Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÝ MỸ DUYÊN

NGHĨA VỤ THUẾ THU NHẬP CỦA CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGHĨA VỤ THUẾ THU NHẬP CỦA CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Định hướng Nghiên cứu
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học : Ts. Phan Thị Thành Dương
Học viên
: Lý Mỹ Duyên
Lớp
: CHL Kinh tế, Khóa 30

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối
với thu nhập từ tiền lương, tiền công” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Mọi số liệu, thông tin được đề cập trong Luận văn là trung thực và có cơ sở trích
dẫn rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên.
Tác giả Luận văn

Lý Mỹ Duyên


DANH MỤC VIẾT TẮT

NSNN

Ngân sách nhà nước

TNCN

Thu nhập cá nhân

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ NGHĨA VỤ THUẾ THU NHẬP CỦA CÁ
NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG .................. 7

1.1. Khái quát về nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu nhập từ
tiền lương, tiền công ......................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu nhập từ tiền
lương, tiền công ............................................................................................... 8
1.1.2. Đặc trưng của nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu nhập từ
tiền lương, tiền công ...................................................................................... 11
1.1.3. Vai trò của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền
công ................................................................................................................ 14
1.2. Quy định pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền
lương, tiền công .............................................................................................. 17
1.2.1. Người nộp thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền
công ................................................................................................................ 17
1.2.2.Thu nhập chịu thuế, thu nhập không chịu thuế thu nhập cá nhân đối với
thu nhập từ tiền lương, tiền cơng ................................................................... 22
1.2.3. Căn cứ tính thuế đối với thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền
công ................................................................................................................ 24
1.2.4. Thủ tục khấu trừ thuế, kê khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế thu nhập
cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công ......................................... 33
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................... 37
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
NGHĨA VỤ THUẾ THU NHẬP CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ
TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN . 38
2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với thu
nhập từ tiền lương, tiền công ........................................................................ 38


2.2. Vướng mắc trong áp dụng pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với
thu nhập từ tiền lương, tiền cơng và một số kiến nghị hồn thiện ............ 40
2.2.1. Vướng mắc về xác định người nộp thuế thu nhập cá nhân từ tiền
lương, tiền công ............................................................................................. 40

2.2.2. Vướng mắc về xác định thu nhập chịu thuế, thu nhập không chịu thuế
thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công ..................................................... 43
2.2.3. Vướng mắc về khấu trừ thuế tại nguồn đối với thu nhập từ tiền lương,
tiền công ......................................................................................................... 48
2.2.4. Vướng mắc về căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền
công ................................................................................................................ 51
2.2.5. Vướng mắc về thủ tục kê khai và nộp thuế .......................................... 66
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 68
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dưới góc độ kinh tế thì thuế là sự động viên của cải tồn xã hội để phân
phới lại. Dưới góc độ pháp lý, thuế là nghĩa vụ bắt buộc của công dân đới với
nhà nước. Thuế chính là nguồn thu chủ yếu và thường xuyên cho ngân sách nhà
nước. Theo Quyết toán nguồn thu ngân sách nhà nước theo sắc thuế năm 2019
của Bộ Tài chính1 thì nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân đạt 109,406 tỷ đồng,
chiếm 10,11% trong tổng các khoản thu từ thuế của ngân sách nhà nước năm
2019 là 1,082,213 tỷ đồng. Nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân là một trong các
nguồn thu từ thuế chủ yếu, chỉ đứng sau nguồn thu thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu
thu đặc biệt và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Dưới góc độ xã hội thì người lao động là yếu tố quan trọng cấu thành lực
lượng sản xuất bên cạnh tư liệu sản xuất. Yếu tố lao động lại chính là nguồn gớc
của tư liệu sản xuất và là phương thức phản ánh đúng đắn năng lực sáng tạo của
con người. Nói cách khác, con người sinh ra ln gắn liền với lao động. Mục
đích của q trình lao động là việc tạo lập thu nhập của con người. Các cá nhân

phải đảm bảo có nguồn thu nhập để đáp ứng nhu cầu sống cơ bản: ăn, ở, sinh
hoạt và nhu cầu sớng thiết yếu khác. Nói cách khác thì thu nhập là cơ sở để mỗi
cá nhân duy trì cuộc sớng hằng ngày và phát triển trong xã hội. Bất cứ cá nhân
nào tồn tại trong nền kinh tế thị trường hiện nay đều hướng tới mục tiêu chung là
phát sinh thu nhập, làm giàu cho bản thân. Từ đó có thể suy ra thuế thu vào thu
nhập là loại thuế cơ bản và phổ biến trong cơ cấu hệ thớng thuế vì có đới tượng
điều tiết là thu nhập và đối tượng nộp thuế là cá nhân phát sinh thu nhập trong xã
hội. Trong thuế thu vào thu nhập thì thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu
cơ bản và có cơ chế hành thu phức tạp nhất. Nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân
có phạm vi điều chỉnh đới với tất cả chủ thể có thu nhập chịu thuế, bao gồm thu
nhập từ tiền lương tiền công, thu nhập từ sản xuất kinh doanh đến thu nhập từ
hoạt động chuyển nhượng vốn, v.v… Trong đó, thu nhập từ tiền lương, tiền công
là khoản thu nhập nền tảng, thiết yếu trong đời sống của đại đa số người lao
động hiện nay. Do tầm ảnh hưởng to lớn của thuế thu nhập cá nhân từ tiền
Danh mục kèm theo Quyết định số 1592/QĐ-BTC ngày 19 tháng 8 năm 2021 của Bộ Tài chính về việc
công bố công khai quyết toán NSNN năm 2019.
1


2
lương, tiền cơng đến đời sớng con người nói riêng và mơi trường chính trị, kinh
tế, xã hội nói chung nên chính sách pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ thuế thu nhập
của cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền cơng giữ vai trị đặc biệt quan
trọng và có nội dung phức tạp nhất.
Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân nói chung và thuế thu nhập cá nhân đối
với thu nhập từ tiền lương, tiền công đã có nhiều thay đổi từ khi bắt đầu thực
hiện cơng cuộc cải cách thuế tại Việt Nam vào năm 1990. Vào thời gian này,
chính sách thuế thu nhập cá nhân được điều chỉnh bởi các Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp để thu thuế của các hộ cho thuê nhà, phương tiện vận tải, cá nhân
hành nghề độc lập; Luật thuế Chuyển quyền sử dụng đất đối với cá nhân có thu

nhập từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất và Pháp lệnh thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao. Luật Quản lý thuế 2006 ra đời đã đánh dấu bước ngoặt
quan trọng trong cơ chế quản lý thuế. Theo sau đó, Luật Thuế thu nhập cá nhân
số 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007 được ban hành và có hiệu lực thi hành từ
01/01/2009 chính là đạo luật ghi nhận cơ bản hoàn chỉnh về pháp luật thuế thu
nhập cá nhân. Đồng thời, qua 2 lần sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2012
và 2014 thì pháp luật thuế thu nhập cá nhân đã dần hoàn thiện, đảm bảo chức
năng điều tiết thu nhập cá nhân của cá nhân phát sinh thu nhập chịu thuế trong
nền kinh tế thị trường cạnh tranh, đảm bảo thiết lập và duy trì cơ chế cơng bằng
xã hội. Động viên q trình tích luỹ của cải của tồn xã hội, khuyến khích lao
động, gia tăng thu nhập, làm giàu chính đáng cho bản thân, hướng tới mục tiêu
an sinh xã hội và phát triển đất nước.
Tuy pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu
nhập từ tiền lương, tiền cơng ngày càng hồn thiện. Song trong q trình thực
hiện trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay, điều chỉnh nghĩa vụ thuế thu
nhập của cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công đã bộc lộ nhiều bất
cập như: Quy định về thu nhập chịu thuế, người nộp thuế thu nhập cá nhân từ
tiền lương, tiền công, về giảm trừ gia cảnh, về mức thuế suất, phương pháp tính
thuế, v.v… tạo cơ hội cho các cá nhân gian lận thuế, trốn thuế gây thất thu cho
ngân sách nhà nước và phá vỡ cơ chế công bằng xã hội – đi ngược với mục tiêu
điều tiết thu nhập của thuế thu nhập cá nhân. Trên cơ sở hiểu rõ tầm quan trọng
của pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu nhập từ


3
tiền lương, tiền công và nhằm mục đích nghiên cứu tồn diện, khách quan nội
dung này. Với mong ḿn xác định phương hướng và đưa ra các kiến nghị hoàn
thiện những bất cập trong nội dung pháp luật và nhận định đánh giá một cách sâu
sắc thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân
đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công trên thực tế, điều này đã thôi thúc tác

giả đưa ra quyết định lựa chọn đề tài “Nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối
với thu nhập từ tiền lương, tiền công” làm nội dung nghiên cứu cho Luận văn
Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền cơng
giữ vai trị quan trọng trong hệ thống pháp luật về thuế của nước ta. Đồng thời
thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công là sắc thuế trực
thu có cơ chế hành thu phức tạp và dễ xảy ra tình trạng có các hành vi tiêu cực
khi áp dụng trong thực tiễn. Trong thời gian vừa qua, đã có các cơng trình
nghiên cứu về nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương,
tiền công như:
- Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với tiền lương,
tiền công” của tác giả Nguyễn Thanh Lâm (Học viên cao học Luật khố 16 –
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh) – Người hướng dẫn Ts. Hồ Xuân Dũng;
Và một số cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực thuế thu nhập cá nhân nói
chung như:
- Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân” của tác
giả Đỗ Nguyễn Tường Vy (K13) – Người hướng dẫn: Ts. Phan Hiển Minh.
- Luận văn Thạc sĩ “Chế độ pháp lý về đăng ký, kê khai, nộp thuế thu nhập
cá nhân” của tác giả Huỳnh Văn Diện (K14) – Người hướng dẫn: Ts. Hà Thị
Thanh Bình.
- Luận văn Thạc sĩ “Quy định giảm trừ khi tính thuế thu nhập cá nhân”
của tác giả Nguyễn Ngọc Tú (K22) - Người hướng dẫn: Pgs. Ts. Bùi Xuân Hải.
- Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động
chuyển nhượng vốn” năm 2015 của tác giả Phan Thị Hương Vũ - Người hướng
dẫn: Ts. Phan Thị Thành Dương.


4
- Luận văn Thạc sĩ “Nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ

chuyển nhượng vốn” năm 2016 của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Oanh - Người
hướng dẫn: Ts. Lê Văn Hưng.
Qua trình bày trên tác giả nhận thấy, tuy sắc thuế thu nhập cá nhân nhận
được nhiều sự quan tâm từ xã hội, và có nhiều đề tài nghiên cứu nhưng các đề tài
lại thường tập trung nghiên cứu xoay quanh các vấn đề mang tính khái quát như
hoạt động quản lý thuế, thủ tục về kê khai và nộp thuế hoặc các vấn đề mang tính
độc lập, riêng lẽ như về giảm trừ gia cảnh, đới tượng chịu thuế mà chưa có sự xâu
chuỗi, hệ thớng hố. Mặt khác, nội dung phổ biến được các tác giả lựa chọn
nghiên cứu là về các loại thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân như: thu nhập hoạt
động chuyển nhượng vốn, thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản, thu
nhập từ hoạt động kinh doanh mà ít có nghiên cứu đi sâu về khía cạnh thu nhập từ
tiền lương, tiền công và đưa ra cái nhìn trực diện, cặn kẽ đới với vấn đề này.
Ngồi ra, các đề tài nghiên cứu về thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập
từ tiền lương, tiền công đã công bố được tác giả liệt kê ở trên lại có thời gian
thực hiện trong giai đoạn năm 2011-2012. Do trong khoảng thời gian này, Luật
thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2009) có
hiệu lực thi hành chưa lâu, q trình áp dụng vào thực tiễn còn hạn chế và chưa
bộc lộ nhiều bất cập để các tác giả có thể khai thác nghiên cứu.
Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những cơ sở lý luận chung, luận điểm khoa
học pháp lý trong lĩnh vực thuế thu nhập cá nhân nói chung và khía cạnh thuế thu
nhập cá nhân đới với thu nhập từ tiền lương, tiền cơng nói riêng từ những cơng trình
nghiên cứu trước đó. Cụ thể trong việc phân tích pháp luật, đưa ra luận điểm và luận
cứ phù hợp, nêu bật vướng mắc tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh
nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công, từ đó
giúp tác giả phát hiện, đánh giá những bất cập đã xảy ra và đưa ra những phương
hướng hoàn thiện vững chắc để chứng minh cho những luận điểm đã nêu.
Qua quá trình tìm hiểu của bản thân, tác giả nhận thấy sự cần thiết trong
việc khai thác nghiên cứu một cách nghiêm túc, đầu tư và hồn thiện khía cạnh
pháp luật điều chỉnh nghã vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu nhập từ tiền
lương, tiền cơng trên cơ sở tình hình nghiên cứu vấn đề này vẫn còn hạn chế và

chưa thực sự toàn diện như hiện nay.


5
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Thông qua nghiên cứu đề tài, luận văn có mục đích làm rõ các vấn đề lý
luận cơ bản về thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công:
Khái niệm, đặc trưng và vai trò của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ
tiền lương, tiền công và các quy định của pháp luật hiện hành đối với thuế thu
nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công. Thông qua việc phân tích, đánh giá khách
quan quy định của pháp luật nhằm chỉ ra những điểm vướng mắc, hạn chế đối
với pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công và đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật.
4. Đối tượng và phạm nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn của tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy
định của pháp luật về nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu nhập từ
tiền lương, tiền công.
b. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật về điều chỉnh nghĩa vụ thuế
thu nhập của cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công trong bối cảnh ở
Việt Nam từ khi Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 có hiệu lực từ ngày
01/01/2009 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở kết hợp, sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, thống
kê, logic để giải quyết nội dung khoa học của đề tài. Cụ thể như sau:
- Chương I: Tác giả áp dụng phương pháp phân tích và tổng hợp để giải
quyết vấn đề lý luận của nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu nhập từ
tiền lương, tiền công. Trên cơ sở vận dụng phương pháp phân tích để rút ra những

đặc trưng riêng biệt của thu nhập này. Bên cạnh đó, tác giả còn tiến hành thu thập
các sớ liệu từ các báo cáo quyết tốn về thuế và thực hiện phân tích sớ liệu, thớng
kê nhằm làm rõ vai trò điều tiết thu nhập của sắc thuế này. Phương pháp so sánh
còn được ưu tiên áp dụng trong việc nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt
Nam với quy định của pháp luật nước ngoài trong lĩnh vực thuế này.


6
- Chương II: Tác giả tập trung kết hợp, vận dụng đan xen các phương pháp
phân tích, tổng hợp, suy luận, diễn dịch, quy nạp nhằm làm sáng tỏ các thực
trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ thuế này trên thực tế. Phương pháp
phân tích sớ liệu, tổng hợp được sử dụng nhằm làm rõ quy định về căn cứ tính
thuế với mong ḿn giúp tác giả có thể đề xuất xây dựng biểu tính thuế với các
mức thuế suất phù hợp. Tác giả sử dụng thêm phương pháp chứng minh thông
qua liên hệ với các sự việc thực tế để diễn giải cụ thể những quan điểm đã được
đưa ra, từ đó đưa ra những bình luận, tổng hợp, nhận xét khách quan hơn.
6. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài “Nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối
với thu nhập từ tiền lương, tiền công” là kết quả của quá trình học tập, nghiên
cứu chuyên sâu của tác giả trong chương trình Cao học luật tại Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh trong thời gian qua.
Những luận điểm khoa học đúc kết trong luận văn sẽ góp phần bổ sung và
phát triển lý luận, định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật điều chỉnh
nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền cơng nói
riêng và thuế thu nhập cá nhân nói chung. Bên cạnh đó, luận văn nhằm củng cớ,
hợp lý hố và thớng nhất việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực thuế thu nhập cá
nhân trên thực tế, vốn là mối quan tâm hàng đầu và định hướng phát triển của
toàn xã hội.
7. Bố cục của đề tài luận văn
Theo mục đích nghiên cứu đã trình bày, đề tài luận văn được xây dựng

thành hai chương, như sau:
Chương I – Tổng quan về nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu
nhập từ tiền lương, tiền công.
Chương II - Thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ thuế thu
nhập của cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và một số kiến nghị
hoàn thiện.


7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NGHĨA VỤ THUẾ THU NHẬP CỦA CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG
1.1. Khái quát về nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu
nhập từ tiền lương, tiền công
Ở nước ta trong thời kỳ phong kiến, khi nền kinh tế cịn lạc hậu và yếu
kém. Đại đa sớ dân sớ xuất thân từ nông dân, nhận thức về thuế và hệ thớng
thuế chưa phát triển hồn chỉnh. Các chế độ thuế được thi hành mang nặng ý
chí cầm quyền của tầng lớp thống trị bao gồm: thuế điền thổ, thân đinh và tạp
dịch vô cùng nặng nề. Thuế thân – tương tự như thu nhập cá nhân hiện nay, áp
dụng cho tất cả đối tượng không phân biệt thu nhập cao hay thu nhập thấp, dù
nghèo khổ hay giàu có đều phải nộp thuế. Thuế thân tồn tại qua nhiều triều đại
và trở thành một nối ám ảnh và thống khổ của tầng lớp có thu nhập thấp đến rất
thấp trong xã hội. Đến năm 1945, thuế thân chính thức được bãi bỏ bởi Sắc
lệnh thuế ban hành ngày 09/07/1945. Sau đó, trong giai đoạn 1945-1975, thuế
lợi tức đánh vào thuế nhân (thuế TNCN) được chính qùn Sài Gịn ban hành
và áp dụng. Miền Bắc lúc bấy giờ do điều kiện kinh tế cịn hạn chế nên chưa có
các chính sách về thuế TNCN2.
Trước khi Luật Thuế TNCN được ban hành, việc động viên nguồn thu cho
NSNN từ thu nhập được thực hiện thông qua ba sắc thuế: Thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao, thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng đối với cá nhân có

thu nhập từ kinh doanh, thuế chuyển quyền sử dụng đất áp dụng đối với người có
thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất. Trong đó, thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao được áp dụng đối với cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công
và các thu nhập khác lần đầu tiên được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua
dưới hình thức Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao có hiệu
lực từ ngày 01/04/1991. Pháp lệnh tồn tại khá lâu (có hiệu lực trong thời hạn 18
năm từ năm 1991 đến hết năm 2008), đã có sửa đổi bổ sung 7 lần để hoàn chỉnh
hơn vào các năm 1992, 1993, 1994, 1997, 1999, 2001 và 2004. Khi Luật Thuế
Thu nhập cá nhân năm 2007 được ban hành đã đánh dấu bước chuyển mình quan
Huỳnh Văn Diện (2016), Pháp luật thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn Thành phố Cần Thơ, Luận án Tiến sĩ
Luật học, Học viện Khoa học và Xã hội, tr. 32.
2


8
trọng trong cách hiểu và quy định pháp luật về thuế thu nhập đối với cá nhân,
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã được khái quát thành Luật thuế
Thu nhập cá nhân. Điều này khẳng định pháp luật thuế thu nhập cá nhân thực
hiện điều tiết đối với thu nhập của mỗi cá nhân từ người có thu nhập cao đến
người có thu nhập trung bình hoặc thấp.
1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu nhập từ
tiền lương, tiền công
Một trong các yếu tớ quan trọng của q trình sản xuất chính là lao động.
Chính nhờ lao động mà trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, con người
có thể khơng chỉ tạo ra của cải để ni sớng bản thân, gia đình mà cịn cải tạo và
biến đổi xã hội. Khả năng của lao động được biểu hiện thơng qua sức lao động.
Theo C. Mác thì “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực
thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được
người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”3. Khi
người lao động tự do về thân thể và khơng có đủ tư liệu sản xuất cần thiết để kết

hợp với sức lao động của mình tạo ra hàng hố để bán nên họ phải bán sức lao
động của mình cho người mua sức lao động. Sức lao động lúc này được xem là
một loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường. Dưới góc độ lý luận Triết học của Mác
– Lê Nin thì tiền cơng là giá cả của hàng hố sức lao động. Đó là bộ phận của giá
trị mới do chính hao phí sức lao động của người lao động làm th tạo ra và nguồn
gớc của tiền cơng chính là do hao phí sức lao động của người lao động làm th tự
trả cho chính mình thơng qua sổ sách của người mua hàng hố sức lao động4.
Đới với khái niệm thu nhập, khái niệm thu nhập được nhiều tác giả khái
quát như sau: Theo tác giả Nguyễn Như Phát thì thu nhập được xem là tổng các
giá trị tài sản và của cải được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ mà một cá nhân nào
đó nhận được từ các nguồn lao động, tài sản hay đầu tư thông qua quá trình phân
phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong một khoảng thời gian nhất
định (thường là một năm)5; Theo tác giả Nguyễn Ngọc Điện lại cho rằng thu nhập
C. Mác – Ph.Ănghen (1993), Tồn tập, Tập 23, NXB Chính trị q́c gia, tr. 251.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Ngô Tuấn Nghĩa, NXB Giáo dục - Hà
Nội, tr 60.
5
Nguyễn Như Phát (2007), “Góp ý kiến dự thảo luật thuế thu nhập cá nhân”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
(07), tr. 14 –17.
3
4


9
là khoản lợi ích vật chất có giá trị tiền tệ gia nhập một cách hợp pháp vào khối tài
sản của một người, làm tăng thêm giá trị của khối tài sản sản đó6; hoặc theo định
nghĩa Haig-Simons thì thu nhập được cho là tổng giá trị của cải ròng tăng lên của
một cá nhân cộng với sự tăng lên của người đó trong một thời gian nhất định,
thường là một năm7. Tuy có nhiều định nghĩa về thu nhập nhưng tựu chung lại,
thu nhập có một sớ đặc điểm nhất định đó là: Thứ nhất, thu nhập là khoản lợi ích

mà chủ sở hữu thu nhập nhận được dưới dạng tiền, vàng, cổ phiếu, hoặc các quyền
lợi vật chất khác như quyền chọn mua, quyền sở hữu; Thứ hai, thu nhập được hình
thành từ nhiều nguồn như hoạt động làm công ăn lương, kinh doanh sản xuất, thừa
kế, quà tặng, chuyển nhượng; Thứ ba, thu nhập được xác định trong một thời gian
nhất định như năm, quý, tháng hoặc theo từng lần phát sinh.
Đối với khái niệm tiền công, tiền lương, về bản chất thì hai khái niệm này
tương tự nhau. Theo định nghĩa tiền lương tại Điều 90 Bộ luật Lao động 2019 thì
“Tiền lương là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo
thỏa thuận để thực hiện công việc, bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức
danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác”, như vậy khái niệm tiền lương
theo Bộ luật Lao động có bao qt ln khái niệm tiền cơng. Tuy nhiên trên thực
tế có một sớ hướng tiếp cận đã có sự phân chia riêng rẽ khái niệm tiền công và
tiền lương. Theo Công ước 95 về bảo vệ tiền lương (1949) của Tổ chức lao động
quốc tế (ILO) đưa ra khái niệm về tiền lương như sau: “Tiền lương là sự trả
công hoặc thu nhập, bất kể tên gọi hay cách tính mà có thể biểu hiện bằng tiền
và được ấn định bằng thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao
động, hoặc bằng pháp luật quốc gia, do người sử dụng lao động phải trả cho
người lao động theo một hợp đồng thuê mướn lao động, bằng viết hoặc bằng
miệng, cho một công việc đã thực hiện hoặc sẽ phải thực hiện, hoặc cho những
dịch vụ đã làm hoặc sẽ phải làm.”. Từ đó có thể khái quát rằng tiền lương là số
tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động mà không cần căn cứ vào
số giờ làm việc thực tế, thường được trả theo tháng hoặc nửa tháng. Tiền công là
khoản tiền trả công lao động theo hợp đồng (chưa trừ thuế thu nhập và các khoản
khấu trừ theo quy định), được tính dựa trên số lượng sản phẩm tạo ra hoặc số giờ
Nguyễn Ngọc Điện (2007), “Dự án luật Thuế TNCN: Vài ý kiến từ góc nhìn pháp luật dân sự”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, Số 7 (103), tr. 86.
7
truy cập ngày 15/07/2022.
6



10
làm việc thực tế8. Sự khác biệt chính giữa tiền lương và tiền công nằm ở chỗ tiền
lương là cố định, tức là tiền lương được xác định trước và thỏa thuận giữa người
sử dụng lao động và người lao động, trong khi tiền cơng khơng cớ định, vì nó
thay đổi tùy thuộc vào kết quả lao động.
Tiền lương, tiền cơng khơng chỉ để duy trì sức lao động mà còn để tái tạo
sức lao động trong tương lai. Khi cá nhân sử dụng sức lao động để thực hiện công
việc nào đó cho người sử dụng lao động, cá nhân hay còn gọi là người lao động sẽ
nhận được một khoản giá trị vật chất tương ứng với sức lao động đã sử dụng,
khoản giá trị vật chất này gọi là tiền lương, tiền công. Người lao động sẽ sử dụng
khoản tiền lương, tiền công này để mua sắm tư liệu sinh hoạt và đáp ứng các nhu
cầu cơ bản ăn, mặc và ở, nhằm nuôi sống bản thân, gia đình, người thân đồng thời
tái tạo sức lao động để tiếp tục sử dụng sức lao động này nhằm nhận được tiền
cơng, tiền lương trong tương lai. Tóm lại, tiền lương, tiền cơng chính là giá cả sức
lao động, là kết quả của quan hệ lao động, phát sinh từ việc thuê mướn, sử dụng
lao động, trả lương giữa người lao động, người sử dụng lao động9.
Thông qua các định nghĩa và phân tích trên, có thể hiểu thu nhập từ tiền
lương, tiền công là tổng thể các lợi ích mà cá nhân được người sử dụng lao
động trả theo thoả thuận khi sử dụng sức lao động để thực hiện một công việc
nhất định.
Với bản chất thuế TNCN là được xem là loại thuế mà nhà nước đánh vào
thu nhập thực tế của các chủ thể nhằm điều tiết một phần thu nhập của các tổ
chức, cá nhân vào NSNN với mục đích tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện
công bằng xã hội10. Đối với thuế TNCN từ tiền lương, tiền cơng thì chỉ những
thu nhập hợp pháp với bản chất là tiền lương, tiền công của cá nhân mới chịu
sự điều chỉnh của sắc thuế này. Cá nhân có phát sinh thu nhập từ tiền lương,
tiền cơng thì khi đó cá nhân này phát sinh nghĩa vụ thuế TNCN từ tiền lương,
tiền cơng và có nghĩa vụ nộp thuế - khoản nộp bắt buộc theo quy định mà
khơng mang tính đới giá hay hồn trả trực tiếp lại cho cá nhân đó11.

Ngô Đạt (2007), Tài liệu tham khảo chuyên đề Kinh tế chính trị Mác- Lê nin, Nxb TP. Hồ Chí Minh, tr. 119
Khoản 5 Điều 3 Bộ luật Lao động 2019.
10
Trường Đại học Luật TP. HCM (2012), Giáo trình Luật Thuế, Nguyễn Thị Thuỷ, Nxb Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, tr. 262.
11
Nguyễn Văn Tuyến (2009), “Bản chất về thuế - Sự tiếp cận từ các học thuyết thuế cổ điển và hiện tại”, Tạp
chí Luật học, Sớ 4(107), tr. 72-77.
8
9


11
Từ đó, có thể khái quát nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền
công là nghĩa vụ của cá nhân bắt buộc nộp khoản tiền được xác định trong văn
bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền quy định khi có phát sinh thu nhập từ
tiền lương, tiền cơng hoặc thu nhập có tính chất như tiền lương, tiền công nhằm
tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và thực hiện công bằng xã hội.
1.1.2. Đặc trưng của nghĩa vụ thuế thu nhập của cá nhân đối với thu nhập
từ tiền lương, tiền công
Một là, thuế TNCN từ tiền lương, tiền công là thuế trực thu. Thuế trực thu
là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế đồng thời là người chịu thuế12. Biểu hiện
cụ thể của tính trực thu trong thuế TNCN là việc cá nhân có thu nhập từ tiền
lương, tiền công vừa là người chịu thuế vừa là người nộp thuế, nghĩa là cá nhân
có thu nhập từ tiền lương, tiền cơng trực tiếp thực hiện nghĩa vụ thuế và nộp một
phần thu nhập của cá nhân vào NSNN vừa là người có lợi ích chịu sự điều tiết
của thuế13 và sẽ trực tiếp cảm nhận gánh nặng về nghĩa vụ thuế. Xuất phát từ bản
chất trong thuế TNCN từ tiền lương, tiền cơng chỉ có cá nhân là chủ thể sử dụng
sức lao động của bản thân, thơng qua q trình lao động để tạo lập và phát sinh
thu nhập, thu nhập này là đối tượng chịu thuế TNCN và cá nhân phải đóng góp

một phần thu nhập cho nhà nước dựa trên tổng TNCN. Vì lẽ đó, cá nhân phát
sinh thu nhập từ tiền lương, tiền công vừa là người nộp thuế vừa là người chịu
thuế. Trên thực tế, cá nhân - Người nộp thuế TNCN từ tiền lương, tiền công rõ
ràng nhận thức rất rõ nghĩa vụ thuế của mình và trách nhiệm chuyển giao số thuế
này vào NSNN nhưng việc chấp nhận và thiện chí hợp tác thực hiện nghĩa vụ
này dù là theo mệnh lệnh bắt buộc từ nhà nước rất khó khăn, bởi lẽ: Mặc dù ý
thức được sự cần thiết và tính tất yếu của thuế nhưng thuế chưa bao giờ được
người dân cảm nhận như một thực tế dễ chịu14.
Hai là, người nộp thuế TNCN từ tiền công, tiền lương là cá nhân. Chủ
thể phát sinh thu nhập thuộc đối tượng chịu thuế TNCN, trong trường hợp này
là thu nhập từ tiền lương, tiền công, trở thành người nộp thuế TNCN từ tiền
lương, tiền công. Cá nhân là chủ thể duy nhất có thể phát sinh nguồn thu nhập
Lê Văn Chiến (2001), “Suy nghĩ về thuế trực thu và thuế gián thu”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (07), tr. 51
Trường Đại học Luật TP. HCM (2012), tlđd (10), tr. 50.
14
Nguyễn Thị Mai Dung (2018), Hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam hiện nay,
Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học và Xã hội, tr. 29.
12
13


12
từ tiền lương, tiền công và trở thành người nộp thuế TNCN từ tiền lương, tiền
công. Các chủ thể khác như hộ gia đình, hộ kinh doanh, doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế xã hội không là người nộp thuế TNCN từ tiền lương, tiền công do
không thể là chủ thể phát sinh nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công như đối
với cá nhân. Một điểm cần lưu ý là người nộp thuế TNCN từ tiền công, tiền
lương là cá nhân chứ không phải công dân. Cá nhân trong quy định về pháp
luật thuế TNCN từ tiền công, tiền lương là con người cụ thể, không phân biệt
công dân Việt Nam, cơng dân nước ngồi hoặc người khơng có quốc tịch. Cá

nhân là người nộp thuế theo pháp luật thuế TNCN từ tiền lương, tiền công được
phân thành hai loại là cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú. Đối với cá nhân
cư trú, thu nhập chịu thuế là thu nhập phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt
Nam, không phân biệt nơi trả và nhận thu nhập. Đối với cá nhân không cư trú,
thu nhập chịu thuế là thu nhập phát sinh tại Việt Nam, không phân biệt nơi trả
và nhận thu nhập.
Ba là, đối tượng chịu thuế là thu nhập từ tiền lương, tiền công. Thuế
TNCN điều tiết nhiều nguồn thu nhập của cá nhân, đới với thuế TNCN từ tiền
lương, tiền cơng thì đới tượng chịu thuế là nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền
công. Thu nhập từ tiền lương, tiền công là nguồn thu nhập mang tính chất đặc
thù vì chỉ được hình thành trong quan hệ lao động giữa người lao động và
người sử dụng lao động. Cá nhân là một bên tham gia quan hệ lao động, thông
qua sử dụng sức lao động để thực hiện công việc theo yêu cầu của bên người sử
dụng lao động và nhận được tiền lương, tiền công tương ứng với kết quả công
việc đã thực hiện. Cá nhân phát sinh thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công
trong quan hệ lao động trở thành người có nghĩa vụ thuế TNCN từ tiền lương,
tiền công. Nếu căn cứ vào tính đều đặn của việc phát sinh thu nhập ta có những
thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên15. Thu nhập cá nhân
từ tiền lương, tiền cơng là thu nhập thường xun, có tính chất đều đặn và ổn
định phát sinh, có vai trị quan trọng đới với sự tồn tại và phát triển của cá
nhân, là một trong các nguồn thu nhập chính để duy trì cuộc sớng của cá nhân
có thu nhập và người phụ thuộc16. Điều này tạo giúp phân biệt với các loại thu
Lê Văn Ái, Đỗ Đức Minh (2002), Thuế Thu nhập cá nhân và định hướng vận dụng ở Việt Nam, NXB. Tài
chính, tr. 10.
16
Trường Đại học Luật TP. HCM (2012), tlđd (10), tr. 50.
15


13

nhập theo từng lần phát sinh như thu nhập từ chuyển nhượng vốn, thừa kế,
trúng thưởng. Yếu tố thường xuyên phát sinh thu nhập của thu nhập từ tiền
lương, tiền công ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh thuế TNCN khi quy định
kỳ kê khai thuế định kỳ theo tháng hoặc theo q và quyết tốn theo kỳ tính
thuế thường là một năm thay vì kê khai thuế theo từng lần phát sinh như đối
với thu nhập không thường xuyên.
Bốn là, thuế TNCN từ tiền lương, tiền cơng có nhiều khoản giảm trừ và cơ
chế hành thu phức tạp. Các khoản giảm trừ là đặc trưng riêng chỉ có ở sắc thuế
TNCN từ tiền lương, tiền công. Đồng thời, các khoản giảm trừ theo quy định chỉ
áp dụng đối với người nộp thuế TNCN từ tiền lương, tiền công là cá nhân cư trú
mà không áp dụng đối với cá nhân không cư trú. Hệ quả của yếu tố cư trú khi
xác định người nộp thuế TNCN từ tiền lương, tiền công dẫn đến việc áp dụng
hoặc không áp dụng các khoản giảm trừ trong tính thuế TNCN từ tiền lương, tiền
công. Thuế TNCN từ tiền lương, tiền công xuất phát từ bản chất là loại thuế trực
thu có tính điều tiết trực tiếp vào thu nhập của từng cá nhân nên pháp luật về
thuế TNCN ln có các quy định về giảm trừ nhằm đảm bảo công bằng theo
nguyên tắc khả năng trả thuế TNCN của người nộp thuế khi xác định nghĩa vụ
thuế TNCN từ tiền lương, tiền công. Các khoản giảm trừ theo quy định bao gồm:
giảm trừ đối với bản thân và giảm trừ đối với gia cảnh người nộp thuế, các khoản
đóng bảo hiểm, quỹ hưu trí tự nguyện và các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo,
khuyến học. Trên thực tế, để có được những khoản thu nhập chịu thuế thì các cá
nhân phải bỏ ra cho hoạt động riêng của bản thân, phải sử dụng chúng vào mục
đích tái sản xuất sức lao động của bản thân và các nghĩa vụ khác mà bản thân
gánh chịu. Mà mỗi cá nhân khác nhau sẽ có gia cảnh khác nhau17. Vì vậy, thuế
TNCN từ tiền lương, tiền cơng có khoản giảm trừ gia cảnh cho bản thân và
người phụ thuộc không những không vi phạm ngun tắc cơng bằng mà cịn là
biểu hiện của ngun tắc này đối với thuế TNCN. Nghĩa vụ thuế TNCN từ tiền
lương, tiền công của cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú là khác nhau, cũng
như với các chế định về các khoản giảm trừ đã khiến các cơ chế về đăng ký, kê
khai thuế, thu nộp thuế, quyết toán thuế, thanh tra, kiểm tra thuế của thuế TNCN

sẽ phức tạp hơn so với thuế gián thu.
Phan Phương Nam (2006), Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân, Luận văn thạc sĩ
Luật, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr 101.
17


14
1.1.3. Vai trò của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương,
tiền công
Hệ quả từ nền kinh tế thị trường là tác động đến thu nhập của các cá nhân
trong xã hội, chính sự chuyển đổi thu nhập không đồng đều dẫn đến một bộ phận
cá nhân trong xã hội giàu lên nhanh chóng trong khi một bộ phận khác thì nghèo
đi, điều này đã dẫn đến sự đối lập giữa các tầng lớp dân cư và gây mất cân bằng
trong xã hội. Thuế là một trong những giải pháp hữu hiệu để điều tiết thu nhập
và tạo ra công bằng xã hội. Mức điều tiết hợp lý sẽ tạo điều kiện để nâng cao ý
thức tự giác chấp hành pháp luật trong kê khai, nộp thuế; giảm thiểu các hiện
tượng vi phạm pháp luật vế thuế như trốn thuế, gian lận thuế18. Không những
thế, thuế TNCN không đơn thuần chỉ là một công cụ điều tiết và tăng nguồn thu
NSNN mà (có lẽ) quan trọng hơn, nó là cơng cụ thực hiện qùn lực của nhân
dân đối với nhà nước trong mối quan hệ quyền – nghĩa vụ hai chiều giữa nhà
nước và nhân dân19. Có thể khái quát vai trò điều tiết của thuế TNCN đối với thu
nhập từ tiền lương, tiền công ở các khía cạnh sau:
Thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công là công cụ tạo nguồn
thu NSNN.
Bảng 1: Quyết toán thu NSNN theo sắc thuế từ năm 2017 – 201920
STT
1
2
3
4

5
6
7
8
9

Sắc thuế
Thuế giá trị gia tăng
Thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế bảo vệ môi trường
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập cá nhân
Thuế tài nguyên
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Thuế sử dụng đất nông nghiệp
Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

2017
309,308
107,561
45,149
175,642
78,775
18,963
73,408
39.377
1,686

2018
2019

464,251
371,967
133,165
155,365
47,923
64,463
257,141
280,425
94,364
109,406
38,195
36,769
63,558
61,758
27.003
20
1,874
2,040
Đơn vị tính: Tỷ đồng

Nguyễn Hải Ninh (2015), “Vấn đề kiểm soát thu nhập trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam”,
Tạp chí Luật học, (03), tr.38.
19
Trần Đình Thiên, Vũ Thành Tự Anh (2006), “Bản chất của Thuế thu nhập cá nhân”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, Số chủ đề hiến kế lập pháp số 12(76), tr.10-12.
20
Tổng hợp theo số liệu từ Quyết toán thu NSNN của Bộ Tài chính năm 2017, 2018 và 2019.
18



15
Bảng 2: Tương quan giữa số thuế TNCN so với tổng nguồn thu từ
thuế từ năm 2017 - 201921

Năm

Tổng nguồn thu
NSNN từ thuế

Thuế thu nhập cá
nhân

2017
2018
2019

810,531
1,100,498
1,082,213

78,775
94,346
109,406

Tỷ trọng thuế
TNCN và tổng
nguồn thu từ thuế
(%)
9.72
8.57

10.11
Đơn vị tính: tỷ đồng

Qua sớ liệu được tổng hợp tại Bảng 1 có thể thấy tổng nguồn thu từ thuế
TNCN một tỷ trọng tương đối cao trong tổng nguồn thu NSNN từ thuế và chỉ
đứng sau nguồn thu thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế TNDN.
Cụ thể, theo Bảng 2 thì tỷ trọng giữa thuế TNCN và tổng nguồn thu từ thuế từ
năm 2017 đến 2019 có xu hướng tăng dần lần lượt là 9,72% (tương đương
78,775 tỷ đồng), 8.57% (tương đương 94,346 tỷ đồng) và 10,11% (tương đương
109,406 tỷ đồng). Và trong nguồn thu của sắc thuế TNCN thì chủ yếu đến từ
nguồn thu thuế TNCN đối với nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công.
Thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền cơng, tiền lương góp phần kiểm sốt
nguồn thu nhập, thu hẹp chênh lệch giàu nghèo trong xã hội, phát triển an sinh.
Với những bước phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, thu nhập
của người dân khơng ngừng nâng cao và có sự phân hố giàu nghèo có xu hướng
sâu sắc trong xã hội. Mức độ mở cửa thị trường và hội nhập kinh tế bên ngoài
tạo động lực gia tăng mạnh mẽ đầu tư từ nước ngoài, thu hút các chuyên gia, nhà
quản lý vào thị trường Việt Nam dẫn đến gia tăng nguồn thu nhập của cá nhân
Việt Nam cũng như người nước ngoài tại Việt Nam. Điều này có những ảnh
hưởng đến vấn đề kiểm soát thu nhập cá nhân, nhất là các cá nhân nước ngồi có
thu nhập phát sinh tại Việt Nam. Sự ra đời của Luật thuế thu nhập cá nhân năm
2007 đánh dấu cơ sở pháp lý quan trọng trong việc điều chỉnh của pháp luật đến
thuế thu nhập cá nhân nói chung và thuế TNCN từ tiền lương, tiền cơng nói
riêng. Pháp luật thuế thu nhập cá nhân chứa đựng những uy định tiên tiến về
21

Tổng hợp theo số liệu từ Quyết toán thu NSNN của Bộ Tài chính năm 2017, 2018 và 2019.


16

phương pháp tính thuế, chú trọng kiểm sốt thu nhập và điều tiết, phân phối lại
thu nhập; thu hẹp hợp lý sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư; quy
định mới về giảm trừ gia cảnh đã tác động mạnh mẽ đến nghĩa vụ thuế TNCN.
Với biểu thuế luỹ tiến từng phần, nhà nước đã sử dụng thuế TNCN là công cụ để
lập lại trật tự trong phân phối thu nhập. Thông qua biểu thuế luỹ tiến, người có
thu nhập càng cao, càng ở bậc cao trong biểu thuế thì càng có nghĩa vụ thuế
TNCN cao hơn, khi đó gánh nặng và sự điều tiết về thuế thu nhập của người nay
sẽ càng sâu sắc. Ngược lại, người có thu nhập thấp thì nghĩa vụ thuế sẽ thấp hơn,
thậm chí khơng phải đóng thuế. Dưới sự tác động của thuế TNCN lên khả năng
nộp thuế của từng cá nhân, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo được thu hẹp và
thiết lập sự bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư. Ngồi ra, đới với quy định về
khấu trừ tại nguồn, người sử dụng lao động thực hiện thủ tục kê khai, nộp thuế,
quyết tốn thuế đới với người lao động trong trường hợp người lao động đủ điều
kiện theo quy định và có uỷ quyền đến người sử dụng lao động, xử phạt vi phạm
hành chính về nộp chậm tờ khai...góp phần quản lý tốt nguồn thu, tạo sự công
bằng đối với từng đối tượng nộp thuế. Bên cạnh đó, đặc điểm điều tiết của thuế
TNCN còn là “đem một phần chi tiêu cá nhân chuyển sang chi tiêu công cộng”22,
thông qua động viên thuế thu nhập vào NSNN và sử dụng NSNN để thực hiện
các chủ trương, chính sách phục vụ nhu cầu chi tiêu mang tính chất xã hội như
giúp đỡ trẻ em mồ coi, người già neo đơn không nơi nương tựa, người tàn tật,
người có hồn cảnh khó khăn, v.v….
Thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền cơng góp phần điều tiết
nền kinh tế. Vài trị góp phần điều tiết nền kinh tế thông qua cơ chế điều tiết
trực tiếp thu nhập của cá nhân. Theo đó, nếu nền kinh tế tăng trưởng cao thì
Nhà nước sẽ điều chỉnh mức điều tiết thu nhập của cá nhân bằng cách tăng
thêm gánh nặng nghĩa vụ thuế TNCN. Khi nghĩa vụ thuế tăng cao đồng nghĩa
thu nhập thực lãnh của người dân sẽ thấp hơn và điều này sẽ tỷ lệ thuận với nhu
cầu chi tiêu, tiêu dùng. Ngược lại, khi nền kinh tế có những biểu hiện suy giảm,
cần kích cầu thì lúc này Nhà nước sẽ thực hiện các chính sách điều chỉnh nhằm
giảm bớt gánh nặng nghĩa vụ thuế TNCN và điều này giúp kích cầu tiêu dùng,

khơi phục nền kinh tế.
22

Nguyễn Hồng Thắng (1995), Thuế, Nxb Thống kê, tr. 64.


17
1.2. Quy định pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ
tiền lương, tiền công
1.2.1. Người nộp thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương,
tiền công
Người nộp thuế là người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định. Để trở thành
đối tượng nộp thuế của một sắc thuế cụ thể, chủ thể đó phải có hành vi tác động
lên đới tượng chịu thuế làm phát sinh nghĩa vụ thuế23. Đối với thuế TNCN nói
chung và thuế TNCN từ tiền lương, tiền cơng nói riêng, người nộp thuế là người
phát sinh thu nhập chịu thuế, cụ thể là thu nhập từ tiền lương, tiền công. Một trong
các đặc trưng của thuế TNCN từ tiền lương, tiền công đã được đề cập tại mục
1.2.2 là người nộp thuế TNCN từ tiền lương, tiền công là cá nhân. Các chủ thể
khác như hộ gia đình, hộ kinh doanh, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội
không là người nộp thuế TNCN từ tiền lương, tiền công do không thể phát sinh
nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công như đối với cá nhân. Một điểm cần lưu ý
là khái niệm người nộp thuế theo quy định của luật thuế TNCN không đồng nhất
với khái niệm người nộp thuế theo quy định tại Luật Quản lý thuế năm 201924.
Đối với thuế TNCN, người nộp thuế là cá nhân trực tiếp phát sinh thu nhập chịu
thuế TNCN và trở thành người có nghĩa vụ thuế TNCN. Đới với Luật Quản lý
thuế thì người nộp thuế cịn bao gồm các chủ thể khác tuy không thực hiện hành vi
tác động lên đối tượng chịu thuế TNCN làm phát sinh nghĩa vụ thuế TNCN nhưng
thực hiện thủ tục kê khai và nộp thuế thay cho người nộp thuế với ý nghĩa là người
có hành vi nộp thuế mang tính chất vật lý, họ có thể là như tổ chức, cá nhân chi trả
thu nhập thực hiện khấu trừ thuế tại nguồn do người nộp thuế uỷ qùn. Vì vậy

đới với thuế TNCN từ tiền lương, tiền công cần lưu ý sử dụng thuật ngữ người
nộp thuế nhằm xác định rõ chủ thể là cá nhân có nghĩa vụ thuế TNCN từ tiền
lương, tiền công khi phát sinh thu nhập từ tiền lương, tiền công.
Pháp luật về thuế TNCN tại Việt Nam áp dụng nguyên tắc đánh thuế theo
cư trú để xác định người nộp thuế. Theo nguyên tắc cư trú, một cá nhân được
23
24

Trường Đại học Luật TP. HCM (2012), tlđd (10), tr. 50.
Khoản 1 Điều 2 Luật Quản lý thuế 2019
“Người nộp thuế bao gồm:
a) Tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế;
b) Tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước;
c) Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế.”


18
coi là đối tượng cư trú tại một nước sẽ phải chịu thuế TNCN đới với tồn bộ
thu nhập nhận được, không phân biệt nguồn phát sinh thu nhập là ở trong nước
hay ngồi nước, cịn đới với đới tượng không cư trú chỉ phải chịu nghĩa vụ thuế
đối với phần thu nhập có nguồn gớc tại nước đó25. Theo quy định Khoản 1
Điều 2 Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007 thì “Đối tượng nộp thuế thu nhập cá
nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này
phát sinh trong và ngồi lãnh thổ Việt Nam và cá nhân khơng cư trú có thu
nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong lãnh thổ Việt
Nam”. Người nộp thuế TNCN từ tiền lương, tiền công bao gồm cá nhân cư trú
có thu nhập từ tiền lương, tiền cơng phát sinh trong và ngồi lãnh thổ Việt Nam
và cá nhân khơng cư trú có thu nhập từ tiền lương, tiền công phát sinh trong
lãnh thổ Việt Nam.
Người nộp thuế TNCN từ tiền lương, tiền công chịu sự điều chỉnh của yếu

tố cư trú và nơi phát sinh thu nhập, không chịu sự chi phối bởi yếu tố q́c tịch
của cá nhân. Vì theo hướng dẫn Khoản 4 Điều 1 Thông tư 111/2013/TT-BTC
của Bộ Tài chính ngày 15/08/2013 hướng dẫn thực hiện luật thuế thu nhập cá
nhân, luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế thu nhập cá nhân và nghị
định sớ 65/2013/NĐ-CT của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật
Thuế Thu nhập cá nhân và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế Thu
nhập cá nhân quy định cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân đối với
thu nhập từ tiền công, tiền lương là:
“a) Cá nhân có quốc tịch Việt Nam kể cả cá nhân được cử đi công tác, lao
động, học tập ở nước ngoài nhưng có thu nhập chịu thuế
b) Cá nhân là người không có quốc tịch Việt Nam nhưng có thu nhập chịu
thuế, bao gồm: người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, người nước ngồi khơng
hiện diện tại Việt Nam nhưng có thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam”.
Như vậy, cá nhân không phân biệt là cá nhân có q́c tịch Việt Nam hoặc
khơng có q́c tịch Việt Nam (cá nhân có q́c tịch nước ngồi hoặc cá nhân
khơng có q́c tịch) khi phát sinh thu nhập chịu thuế TNCN từ tiền lương, tiền
công đều trở thành chủ thể chịu sự điều chỉnh của nghĩa vụ thuế TNCN từ tiền
25

Lê Thị Ngọc Phương (2014), “Bàn về thuế thu nhập cá nhân”, Tạp chí Cơng thương, 9/2014, Số 18, tr. 74-75.


19
lương, tiền công. Người nộp thuế TNCN từ tiền lương, tiền cơng là cá nhân có
q́c tịch Việt Nam có thu nhập chịu thuế TNCN từ tiền lương, tiền công hoặc cá
nhân khơng có q́c tịch Việt Nam nhưng là cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền
lương, tiền cơng phát sinh trong hoặc ngồi lãnh thổ Việt Nam hoặc là cá nhân
khơng cư trú nhưng có thu nhập từ tiền lương, tiền công phát sinh tại Việt Nam.
Khi áp dụng nguyên tắc đánh thuế theo cư trú thì điều quan trọng là cần
xác định người nộp thuế là cá nhân cư trú hay cá nhân không cư trú để làm cơ sở

cho việc xác định chính xác nghĩa vụ thuế TNCN của cá nhân có thu nhập. Thực
tế tại quy định về thuế TNCN của một số quốc gia trên thế giới, quy định về cá
nhân cư trú thường được căn cứ vào thời gian nhất định mà cá nhân đó cư trú,
sinh sống, làm việc tại quốc gia sở tại. Ví dụ tại Hàn Q́c, đới tượng nộp thuế là
cá nhân cư trú hay không cư trú, có thu nhập chịu thuế trong năm: Đới tượng cư
trú được quy định là người có nhà ở hoặc có thời gian cư trú tại Hàn Quốc từ 1
năm trở lên. Đới tượng khơng cư trú là người khơng có nhà ở tại Hàn Q́c hoặc
có thời gian cư trú tại Hàn Quốc dưới một năm. Đối tượng cư trú phải chịu thuế
thu nhập đối với tất cả các khoản thu nhập nhận được phát sinh ở trong hay
ngoài Hàn Q́c (kê khai thu nhập tồn cầu). Đới tượng khơng cư trú chỉ phải
chịu thuế thu nhập đối với khoản thu nhập nhận được có nguồn gớc Hàn Q́c.
Một sớ quốc gia cũng quy định tương tự về thời gian sinh sống của cá nhân tại
quốc gia đó từ 1 năm trở lên được xem là cá nhân cư trú như: Trung Q́c, Nhật
Bản…Một sớ q́c gia khác thì quy định cá nhân cư trú tại quốc gia đó khi có
thời gian sinh sớng và làm việc ngắn hơn, thường là tương đương khoảng 180
ngày, ví dụ theo quy định tại Thái Lan thì tổng thời gian cư trú ở Thái Lan lớn
hơn 180 ngày trong năm tính thuế (năm dương lịch). Cá nhân có thời gian sinh
sớng và làm việc ở Thái Lan từ 180 ngày trở x́ng tính theo năm dương lịch thì
được gọi là cá nhân khơng cư trú. Cá nhân cư trú phải chịu thuế thu nhập cá
nhân đối với thu nhập nhận được, không phân biệt ở trong nước hay ở nước
ngồi. Cá nhân khơng cư trú chỉ phải chịu thuế thu nhập cá nhân đối với phần
thu nhập phát sinh ở Thái Lan26.
Theo quy định của pháp luật về thuế TNCN, cá nhân cư trú phải đáp ứng
một trong các điều kiện sau:
26

Văn phòng Quốc hội (2006), Thuế thu nhập cá nhân ở các nước, Hà Nội, tr.2.



×