục giác kinh tế sơng Mê Cơng.
• Thành cơng của q trình hội nhập kinh tế quốc tế
Thái Lan ln duy trì được tỷ lệ tăng trường GDP thực tế khoảng 9% trong
suốt thời kỳ từ 1984 - 1994 (cũng trong thời kỳ này, tỷ lệ tăng trưởng GDP thực
tế bình quân của các nước đang phát triển khoảng 5%). Giai đoạn tiếp theo, mặc

dù xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, mà Thái Lan là một trong
năm nước phải chịu hậu quả nặng nề nhất, tỷ lệ đó vẫn cịn khoảng 5%. Thái
Lan đã thiết lập được những mối quan hệ kinh tế gắn bó với nhiều nền kinh tế
của các nước và khu vực trên thế giới. Thái Lan là nước thành công nhất trong
khối ASEAN về việc thu hút FDI, bình quân hàng năm thu hút được trên 6,5 tỷ
USD vốn FDI (cao hơn mức kỷ lục của Malaixia và Xingapo). Để đẩy mạnh quá
trình hội nhập, Thái Lan đã sớm trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế
như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)… Chính
vì vậy, Thái Lan đã nhận được sự hỗ trợ quý báu của IMF để vượt qua cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á. Đồng thời, là thành viên của WTO, Thái
Lan có nghĩa vụ phải thúc đẩy nhanh q trình tự do hóa thương mại, nghĩa vụ
này đồng thời là nội dung quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
của Thái Lan.
( Theo Nguyễn Thắng/TCCN kì I tháng 7/2006, trang 45 )
b. Đối với Trung Quốc:
• Một số cảI cách:
Cơ sở xuất khẩu của Trung Quốc đã được đa dạng hoá nhờ vào hàng dệt
may và công nghiệp nhẹ. Đầu những năm 1990, hàng công nghiệp nhẹ chiếm
hơn 40% xuất khẩu của Trung Quốc. các sản phẩm này chủ yếu là giày dép,
quần áo, đồ chơi và hàng tạp phẩm khác. Một phần lớn hàng xuất khẩu cịn lại là
hàng hố đã chế tạo (chủ yếu là hàng dệt may) và máy móc và vận tải (điện tử
nhỏ). Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng
kể trong việc xuất khẩu các mặt hàng khác như các mặt hàng điện tử tinh vi
(máy móc văn phịng và các trang thiết bị chế biến số liệu tự động, truyền thơng,
các trang thiết bị âm thanh và máy móc điện), hàng gia dụng, hàng hoá du lịch
và các sản phẩm cơng nghiệp. Ví dụ như, một phần xuất khẩu của Trung Quốc
về máy móc và vận tải (bao gồm cả đồ điện) tăng từ 17% năm 1993 lên 41%năm
2003, trong khi đó sự sản xuất hàng hố linh tinh khác giảm từ 42% xuống còn
28%.


16


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Những thống kê về sự phân tán giải thích cho sự đa dạng hố xuất khẩu
nhìn chung là ngày càng tăng. Số liệu chi tiết về xuất khẩu của Trung Quốc ở
cấp độ hai con số theo tiêu chuẩn phân loại thương mại quốc tế (SITS) chỉ có thể
tìm được từ năm 1994. Cả hai chỉ số Herfindahl và hệ số của mức độ biến đổi
(với phạm vi thay đổi trong sự phân tán của xuất khẩu thông qua các loại hàng
xuất khẩu) đều cho thấy một sự tăng đáng kể trong sự đa dạng hoá của xuất khẩu
tới Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu và Nhật Bản. Ví dụ như, số liệu chi tiết về nhập
khẩu của Hoa Kỳ cho thấy dựa trên những thay đổi trong tỉ lệ nhập khẩu của
Trung Quốc vào Hoa Kỳ , vẫn có một sự tăng đáng kể trong sự đa dạng hoá từ
năm 1990 đến năm 2000 ở cả mức độ 2 con số và 3 con số (bảng 6).
Thành phần cấu tạo của nhập khẩu cho thấy sự chun mơn hố theo chiều
dọc của sản xuất trong khu vực Châu Á. Điều này có thể thấy được từ một số
thông số. Đầu tiên là một tỷ lệ nhập khẩu cao các mặt hàng để gia cơng đã được
tính trong xuất khẩu của Trung Quốc. Tỷ lệ này tăng từ 30% của nhập khẩu
trong đầu những năm 90 lên khoảng 50% năm 1997 và vẫn tiếp tục duy trì ở
mức độ độ đó cho đến nay. Tương tự như vậy, nhập khẩu cho gia công cũng
được tính trong hơn 40% xuất khẩu của Trung Quốc. Tác động của sự chun
mơn hố theo chiều dọc có thể thấy rõ trước tiên là qua sự tăng nhanh trong
nhập khẩu các mạch điện tử tích hợp và vi mạch - những thành phần chủ chốt
được sử dụng trong việc lắp ráp các các sản phẩm điện (biểu đồ 3). Thứ hai,
dòng đầu tư trực tiếp mạnh đổ vào Trung Quốc chủ yếu là từ các nước công
nghiệp, và đặc biệt là các nền kinh tế công nghiệp mới của Châu Á. Trong suốt
giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2001, những nền kinh tế công nghiệp mới này
cùng với Nhật Bản chiếm hơn 60% đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc, còn Hoa
Kỳ và Châu Âu chiếm khoảng 20%. Cuối cùng, mơ hình của thương mại đã thay

đổi đáng kể, đó là nhập khẩu từ Châu Á tăng và xuất khẩu đang chuyển sang các
nước phát triển, chủ yếu là Hoa Kỳ và Châu Âu.

• Một vài thành tựu:
Thương mại Trung Quốc đã tăng nhanh chóng với nhập khẩu từ hầu hết các
đối tác thương mại đều tăng với tốc độ gấp đôi. Nhập khẩu từ châu Á tính bằng
USD tăng lên 43% năm 2003, trong khi nhập khẩu từ châu Âu và Mỹ tăng lần
lượt là 31% và 24%. Về xuất khẩu, những con số này gần như đảo ngược lại với
thứ tự của con số nhập khẩu trong đó xuất khẩu sang Mỹ và châu Âu tăng tương
ứng là 32% và 49%, và xuất khẩu sang châu Á là 31%. Nhập khẩu của Trung
Quốc từ các quốc gia khác trên thế giới cũng tăng rất nhanh trong giai đoạn này.
Ví dụ, nhập khẩu từ châu Mỹ Latinh tăng 81% và từ châu Phi tăng 54%, Trung

17


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Quốc ngày nay là nhà nhập khẩu lớn thứ 3 hàng xuất khẩu của các nước đang
phát triển sau Mỹ và Liên minh châu Âu.
Trong những năm gần đây, trong khi cán cân thương mại của Trung Quốc
nhìn chung chẳng thay đổi là bao thì những thay đổi này trong mơ hình khu vực
của thương mại lại là nguyên nhân của sự thay đổi đáng kể trong các cán cân
thương mại song phương. Thặng dư thương mại của Trung Quốc với Mỹ và
Liên minh châu Âu tăng đáng kể từ năm 1997 đến năm 2002, nhưng việc này lại
bù lại bởi thâm hụt thương mại với các nước châu Á còn lại tăng. Những xu
hướng này tiếp tục trong năm 2003 khi thâm hụt với các quốc gia châu Á tiếp
tục tăng, tạo ra một sự giảm sút nhanh chóng trong tồn bộ thặng dư thương mại
của Trung Quốc, giảm xuống còn 25 tỷ USD so với 30 tỷ năm 2002 (bảng 7).
Việc điều chỉnh một lượng lớn thương mại của Trung Quốc qua Hồng Kông

không làm thay đổi kết luận này2. Những thay đổi trong chun mơn hố khu
vực ở Châu Á cũng có thể thấy rõ từ thống kê thương mại của Hoa Kỳ. Thâm
hụt thương mại của Hoa Kỳ với Trung Quốc thực tế là tăng trong hơn hai năm
qua, nhưng toàn bộ thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ đối với khu vực Châu Á
chỉ tăng với một lượng nhỏ. Ví dụ trong khi nhập khẩu hàng hố chế biến từ
Trung Quốc của Hoa Kỳ tăng về thực chất thì điều này được bù lại phần nào bởi
sự giảm nhập khẩu từ các nước Châu Á khác (hình 4).
Trong khi khu vực Châu Á vẫn còn phụ thuộc vào xuất khẩu tới thị trường
các nước nhóm G7, thì việc chun mơn hố ngày càng tăng cũng như tiêu dùng
nội địa của riêng Trung Quốc ngày càng tăng đang cung cấp những lợi ích thiết
thực cho khu vực3. Các quốc gia có thể thu được lợi ích lớn nhất từ sự hội nhập
ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới của Trung Quốc, đó là họ sẽ trở thành
những nhà xuất khẩu các sản phẩm cần nhiều tài nguyên và vốn của Châu Á.
Những ảnh hưởng tiềm năng này sẽ được thảo luận kỹ hơn ở phần tiếp theo.
II. Thực trạng và gải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam:

Từ nhiều năm, tiến sĩ Lê Đăng Doanh được biết đến như một nhà nghiên
cứu kinh tế tầm cỡ, có những đánh giá, nhận định sâu sắc về bức tranh kinh tế
VN sau khi mở hội nhập: "Cạnh tranh là hợp tác chứ không phải đối đầu".
Hiện với tư cách thành viên Tổ chuyên gia cao cấp Bộ Kế hoạch- Đầu tư,
ông vẫn thường xuyên có các tham luận tại các hội thảo lớn của quốc gia và
quốc tế về nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Và chủ đề ông trăn trở và tâm huyết
vẫn khơng nằm ngồi sự kiện VN chính thức gia nhập tổ chức WTO.
VN gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ngày 7.11.2006 trở
thành thành viên thứ 150 là chậm, gia nhập sau Campuchia và Trung Quốc là
chậm. Nếu như chúng ta có nỗ lực cao, có những quyết sách sớm hơn thì chúng
18


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


ta có thể gia nhập WTO sớm hơn vì càng vào chậm thì yêu cầu đối với nước gia
nhập càng cao hơn và khó khăn hơn.
Song bây giờ khơng phải là lúc xem xét lại là sớm hay muộn, vì đối với
người đã bắt đầu không bao giờ là muộn cả. Điều quan trọng lúc này là từ cả
Chính phủ, doanh nghiệp phải tập trung nỗ lực cao nhất để nâng cao năng lực
cạnh tranh, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ cũng như các quyền lợi của VN với tư
cách là một thành viên WTO.
Gia nhập WTO, thuận lợi là hàng hoá của ta sẽ xâm nhập vào thị trường
của các nước khác, thuế sẽ giảm đi, các hạn chế định lượng sẽ bị bãi bỏ và cơ
hội để chúng ta có thể tăng được XK là lớn.
Để đổi lại, chúng ta cũng phải giảm thuế, mở cửa thị trường. Thương mại
luôn ln là con đường hai chiều, ln ln có quyền lợi và nghĩa vụ, cơ hội và
thách thức. Chúng ta có cơ hội lớn hơn ở các mặt hàng cơng nghiệp, mặt hàng
chế tác do những mặt hàng này được giảm thuế một cách mạnh mẽ. Nhưng các
mặt hàng nông sản có mức độ giảm thuế thấp. Thêm vào đó, hiện nay vòng đàm
phán Doha của WTO đang lâm vào bế tắc. Các nước Mỹ và Liên minh Châu Âu
(EU) không chịu từ bỏ việc trợ cấp nông nghiệp. Các nước này lại là những
cường quốc nông nghiệp không từ bỏ trợ cấp nơng nghiệp, u cầu giữ giá lúa
mì và các sản phẩm nơng nghiệp khác (sữa, thịt bị, v.v...) ở mức thấp, cộng với
năng suất thu hoạch của họ rất cao làm cho mặt bằng giá nông sản trên thế giới
ln giữ ở mức thấp. Vì vậy, tất cả các nước đang phát triển XK nông sản bị
thiệt, trong đó có VN. Đó là điều giải thích tại sao mặc dù giá xăng dầu, phân
bón, thuốc trừ sâu tăng lên mà giá nông sản không tăng tương ứng.
Lợi thế lớn nhất khi vào WTO là mọi DN đều phải cạnh tranh, coi cạnh
tranh là nguyên lý, là lẽ sống. Cạnh tranh sẽ gây áp lực để mỗi DN nâng cao
hiệu quả, giảm bớt giá thành. Còn những DN nào khơng cạnh tranh được thì sẽ
bị phá sản để những DN giỏi họ đến, họ sử dụng nhà xưởng, lao động, máy móc,
tiền vốn hiệu quả hơn. Vì vậy, "phá sản"được coi là "một sự tàn phá sáng tạo",
chứ không phải là tàn phá tuyệt đối. Tôi cho rằng DN VN cần thay đổi cách tư

duy, nhìn nhận việc gia nhập WTO trên khía cạnh hợp tác và phát triển chứ
khơng phải"đối đầu".
Trong cạnh tranh sẽ có sự đào thải và DN VN phải biết chấp nhận cạnh
tranh, thậm chí chấp nhận thất bại nhưng thất bại khơng phải là ngày tận thế mà
chúng ta sẽ vươn lên
.( Theo báo Lao Động Cuối tuần số 14 Ngày 12/11/2006 Cập nhật: 5:29
AM, 12/11/2006)

19


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

1. Đối với nông sản Việt Nam:
Các chuyên gia Australia, những người tham gia tư vấn và soạn thảo bộ
khung tiêu chuẩn chung của các nước ASEAN về sản xuất nông nghiệp an toàn
(ASEAN GAP) nhận định, WTO mang lại cho Việt Nam một “sân chơi” khổng
lồ, với hơn 5 tỷ người tiêu thụ, 95% giá trị thương mại thế giới và kim ngạch
nhập khẩu trị giá 635 tỷ USD/năm. Nhưng thách thức từ “sân chơi” này cịn lớn
hơn, nhất là ngành nơng nghiệp.
a. Thực trạng:
• Chưa đồng bộ giữa vị thế và trình độ
Việt Nam đã đi tắt đón đầu khá thành công nhờ ứng dụng thành tựu khoa
học kỹ thuật thế giới để xây dựng và phát triển nền nông nghiệp và trở thành
quốc gia hàng đầu về xuất khẩu nông sản: hồ tiêu (thứ nhất), gạo và cà phê (thứ
2), hạt điều (năm 2006 Việt Nam vượt qua Ấn Độ có lượng xuất khẩu nhiều
nhất)...
Nhưng tại buổi hội thảo do Câu lạc bộ Xây dựng thương hiệu nông - thủy
sản Việt Nam tổ chức, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Vọng (chuyên viên Bộ Nông
nghiệp bang New South Wales, Australia) cho rằng, tay nghề của bà con nông

dân - lực lượng sản xuất chiếm đa số lại chưa ngang tầm với những vị thế trên,
hàm lượng chất xám tạo nên giá trị gia tăng trong nông sản làm ra chưa nhiều,
chủ yếu vẫn cịn xuất thơ.
Vì vậy, dù là quốc gia hàng đầu về xuất khẩu nông sản, nhưng đời sống của
nông dân vẫn cịn thấp. Và điều quan trọng, tính bền vững trong nơng nghiệp
cịn rất bấp bênh, bộc lộ nhiều lỗ hổng lớn trong chuỗi sản xuất, từ giống, chăm
sóc... cho đến sau thu hoạch, thể hiện qua việc sản xuất theo phong trào. Trong
khi đó, xét về mặt kinh tế và hiệu quả sử dụng đất, việc định vị cây trồng và quy
hoạch sản xuất nông nghiệp chưa hợp lý.
Điều này thấy rõ giữa cơ cấu cây lúa (giá trị trên một đơn vị diện tích thấp
hơn nhiều lần so với các loại cây trồng khác), diện tích trồng khoảng 7 triệu ha
so với hơn 1,4 triệu ha cây ăn trái, trong khi nhu cầu nhập khẩu của các nước
trong tổ chức WTO hằng năm có đến gần 103 tỷ USD rau quả so với khoảng 10
tỷ USD lúa gạo... Vì vậy, thu nhập từ người trồng lúa bao giờ cũng thấp hơn các
loại cây khác, nhất là cây ăn trái.
Tiến sĩ Nguyễn Quốc vọng cho rằng “sân chơi” WTO quy định 4 “luật
chơi” cũng chính là 4 thách thức trong sản xuất nông sản mà chúng ta đang
thiếu: Đó là luật chơi về số lượng với yêu cầu hàng hóa phải lớn về số lượng,
đồng bộ về kích cỡ, màu sắc, bao bì và thời gian giao hàng chính xác. Hai là luật
chơi về chất lượng với chứng chỉ xác nhận về nguồn gốc giống, chất lượng sản
20


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

phẩm... để chứng minh mặt hàng bảo đảm về chất lượng. Ba là, giá rẻ để có thể
cạnh tranh, yếu tố quyết định như một thứ luật bất thành văn của bất cứ quốc gia
nào muốn tham gia “cuộc chơi” này.
Và cuối cùng là luật chơi về an toàn thực phẩm, với yêu cầu hàng hóa phải
có chứng chỉ nơng nghiệp an tồn hay cịn gọi là nơng nghiệp tốt (GAP - Good

Agricultural Practices) để bảo đảm tính vệ sinh và an tồn sản phẩm.
• Tổ chức lại sản xuất là nhu cầu bức bách:
Theo nhận định của các chuyên gia, để đáp ứng các luật chơi này, việc tổ
chức lại sản xuất là yêu cầu bức bách, trong đó GAP - chương trình kiểm tra an
tồn thực phẩm xun suốt từ khâu chuẩn bị sản xuất đến trước và sau thu
hoạch, kể cả các yếu tố liên quan khác như môi trường, thuốc bảo vệ thực vật,
bao bì và ngay cả điều kiện làm việc, phúc lợi người lao động, là khó khăn nhất.
Tiến sĩ Joseph Ekman (chuyên viên Bộ Nông nghiệp bang New South
Wales - Australia) cho biết, các nước trong WTO đều đặt ra những yêu cầu riêng
về an toàn thực phẩm như EU có EuroGAP, Australia có Fresh Care... nhằm bảo
đảm an toàn cho người tiêu dùng và là rào cản kỹ thuật mà các nước sử dụng để
hạn chế lượng hàng nhập khẩu nào đó.
Vì vậy, Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng quy trình VietGAP dựa trên
bộ ASEAN GAP – một quy trình GAP chính thức cho các nước thành viên
ASEAN vừa được công bố đầu tháng 11-2006, cùng với sự tham khảo các yêu
cầu của EuroGAP. Xây dựng chiến lược phát triển mạnh ngành cây ăn trái, rau
quả, kể cả hoa; nhanh chóng hồn thành bộ VietGAP và có chương trình tập
huấn rộng khắp về VietGAP cho nông dân là cách để nhà nước giúp bà con tham
gia vào “cuộc chơi” WTO.
Có như thế mới nói đến khả năng xuất khẩu nông sản, nhất là rau quả, đồng
thời sử dụng VietGAP như một rào cản kỹ thuật, bắt buộc những mặt hàng nông
sản các nước muốn xuất khẩu vào Việt Nam phải đáp ứng yêu cầu này.
• Nơng nghiệp 2006: Thắng lợi trong thử thách (Theo trang Việt Nam trên
đường hội nhập-Cổng phát triển Việt Nam.16/05/2007)
Năm 2006 là một năm đầy thử thách đối với mặt trận sản xuất nông
nghiệp, dù chưa được như ý muốn, nhưng kết quả vẫn khả quan, nhất là xuất
khẩu nông sản. Việt Nam đã gia nhập WTO, sản xuất nông nghiệp sẽ phải cơ
cấu lại để đạt hiệu quả tốt hơn; phù hợp với xu thế hội nhập. Những mặt hàng có
thế mạnh sẽ được ưu tiên phát triển và không sản xuất mặt hàng kém cạnh tranh.
- Đối mặt với thiên tai và dịch họa

Thử thách lớn nhất đối với mặt trận sản xuất nông nghiệp năm 2006 là dịch
rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá xảy ra ở chính ngay vựa lúa của cả nước -

21


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

ĐBSCL. Tháng 10/2006, trong một buổi họp giao ban bàn biện pháp phòng,
chống dịch hại lúa ở các tỉnh phía Nam, Bộ trưởng Bộ NN& PTNT, Cao Đức
Phát, đã nhấn mạnh: dịch rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá là mối quan tâm
hàng đầu của ngành nông nghiệp, hơn cả dịch cúm gia cầm, lở mồm long móng,
vì nó ảnh hưởng tới thu nhập của người nông dân và an ninh lương thực quốc
gia. Quả đúng như vậy, đến cuối vụ hè thu và thu đơng, diện tích lúa bị dịch
bệnh phá hại đã lên tới trên 100.000ha, để lại hậu quả nặng nề. Sản lượng lúa hè
thu, thu đông của ĐBSCL chỉ đạt gần 18,6 triệu tấn, giảm khoảng 700.000 tấn
so với năm 2005. Với giá lúa 2.500 đ/kg, bà con nơng dân bị thiệt hại trên 1.500
tỷ đồng. Đó là chưa kể tới chi phí thuốc bảo vệ thực vật, công nhà nông, các địa
phương bỏ ra trên 46 tỷ đồng cho công tác dập dịch. Điều nguy hại ở chỗ, bệnh
vàng lùn, lùn xoắn lá là bệnh do vi rút gây ra, được lây lan bởi vật trung gian là
rầy nâu, hiện chưa có thuốc đặc trị. Vì vậy, “dịch hoạ” đang là mối đe doạ trực
tiếp vụ đông-xuân 2006-2007, vụ sản xuất chính ở ĐBSCL.
Điều rút ra được qua cơng tác phịng, chống dịch phá hại lúa là sản xuất
nông nghiệp ở ĐBSCL thiếu bền vững. Lâu nay, các địa phương cùng bà con
nông dân chạy theo sản lượng, số lượng phục vụ cho công tác xuất khẩu nên
quanh năm gieo sạ, quanh năm thu hoạch, liên tục làm 3 vụ lúa/năm, thậm chí
có nơi làm 7 vụ lúa/2 năm, không cho đất nghỉ, tạo môi trường cho dịch bệnh
phát triển. Tìm thấy cái được trong cái mất, từ nhà khoa học đến người làm công
tác quản lý ở vùng đất Chín Rồng đều có tiếng nói thống nhất trong năm 2006
rằng, “thủ phạm” gây ra dịch rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá là sản xuất lúa

vụ 3. Cần phải "cắt" lúa vụ 3 để tạo ra môi trường sạch giữa 2 vụ lúa đông xuân
và hè thu. Nhưng, theo tập quán sản xuất, nhà nông đặt câu hỏi: Giữa 2 vụ lúa,
nơng dân làm gì? Và, trồng cây gì để có hiệu quả hơn lúa vụ 3? Kể cả ngành
nơng nghiệp và chính quyền địa phương vẫn đang lúng túng, chưa tìm được câu
trả lời (!)
Dịch hoạ chưa qua, thiên tai đã tới. Năm nay, Việt Nam có tới 10 cơn bão.
Trong đó, cơn bão số 9 (Durian) xảy ra ngày 5/12 đã gây thiệt hại nặng nề về
người và của cho các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long.
ở các tỉnh phía Bắc, năm nay khơng có mưa to, bão lớn, nhưng bất chợt, vào
thượng tuần tháng 11/2006 có ngay mưa đá ở nhiều nơi. Thời gian mưa không
dài, nhưng thiệt hại cũng không nhỏ. Thời tiết thất thường đã và đang tiếp tục
gây ra những khó khăn lớn cho sản xuất nông nghiệp, trước mắt, hạn hán đang
đe doạ vụ đơng xn ở các tỉnh phía Bắc và các tỉnh Bắc miền Trung.
- Xuất khẩu được mùa nhờ giá tăng

22


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Gạo là nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, năm 2005, xuất khẩu
được 5,2 triệu tấn, đạt kim ngạch 1,4 tỷ USD. Năm nay, các hợp đồng xuất khẩu
gạo dừng lại ở mức 4,8 triệu tấn. So với kế hoạch (5 triệu tấn) thì chưa đạt,
nhưng điều quan trọng hơn khơng phải ở chỗ chúng ta xuất khẩu được bao nhiêu
tấn, mà là được bao nhiêu tiền. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, năm 2006,
xuất khẩu gạo được giá, bình quân 259 USD/ tấn, tăng 8 USD/tấn so với những
năm trước, đạt kim ngạch 1,38 tỷ USD. Sau 17 năm tham gia thị trường thế giới,
phẩm cấp và giá gạo nước ta có tiến bộ rõ rệt. Từ chỗ gạo cùng phẩm cấp,
nhưng giá gạo Việt Nam thấp hơn của Thái Lan 20 USD/tấn, thậm chí 40
USD/tấn, năm nay chỉ cịn thấp hơn bình qn 5-10 USD/tấn.

Sau gạo là cao su. Năm 2005, cả nước xuất khẩu được 587.000 tấn, đạt kim
ngạch 772 triệu USD. Năm nay, cao su luôn đứng đầu bảng về tốc độ tăng
trưởng, xuất khẩu khoảng 822.000 tấn, tăng hơn năm ngoái 235.000 tấn, đạt kim
ngạch 1,3 tỷ USD, vượt 500 triệu USD so với kế hoạch. Theo Bộ Thương mại,
năm 2006 có 8 ngành hàng xuất khẩu vượt 1 tỷ USD, trong đó, xuất khẩu nông
sản chiếm 3 là gạo, cao su và sản xuất đồ gỗ.
Sau bao năm ảm đạm, người trồng cà phê Tây Nguyên lại bước vào một
mùa náo nức. Năm 2005, nước ta xuất khẩu được 803.647 tấn cà phê, với giá
789,2 USD/tấn, đạt kim ngạch 634,2 triệu USD. Năm 2006, mới tính đến đầu
tháng 12, xuất khẩu được 787.000 tấn, kim ngạch ước đạt 950 triệu USD. Giá cà
phê xuất khẩu trung bình từ đầu năm đến nay tăng trên 40% so với năm trước.
Giá xuất khẩu tăng, kéo theo giá cà phê trong nước tăng theo. Tại Lâm Đồng,
tỉnh có diện tích cà phê nhiều thứ 2 cả nước, trên 100.000ha, lúc cao nhất giá cà
phê Robusta (mua xô) 22.800 đ/kg, thấp nhất 20.800 đ/kg. Bà con nông dân cho
biết, đây là giá cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây.
Hồ tiêu vẫn giữ ngôi vị số 1 thế giới. Năm 2005, xuất khẩu 102.000 tấn,
kim ngạch 15 triệu USD. Năm 2006, xuất khẩu 120.000 tấn, thu về 200 triệu
USD, cao nhất từ trước tới nay cả về số lượng và giá trị. Hạt điều thì ngược lại.
Theo trung tâm thơng tin Bộ Thương mại, ước tính xuất khẩu điều cả năm đạt
khoảng 400 triệu USD, giảm 86 triệu USD so với năm 2005. Do giá xuống, mua
nguyên liệu đắt, chất lượng sản phẩm kém... năm 2005, ngành điều xuất khẩu lỗ
100 tỷ, năm nay dự đoán lỗ khoảng 300 tỷ.
Như vậy, năm nay, trong số 5 mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của
nước ta, trừ ngành điều làm ăn thua lỗ, còn lại đều được mùa xuất khẩu. Nguyên
nhân chủ yếu nhờ giá cả thị trường thế giới tăng cao. Trong niềm vui, cũng
khơng ít người lo. Vì giá cả khơng bao giờ ổn định, phụ thuộc vào giá không

23



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

phải là con đường phát triển sản xuất bền vững, nhất là lúc Việt Nam đã vào chợ
toàn cầu.
- Nỗi lo WTO
Mặc dù đã đạt được những tiến bộ rõ rệt, gạo Việt Nam vẫn khơng có
thương hiệu trên thương trường quốc tế. Cũng do chạy theo số lượng, bán hàng
thơ là chính, cà phê Robusta xuất khẩu của Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về số
lượng, nhưng lại đứng thứ 5 về kim ngạch. Năm 2006, tăng trưởng về kim ngạch
chủ yếu nhờ giá cà phê thế giới tăng cao, còn sự gia tăng về chất lượng mang lại
rất ít, thậm chí ngược lại. Trong một cuộc hội thảo về: "Nâng cao chất lượng cà
phê Tây Nguyên", Hiệp hội Cà phê & ca cao Việt Nam đã đưa ra con số cảnh
báo "nóng" về sự suy thối chất lượng. Hàng năm, lượng cà phê kém chất lượng
(dưới loại 3, 4) của nước ta bị loại bỏ ở thị trường LIFFE chiếm tỷ trọng cao trên
trên thế giới. Cụ thể, năm 2005, cà phê Robusta Việt Nam bị loại bỏ 89% (tương
đương 1,65 triệu bao). Trong 6 tháng, từ tháng 10/2005 đến tháng 3/2006, tỷ lệ
bị loại bỏ là 88% (tăng 19% so với cùng kỳ năm trước).
Việc kinh doanh cà phê trên thế giới giao dịch chủ yếu qua 2 thị trường kỳ
hạn lớn LIFFE (London, Anh) và NYBOT (New York, Mỹ). Hai năm nay, các
doanh nghiệp kinh doanh cà phê Việt Nam chập chững bước vào sàn giao dịch
LIFFE. Và, "học phí" thương trường phải trả khơng nhỏ. Đầu tháng 8/2006, khi
giá cà phê giao kỳ hạn tháng 1/2007 trên thị trường LIFFE tăng lên 1.300
USD/tấn, nhiều doanh nghiệp cà phê ở Đăklăk cho răng đã tột đỉnh và chốt giá
bán hàng loạt (có một số cơng ty bán tới vài chục ngàn tấn). Nhưng, trớ trêu, đến
tháng 11/2006, giá cà phê đạt mức 1.650 USD/tấn. Nhiều doanh nghiệp khốn
đốn, lỗ đậm vì đã trót "nhỡ ký" bán hàng giá thấp. Trước đó, nhiều doanh nghiệp
và tư nhân ở Đăklăk cũng đã thua tiền tỷ vì bn bán cà phê trên mạng.
Nhiều người lo lắng khi gia nhập WTO, nông nghiệp, nông dân và nông
thôn là lĩnh vực nhạy cảm, dễ bị tổn thương nhất? Nguyên Phó thủ tướng Vũ
Khoan cho biết: Gia nhập WTO, những trợ cấp về nông nghiệp Chính phủ vẫn

tiếp tục duy trì, đặc biệt là những cơng trình thuỷ lợi. Trong trái phiếu Chính
phủ, dành cho giao thông 70% và 30% cho thuỷ lợi. Về chương trình giống,
Chính phủ đã dành 3.000 tỷ đồng để nghiên cứu giống cho nơng nghiệp. Trước
đây, Chính phủ trợ cấp cho các doanh nghiệp, nhưng không hiệu quả, nay
chuyển hướng trợ cấp cho người nơng dân. Ơng Vũ Khoan nhấn mạnh: "Trong
thời gian tới, Chính phủ sẽ có những hành động cụ thể. Bà con nơng dân hãy tin
Chính phủ sẽ có những chương trình đổi mới trợ cấp nơng nghiệp và hãy tin
rằng, trước sau gì thì lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn sẽ vẫn là ưu tiên cao
nhất"!./.

24


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

b. Cơ hội và thách thức:
Ở Việt Nam, nông nghiệp đang là nguồn sinh kế chính của hơn 60%
dân số cả nước, có ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 2/3 hộ gia đình làm nơng
nghiệp trong đó có 44% số hộ thuộc diện khó khăn và có nguy cơ tiềm ẩn
tái nghèo.
Với vị trí quan trọng như vậy nơng nghiệp là chìa khố của sự ổn định và
phát triển đối với người dân. Trong bối cảnh hội nhập WTO, nơng nghiệp nước
ta có thể có thêm nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có khơng ít những tác
động ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của nông nghiệp, ảnh hưởng đến an
ninh lương thực cho người nông dân, đặc biệt là người nơng dân nghèo.Khi Việt
Nam gia nhập WTO, những lợi ích tiềm năng bao gồm như mở rộng thị trường
cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống nông nghiệp và thuỷ sản, đồng thời
chúng ta có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO giúp tránh
được những vụ kiện vô lý như là cá ba sa giữa Việt Nam và Mỹ.Khi là thành
viên của WTO, Việt Nam sẽ tiếp tục thu hút được đầu tư nước ngoài đồng thời

cũng có tiếng nói cùng với 149 nước khác khi WTO thảo luận các quy chế mới
của WTO. Tuy nhiên, thách thức đối với nông nghiệp và phát triển nơng thơn,
đặc biệt là đối với xố đói giảm nghèo là rất lớn.
• Cắt giảm trợ cấp xuất khẩu và thuế quan
Việt Nam là một nước 69% lực lượng lao động vẫn thuộc lĩnh vực nông
nghiệp và 45% dân số sống tại nông thôn sống dưới mức nghèo. Những thách
thức lớn như là mức độ cạnh tranh thấp, hay phải đương đầu với trợ cấp xuất
khẩu của các nước giàu, năng lực của Việt Nam thực thi các điều khoản cam kết,
việc cắt giảm thuế quan và các trợ cấp nông nghiệp, việc Việt Nam không được
tiếp cận đối với cơ chế tự vệ đặc biệt cho các sản phẩm chăn nuôi...
Hiện tại, Việt Nam đang là một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn
trong khu vực và thế giới với nhiều sản phẩm đặc trưng như cà phê, điều, hồ
tiêu, chè, gạo. Thế nhưng khả năng chuyển từ sản xuất thô lên chế biến của các
doanh nghiệp nội địa có thương hiệu riêng, tăng giá trị gia tăng trong sản phẩm
đang là một q trình chậm chạp, khó khăn.
Theo chuyên gia WTO của tổ chức Oxfam, Lê Kim Dung, Việt Nam đã
cam kết cắt giảm trợ cấp xuất khẩu nơng nghiệp ngay sau khi hội nhập, trong đó
có 5 năm quá độ cho việc cắt giảm trợ cấp xuất khẩu dưới dạng khuyến khích
đầu tư, đồng thời Việt Nam sẽ phải cắt giảm mức thuế quan đối với các mặt
hàng nơng nghiệp.
Hiện tại, mức thuế quan bình qn trong nông nghiệp của Việt Nam là
27%. Rất nhiều khả năng mức thuế này sẽ bị cắt giảm xuống khoảng 15%. Bên

25


×