Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận triết đề tài vai trò của triết học Mác Lênin trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.65 KB, 27 trang )

1
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 5 năm 2020

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................

Điểm: ……………………………..

KÝ TÊN

MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1 . Lý do chọn để tài
Trong hàng loạt nhân tố tạo nên sự thành công của quá trình đổi mới ở Việt Nam,
triết học Mác - Lênin có vai trị đặc biệt quan trọng. Trong điều kiện hiện nay, triết học
Mác - Lênin vẫn giữ được tính khoa học và đúng đắn, vẫn giữ nguyên giá trị định
hướng cho những người cách mạng; nó giúp cho Đảng Cộng sản và nhân dân Việt
Nam nhận thức đúng các vấn đề của thời đại có liên quan chặt chẽ đến đổi mới; đồng


thời, là cơ sở lý luận và phương pháp để tư duy đúng đắn về con đường phát triển của
cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả nhấn mạnh rằng, nắm vững các vấn đề cơ
bản của triết học Mác – Lênin và không ngừng hồn thiện phương pháp tư duy có ý
nghĩa vơ cùng to lớn trong đổi mới của nước ta .
2 . Mục tiêu của tiểu luận
Thời đại ngày nay có nhiều biến động sâu sắc, thế giới có nhiều diễn biến phức tạp;
xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn; các nước lớn điều chỉnh chiến lược,
vừa hợp tác thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau. Cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ. Chủ nghĩa
dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa dân túy đang nổi lên trong
quan hệ quốc tế. Những vấn đề toàn cầu như an ninh lương thực, an ninh năng lượng,
an ninh nguồn nước sạch, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến
phức tạp. Cộng đồng quốc tế ngày càng phải đối phó với các thách thức an ninh mạng.
Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương và
Đơng Nam Á tiếp tục diễn ra phức tạp,v.v.. Tất cả những nhân tố này tác động mạnh
mẽ đến cục diện thế giới và phong trào công nhân, đồng thời đòi hỏi chủ nghĩa Mác Lênin phải được vận dụng, bổ sung, phát triển để phù hợp với tình hình biến đổi của


thực tiễn để phát triển đất nước . Ngoài ra giúp các bạn sinh viên nắm rõ việc áp dụng
triết học Mác Lênin đã đưa đất nước đi đúng hướng và phát triển .
3. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên các thơng tin và cơ sở dữ liệu sẵn có tại các văn bản, tài liệu để rút ra kết
luận khoa học cho vấn đề nghiên cứu. Áp dụng những điều tra về số liệu phát triển
từng năm của đất nước , hỏi ý kiến các bạn sinh viên trường đại học Sư phạm kĩ thuật ,
tham khảo ý kiến từ giáo viên bộ môn .Lấy thông tin từ những nguồn trang mạng đáng
tin cậy của Nhà nước .
4. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung tiểu luận gồm 2 chương,
8 tiết trong đó có 22 tiểu tiết.



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ
1.1.Khái lược sự ra đời và phát triển của triết học Mác – Lênin
1.1.1. Khái lược về sự ra đời của triết học Mác – Lênin

- Điều kiện kinh tế - xã hội:
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những nãm 40 của thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên nền tảng
của cuộc cách mạng công nghiệp đưực thực hiện trứơc tiên ở nước Anh vào cuối thế
kỷ XVIII. Cuộc cách mạng công nghiệp không những đánh dấu bước chuyển biến từ
nền sản xuất thủ công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước hết là sự hình thành và phát
triển của giai cấp vô sản.
Mâu thuẫn sâu sắc giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa với quan hệ sản
xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ qua cuộc khủng hoảng kinh tế năm
1825 và hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân chống lại chủ tư bản. Đó là những
bằng chứng lịch sử thể hiện giai cấp vô sản đã trở thành một lực lượng chính trị độc
lập, tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội.
Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là phải được soi
sáng bằng lý luận khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời là sự đáp ứng u cầu khách quan
đó, đồng thời, chính thực tiễn cách mạng cũng trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái
quát và phát triển không ngừng lý luận của chủ nghĩa Mác.
-Tiền đề lý luận:
Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử, mà còn
là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó, trực tiếp nhất
là triết học cổ điển Đức, kinh tế học chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không
tưởng ở các nước Pháp và Anh.



Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của G.V.Ph.Hêghen và L.Phoiơbắc đã ảnh
hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ
nghĩa Mác.
Công lao lớn của Hêghen là trong khi phê phán phương pháp siêu hình, lần đầu tiên
trong lịch sử tư duy của nhân loại, ông đã diễn đạt được nội dung của phép biện chứng
dưới dạng lý luận chặt chẽ thông qua một hệ thống các quy luật, phạm trù. Trên cơ sở
phê phán tính chất duy tâm thần bí trong triết học Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
kế thừa "hạt nhân hợp lý" trong phép biện chứng của Hêghen, xây dựng thành công
phép biện chứng duy vật.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã phê phán nhiều hạn chế cả về phương pháp, cả về quan
điểm, đặc biệt những quan điểm liên quan đến việc giải quyết các vấn đề xã hội của
L.Phoiơbắc, song, hai ông cũng đánh giá cao vai trò tư tưởng của L.Phoiơbắc trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, khẳng định giới tự nhiên là tính thứ
nhất, tồn tại vĩnh viễn, khơng phụ thuộc vào ý thức của con người. Chủ nghĩa duy vật,
vô thần của L.Phoiơbắc đã tạo tiền đề quan trọng cho bước chuyển biến của C.Mác và
Ph.Ăngghen từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật — một tiền đề lý luận
của quá trình chuyển từ lập trường chủ nghĩa dân chủ - cách mạng sang lập trường chủ
nghĩa cộng sản.
Kinh tế học chính trị cổ điển Anh với những đại biểu lớn của nó là A.Xmít và
Đ.Ricácđơđã góp phần tích cực vào q trình hình thành quan niệm duy vật về lịch sử
của chủ nghĩa Mác.
A.Xmít và Đ.Ricácđơ là những người có cơng lớn trong việc mở đầu xây dựng lý
luận về giá trị của lao động trong lĩnh vực nghiên cứu kinh tế học chính trị. Kế thừa
những yếu tố khoa học trong lý luận về giá trị lao động và những tư tưởng tiến bộ của
các nhà kinh tế học chính trị cổ điển Anh, C.Mác đã giải quyết những bế tắc mà bản
thân các nhà kinh tế học chính trị cổ điển Anh đã không thể vượt qua được để xây
dựng nên lý luận về giá trị thặng dư, luận chứng khoa học về bản chất bóc lột của chủ
nghĩa tư bản và nguồn gốc kinh tế dẫn đến sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản
cũng như sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.



Chủ nghĩa xã hội khơng tưởng đã có một q trình phát triển lâu dài và đạt đến đỉnh
cao vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX với các nhà tư tưởng tiêu biểu là H.Xanh
Ximơng, S.Phuriê và R.Ơoen. Chủ nghĩa xã hội không tưởng thể hiện đậm nét tinh
thần nhân đạo, phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản trên cơ sở vạch trần cảnh khốn
cùng cả về vật chất lẫn tinh thần của người lao động trong nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa và đã đưa ra nhiều quan điểm sâu sắc về quá trình phát triển của lịch sử cũng
như dự đoán về những đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai. Song, chủ nghĩa xã hội
không tưởng đã không luận chứng được một cách khoa học về bản chất cùa chủ nghĩa
tư bản, không phát hiện được quy luật phát triển cùa chủ nghĩa tư bản và cũng khơng
nhập thức được vai trị, sứ mệnh của giai cấp công nhân với tư cách là lực lượng xã hội
có khả năng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội bình đẳng, khơng có bóc
lột.
Tinh thần nhân đạo và những quan điểm đúng đắn của các nhà chủ nghĩa xã hội
không tưởng về lịch sử, về đặc trưng của xã hội tương lai đã trở thành một trong
những tiền đề lý luận quan trọng cho sự ra đời của lý luận khoa học về chủ nghĩa xã
hội trong chủ nghĩa Mác.
- Tiền đề khoa học tự nhiên:
Cùng với những điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề lý luận, những thành tựu khoa
học tự nhiên cũng là những tiền đề, luận cứ và những minh chứng khẳng định tính
đúng đắn về thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác; trong đó, trước hết
là quy luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa và thuyết tế bào.
Quy luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng đã chứng minh một cách khoa học về
mối quan hệ khơng tách rời nhau, sự chuyển hóa lẫn nhau và được bảo tồn của các
hình thức vận động của vật chất trong giới tự nhiên. Thuyết tiến hóa đã đem lại cơ sở
khoa học về sự phát sinh, phát triển đa dạng bởi tính di truyền, biến dị và mối liên hệ
hữu cơ giữa các loài thực vật, động vật trong quá trình chọn lọc tự nhiên. Thuyết tế
bào là một căn cứ khoa học chứng minh sự thống nhất về mặt nguồn gốc, hình thái và
cấu tạo vật chất của cơ thể thực vật, động vật và giải thích quá trình phát triển sự sống

trong mối liên hệ của chúng. Bác bỏ tư duy siêu hình và quan điểm thần học về vai trò


của "Đấng Sáng Thế"; khẳng định tính đúng đắn của quan điểm duy vật biện chứng về
thế giới vật chất là vô cùng, vô tận, tự tồn tại, tự vận động, tự chuyến hóa; khẳng định
tính khoa học của quan điểm duy vật biện chứng trong nhận thức và thực tiễn.
Như vậy, sự ra đời của chủ nghĩa Mác là hiện tượng hợp quy luật; nó vừa lả sản
phẩm của tình hình kinh tế - xã hội đương thời, của tri thức nhân loại thể hiện trong
các lĩnh vực khoa học, vừa là kết quả của năng lực tư duy sáng tạo và tinh thần nhân
văn của những người sáng lập ra nó.
1.1.2. Sự phát triển của triết học Mác – Lênin qua các giai đoạn
Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen thực
hiện, diễn ra từ những năm 1842-1843 đến những năm 1847-1848; sau đó, từ năm
1849 đến năm 1895 là q trình phát triển sâu sắc hơn, hoàn thiện hơn. Trong giai
đoạn này, cùng với các hoạt động thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu tư
tưởng của nhân loại trên nhiều lĩnh vực từ thời cổ đại cho đến xã hội đương thời để
từng bước củng cố, bổ sung và hoàn thiện quan điểm của mình.
Đến tác phẩm Sự khốn cùng của triết học (C.Mác, 1847) và Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản(C.Mác và Ph.Ăngghen, 1848), chủ nghĩa Mác đã được trình bày như một
chỉnh thể các quan điểm nền tảng với ba bộ phận lý luận cấu thành. Trong tác phẩm Sự
khốn cùng của triết học, C.Mác đã đề xuất những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa xã hội khoa học và bước đầu thể hiện tư tưởng về giá trị thặng
dư. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là văn kiện có tính cương lĩnh đầu tiên của chủ
nghĩa Mác. Trong tác phẩm này, cơ sở triết học đã được thể hiện sâu sắc trong sự
thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị - xã
hội. Tun ngơn của Đảng Cộng sản bước đầu đã chỉ ra những quy luật vận động của
lịch sử, thể hiện tư tường cơ bàn về lý luận hình thái kinh tế - xã hội. Theo tư tưởng
đó, sản xuất vật chất giữ vai trị quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội; phương
thức sản xuất vật chất quyết định quá trình sinh hoạt, đời sống chính trị và đời sống
tinh thần của xã hội. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng cho thấy từ khi có giai cấp

thì lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử đấu tranh giai cấp; trong đấu tranh giai
cấp, giai cấp vô sản chỉ có thể tự giải phóng mình nếu đồng thời và vĩnh viễn giải


phóng tồn thể nhân loại. Với những quan điểm cơ bản này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu toàn diện phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã phát hiện ra rằng: việc tách những người sản xuất nhỏ
khỏi tư liệu sản xuất bằng bạo lực là khời điểm sự xác lập phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Người lao động khơng cịn tư liệu sản xuất để tự mình thực hiện các hoạt
động lao động, cho nên, muốn lao động để có thu nhập, người lao động buộc phải bán
sức lao động của mình cho nhà tư bản. Sức lao động đã trở thành một loại hàng hóa
đặc biệt, người bán nó trở thành cơng nhân làm th cho nhà tư bản. Giá trị do lao
động của công nhân làm thuê tạo ra lớn hơn giá trị sức lao động của họ, hình thành nên
giá trị thặng dư, nhưng nó lại không thuộc về người công nhân mà thuộc về người nắm
giữ tư liệu sản xuất - thuộc về nhà tư bản.
Như vậy, bằng việc tìm ra nguồn gốc của việc hình thành giá trị thặng dư, C.Mác đã
chỉ ra bản chất của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa, cho dù bản chất này đã bị che đậy bởi
quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
Lý luận về giá trị thặng dư được C.Mác và Ph.Ăngghen nghiên cứu và trình bày một
cách toàn diện, sâu sắc trong bộ Tư bản. Tác phẩm này khơng chỉ mở đường cho sự
hình thành hệ thống lý luận kinh tế chính trị mới trên lập trường giai cấp vơ sản, mà
cịn củng cố, phát triển quan điểm duy vật lịch sử một cách vững chắc thơng qua lý
luận về hình thái kinh tế - xã hội. Lý luận này đã trình bày hệ thống các quy luật vận
động và phát triển của xã hội, cho thấy sự vận động và phát triển ấy là một q trình
lịch sử - tự nhiên thơng qua sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất; giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội
đã làm cho quan điểm duy vật về lịch sử khơng cịn là một giả thuyết, mà là một
ngun lý đã được chứng minh một cách khoa học.
Bộ Tư bản của C.Mác cũng là tác phẩm chủ yếu và cơ bản được trình bày đồng nghĩa

với khoa học xã hội thơng qua việc làm sáng tỏ quy luật hình thành, phát triển và diệt
vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản; sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội


và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân với tư cách là lực lượng xã hội thực hiện sự
thay thế ấy.
Tư tưởng duy vật về lịch sử, về cách mạng vô sản tiếp tục được phát triển trong tác
phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta của C.Mác (1875). Trong tác phẩm này, những vấn đề
về nhà nước chuyên chính vô sản, về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội, những giai đoạn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa cộng sản, v.v. đã được đề
cập với tư cách là cơ sở khoa học cho lý luận cách mạng của giai cấp vô sản trong các
hoạt động hướng đến tương lai.
1.2.
Đối tượng và chức năng của triết học Mác – Lênin
1.2.1. Đối tượng của triết học Mác – Lênin

Triết học, như đã định nghĩa ở trên, là tri thức lý luận của con người về thế giới, là
kết quả của quá trình nhận thức ở trình độ trừu tượng và khái quát cao của con người.
Là kết quả của quá trình nhận thức, triết học có đối tượng của mình. Đối tượng của
triết học được hiểu là những mối liên hệ chung nhất của hiện thực khách quan, hoặc
nhũng sự vật được con người tưởng tượng ra và được phản ánh trong các phạm trù,
khái niệm của triết học. Để hiếu rõ đối tưcmg triết học ta so sánh đối tượng triết học
với đối tượng của một số các khoa học cụ thể, chẳng hạn đối tượng nghiên cứu của
toán học, như Ăngghen nhận định, là những quan hệ về số lượng và hình không gian
của các sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan. Đối tượng nghiên cứu của triết
học là những mối liên hệ chung nhất của thế giới vật chất và cả bản chất, mối liên hệ
giữa thế giới vật chất với nhũng sự vật hiện tượng do con người tưởng tượng ra như
Thượng đế, thế giới thần thánh, thần linh v.v.
Từ khi ra đời ở thời kỳ cổ đại đến nay, triết học đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển
khác nhau. Ở mỗi giai đoạn với tư cách một lĩnh vực tri thức của nhân loại và một hình

thái ý thức xã hội, do tình hình thực tiễn xã hội thay đổi mà đối tượng của triết học
cũng có những nội dung khác nhau.
Thời kỳ cổ đại, khi sản xuất xã hội cịn ở trình độ thấp, sự phân công lao động xã hội
mới phát triển, lao động trí óc mới tách rời lao động chân tay, khối lượng tri thức của
loài người về thế giới và về chính bản thân mình cịn chưa nhiều, chưa có sự phân chia


giữa tri thức triết học với tri thức của các khoa học chuyên ngành. Ở Trung Quốc, triết
học chủ yếu gắn với việc giải quyết các vẩn đề đạo đức, chính trị – xã hội. Chẳng hạn
quan niệm của Khổng giáo, Lão giáo, Đạo giáo về xã hội, về con người đều chứa đựng
những quan điểm triết học sâu sắc. ở Ấn Độ, triết học và tơn giáo hồ quyện vào nhau.
Chẳng hạn quan niệm của Phật giáo về con người, đời người, nỗi khổ của con người
và sự giải phóng con người khỏi những nỗi khổ thể hiện tư tưởng biện chứng sâu sắc.
Ở Hy Lạp, triết học gắn với những hiểu biết ban đầu của con người về tự nhiên và
được gọi là triết học tự nhiên. Vì triết học bao quát mọi lĩnh vực tri thức của nhân loại,
nên đối tượng nghiên cún của triết học thời kỳ này cũng khơng có đối tượng riêng mà
là mọi lĩnh vực tri thức, và vì thế sau này đã nảy sinh quan niệm cho rằng “triết học là
khoa học của mọi khoa học”. Thời kỳ cổ đại triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực
rỡ, đặt nền móng cho sự phát triển về sau không chỉ đối với triết học mà còn đối với
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Thời kỳ trung cố ở Tây Âu kéo dài hơn mười thế kỷ, do sự thống trị của Giáo hội
Thiên Chúa giáo trên mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần của xã hội, triết học cũng bị
thần học chi phối. Triết học trở thành bộ phận của thần học, phục vụ cho thần học.
Nhiệm vụ của triết học thời kỳ đó là lý giải và chứng minh tính họp lý, đúng đắn của
các giáo điều trong kinh thánh. Triết học đó được gọi là triết học kinh viện. Trong
khuôn khổ của tôn giáo, triết học phát triển rất khó khăn và chậm chạp, đặc biệt là
những tư tưởng triết học duy vật.
Từ nửa sau thế kỷ XV và thể kỷ XVI, ở các nước Tây Âu những yếu tố của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện trong lòng phương thức sản xuất phong
kiến, đồng thời khoa học tự nhiên cũng bắt đầu được phát triển do địi hỏi của sản

xuất. Khi đó, triết học duy vật phát triển trong mối liên hệ với yêu cầu phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự phát triển của khoa học tự nhiên. Tuy
nhiên do còn chịu ảnh hưởng nặng nề của quan điểm tôn giáo nên triết học duy vật lúc
này cịn mang hình thức phiếm thần luận, nghĩa là sử dụng các quan niệm tơn giáo như
là hình thức bên ngồi để nói lên nội dung bên trong của quan điểm duy vật về thế
giới. Đến thế kỷ XVII – XVIII, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng lớn
mạnh, trở thành phương thức sản xuất thống trị trên nhiều lĩnh vực của nền sản xuất,


đưa đến cách mạng tư sản nổ ra ở nhiều nước Tây Âu. Khoa học tự nhiên phát triển
mạnh, diễn ra quá trình phân ngành sâu sắc và đạt được nhiều thành tựu trong các lĩnh
vực riêng biệt khác nhau. Nổi bật nhất và có ảnh hưởng lớn nhất đến tư tưởng triết học
là cơ học của Niutơn. Khi đó, triết học duy vật phát triến mạnh mẽ và đấu tranh khá
gay gắt với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thế kỷ
XVII – XVIII là chủ nghĩa duy vật Pháp với các đại biểu: Điđrô, ‘Henvêtiuyt; chủ
nghĩa duy vật Anh với các đại biểu: Ph. Bêcơn, T. Hốpxơ; ở Hà Lan với đại biểu
Xpinơda. Tuy khoa học tự nhiên đã hình thành các môn khoa học độc lập, nhưng triết
học vẫn chưa xác định rõ đối tượng nghiên cứu riêng của mình, mà vẫn gắn liền với
khoa học tự nhiên, bao quát toàn bộ tri thức khoa học tự nhiên. Triết học lúc này vẫn
được coi là “khoa học của mọi khoa học”.
Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, nước Anh và Pháp đã ứở thành nước tư bản,
nhưng nước Đức vẫn còn là một nước phong kiến. Giai cấp tư sản Đức đang hình
thành vừa muốn đi theo các nước Anh, Pháp, vừa sợ phong trào đấu tranh của giai cấp
vô sản và muốn thỏa hiệp với giai cấp quý tộc phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử đó,
triết học Đức phản ánh lợi ích và địa vị của giai cấp tư sản Đức, đã phát triển mạnh
mẽ, nhưng trên lập trường duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen. Hêghen muốn bao
quát toàn bộ tri thức khoa học vào trong hệ thống triết học của mình. Đối với Hêghen,
mỗi một ngành khoa học cụ thể chỉ là những mắt khâu của hệ thống triết học. Triết học
có thể giải quyết được các vấn đề của khoa học cụ thể. Đây là hệ thống triết học cuối
cùng coi triết học là “khoa học của các khoa học” – Một quan niệm về đối tượng

nghiên cứu của triết học khơng cịn phù họp với tình hình phát triển của nhận thức
khoa học và thực tiễn xã hội đương thời.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa ở một loạt các nước Tây Âu như Anh, Pháp, Hà Lan, Italia, Đức v.v.
đã đưa đến sự lớn mạnh của giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản đã trở thành lực lượng
chính trị độc lập. Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở nên gay gắt
hơn. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản cũng trở nên thường
xuyên và mạnh mẽ hơn, đòi hỏi phải được hướng dẫn bằng lý luận cách mạng. Đồng
thời sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng thúc đẩy khoa học tự nhiên nửa


đầu thế kỷ XIX phát triển, đạt nhiều thành tựu mới có tính chất cách mạng, làm lung
lay quan điểm siêu hình vẫn thống trị trong tư duy của các nhà khoa học tự nhiên từ
thế kỷ XVII – XVIII đến lúc này. Đặc biệt có 3 phát minh trong khoa học tự nhiên có ý
nghĩa lớn về mặt triết học đó là: định luật bảo tồn và chuyển hố năng lượng, học
thuyết tế bào và học thuyết tiến hoá. Trước đòi hỏi của cuộc đấu tranh cách mạng của
giai cấp vô sản và yêu cầu của sự phát triển khoa học tự nhiên, triết học Mác đã ra đời.
Triết học Mác đã xác định rõ đối tượng nghiên cứu của mình, phân biệt với đối tượng
nghiên cứu của các khoa học cụ thể, chấm dứt quan niệm sai lầm về đối tượng nghiên
cứu của triết học, cho rằng: Triết học là khoa học của mọi khoa học.
Thời đại ngày nay, với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ,
với điều kiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang giữ địa vị thống trị, trong xã
hội tồn tại nhiều mâu thuẫn gay gắt, điều đó lại tạo điều kiện cho sự ra đời nhiều trào
lun triết học khác nhau ở các nước phương Tây, mà chúng ta thường gọi là “Triết học
phương Tây hiện đại”. Các trào lưu đó như: Chủ nghĩa thực chứng; chủ nghĩa hiện
sinh; chủ nghĩa thực dụng; chủ nghĩa Tô-mát mới, v.v. Các trào lun triết học này coi
đối tượng của triết học là nghiên cứu những mặt hoạt động khác nhau của con người.
Tuy nhiên về bản chất không thế nằm ngoài vấn đề quan hệ giữa con người và thế giói
vật chất, giữa tư duy, ý thức của con người với hiện thực khách quan và với bản thân
hoạt động của con người.

Như vậy, đối tượng nghiên cứu của triết học đã thay đổi trong lịch sử. Mỗi giai đoạn
lịch sử, do điều kiện kinh tế – xã hội và sự phát triển của khoa học tự nhiên, đối tượng
nghiên cứu của triết học có nhũng nội dung cụ thể khác nhau, nhưng vẫn xoay quanh
vấn đề quan hệ giữa con người và thế giới khách quan bên ngoài, giữa tư duy và tồn
tại.
1.2.2. Chức năng của triết học Mác – Lênin

1.2.2.1. Chức năng thế giới quan


Thế giới quan là hệ thống quan niệm về thế giới, về bản thân con người và vị trí của
con người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, nghĩa là
triết học quan niệm về thế giới bằng hệ thống lý luận của mình.
Thế giới quan triết học có chức năng định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn của con người. Trong triết học có hai thế giới quan cơ bản đối lập nhau
là thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm.
1.2.2.2. Chức năng phương pháp luận
Cùng với thế giới quan, triết học cịn có chức năng phương pháp luận. Phương pháp
là những nguyên tắc, cách thức thực hiện hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
nhằm đạt mục đích đã đặt ra. Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống
những quan điểm, nguyên tắc xác định phương pháp, phạm vi ứng dụng phương
pháp… cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Chức năng phương pháp luận
của triết học thể hiện ở chỗ nó chỉ ra cho chủ thể phương pháp xem xét, nhận thức và
cải tạo thế giới. Trong triết học có hai phương pháp đối lập nhau là phương pháp biện
chứng và phương pháp siêu hình. Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự
vật, hiện tượng trong mối liên hệ, vận động, biến đổi và phát triển. Phương pháp siêu
hình xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái cô lập, tĩnh tại, bất biến, đứng im.
1.3 .Vai trò của triết học Mác – Lênin

1.3.1 . Vai trò lý luận

-Thứ nhất, chủ nghĩa Mác Lenin về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản trong
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga,
mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
-Thứ hai, lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội.
-Thứ ba, lý luận về dân tộc và dân tộc thuộc địa của Mác Lê-nin là chỉ dẫn quý báu
cho các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.


-Thứ tư, Di sản của V.I. Lê-nin là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam trong
thời đại Hồ Chí Minh.
- Thứ năm, bản lĩnh, trí tuệ và đổi mới, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh - Đảng ta nhất định sẽ lãnh đạo nhân dân ta thành công trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.3.2. Vai trò trong đời sống
Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, là chủ nghĩa duy
vật biện chứng trong việc xem xét giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật thống nhất chặt chẽ với
nhau làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận
khoa học. Nhờ đó, triết học Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn giới tự nhiên
cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
Triết học Mác - Lênin khơng chỉ là lý luận về phương pháp giải thích thế giới mà
còn là lý luận về phương pháp biến đổi và cải tạo thế giới. Triết học Mác - Lênin là thế
giới quan và phương pháp luận, là vũ khí lý luận sắc bén giúp giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động đấu tranh xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột, xây dựng thành cơng xã hội
mới, xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin đóng vai trị là chìa khố để nhận thức ,lịch sử phát
triển của sản xuất vật chất nói chung, giải thích các hiện tượng, các quá trình kinh tế
đang diễn ra trong thực tiễn, phân tích nguyên nhân dự báo triển vọng, chiều hướng
phát triển kinh tế xã hội, là cơ sở khoa học để nhận thức, đề ra và thực hiện tốt đường

lối, chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng.
Chủ nghĩa xã hội khoa học đóng vai trị phát hiện và luận giải về quá trình tất yếu
dẫn đến sự hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, về
vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về cách mạng xã hội chủ nghĩa, để
thực hiện mục tiêu giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi ách áp
bức bóc lột, giải phóng xã hội, tiến tới giải phóng con người. Theo Lênin, chủ nghĩa xã
hội khoa học theo nghĩa rộng là chủ nghĩa Mác - Lênin.


Chủ nghĩa xã hội khoa học thể hiện tập trung nhất hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân, trang bị, rèn luyện cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động bản lĩnh chính
trị vững vàng, tư tưởng và lập trường cách mạng trong đấu tranh giành chính quyền và
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh có hiệu quả đối với các lực
lượng, các hệ tư tưởng thù địch của các thế lực phản động chống phá sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.


CHƯƠNG 2
VAI TRÒ TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN TRONG SỰ GHIỆP ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM
2.1 Quá trình vận dụng triết học Mác- Lênin
2.1.1 .Quá trình vận dụng triết học Mác- Lênin trong thời chiến
Ở các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội,triết học Mác- Lênin được phổ cập và thâm
nhập sâu rộng trong quần chúng nhân và trên các lĩnh vực đời sống xã hội và đóng vai
trị quan trọng khơng thể thiếu trong q trình xây dựng xã hội mới và những thành
tựu to lớn không thể phủ nhận. Trong quá trình tổ chức và lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sang tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,đồng thời có đóng góp quan trọng
vào phát triển triết học Mác-Lênin trong điều kiện mới.
Trong đấu tranh giải phóng dân tộc: bằng tư duy biện chứng,phân tích sâu sắc tình

hình cách mạng của Việt Nam ,Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
đã sáng suốt định ra đường lối lãnh đạo nhân dân ,tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tử một nước thuộc địa nửa phong
kiến.Trên cớ sở lý luận về các yếu tố khách quan và chủ quan,phân tích tình hình,so
sang lực lượng,nắm chắc thời cơ,lãnh đạo Đảng,tồn dân và tồn qn ta đã đứng lên
khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi năm 1945,đánh bại thực dân Pháp 1954 và đế
quốc Mỹ thống nhất Tổ quốc 1975 đã khẳng định tính đúng đắn,khoa học,sự đóng góp
làm phog phú lý luận Mác-Lênin của Đảng Cộng sản Việt Nam .Đặc biệt đường lối
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược-xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc,đấu tranh giải phóng dân tộc,thống nhất đất nước ở miền Nam sau năm 1954 là
đóng góp to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát triển triết học Mác-Lênin .
2.1.2. Quá trinh vận dụng triết học Mác – Lênin trong thời bình
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội trên của nước,Đảng đã làm rõ lý luận về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ dài;thực hiện dường lối đổi mới ,phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;giải quyết đúng đắn giữa đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị,đưa quan điểm chủ động hội nhập quốc tế trên cơ sở phát


huy nội lực,vấn đề xây dựng nhà nước.Đó vừa là những điều ta áp dụng rút ra được từ
chủ nghĩa Mác-Lênin cũng vừa là những đóng góp quan trọng của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong quá trình phát triển kho tàng lý luận Mác-Lênin trong đó có triết học.
Hiện nay các thế lực thù địch đang ra sức chống phá hủ nghĩa xã hội,xuyên tạc chủ
nghĩa Mác-Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh,đường lối,quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam ,việc đấu tranh bảo vệ phát triển triết học Mác-Lênin là vấn đề cấp bách,nhất là
việc vận dụng,biến lý luận đó thành hiện thực thắng lợi của sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.2. Phát triển kinh tế thị trường
2.2.1. Thực tiễn kinh tế xã hội Việt Nam sau chiến tranh
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi,dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội lúc
đó,nước ta bắt đầu xây dựng mơ hình kinh tế hóa tập trung dựa trên chế độ cơng hữu

về tư liệu sản xuất.Các hình thức tổ chức sản xuất và dịch vụ quốc doanh phát
triển,hợp tác xã cũng được tổ chức rộng rãi vì ta học được mơ hình tổ chức kinh tế của
Liên Xơ cũ.Lúc bấy giờ mơ hình kế hoạch hóa tập trung ở nước ta phát huy tốt đẹp.Từ
một nền kinh tế lạc hậu,phân tán ,nền kinh tế nước ta có sự cải tiến rõ rệt.Trong thời kỳ
đầu ,nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ ra phù hợp với nền kinh tế tự cung tự cấp,phù
hợp với điều kiện hai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu trong chiến tranh lúc đó.
Đến năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam, nước ta vẫn tiếp tục xây dựng nền
kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hóa trên phạm vi cả nước.Do chủ quan nóng
vội,cứng nhắc,ta đã khơng quản lý được các nguồn lực của đất nước; nhà nước bao
cấp; tăng trưởng kinh tế chậm lại;hàng hóa trở nên khan hiếm,không đáp ứng đươc
nhu cầu trong nước,ngân sách thâm hụt nặng nề,cùng với đó là sự thối hóa về mặt con
người và xã hội.Từ 1975 đến năm 1985,các thành phần kinh tế tư bản tư nhân,cá thể bị
tiêu diệt hoặc khơng cịn điều kiện phát triển dẫn.Ngược lại thành phần kinh tế quốc
doanh lại phát triển tràn lan ồ ạt trở thành địa vị độc tôn trong hầu hết các
ngành,nhưng do nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý,điều hành dẫn đến
làm ăn thua lỗ ,nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng và tụt hậu. Đến năm 1986,
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản vẫn chưa bị xố bỏ. Chính sách cấm


vận của Hoa Kỳ kéo dài, sự thù địch của các thế lực phản động cũng có tác động
khơng nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.Tất cả những nguyên nhân
trên cộng với thiên tai, mất mùa liên tiếp vào những năm 1979 - 1980 đã đưa nước ta
vào tình trạng khủng hoảng, cơng nghiệp chỉ tăng 0,6%, nông nghiệp tăng 1,9% trong
khi lạm phát ở mức siêu cấp năm 1986 : 74%.
2.2.2. Đổi mới kinh tế Việt Nam- phát triển nền kinh tế thị trường
Tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập trung quan liêu bao cấp đã cản trở sự
phát triển của thực tiễn sản xuất. Bị chi phối bởi quy luật mâu thuẫn khách quan nên
để giải quyết mâu thuẫn đó Đảng ta đã tiến hành đổi mới và cải cách kinh tế.Cơng
cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là một tất yếu

khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm phát
triển của các quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn phát triển Việt Nam, Đảng ta đã đề
ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCH.Đó là sự vận dụng sáng
tạo từ chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH và con đường đi lên CNXH, đặc
biệt là những chỉ dẫn của Lê-nin trong chính sách kinh tế mới.
Sau khi vận dụng kế hoạch chính sách mới nền kinh tế Việt Nam ngày càng có nhiều
đổi mới ,nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, nền kinh tế gồm nhiều thành
phần đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
đất nước, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã và đang thực hiện quá trình hội nhập
quốc tế, mở rộng và gia tăng các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế
giới nhằm tranh thủ nhiều cơ hội hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước, đặc biệt là
các quốc gia phát triển,tất cả những điều đó giúp phát triển đất nước,nâng cao nền kinh
tế nước nhà. Lý luận về mơ hình kinh tế đã được đổi mới liên tục theo thời gian,đã tạo
ra xung lực mới cho sự phát triển và đã làm cho nền kinh tế từ nghèo khó từng bước
được cải thiện và khởi sắc đi lên đưa đất nước ngày càng đi lên.
2.2.3. Kết quả của quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam


Sau gần 30 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Việt Nam đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất và
tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Việt Nam là từ một nước trì trệ, tăng
trưởng thấp, tích luỹ phần lớn nhờ vào vay mượn bên ngoài, đến nay đã trở thành một
nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực. Việt Nam đã tạo được khả năng tích luỹ
để đầu tư cho phát triển và cải thiện đời sống của người dân. Tổng tích luỹ tăng từ 9,5
– 11,3%/năm tuỳ giai đoạn.
Hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Thị trường hàng hoá phát
triển với quy mô lớn, tốc độ nhanh. Các thị trường dịch vụ, lao động, khoa học và
công nghệ, bất động sản hình thành và phát triển mạnh mẽ.
Tiềm lực tài chính ngày càng được tăng cường, thu ngân sách tăng trên 18%/năm;
chi cho đầu tư phát triển bình quân chiếm khoảng 30% tổng chi ngân sách. Thu nhập
bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên khoảng 640 USD năm
2005, tính đến năm 2012 thu nhập bình qn đầu người đạt gần 24 triệu đồng (1.150
USD).
2.3 . Đổi mới chính trị ở Việt Nam

2.3.1. Hệ thống chính trị Việt Nam trước đổi mới
Từ tháng 4-1975,với thắng lợi hoàn toàn triệt để của sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước,cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới,tiến hành cách mạng chủ nghĩa
trên cả nước,hệ thống chính trị của nước ta cũng chuyển sang hệ thống chun chính
vơ sản hoạt động trên cả nước(1975-1985).Hệ thống chun chính vơ sản theo tư
tưởng làm chủ tập thể(1975-1985):,cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới
tiến hành chủ nghĩa xã hội trong cả nước ,giai đoạn này được quan niệm là xây dựng
chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa,xác định quyền làm chủ của nhân dân được
thể chế hóa bằng pháp luật và tổ chức,xác định Đảng là người lãnh đạo tồn bộ hoạt
động xã hội trong điều kiện chun chính vô sản,nhân dân làm chủ,nhà nước quản lý
cơ chế chung trong quản lý toàn xã hội.


Nhưng trong hệ thống chun chính vơ giản giai đoạn này,mối quan hệ giữa Đảng
,nhà nước và nhân dân chưa được xác định rõ ràng,chế độ trách nhiệm không
nghiêm,pháp chế xã hội chủ nghĩa cịn nhiều thiếu xót,bộ máy nhà nước cồng
kềnh,kém hiệu quả mà cơ chế quản lý tập trung quan lieu bao cấp là ngun nhân trực
tiếp,khơng ít cơ quan chính quyền khơng tơn trọng ý kiến của nhân dân,không làm
công tác vận động quần chúng.Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm những nhiệm vụ
của giai đoạn mới,chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội

cơ bản và cấp bách.Chính những hạn chế sai lầm trên cùng những yêu cầu của công
cuộc đổi mới,đã thúc đẩy chúng ta phải đổi mới hệ thống chun chính vơ sản thành
hệ thống chính trị trong thời kỳ mới.
2.3.2.

Chính trị Việt Nam thời kỳ đổi mới

Trong thời kỳ đổi mới, luận điểm của V.I. Lê-nin về “phân tích cụ thể một tình hình
cụ thể, đó là bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác” đã luôn được Đảng ta quán
triệt như một nguyên lý phương pháp luận khoa học và cách mạng của Đảng trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.Từ góc độ chính trị, thể chế chính trị được xây dựng
trên nguyên tắc dân chủ tập trung dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Q trình dân
chủ hóa đang từng bước được thực hiện một cách tiệm tiến với các biểu hiện như thực
hiện phê bình và tự phê bình trong Đảng, đấu tranh với các biểu hiện diễn biến và tự
diễn biến, tham nhũng, thực hiện các cuộc chất vấn và bỏ phiếu tín nhiệm trong quốc
hội, hình thành các tổ chức hội nghề nghiệp bảo vệ quyền lợi của nhân dân..Trong thời
kỳ đổi mới, Đảng ta đã xây dựng Hiến pháp, pháp luật, hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa và giáo dục nhân dân biết thực hiện quyền làm chủ. Đổi mới hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay là nhằm, thể hiện đúng đắn và đầy đủ hơn bản chất xã hội chủ nghĩa,
phát huy tính ưu việt và vai trị tích cực của chính trị đối với sự phát triển kinh tế – xã
hội.Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng là hạt nhân lãnh đạo, Đảng phải biết lựa
chọn và tập trung lãnh đạo những cơng việc trọng yếu, phải phát huy vai trị của cán
bộ, đảng viên trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân. Trong điều kiện
Đảng Cộng sản là đảng duy nhất cầm quyền, các tổ chức, cấp uỷ đảng phải vừa giáo
dục, vừa quản lý và phát huy vai trò của lực lượng này trong việc thực hiện sự lãnh
đạo của Đảng.Nói tóm lại, đổi mới hệ thống chính trị là giải pháp mang tính nền tảng


để thực hành và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Q trình đó phải được đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

2.3.3.

Kết quả đạt được

Đầu năm 1988 có nạn đói lớn ở nhiều vùng và lạm phát còn ở mức 393,8%, nhưng
từ năm 1989 trở đi nước ta đã bắt đấu xuất khẩu được mỗi năm 1-1,5triệu tấn gạo; lạm
phát giảm dần, đến năm 1990 còn 67,4%.. Quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta đã từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố Đảng
và chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội; đã
ban hành Hiến pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản
pháp luật quan trọng, tiến hành cải cách một bước nền hành chính Nhà những, tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn
hóa được phát huy.
Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa. Khơi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt
với Trung Quốc,Mỹ,các nước Châu Âu,..; tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết với
Lào,Cam-pu-chia với các nước trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức
ASEAN,….
2.3.4

Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị

Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực quan trọng bậc nhất trong mọi xã hội, có tác
động to lớn đến các lĩnh vực khác, giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện
chứng, mật thiết, không tách rời nhau. Kế thừa quan điểm của C.  Mác và Ph.  
Ăng-ghen về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, V.I.  Lê-nin cho rằng, trong
mối quan hệ này, xét cho cùng, kinh tế giữ vai trò quyết định, nhưng trong những
thời kỳ nhất định chính trị có vai trị vơ cùng to lớn khơng kém vai trị của kinh

tế.. Thời kỳ trước đổi mới ở nước ta, các quan hệ kinh tế khơng được phát triển
bình thường, mà bị áp đặt bởi nhân tố chính trị. Điều đó thể hiện ở chỗ, chúng ta
dùng biện pháp chính trị can thiệp một cách chủ quan, duy ý chí vào kinh tế


nhằm đơn giản hóa, đơn nhất hóa loại hình sở hữu và thành phần kinh tế khi mà
hình thức sở hữu và thành phần kinh tế lại rất đa dạng; dùng sức mạnh chính trị
áp đặt vào quan hệ sản xuất, đề ra và xây dựng quan hệ sản xuất q cao, khơng
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất cịn thấp kém, vì thế, kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, của các quan hệ kinh tế, dẫn đến khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Nhận thức rõ sai lầm đó, bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng
và Nhà nước ta chủ trương đa dạng hóa hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.. Nền kinh tế nước ta nhờ vậy có những
bước phát triển mạnh mẽ trong mấy chục năm qua. Đó là bằng chứng khách quan
về vai trị to lớn của chính trị đối với kinh tế, mà ở đây, cụ thể là vai trị của Đảng
và Nhà nước .Đổi mới chính trị là để chính trị phù hợp, đồng bộ với kinh tế, là để
phát huy vai trị tích cực, năng động của nó trong phát triển kinh tế nói riêng và
trong phát triển tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung.
2.4. Đảng kiên định vận dụng, bổ sung, phát triển tư tưởng của V.I. Lê-nin trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam
2.4.1. Tư tưởng của V.I. Lê-nin là cơ sở lý luận
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác  Lênin cho phù hợp với điều kiện mới của Việt Nam, từ đó đã đúc kết những luận điểm
lý luận phù hợp với mơ hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đó là những luận điểm lý
luận về mục tiêu và đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về con đường lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta.

2.4.2 Tư tưởng của V.I. Lê-nin về NEP là cơ sở nền tảng để Đảng ta phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Với NEP, Lênin đã khẳng định rằng, đi lên chủ nghĩa xã hội khơng phải là xóa bỏ
kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, mà phải phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị

trường; không phải là nền kinh tế của một thành phần kinh tế độc tôn, mà là nền kinh
tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu, v.v..
Sự vận dụng sáng tạo, phát triển học thuyết Mác - Lênin, cụ thể là NEP của Lênin vào
hoàn cảnh, điều kiện cụ thể Việt Nam được thể hiện đặc biệt rõ nét trong quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng ta về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội


chủ nghĩa, về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần... trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.

2.4.3 Các nguyên lý của chủ nghĩa Mác, đặc biệt là tư tưởng của V.I. Lê-nin
được Đảng ta vận dụng, phát triển
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2001)
không chỉ tiếp tục khẳng định tính tất yếu của liên minh cơng - nơng - trí thức trong sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mà còn đặc biệt coi
trọng vấn đề này, coi đây là động lực quan trọng trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là
đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức do
Đảng lãnh đạo”.
2.4.4. Tư tưởng của V.I. Lê-nin về Đảng Cộng sản kiểu mới đã được vận dụng sáng
tạo
Gần 35 năm qua, nhất là trong 10 năm gần đây, nhận thức về cơng tác xây dựng
Đảng có nhiều đổi mới. Đảng ta luôn khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt, là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng.
Nhận thức của Đảng ta về công tác xây dựng Đảng ngày càng đầy đủ, khách quan và
khoa học; thể hiện sự vận dụng sáng tạo những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin
về xây dựng Đảng - đội tiền phong của giai cấp công nhân - phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Đảng ta đã thực hiện lời di huấn của V.I. Lê-nin là phải dựa vào nhân
dân để xây dựng Đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội; đó phải là những tổ chức bộ
máy phục vụ chính trị chứ chính trị khơng phục vụ bộ máy. Theo V.I. Lê-nin, chính trị

được đề cập ở đây chính là cuộc sống của nhân dân, lợi ích của nhân dân, là số phận
của hàng triệu triệu con người.
2.4.5. Đảng ta vận dụng tư tưởng của V.I. Lê-nin trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN
Trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng
Cộng sản Việt Nam không ngừng bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân, tăng cường phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa để phát triển


đất nước trong điều kiện mới, sớm đưa Việt Nam sánh vai các cường quốc năm châu
như tâm nguyện của Bác Hồ.
2.5. Những thành công đã đạt được và những mục tiêu mới trong tương lai
2.5.1. Những thành tựu đạt được


Mơ hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.



Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.



Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.



Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.




Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.



Phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc và đồn kết quốc tế.



Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.



Xây dựng Đảng cầm quyền ngang tầm sự nghiệp đổi mới đất nước.

2.5.2. Những mục tiêu mới trong tương lai


Thời kỳ đổi mới địi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại, trong đó phát
triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn
hóa, con người là nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng
yếu, thường xun.



Xác định rõ phương châm “lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục tiêu cao
nhất.




Tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xác định
ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thơng qua việc xác định lộ
trình cơng nghiệp hóa và mơ hình phát triển kinh tế nhằm hướng tới mục tiêu
phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam.


PHẦN KẾT LUẬN

Quá trình đất nước phát triển qua các thời kỳ đã phải trải qua khó khăn như thế
nào ? Các ý tưởng đổi mới đất nước, con người và tổ chức thực hiện sự đổi mới ở Việt
Nam theo mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc và phát triển xã hội chủ nghĩa nhất thiết
phải có tư duy lý luận, trong đó tư duy triết học là chìa khố phương pháp luận khoa
học. Từ những thành cơng của chúng ta trong những năm đổi mới vừa qua, có thể
khẳng định rằng, triết học Mác - Lênin có vai trò to lớn và đặc biệt quan trọng đối với
tiến trình đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam.
Đối với sinh viên thì chúng ta nên học tập, tiếp thu , kế thừa và phát triển học thuyết
Mác Lênin sao cho phù hợp với thực tiễn nước nhà . Từ đó có đầy đủ kiến và hành
trang góp phần xây dựng Việt Nam giàu mạnh .


×