Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

NHIỀU QUAN điểm của các bộ PHÁI là nền TẢNG CHO sự HƯNG KHỞI PHẬT GIÁO đại THỪA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.94 KB, 12 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HCM

BÙI THỊ MINH NGUYỆT
PHÁP DANH: QUẢNG MINH

QUAN ĐIỂM CỦA CÁC BỘ PHÁI LÀ NỀN TẢNG CHO SỰ HƯNG
KHỞI PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA

Tiểu luận giữa kỳ- HK VII
Môn học: Dị bộ tơng ln luận

Giảng viên phụ trách: TT.TS.Thích

Đồng Nai,ngày 16 tháng 12 năm 2022.

Giác Hoàng


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HCM

BÙI THỊ MINH NGUYỆT
PHÁP DANH: QUẢNG MINH

QUAN ĐIỂM CỦA CÁC BỘ PHÁI LÀ NỀN TẢNG CHO SỰ HƯNG
KHỞI PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA

Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Minh Nguyệt
Pháp danh: Quảng Minh
Mã sinh viên: 0620000280


Lớp: PHTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

Đồng Nai,ngày 16 tháng 12 năm 2022.


MỤC LỤC
A..DẪN NHẬP
1.Lý do chọn đề tài:............................................................................................................... 4
2. Phạm vi của đề tài:......................... ....................................................................................4
3. Cơ sở của đề tài:................................................................................................................ 4
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:.................................................................................................. 4
5.Cấu trúc của tiểu luận:..........................................................................................................4
B. PHẦN NỘI DUNG:
CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CÁC BỘ PHÁI LÀ NỀN tẢNG CỦA SỰ HƢNG KHỞI
PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
1.1.QUAN ĐIỂM VỀ ĐỨC PHẬT THEO ĐẠI CHÖNG BỘ VÀ BA BỘ PHÁI TRỰC HỆ
1.2.PHÁP TÁNH KHÔNG ....................................................................................................5
1.3. QUAN ĐIỂM GIÁO LÝ CỦA ĐẠI CHÖNG BỘ VÀ BA BỘ PHÁI TRỰC HỆ ........6
1.4. TƢ TƢỞNG BỒ TÁT VÀ VAI TRÕ CỦA NGƢỜI CƢ SĨ TRONG PHẬT GIÁO ĐẠI
THỪA........................................... .......................................................... ...............................7
CHƢƠNG 2: ỨNG DỤNG TU TẬP CHUYỂN HÓA TAM ĐỘC TRONG ĐỜI SỐNG.....9
C. KẾT LUẬN......................................................................................................................11
D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................12


A.PHẦN DẪN NHẬP
Đức Phật Thích ra Mâu Ni xuất hiện trên thế gian này là một sự vinh hiển cao cả cho xã hội
và loài ngƣời. Đức Phật là một nhân vật cao siêu và huyền bí. Ngài là sự kết tinh hƣơng hoa
Bi Trí Dũng là hiện thân của chân lý giải thốt rạng ngời. Vì cuộc đời là khổ đau nên Ngài

thị hiện. Ngài đã khai sáng ra đạo Phật tại đất nƣớc Ấn Độ cách đây đã hơn hai mƣơi sáu
thế kỷ cho đến nay thì đạo Phật đã lan tỏa khắp năm châu. Quan điểm về Đức Phật từ Phật
giáo nguyên thủy, Đại chúng bộ đến Phật giáo Đại thừa đều rạng ngời hào quang ấm áp và
tràn ngập lòng từ bi là tấm gƣơng sáng cho trí tuệ, nhân từ, bình đẳng vv. Khi nghe đến
danh hiệu Ngài thì tất cả Phật tử đều hƣớng vọng, với cả sự thành kính nhất. Phần dẫn nhập
của con đƣợc trình bày với các mục sau
1.Lý do chọn đề tài:
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển theo dòng thời gian sau khi Đức Phật nhập
niết bàn. đạo Phật có sự chuyển biến và thay đổi. Kết quả là sự phân hóa từ Phật giáo
nguyên thủy, thành Phật giáo Bộ phái và Phật giáo Đại thừa, Phật giáo đã trải qua nhiều
giai đoạn và có những đặc điểm mới lạ so với thời đại sơ khai. Tìm hiểu về đặc điểm tƣ
tƣởng của Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo Bộ phái và Phật giáo Đại thừa là tìm hiểu về
cội nguồn của Phật giáo. Để rồi từ đó ứng dụng những lời Phật dạy vào đời sống thực tế
một cách thiết thực hơn. Phật giáo căn bản hay gọi là Phật giáo nguyên thủy là nền tảng căn
bản để hình thành tƣ tƣởng Phật giáo Đại Thừa là phong trào phát triển một đƣờng lối Phật
giáo mới. Phong trào này là kết quả của sự thừa kế và phát huy nhƣng mang tính độc lập,
khởi dậy từ khắp đất nƣớc Ấn Độ. Với những đặc tính nổi bật về vũ trụ những quan niệm
mới tiến bộ, từ đó phát sinh cái nhìn mới về Đức Phật và Phật pháp, đƣa ra nhiều kiến giải
mới, dần cấu thành phong trào Phật giáo Đại thừa. Đây là một sự mở đầu cho bƣớc phát
triển mới trong hệ thống tƣ tƣởng Phật giáo.Vì lý do đó nên con chọn đề tài: ―Hãy chứng
minh rằng nhiều quan điểm của các Bộ phái là nền tảng cho sự hƣng khởi Phật giáo Đại
thừa‖, để làm bài tiểu luận của mình. Để hồn thành cuốn tiểu luận này con xin thành kính
tri ân Hội Đồng điều hành Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành Phố Hồ chí Minh và chƣ
Giáo thọ sƣ đã hết lịng dạy dỗ, khích lệ, giúp đỡ cho con trong những tháng ngày theo học
giáo pháp tại Học viện. Đặc biệt con xin thành kính tri ân và đảnh lễ TT.TS.Thích Giác
Hồng, Ngƣời đã trực tiếp dạy bảo, hƣớng dẫn cho con thực hiện đề tài này. Trong q
trình thực hiện do sở học cịn non cạn, chắc chắn sẽ cịn nhiều thiếu sót. Con kính mong
đƣợc sự hoan hỷ chỉ dạy thêm từ Giáo Thọ Sƣ cùng chƣ Tôn Đức .
1.
Phạm vi của đề tài:

Sự huyền diệu về đức Phật và tam Tạng kinh điển thì lao la. Cịn sự hiểu của con thì hạn
hẹp. Nên con xin giới hạn đề tài của mình trong các ý sau: Quan điểm của các Bộ phái là
nền tảng cho sự hƣng khởi Phật giáo Đại thừa . Con sử dụng các phƣơng pháp: chứng minh
từ đó đi đến làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
3.Cơ sở của đề tài:
Để hoàn thành bài Tiểu luận này con dựa vào các tài liệu là bộ Dị Bộ Luân Luận các tài liệu
giảng dạy của Giáo thọ và con tham khảo một số tài liệu trên mạng Internet để trình bài viết
này
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Bài tiểu luận đƣợc trình bày theo phƣơng pháp chứng minh. Dù con đã cố gắng hết sức để
trình bày nhƣng cũng khơng tránh khỏi sai lầm vì sự hiểu biết non kém của con. Con kính
mong Sƣ giáo thọ hoan hỷ chỉ dạy cho con
5.Cấu trúc của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Tiểu luận gồm 3 chƣơng.


B.NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CÁC BỘ PHÁI LÀ NỀN tẢNG CỦA SỰ HƢNG KHỞI
PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
Sau khi đức Thế Tơn nhập Niết bàn, tăng đồn của Ngài tiếp tục đến 140 năm mới có sự
phân phái. Mỗi bộ phái đều dựa vào kiến giải của Bộ phái mình, do vậy nên có sự phân
phái. Vì tất cả đều lấy Đại chúng bộ và Thƣợng tọa bộ làm căn bản, do vậy mới thành hai
mƣơi bộ phái. Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ và Kinh-lƣợng Bộ thuộc hệ Thƣợng tọa bộ, tƣ
liệu hai bộ phái này là di sản vô cùng phong phú và cực kỳ quý. Bởi hai bộ trên còn rất
nhiều luận điểm, nhờ những luận điểm đó tƣ tƣởng của các bộ phái khác dựa vào, mới có
đƣợc khái niệm để tự thuật một cách gián tiếp về bộ phái mình. Đặc biệt là Đại Chúng Bộ.
Bộ này tuy trƣớc sau đƣợc chia thành chín bộ nhƣng luận thƣ của chín bộ này khơng bị thất
tán. Tuy nói là hai mƣơi bộ trong thuyền thuyết nhƣng khơng có kinh luận của hai mƣơi bộ
phái lƣu lại đến ngày nay. Cũng khơng có luận tạng của hai mƣơi bộ phái còn lƣu hậu. Con
số hai mƣơi bộ , đó chỉ là thuyết phổ thơng của Phật giáo Bắc truyền. Theo ghi chép của Dị

Bộ Tơng Lâm thì có hai mƣơi bộ phái. Nhƣng thịnh hành nhất trên thực tế thì chỉ có Đại
chúng bộ. Trong năm bộ này, chỉ có các bộ là có hệ tƣ tƣởng đáng kể nhất, đó là: Đại chúng
bộ, Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ. Nhƣ vậy nhờ có sự phân chia thành hai mƣơi Bộ phái nên
có nhiều sắc thái mới phát hiện. Các tơng phái tuy có chủ trƣơng khác nhau nhƣng trong cái
khác có cái đồng nhất. Tuy vậy, tơng phái nào cũng muốn trung thành với giáo lý của Đức
Phật nên đã giữ lại những giáo lý căn bản. Sau thời kì phân chia Bộ phái đạo Phật đã chinh
phục đƣợc toàn cõi Ấn Độ và bắt đầu lan ra các nƣớc xung quanh. Hiện nay, đạo Phật đã có
mặt trên tồn thế giới. Bởi vì đạo Phật ln cởi mở, ở mọi thời đại, luôn tiến học và nhận
diện đƣợc nhu cầu mới.Theo Dị Bộ Tông Luân Luận. Thầy Thế Hữu, đã sống, hành đạo và
viết ra tác phẩm này vào khoảng 400 năm sau khi Đức Thế Tơn nhập diệt. Nội dung của bộ
luận này nói về sự phân liệt của tăng thân thành ra nhiều bộ phái. Có 20 bộ phái, nhờ tác
phẩm này, chúng ta biết đƣợc mỗi bộ phái chủ trƣơng những gì và có những gì khác nhau
giữa niềm tin và chủ trƣơng của các bộ phái. Dị Bộ Tông Luân Luận là tài liệu rất quý giúp
chúng ta biết đƣợc quá trình diễn biến của tƣ tƣởng đạo Phật. Thế Hữu cũng vậy, thầy là
ngƣời của Hữu Bộ (Sarvāstivāda), một tông phái có mặt tại Kashmir ở miền Bắc và cũng có
mặt tại miền Trung Ấn Độ. Cơ sở của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ đã đƣợc duy trì tại
Kashmir tới hơn 1000 năm. Tông phái Hữu Bộ đã sáng tác ra một tác phẩm Abhidharma rất
đồ sộ, gọi là Mahā-vibhāsā (Đại Tỳ Bà Sa Luận). Để làm rõ Quan điểm của các Bộ phái là
nền tảng cho sự hƣng khởi Phật giáo Đại thừa sau đây con xin dẫn chứng một số quan điểm
sau
1.1.QUAN ĐIỂM VỀ ĐỨC PHẬT THEO ĐẠI CHÖNG BỘ VÀ BA BỘ PHÁI TRỰC HỆ
Trong mỗi bộ phái quan niệm về Đức Phật khác nhau. Thƣợng Tọa Bộ quan niệm Đức thế
tôn cũng là một ngƣời cũng sinh ra cũng có diệt đi cũng có từng đau khổ, nhƣng nhờ có tu
tập trong nhiều kiếp nên Ngài đã thành Phật. Đại Chúng Bộ thì quan niệm: Cái mà chúng ta
thấy có đản sanh, có thành đạo, có nhập diệt đó chƣa phải là Đức Thế Tơn thật mà chỉ là sắc
thân, là hóa thân. Đức Thế Tơn tuyệt vời hơn nhiều. Đó là sự khác nhau của hai bộ phái.
Chính sau này Đại Thừa sẽ thừa hƣởng đƣợc quan điểm này thành lập thuyết tam thân. Phật
là thể tính thanh tịnh của vũ trụ, thƣờng hằng và tồn tri. Trong khơng gian vơ tận có vơ
lƣợng thế giới vô số chúng sinh, Phật (và Bồ Tát). Các Phật xuất hiện trên trái đất là hiện
thân của Pháp Thân vì lịng từ bi mà đến với con ngƣời, vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Nói

tóm lại Pháp Thân là trỏ cái thế sở chứng đƣợc, Báo Thân và Ứng Thân là trỏ cái dụng nhờ
ở cái thế ấy mà phát ra. Vậy nên tuy nói là 3 Thân nhƣng thực là chỉ có 1 Thể. Một Thể tức
là một Phật. Một Phật (Pháp Thân) nghĩa là một cái minh giác linh diệu chung khắp cả vũ
trụ. Cái minh giác linh diệu ấy lƣu chuyển phát hiện ra những thân khác tức là thành ra chƣ
Phật. Đƣợc cái phúc đức trí tuệ (Báo Thân) hay do sự biến hóa phổ ứng ở đời (Ứng Thân)
thì có nhiều Phật nhƣng do cái thuần lý thì chỉ có một Phật (Pháp Thân). Một mà hóa ra


nhiều, nhiều mà vẫn là một. Lấy ngay chƣ Phật nói ở trong các kinh mà xét thì biết rằng hết
thảy chƣ Phật đều là một Pháp Thân cả. Đức A Di Đà là Báo Thân của Phật và đức Thích
Ca Mâu Ni là Ứng Thân của Phật. Hay là nói ngƣợc lại: đức Thích Ca Mâu Ni đã thành
Phật là đƣợc Pháp Thân của Phật, đời ngài hiện ra ở thế gian mà thuyết pháp và giáo hóa
chúng sinh là Ứng Thân của Phật; đức A Di Đà ở Tây Phƣơng Cực Lạc hƣởng thụ yên vui
cứu độ chúng sinh là Báo Thân của Phật. Hay nói theo cách khác: đức Đại Nhật Nhƣ Lai là
Pháp Thân của đức Thích Ca Mâu Ni, đức A Di Đà là Báo Thân của đức Thích Ca Mâu Ni
và đức Thích Ca Mâu Ni là Ứng Thân của đức Đại Nhật Nhƣ Lai. Vậy xét về Pháp Thân thì
chƣ Phật là đồng một thể tức là chỉ có một (Pháp Thân) Phật mà thôi (là Đại Nhật Nhƣ Lai).
Mà xét về Báo Thân thì có A Di Đà Phật và những Phật khác và xét về Ứng Thân thì có
Thích Ca Mâu Ni Phật cùng chƣ Phật khác trong quá khứ đã giáng thế mà tu thành chánh
giác và thuyết pháp độ chúng sinh. Thuyết Tam Thân có từ Du Già Hành Phái của Phật
Giáo Đại Thừa lấy Chân Nhƣ làm căn bản. Mỗi sinh kể cả con ngƣời (human being) có 1
Thực Thể Tuyệt Đối có sẵn từ nguyên thủy là Chân Nhƣ. Khi đồng nhất với Chân Nhƣ thì
(một sinh mạng) Giác Hạnh Viên Mãn (gồm có Giác ngộ và Giác tha) đạt Phật Quả
(Buddhahood) mà thành Phật (Buddha). Pháp Thân của Phật chính là Chân Nhƣ của Phật.
Do đó cịn gọi là Tự Tánh Thân vì Chân Nhƣ là tự tánh của Phật (Phật Tánh). Báo Thân của
Phật chính là Giác Hạnh Viên Mãn của Phật hay Phật Quả của Phật. Báo Thân Phật không
ở thế giới Ta Bà của chúng sanh mà ở thế giới Tịnh Độ (Pháp Giới) nên còn gọi là Đồng
Thân. Mỗi Báo Thân Phật có một cõi Tịnh Độ riêng. Thí dụ Phật A Di Đà có thế giới Tịnh
Độ riêng của mình là thế giới (Tây Phƣơng) Cực Lạc. Gọi là Báo Thân vì ―báo‖ là ―nhận
kết quả‖ của Phật Quả (Buddhahood). Nhận cũng có nghĩa là ―hƣởng thụ‖ Phật Quả nên

cịn gọi là Thọ Dụng Thân.Ứng Thân hay Hóa Thân của Phật cũng chính là Giác Hạnh Viên
Mãn hay Phật Quả của Phật. Ứng Thân Phật ở thế giới Ta Bà của chúng sanh, có thân thể
(sắc thân) nhƣ chúng sanh. Ứng Thân Phật cũng là ―nhân lồi‖ nhƣ Phật Thích Ca và những
Nhân gian Phật khác. Ứng Hóa là ứng dụng để hóa độ (chúng sanh thành Phật) do đó gọi là
Ứng Thân hay Hóa Thân. Nhƣ vậy, trong thế giới Ta Bà thì chúng sanh đƣợc hóa độ từ
Ứng Thân Phật và Bồ Tát. Phật Lục của Trần Trọng Kim viết:Pháp Thân Phật là Phật căn
bản và nguồn gốc của Vạn Hữu (mọi sự vật = all things and beings) hay Vạn Pháp (all
dharmas) kể cả chƣ Phật. Pháp Thân là là thể mà Phật và Chúng Sinh có chung. Pháp Thân
thì thƣờng hằng vơ tƣớng nhất ngun, là thể tính chung của các vị Phật, là dạng tồn thật sự
của chƣ Phật. Từ một Pháp Thân Phật sinh ra tất cả Báo Thân Phật và Hóa Thân Phật và
chƣ Phật đều qui về (một) Pháp Thân Phật.Pháp Thân là Chân Nhƣ nên Pháp Thân cũng
đồng nghĩa với những đồng nghĩa khác của Chân Nhƣ nhƣ là Nhƣ Lai Tạng, Phật Tánh,
Tánh Không, Pháp Tánh, Pháp Giới (theo Hoa Nghiêm Tông) và Bản Tâm (theo Kim Cang
Thừa). Pháp Thân dùng cho Phật còn những đồng nghĩa khác dùng cho Chúng sanh nhất là
cho Hành giả tu hành. Thuyết Tam Thân lấy căn bản trên một bộ phái là Đại Chúng Bộ của
Phật Giáo Nguyên Thủy. Pháp Thân chính là (Phật) Pháp, một trong Tam Bảo (Phật Pháp
Tăng) đƣợc Phật Thích Ca giảng dạy. Chỉ có (Phật) Pháp là tuyệt đối theo Phật Thích Ca do
đó chỉ có Pháp Thân là tuyệt đối. Đại Thừa mƣợn ý niệm Pháp Thân tuyệt đối của Phật
Giáo Nguyên Thủy nên vẫn giữ danh hiệu ―pháp thân‖ mặc dù giải nghĩa theo Đại Thừa.
Do đó dễ gây hiểu lầm về nghĩa của từ ngữ ―pháp‖ của Pháp Thân. Từ Pháp Thân, Đại
Thừa sáng tạo ra Báo Thân và Ứng Hóa Thân. BáoThân và Ứng Thân khơng có trong Phật
Giáo Ngun Thủy .
1.2.PHÁP TÁNH KHƠNG
Phật giáo chia ra làm ba thời kì Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Bộ phái và Phật giáo Đại
thừa. Khởi nguyên của thánh không đƣợc phát xuất khái niệm không của Phật giáo Nguyên
thủy. Theo dòng lịch sử phát triển của Phật giáo thì khác niệm về tánh khơng ln giữ vị trí
trọng điểm trong giáo lý. Trong kinh tạng Nikaya hay A hàm, khái niệm không đƣợc Đức
Phật mô tả là trạng thái tâm của ngƣời xuất gia khơng cịn phiền lụy về đời sống gia đình.
Khơng là đời sống tu tập khơng vƣớng bận, xa lìa ngũ dục, xã bỏ tất cả phiền não hƣớng tới
đời sống phạm hạnh, giải thoát



Đến thời kỳ Phật giáo Đại thừa, tánh không đƣợc xem là không thực thể cố định chứ không
phải là khơng có sự hiện hữa của một thứ gì đó. Tƣ tƣởng này ảnh hƣởng tới Bát nhã sau
nà. Hệ thống Bát nhã và đối tƣợng nghiên cứu cảu nó là tánh Không rất là quan trọng đối
với tƣ tƣởng nền tảng của đạo Phật. Vì tánh Khơng đƣợc nói đến trong hầu hết kinh điển
chính yếu và hầu hết các tơng
1.3. QUAN ĐIỂM GIÁO LÝ CỦA ĐẠI CHƯNG BỘ VÀ BA BỘ PHÁI TRỰC HỆ
+ Các kinh của đức Phật thuyết đều là liễu nghĩa(nitārtha).
Sau này Phật giáo Đại thừa có nói kinh bất liễu nghĩa. Liễu Nghĩa là nghĩa lý đƣợc giải bày
đầy đủ trọn vẹn, tức là nghĩa đã trọn, đã hết. Đối nghịch với liễu nghĩa là không (bất) liễu
nghĩa tức là nghĩa chƣa trọn vẹn, chƣa hết nghĩa. Liễu nghĩa và bất liễu nghĩa là tên gọi
khác của Cứu Cánh (liễu nghĩa) và Phƣơng Tiện (khơng liễu nghĩa). Trong kinh điển Phật
giáo có kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa. Cho nên Phật dạy; phải y vào kinh liễu
nghĩa (Kinh Đại Bát Niết Bàn - Phẩm Tứ Y).Nói một cách giản lƣợc, kinh liễu nghĩa là
kinh điển trình bày về chân lý tuyệt đối, chân lý chân thật, đúng mức và rốt ráo. Kinh khơng
liễu nghĩa là những kinh phƣơng tiện, chỉ nói về chân lý tƣơng đối, chƣa đúng mức, chƣa
hết nghĩa. Ví dụ nhƣ nói: Nhƣ Lai nhờ sự ăn mà sống cịn, đó là lời (kinh) khơng liễu nghĩa.
Nếu nói Nhƣ Lai thƣờng trụ không biến đổi, đây gọi là lời (kinh) liễu nghĩa. Nếu nói Nhƣ
Lai nhập Niết Bàn nhƣ củi hết lửa tắt, đó là lời (kinh) khơng liễu nghĩa. Nếu nói Nhƣ Lai
nhập Pháp tánh, đấy là lời (kinh) liễu nghĩa.
+ Tâm tánh vốn thanh tịnh, nói bất tịnh là vì bụi bặm phiền não làm cho ơ nhiễm.
Chủ trƣơng bản tính thanh tịnh này rất quan trọng, giống nhƣ thiền tông Trung Hoa, Nhật
Bản. Lâm Tế Ngữ Lục, Tâm Bất Sinh của thiền sƣ Bankei (Nhật Bản). Phật Thuyết Kim
Cang Tam Muội Bổn Tánh Thanh Tịnh Bất Hoại Bất Diệt Kinh-Thất dịch-Bản Việt dịch
của Tuệ Khai. kinh Lăng nghiêm, chúng ta tìm thấy những lời Phật dạy:―Thế nên, khi thấy,
nghe, hay, biết mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc vơ minh. Cịn khi thấy, nghe, hay,
biết mà khơng khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết-bàn. Ở trong chân tâm thanh tịnh,
khơng có dung chứa vật gì cả‖.―Vì cứ theo vọng niệm phân biệt, chẳng nƣơng theo chân
tâm thƣờng trụ, cho nên đời ô nhiễm, trơi lăn trong vịng sanh tử. Vậy các ơng phải bỏ cái

vọng niệm sanh diệt, theo về với chân tâm thƣờng trụ. Khi chân tâm thanh tịnh sáng suốt
rồi thì căn thân, trần cảnh và vọng thức tức thời tiêu diệt. Cảnh vọng trần và tâm cấu nhiễm
đã tiêu rồi, lúc bấy giờ lo gì chẳng thành quả Phật vơ thƣợng‖.Và nơi kinh Viên giác chúng
ta lại đọc thấy:―Nếu tâm chúng sanh đƣợc thanh tịnh thì bóng Bồ-đề tự hiện vào‖.Cho thấy
rằng việc thanh tịnh tâm quả là quan trọng đến dƣờng nào, nơi con ngƣời từ sáu căn mà
trầm ln thì cũng từ sáu căn mà giải thốt. Từ vọng chuyển thành chân, từ mê chuyển
thành ngộ. Đó là đạo lộ mà con ngƣời cần nƣơng theo. Đức Phật đã chỉ rõ, chúng ta chỉ
chuyên cần theo đó mà tu tập ắt có ngày đạt đạo quả.
1.4. TƢ TƢỞNG BỒ TÁT VÀ VAI TRÕ CỦA NGƢỜI CƢ SĨ TRONG PHẬT GIÁO ĐẠI
THỪA
Trong thời kỳ Tiểu thừa bộ phái có sự phát sinh của nhiều tƣ tƣởng, nhiều tuệ giác làm nền
móng cho sự phát triển của Phật giáo Đại thừa. Thời Phật giáo Tiểu thừa ca ngợi thời sống
viễn ly, độc cƣ trong rừng núi. Đó cũng chính là hạnh giúp hành giả đạt đến trạng thái thiền
định và giải thốt. Đến khi tăng đồn đƣợc thành lập, nhiều tín chủ tơn sùng Phật đã hiến
cúng tài vật xây dựng tịnh xá. Phật đã cho Ni chúng chuyển vào đời sống định trong các
tinh xá gần với chƣ tăng. Đây xem là bƣớc chuyển đầu tiên về môi trƣờng sống của tăng già
trong thời Phật giáo nguyên thủyĐến thời vua A Dục, dù Đức Phật nhập diệt đã lâu nhƣng
pháp của Phật vẫn thƣờng trụ ở thế gian và Phật giáo vẫn phát triển qua các thời kỳ. Để có
thành quả đó khơng thể thiếu vai trị của chƣ tăng, đồng thời cịn có sự hỗ trợ tích cực của
Phật tử tại gia. Tƣ tƣởng của Phật giáo Đại thừa tin rằng tất cả mọi ngƣời đều có Phật tánh
và ai cũng đều có khả năng thành Phật. Nhân vật điển hình là vua A Dục. Một vị vua yêu
mến và hỗ trợ cho đạo Phật rất nhiều. Vua đã truyền bá đạo Phật trong chỉ trong đất nƣớc
Ấn Độ mà còn lan rộng ra các nƣớc. Trong suốt thời gian trị vì vua A Dục thực hành hạnh
từ bi: đặc xá tù nhân, cấm sát sinh, khuyến khích hạnh bố thí, trồng cây xanh, đào giếng tu


sửa đƣờng xá, tạo Phật sự, thiết lập tháp Phật, cho xây dựng trụ đá, trên mỗi trụ đá đều có
khắc ghi lại sự tích để kỉ niệm. Vua khuyến khích dân chúng nên lựa con đƣờng trung đạo.
Một trong những gƣơng mặt hộ pháp tiêu biểu chính là vua A Dục. Trên bia đá có tên là: ―
The Calcutta Bairat Rock- Inscription‖. Ơng khẳng định mình là một Phật tử thuần thành,

tin tƣởng có thể đóng góp vào việc trƣờng tồn của chánh pháp.Ngồi ra, cịn một số quan
điểm: trong đạo Phật nguyên thủy, yếu tố không thể không có để giúp ta đi tới giải thốt,
giác ngộ là yếu tố trí tuệ, tức thiền chỉ và thiền quán. Chỉ có chỉ và qn mới giải thốt
đƣợc chúng ta. Đến Đại thừa, ngƣời ta nâng từ bi lên ngang hàng với trí tuệ. Nếu thực tập
từ bi thì chúng ta cũng có thể có giải thốt đƣợc. Bi đƣợc nâng lên ngang hàng với trí, trí và
bi viên mãn. Khơng phải chỉ có trí mà bi cũng đƣa tới giải thốt, giác ngộ. Bố thí là từ bi, trì
giới là từ bi, nhẫn nhục là từ bi. Theo quan điểm của Phật giáo Đại thừa thì một ngƣời cƣ sĩ
nếu biết giữ giới, và thực hành các hạnh nhẫn nhục, bố thí, thiền chỉ và qn thì cũng có thể
thành Phật. Nhƣ vậy hình ảnh của A Dục chính là một vị bồ tát tại gia.


CHƢƠNG 2: ỨNG DỤNG TU TẬP CHUYỂN HÓA TAM ĐỘC TRONG ĐỜI SỐNG
Trong vô số kiếp, chúng ta đã bị ảnh hƣởng và thúc đẩy bởi tham, sân, si. Vì vậy, công việc
thanh tẩy và biến đổi này không thể đƣợc thực hiện một cách vội vàng, tuân theo nhu cầu
thiếu kiên nhẫn của chúng ta về kết quả nhanh chóng. Cơng việc này địi hỏi sự kiên nhẫn,
cẩn thận, bền bỉ và lòng trắc ẩn sâu sắc đối với bản thân và ngƣời khác. Đức Phật dạy
chúng ta rằng chất độc của tham, sân, si, những thứ gây ra rất nhiều đau khổ, thực sự có thể
đƣợc thanh lọc và chuyển hóa. Chúng ta có thể phá vỡ chuỗi đau khổ và ác nghiệp và sống
một cuộc sống hạnh phúc, viên mãn. Những lời dạy tuyệt vời của Đức Phật cho chúng ta
biết rằng giác ngộ là bản chất thực sự của chúng ta, và sẽ tự nhiên tỏa sáng qua tâm trí và
trái tim đƣợc thanh lọc. Vì vậy, mục tiêu tu hành của chúng ta là giải thoát chúng ta khỏi
những phiền não che lấp sự trong sáng, rạng rỡ và niềm vui tự nhiên của sự giác ngộ của
chúng ta. Chúng ta phải bắt đầu công việc thanh lọc này ở nơi chính xác bắt nguồn của các
chất độc — trong chính tâm trí (bản ngã hay nhân cách), trƣớc tiên chúng ta phải học cách
nhận biết chúng khi chúng mới xuất hiện. Khi tỉnh táo và nhận thức, chúng ta có thể phân
biệt đƣợc những chất độc nằm sâu bên trong này ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến suy nghĩ, cảm
xúc, lời nói và hành động hàng ngày của chúng ta. Sự tỉnh thức chánh niệm này, sự nhìn
thấy sâu sắc vào bản thân chúng ta, là sự khởi đầu của sự hiểu biết; sự khởi đầu của khả
năng chuyển hóa những phiền não này của chúng ta. Để đạt đƣợc nhận thức này, chúng ta
rèn luyện tâm trí của mình thơng qua thiền định. Chúng ta học cách tập trung vào hơi thở ở

mũi (hoặc bụng trong luyện tập Thiền), cho phép mọi suy nghĩ và cảm xúc nảy sinh và trôi
qua mà không phản ứng lại hoặc đánh giá chúng. Thông qua việc thực hành này, chúng ta
trở nên ý thức hơn về bản thân trong các tình huống hàng ngày. Chúng ta có thể nhận thấy
khi nào những suy nghĩ và cảm xúc xuất hiện và bắt đầu làm phiền chúng ta. Bằng cách
này, chúng ta có thể nhận thức đƣợc những suy nghĩ và cảm xúc này và làm việc với chúng
một cách khéo léo trƣớc khi chúng vƣợt quá tầm kiểm sốt, gây hại cho bản thân và ngƣời
khác. Ngồi việc thực hành thiền định, cịn có các loại thuốc giải độc hoặc thay thế cho ba
chất độc. Đối với mọi phiền não, Đức Phật đã ban cho chúng ta phƣơng thuốc giải độc,
phƣơng pháp giúp chúng ta loại bỏ những thái độ tinh thần bất thiện và thay thế chúng bằng
những thái độ lành mạnh, có lợi cho bản thân và ngƣời khác. Vì vậy, tồn bộ mục đích của
việc thực hành tâm linh là dần dần điều phục các chất độc của tham, sân, si bằng cách trau
dồi các yếu tố tinh thần thay thế trực tiếp đối nghịch với chúng. Những thuốc giải độc này
đƣợc gọi là ba gốc lành: không tham, không sân, không si.Để giải độc và chiến thắng lòng
tham, chúng ta học cách trau dồi lịng vị tha, sự rộng lƣợng, vơ chấp và tri túc. Nếu chúng
ta đang trải nghiệm lòng tham, ham muốn mạnh mẽ, hoặc chấp trƣớc và chúng ta muốn
buông bỏ nó, chúng ta có thể suy ngẫm về tính vô thƣờng hoặc nhƣợc điểm của các đối
tƣợng mà chúng ta mong muốn. Chúng ta có thể tập cho đi những thứ mà chúng ta muốn
nắm giữ nhất. Chúng ta cũng có thể thực hiện các hành động phục vụ và từ thiện qn
mình, chăm sóc và giúp đỡ ngƣời khác theo bất kỳ cách nào chúng ta có thể, mà không
màng đến sự công nhận hoặc đền bù. Các vấn đề liên quan đến tham lam và chấp trƣớc chỉ
nảy sinh khi chúng ta tin tƣởng nhầm lẫn và hành động nhƣ thể nguồn hạnh phúc của chúng
ta nằm ngồi chính chúng ta.Để giải độc và chiến thắng hận thù, chúng ta học cách ni
dƣỡng lịng từ, bi, nhẫn nhục và tha thứ. Khi chúng ta phản ứng với những cảm giác, hồn
cảnh hoặc con ngƣời khó chịu, bằng lòng căm thù, tức giận hoặc chán ghét, chúng ta có thể
sử dụng những loại thuốc giải độc hữu hiệu này để chống lại chất độc. Ở đây, chúng ta học
cách cởi mở đón nhận tồn bộ trải nghiệm của mình mà khơng có sự thù hận hay chán ghét.
Giống nhƣ việc chúng ta thực hành gặp gỡ những trải nghiệm khó chịu ở thế giới bên ngồi
bằng sự kiên nhẫn, lòng tốt, sự tha thứ và từ bi, chúng ta cũng phải thực hành đối mặt với
những cảm giác khó chịu của chính mình theo cách tƣơng tự. Cảm giác cô đơn, tổn thƣơng,
nghi ngờ, sợ hãi, bất an, thiếu thốn, trầm cảm, v.v., tất cả đều đòi hỏi sự cởi mở và lòng

nhân ái của chúng ta. Thử thách của chúng ta trong việc thực hành tâm linh là làm dịu đi sự
phịng thủ theo thói quen của mình, mở rộng trái tim và bng bỏ hận thù, ác cảm và phủ


nhận. Bằng cách này, chúng ta có thể gặp gỡ và đón nhận bản thân, những ngƣời khác cũng
nhƣ tất cả những trải nghiệm nội tâm và ngoại cảnh với lịng từ bi và trí tuệ vĩ đại.Để giải
độc và vƣợt qua ảo tƣởng, chúng ta trau dồi trí tuệ, sự sáng suốt và hiểu biết đúng đắn. Học
cách trải nghiệm thực tế chính xác nhƣ nó vốn có, khơng bị bóp méo những mong muốn,
nỗi sợ hãi và kỳ vọng tự cho mình là trung tâm, chúng ta giải phóng bản thân khỏi ảo
tƣởng. Cảm nhận sâu sắc và hành động hài hòa với bản chất phụ thuộc lẫn nhau, vô thƣờng
và luôn thay đổi của thế giới này – nhận ra rằng tất cả chúng sinh đều có liên quan không
thể tách rời và hạnh phúc lâu dài khơng đến từ bất cứ thứ gì bên ngồi – chúng ta giải
phóng mình khỏi ảo tƣởng. Khi chúng ta phát triển sự hiểu biết rõ ràng về nghiệp, biết
những hành động tích cực, lành mạnh mang lại hạnh phúc và những hành động tiêu cực, bất
thiện mang lại đau khổ, chúng ta trau dồi trí tuệ, cái nhìn sâu sắc và sự hiểu biết đúng đắn
để giải thoát chúng ta khỏi si mê.Bằng cách nghiên cứu Phật pháp và áp dụng những lời dạy
đúng đắn trong cuộc sống của mình, chúng ta sẽ dần loại bỏ những thói quen thậm chí cứng
đầu nhất, giải thốt hồn tồn khỏi căng thẳng, bất hạnh và đau khổ. Đức Phật gọi điều này
là ―sự giải thốt khơng ơ nhiễm của tâm trí‖. Tự tại, trí tuệ, nhận thức vơ hạn, sự hợp nhất
và hạnh phúc của Niết bàn tỏa sáng nhƣ bản chất cốt yếu của chúng ta khi ba chất độc của
tham, sân, và si cuối cùng đã bị dập tắt.


C.KẾT LUẬN

Sự phân hóa của Phật giáo khơng phải là sự phân chia cao thấp mà nhằm để ứng
dụng tƣ tƣởng Phật đà phù hợp với sự phát triển của thời đại. Tùy thuộc vào căn cơ
trình độ của chúng sanh có sai khác mà Phật pháp sẽ thích ứng sao cho phù hợp. đây
là tinh thần tùy duyên của Phật giáo. Dù hình thức triển khai của Phật giáo qua mỗi
thời kỳ có sự đổi khác nhƣng tựu chung tƣ tƣởng của Đức Phật để lại vẫn nhƣ thế

không có sự sai biệt. Nhƣ vậy sự phân chia bộ phái đã làm cho Phật giáo phát triển
mạnh hơn. Vì vậy, con cố gắng tinh tấn tu học và nghiên cứu để hiểu đƣợc pháp
Phật nhằm tránh và hạn chế đƣợc những sai lệch trong việc hành pháp. Nếu thực
hành đúng thì sẽ có đƣợc hạnh phúc và an lạc ngay trong hiện tại và tƣơng lai. Qua
tìm hiểu về đặc điểm tƣ tƣởng của các bộ phái. Con hiểu đƣợc trong Phật giáo, Phật
tử tại gia hay các vị xuất gia vốn là một tổ chức cố hữu do Đức Phật quy định. Đối
với Phật giáo Tiểu thừa, ngƣời tại gia chỉ là dự lƣu quả. Vì từ Thánh quả Nhất lai lên
đến Bất lai và vơ sanh thì phải xuất gia mới tu chứng. Tiểu thừa quan niệm sự xuất
gia tự nó là một cứu cánh. Nó thốt ly hẳn những quan niệm và những hành vi liên
hệ đến thế gian nên kết quả đƣợc địa vị La Hán đã thấy hồn tồn. Cịn đối với giáo
lý Đại thừa thì khác, Phật đà mới là giai đoạn tuyệt đối của sự giác ngộ. Vì vậy nếu
ngƣời tại gia hay xuất gia mà phát bồ đề tâm, xác nhận và phục vụ trách nhiệm ―hộ
pháp‖của mình cũng đƣợc gọi là tu tập Bồ tát hạnh và sẽ trở thành quả vị Phật Đà.
Ngƣời Phật tử tại gia không phân biệt tuổi tác. Điều quan trọng là phải hiểu pháp và
biết đem Phật pháp hoán cải sự sinh hoạt đời thƣờng của mình. Nghĩa là phải sống lý
tƣởng của ngƣời Phật tử thọ tam quy , ngũ giới. Ngoài ra ngƣời Phật tử tại gia còn
phải biết hộ pháp. Thực hành chánh niệm trong mọi trƣờng hợp thì sẽ đƣợc an lạc
ngay trong đời sống hiện tại và tƣơng lai.


D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1/ TT Thích Giác Hồng (2019), giới thiệu “Luận Dị bộ tông luận ”, Khoa
ĐTTX , Học viện Phật giáo Việt Nam, tại Thành phố Hồ Chí Minh.
2.Thích Nhất Hạnh, Những con đường đưa về núi Thứu, TP. HCM, Nhà xuất bản Phƣơng
Đông, 2013.
3. HT. Thích Trí Quang, Dị bộ tơng ln luận. www.daophatngaynay.com
4. Pháp Sƣ Thánh Nghiêm Thích Tâm Trí dịch, Lịch sử Phật Giáo Ấn Độ, Nhà xuất bản
Phƣơng Đông
5. />6. />7. />8. />9. />10. />



×