Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.46 KB, 18 trang )

Đề tài:
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân". Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
Bài làm
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm Đường Kách mệnh - cuốn sách
bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam đi theo học thuyết Mác
– Lênin và cũng là cuốn sách đầu tiên trực tiếp tuyên truyền về chủ nghĩa Mác –
Lênin cho lớp thanh niên ưu tú thời đó.
45 năm sau, trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc ra
đi, trước hết, Người dặn dò về Đảng, và vấn đề đạo đức đã được đặc biệt nhấn
mạnh: “ Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Để xây dựng Đảng vững mạnh, ngang tầm với đòi hỏi của dân tộc và thời
đại, đặc biệt là trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng phải thật trong sạch.
Đảng cầm quyền là một khái niệm gắn với quyền lực. Tức đảng có quyền lực
chính trị mà cụ thể là ở việc “nắm chính quyền” hay “nắm quyền lực nhà nước”.
Không những thế, theo V.I.Lênin, khi đảng nắm được chính quyền thì đảng
không chỉ có quyền lực chính trị, mà “với tư cách nhà nước, còn có thêm được
quyền lực kinh tế”
1
.Sức sống, sự lớn mạnh của Đảng phụ thuộc rất nhiều vào
mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng,
của dân tộc đã chứng minh: bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, Đảng liên hệ chặt
chẽ với quần chúng, được quần chúng tin tưởng, ủng hộ thì Đảng vững mạnh,
1
. V.I.Lênin: Sđd, t. 43, tr. 75.


1
lãnh đạo cách mạng thành công; còn nếu xa rời quần chúng, không được quần
chúng tin tưởng, ủng hộ thì sẽ suy yếu, giảm sút sức chiến đấu và có khi vấp
phải thất bại. Muốn vững mạnh, muốn được quần chúng tin tưởng, ủng hộ, Đảng
phải luôn trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung
thành của nhân dân, “Dễ trăm lần, không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu
cũng xong”. Sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân cho thấy, Đảng luôn vì dân,
đặt dân ở vị trí là gốc, Đảng không phải ở trên dân mà ở trong dân. Đảng cầm
quyền có quyền lực chính trị, đó là quyền lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo hệ
thống chính trị. Đảng viên, cán bộ trong điều kiện đảng cầm quyền- so với nhân
dân- dù ít dù nhiều đều có quyền lực, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền
nhỏ. Điều quan trọng nhất là việc trao quyền và thái độ của Đảng và cán bộ đảng
viên đối với quyền lực. Quyền lực nếu được trao vào người có đức, có trí thì sẽ
phát huy được sức mạnh to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Ngược lại,
quyền lực nếu trao vào người thiếu đức, kém trí, thiếu tâm, dưới tầm thì quyền
lực sẽ bị thao túng, phục vụ cho lợi ích cá nhân; người cầm quyền nhanh chóng
bị tha hóa, biến chất. Bởi vì, thông thường, người thiếu trí tuệ thì rất hay lạm
dụng quyền lực, núp bóng quyền lực, lãnh đạo bằng quyền lực, chứ không phải
lãnh đạo bằng cảm hóa, thuyết phục qua trí tuệ. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Có
quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công
vi tư”
2
. Đảng cầm quyền phải thật sự là một Đảng đạo đức, văn minh.
Bác Hồ đã cảnh báo: “Một dân tộc, một Đảng, mỗi con người, ngày hôm
qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người yêu mến, ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào
chủ nghĩa cá nhân”. Báo cáo của Bộ Chính trị trình Hội nghị trung ương VI (lần
2) khóa VIII đã đề cập đến 5 kiểu “chạy”. Đó là “chạy chức”, trước khi bầu cử;
“chạy quyền” trước khi bổ nhiệm, thuyên chuyển công tác cán bộ; “chạy chỗ”,
tìm “chỗ thơm”, “chỗ ngon”, chỗ kiếm được nhiều lợi (chẳng những cho bản

thân mà còn cho cả người thân, người nhà); “chạy lợi” khi phân chia ngân sách,
xét duyệt dự án đầu tư, giao thầu, tính thuế, xét duyệt đề tài nghiên cứu….;
2
. Hồ Chí Minh, NXB chính trị quốc gia, năm 2000, tập 5, trang 641.
2
“chạy tội” cho bản thân cho người thân, có trường hợp cho cả những tên tội
phạm.
Đảng và dân gắn bó, hòa quyện là một, không tách rời và không thể tách
rời. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là việc của Đảng, của mỗi cán bộ,
đảng viên nhưng đó cũng là việc của dân. Một trong những nguyên nhân dẫn
đến sự thắng lợi trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng chính là Đảng đã
biết phát huy trí tuệ của toàn dân vào việc xây dựng đường lối của Đảng. Một
Đảng trong sạch để cho dân tin yêu phải gồm những đảng viên trong sạch, có lý
tưởng, đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư vì đảng viên
chính là cầu nối giữa Đảng với dân. Là “đầy tớ” của nhân dân, mỗi cán bộ, đảng
viên phải tận tụy phục vụ nhân dân, một lòng một dạ vì lợi ích của nhân dân.
Cán bộ và chính quyền trong điều kiện đảng cầm quyền phải là công bộc thật sự
của dân, “sao cho được lòng dân”, không được cửa quyền, xa rời nhân dân. Bởi
vì, “cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ
lửng giữa trời, nhất định thất bại”
3
.
Để Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, phải kiên quyết đưa những đảng
viên thoái hóa, biến chất ra khỏi Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên
nhân sâu xa khiến người đảng viên mắc những căn bệnh nguy hiểm như kiêu
ngạo, hống hách, tham ô, lãng phí chính là chủ nghĩa cá nhân. “Một dân tộc,
một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không
nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Để đáp ứng yêu
cầu của tình hình mới, Đảng phải xây dựng, chỉnh đốn để ngày càng vững mạnh

về mọi mặt. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là một trong những vấn đề
có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước.
3
. Hồ Chí Minh, NXB chính trị quốc gia , năm 2000, tập 5, trang 286.
3
Đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam là đạo đức của giai cấp công nhân
kết hợp nhuần nhuyễn với tinh hoa đạo đức truyền thống lâu đời của dân tộc
Việt Nam, nó là sự thể hiện bản chất, tư cách, sứ mệnh cao cả và bổn phận của
Đảng đối với nhân dân, Tổ quốc. Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đảng ta là một
đảng chân chính cách mạng “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát
tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh,
đồng bào sung sướng”. Người còn nói: Đảng cũng ở trong xã hội mà ra và Đảng
là do mỗi một đảng viên, do nhiều đảng viên kết lại mà thành. Vì vậy, mỗi một
đảng viên trước hết phải là một công dân có đạo đức (đạo đức làm người, đạo
đức công dân) đồng thời phải thấm nhuần đạo đức cách mạng bởi theo logic của
sự phát triển thì người ta ai cũng vậy, trước tiên là phải biết làm việc, có biết làm
việc thì mới biết làm người và có biết làm một người chân chính thì mới biết
làm một đảng viên, cán bộ tốt, tức là biết làm một chiến sĩ cách mạng, một đảng
viên của một Đảng chân chính cách mạng.
Trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, khi Người nói “Đảng ta là văn
minh” có thể bao gồm một số nội dung sau đây:
Đảng ta là văn minh bởi vì ở thời điểm khó khăn, đen tối, bế tắc nhất của
xã hội Việt Nam (đầu thế kỷ 20), Đảng đã ra đời với tư cách là tổ chức chính trị
tiền tiến có tính vượt trội (văn minh) so với mọi tổ chức chính trị đã xuất hiện
trong cùng thời kỳ đó.
Đảng ta là văn minh bởi vì nó là một tổ chức chính trị chân chính, trung
thực, trung thành, quang minh chính đại, chung thuỷ, trước sau như một đều
nhất quán một tinh thần yêu chuộng hoà bình, tôn trọng công lý và chính nghĩa,
vì độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào mình và có quan hệ chân
thành, bình đẳng, hữu nghị, hợp tác cùng có lợi với các dân tộc và tất cả các

quốc gia trên thế giới. Đảng văn minh là bởi Đảng kiên quyết cự tuyệt thói cơ
hội, mị dân, giáo điều, bảo thủ, dối trá, lừa gạt, thất tín, tiền hậu bất nhất, nói
không đi đôi với làm, nói một đằng làm một nẻo…
Đảng ta là văn minh là bởi vì Đảng là một tổ chức cách mạng, kiên trì cải
tạo xã hội cũ, phá bỏ mọi cái lạc hậu; kiên trì chống lại cuộc sống mất nhân tính;
4
nó nhân danh chính nghĩa và vì chính nghĩa mà chống phi nghĩa, tức là đấu
tranh chống mọi biểu hiện của cái ác. Vì vậy, bản thân Đảng là một lực lượng
tiên tiến, là bộ phận tinh hoa của xã hội, là một tập thể đại diện cho văn minh và
nhân danh văn minh để chống dã man, tàn bạo.
Đảng ta là văn minh là bởi vì bản chất của Đảng, mục tiêu lý tưởng của
Đảng không phải chỉ nhằm đập tan, phá bỏ cái cũ xấu xa, lạc hậu mà chủ yếu là
kiến tạo và dựng xây một xã hội mới tốt đẹp, nhân đạo hoàn bị tiến tới một nền
văn minh mới – văn minh cộng sản chủ nghĩa.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
đang được thực hiện sâu rộng trong Đảng và trong toàn xã hội sẽ thúc đẩy bước
chuyển biến mới trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tăng cường sự
thống nhất đoàn kết trong Đảng, làm cho Đảng ngày càng vững mạnh và trong
sạch, đủ sức lãnh đạo và tổ chức nhân dân vượt qua mọi khó khăn, thử thách,
đưa đất nước ngày càng giàu mạnh, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân.
Nước ta trước đây là một thuộc địa, giai cấp tư sản dân tộc vốn đã nhỏ bé
lại bị đế quốc và phong kiến chèn ép, không thể ngóc đầu lên. Cho nên số đông
họ đã đi theo nhân dân lao động chống đế quốc phong kiến, đã tham gia kháng
chiến. Đó là mặt ưu điểm của họ. Nhưng do bản chất giai cấp của họ, họ vẫn
luyến tiếc cách bóc lột và muốn phát triển theo chủ nghĩa tư bản. Nhưng trong
điều kiện miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, ý nguyện của họ không thể nào
thực hiện được. Họ thấy phải tiếp thụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, vì họ không thể
tự đặt mình ra ngoài đại gia đình toàn dân Việt Nam. Và đại đa số người tư sản
dân tộc đã thấy rõ rằng: thật thà tiếp thụ cải tạo thì họ được hoà mình với nhân
dân lao động để xây dựng Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là con đường

duy nhất và vẻ vang của họ.
- Đảng ta luôn luôn đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản, tuyệt đối
trung thành với lợi ích của giai cấp và của nhân dân, biết vận dụng lý luận Mác
- Lênin vào tình hình thực tế của nước ta và đề ra đường lối, chính sách đúng
đắn. Đảng ta không ngừng đấu tranh chống những khuynh hướng cải lương của
giai cấp tư sản và những khuynh hướng manh động của tầng lớp tiểu tư sản
5
trong phong trào dân tộc; chống luận điệu "tả" của bọn tơrốtxkít trong phong
trào công nhân; chống những khuynh hướng hữu và "tả" trong Đảng khi quy
định và chấp hành chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng ở mỗi thời kỳ.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp Đảng vượt qua những trận thử thách ấy. Nhờ
vậy, Đảng ta không những đã giành được quyền lãnh đạo cách mạng trong cả
nước, mà còn giữ vững được quyền lãnh đạo đó trên mọi lĩnh vực và đập tan
được mọi âm mưu của giai cấp tư sản hòng tranh quyền lãnh đạo cách mạng với
Đảng ta.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp Đảng ta thấy rõ rằng trong điều kiện một
nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta thì vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề
nông dân, cách mạng dân tộc thực chất là cách mạng của nông dân do giai cấp
công nhân lãnh đạo và chính quyền nhân dân thực chất là chính quyền của công
nông. Vì vậy, trải qua các thời kỳ, Đảng ta đã nắm vững và giải quyết đúng đắn
vấn đề nông dân, củng cố được liên minh công nông. Đảng ta đã đấu tranh
chống những xu hướng hữu khuynh và "tả" khuynh đánh giá thấp vai trò của
nông dân là quân chủ lực của cách mạng, là bạn đồng minh chủ yếu và tin cậy
nhất của giai cấp công nhân, là lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh nghiệm của Đảng ta trong quá trình cách mạng
đã chỉ rõ là nơi nào, lúc nào cán bộ ta giải quyết tốt lợi ích thiết thân của nông
dân, nắm vững nguyên tắc liên minh công nông, thì nơi đó, lúc đó cách mạng
đều tiến mạnh. Theo Hồ Chí Minh, lý luận tiền phong của Đảng chính là Chủ
nghĩa Mác - Lênin. Người tổng kết “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa

Lênin”
4
. Trong bài “Chủ nghĩa Lênin và công cuộc giải phóng các dân tộc bị áp
bức” (4-1955), Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lênin đã để lại cho chúng tôi một
kho tàng quý báu vô ngần: học thuyết của Người về cơ sở tư tưởng, về những
nguyên tắc tổ chức, về lý luận và sách lược của đảng cách mạng. Chủ nghĩa
Lênin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng chúng tôi, làm cho Đảng
chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động,
4
. Sđd, Tập 2, tr. 268.
6
hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi”
5
.
- Đảng ta đã khéo tập hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ trong Mặt
trận dân tộc thống nhất, thực hiện đoàn kết dân tộc để đấu tranh chống đế quốc
và phong kiến. Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho
nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất. Trong quá
trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn
luôn đấu tranh trên hai mặt trận chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ
việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống
khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức
trong nội bộ Mặt trận. Kinh nghiệm 30 năm của Đảng ta trong công tác đoàn kết
dân tộc đã chứng tỏ rằng cần phải đấu tranh trên hai mặt trận như thế, thì vai trò
lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận dân tộc thống nhất mới được đảm bảo, nền
tảng công nông của Mặt trận mới được vững chắc, tính chất rộng rãi của Mặt
trận mới được phát huy đầy đủ.
Đảng ta trưởng thành trong hoàn cảnh Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng
Mười Nga đã thành công. Mọi thắng lợi của Đảng ta và của nhân dân ta không
thể tách rời sự ủng hộ nhiệt tình của Liên Xô, Trung Quốc và cả phe xã hội chủ

nghĩa, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào hoà bình
và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Ngay sau khi Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, trong
“Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà” (17-9-1945), Người đã nhắc nhở cán bộ, đảng
viên phải “đề phòng hủ hoá”, “lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành,
độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư”
6
. Chính vì đã biết kết hợp phong trào cách
mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và của
các dân tộc bị áp bức, mà Đảng ta đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp
công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang ngày này. Tiếp đó, trong
“Thư gửi uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng” (10-1945), Người đã chỉ
5
. Sđd, Tập 7, tr. 517.
6
. Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2000, tập 4, tr.21.
7
rõ: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”
7
; bởi thế cán bộ phải tránh thói cậy thế, cửa quyền, ức hiếp
dân. Người cảnh báo cán bộ, đảng viên phải tránh “ngày càng xa xỉ”. Trong bài
“Công việc khẩn cấp bây giờ” (5-11-1946), Người tiếp tục chỉ rõ “cần phải rửa
sạch những thói hẹp hòi, phu diễn (phô trương, hình thức - BT), tự đại, ỷ lại,
lười biếng, nhút nhát, hủ hoá”
8
. Trong “Thư gửi các đồng chí Bắc bộ” (1947),
người tiếp tục nhấn mạnh: cán bộ, đảng viên phải chống thói ích kỷ, hủ hoá, tự
cao tự đại, tính kêu ngạo, tự mãn. Mỗi cán bộ, đảng viên phải có thái độ khiêm

tốn, “càng cựu, càng giỏi, càng phải khiêm tốn, phải có lòng cầu tiến bộ”.
Chúng ta luôn luôn ghi nhớ công lao to lớn của Đảng Cộng sản Liên Xô,
Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Pháp đã nhiệt tình giúp đỡ Đảng ta
và dân ta trong cuộc đấu tranh cách mạng.
Từ nay về sau, trên con đường tiến lên giành những thắng lợi mới trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước
nhà, Đảng ta sẽ luôn luôn giữ vững và tích cực góp phần củng cố tình đoàn kết
quốc tế của giai cấp công nhân, tăng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa do
Liên Xô đứng đầu ra sức giáo dục cho nhân dân ta thấm nhuần sâu sắc tinh thần
quốc tế xã hội chủ nghĩa kết hợp chặt chẽ với tinh thần yêu nước, liên hệ cách
mạng nước ta với phong trào của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên
thế giới đấu tranh cho hoà bình, dân chủ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng Đảng luôn là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng
của Đảng. Sự nghiệp đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc trước đây,
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới ngày nay luôn
đòi hỏi Đảng phải trong sạch, vững mạnh, có tầm cao trí tuệ, sức chiến đấu, đủ
năng lực lãnh đạo, đáp ứng tốt yêu cầu của mỗi giai đoạn cách mạng.
- Trong cuộc đấu tranh giữa CNXH và CNTB, giữa cách mạng và phản
7
. Sđd, Tập 4, tr.56.
8
. Sđd, Tập 4, tr.433.
8
cách mạng, vấn đề trọng tâm, lĩnh vực diễn ra gay gắt nhất, quyết liệt nhất là vai
trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và công tác xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng ta
trong sạch, vững mạnh có ý nghĩa quyết định đến việc bảo vệ chế độ chính trị,
con đường phát triển đất nước lên CNXH với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Tư tưởng xây dựng Đảng của chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa soi đường
cho Đảng ta xây dựng và trưởng thành. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

về xây dựng Đảng hiện nay có ý nghĩa thực tiễn và lý luận sâu sắc, góp phần xây
dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, qua đó làm tăng thêm niềm tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường phát triển của đất nước.
Chúng ta luôn khẳng định những giá trị tư tưởng, văn hoá, đạo đức của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh có giá trị
trường tồn và là vốn quý của Đảng ta, của dân tộc và nhân loại. Do vậy, mỗi cán
bộ, đảng viên cần thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập và làm theo tấm
gương của Bác ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi công việc, học suốt đời chứ không
chỉ là học mỗi ngày, mỗi năm hay trong nhiệm kỳ. Đồng chí cho rằng, việc học
tập, làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ mang ý nghĩa đối với
cán bộ, đảng viên mà còn là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết để góp phần xây
dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, việc gì có lợi cho dân phải làm,
việc gì không có lợi cho dân phải hết sức tránh.
Tuy nhiên, vẫn có những điều mà Bác đã căn dặn, nhắc nhở các Đảng viên,
trong quá trình xây dựng Đảng ta.
Đảng ta hy sinh tranh đấu, đoàn kết, lãnh đạo nhân dân, tranh lại thống nhất
và độc lập. Công việc đã có kết quả vẻ vang.
Nhưng, nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì
thành tích của Đảng còn to tát hơn nữa.
9
Cán bộ và đảng viên làm việc không đúng, không khéo, thì còn nhiều
khuyết điểm. Khuyết điểm nhiều thì thành tích ít. Khuyết điểm ít thì thành tích
nhiều.
Đó là lẽ tất nhiên.
Vì vậy, ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người
mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy
khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải
như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công.
Nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của ta, thì cũng như giấu giếm
tật bệnh trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm,

nguy đến tính mệnh.
Khuyết điểm có nhiều thứ. Chúng ta có thể chia tất cả các khuyết điểm vào
ba hạng:
- Khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan.
- Khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng với ngoài Đảng, tức là bệnh hẹp
hòi.
- Khuyết điểm về cách nói và cách viết, tức là ba hoa.
Đó là ba chứng bệnh rất nguy hiểm. Nếu không chữa ngay, để nó lây ra, thì
có hại vô cùng.
A- BỆNH CHỦ QUAN
Mỗi chứng bệnh sinh ra do nhiều nguyên nhân. Nhưng kết quả nó đều làm
cho người ta ốm yếu. Nguyên nhân của bệnh chủ quan là: Kém lý luận, hoặc
khinh lý luận, hoặc lý luận suông.
Trước hết, ta phải hiểu lý luận là gì?
Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc
tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại
đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính.
Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong
công việc thực tế.
10
Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi.
Hiện nay, phong trào cách mạng rất cao. Nhưng thử hỏi cán bộ và đảng
viên ta đã mấy người biết rõ lý luận và biết áp dụng vào chính trị, quân sự, kinh
tế, và văn hoá? Đã mấy người hiểu "biện chứng" là cái gì?
Vì kém lý luận, cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc
cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan,
ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại.
Đó là chứng kém lý luận trong bệnh chủ quan.
Có những cán bộ, những đảng viên cũ, làm được việc, có kinh nghiệm. Cố
nhiên, những anh em đó rất quý báu cho Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh

khinh lý luận. Họ quên rằng: nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận
thì công việc tốt hơn nhiều. Họ quên rằng: kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng
cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi.
Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ.
Những anh em đó, cần phải nghiên cứu thêm lý luận, mới thành người cán
bộ hoàn toàn.
Có những người xem được sách, xem nhiều sách. Siêng xem sách và xem
nhiều sách là một việc đáng quý. Nhưng thế không phải đã là biết lý luận.
Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng
vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lý luận,
nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách.
Xem nhiều sách để mà loè, để làm ra ta đây, thế không phải là biết lý luận.
Những anh em đó cần phải ra sức thực hành mới thành người biết lý luận.
Nói tóm lại, mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận
áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và
lý luận suông.
Đây phải nói rõ vấn đề trí thức.
Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý
báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn
thêm nhiều.
11
Nhưng có đôi người trí thức vì thế mà kiêu ngạo, lên mặt. Chứng kiêu ngạo
lên mặt rất có hại cho họ. Nó ngăn trở họ tiến bộ.
Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu
biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh
đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó,
không có trí thức nào khác.Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức.
Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không
biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế
là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí

thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí
thức đó áp dụng vào thực tế.
Vì vậy, những người trí thức đó cần phải biết rõ cái khuyết điểm của mình.
Phải khiêm tốn. Chớ kiêu ngạo. Phải ra sức làm các việc thực tế.Lý luận phải
đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên
(hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn,
hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên.
Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem loè thiên hạ
thì lý luận ấy cũng vô ích.
Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành.
B- BỆNH HẸP HÒI
Bệnh này rất nguy hiểm, mà nhiều cán bộ và đảng viên còn mắc phải.
Trong, thì bệnh này ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết.
Ngoài, thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân.
Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá
nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ
hoá,v.v., đều do bệnh hẹp hòi mà ra!
Có những cán bộ chỉ thấy lợi ích bộ phận của mình, không thấy lợi ích của
toàn thể, muốn đem lợi ích của toàn thể phục tùng lợi ích của bộ phận mình. Họ
quên hẳn cái chế độ dân chủ tập trung. Họ quên rằng thiểu số phải phục tùng đa
số, hạ cấp phải phục tùng thượng cấp, bộ phận phải phục tùng toàn thể.
12
Chúng ta phải kiên quyết chữa ngay bệnh ấy, mỗi một đảng viên, mỗi một
bộ phận, mỗi một lời nói, việc làm, tuyệt đối phải nhằm vào lợi ích của toàn
cuộc, lợi ích của toàn Đảng.
Vì ham danh vọng và địa vị, cho nên khi phụ trách một bộ phận nào, thì lôi
người này, kéo người khác, ưa ai thì kéo vào, không ưa thì tìm cách tẩy ra. Thế
là chỉ biết có mình, chỉ biết có bộ phận mình mà quên cả Đảng. Đó là một thứ
bệnh hẹp hòi, trái hẳn với nguyên tắc tập trung và thống nhất của Đảng.
Cũng vì bệnh hẹp hòi đó mà cán bộ cấp trên phái đến và cán bộ địa

phương không đoàn kết chặt chẽ.
Phải biết rằng: chỉ có hai hạng cán bộ đó đoàn kết chặt chẽ và chỉ có cán bộ
địa phương ngày càng thêm nhiều, thì nền tảng của Đảng mới phát triển và vững
vàng. Cán bộ phái đến, trình độ thường cao hơn, kinh nghiệm nhiều hơn. Nhưng
cán bộ địa phương lại biết rõ nhân dân, quen thuộc công việc hơn. Hai hạng cán
bộ phải giúp đỡ nhau, bồi đắp nhau, thì công việc mới chạy.
Vì bệnh hẹp hòi mà cán bộ phái đến thường kiêu ngạo, khinh rẻ cán bộ địa
phương, cho họ là dốt kém. Thành thử không thân mật hợp tác.
Từ nay, hễ có việc lôi thôi như thế nữa, thì cán bộ phái đến phải chịu lỗi
nặng hơn, nhất là những cán bộ lãnh đạo.
Hai hạng cán bộ phải kết thành một khối, không phân biệt, không kèn cựa.
Phải cùng nhau chữa cho tiệt cái nọc bệnh hẹp hòi.
Cán bộ quân sự với cán bộ địa phương cũng vậy, phải đoàn kết nhất trí,
giúp đỡ lẫn nhau.
Cán bộ quân sự trong một địa phương thường giữ địa vị lãnh đạo và có
quyền lực trong tay. Vì vậy, nếu từ nay còn có sự không hoà thuận giữa hai bên,
thì cán bộ quân sự phải chịu lỗi lớn hơn.
Bộ đội này với bộ đội khác, địa phương này với địa phương khác, cơ quan
này với cơ quan khác, đều phải phản đối bệnh ích kỷ, bệnh địa phương. Thí dụ:
không muốn cấp trên điều động cán bộ, hoặc khi điều động thì chỉ đùn những
cán bộ kém ra. Có vật liệu gì dù mình có thừa, hoặc không cần đến, cũng thu
giấu đi, không cho cấp trên biết, không muốn chia sẻ cho nơi khác.
13
Bệnh địa phương đó, phải tẩy cho sạch.
Lại còn vấn đề cán bộ cũ và cán bộ mới.
Đảng càng phát triển thì cần đến cán bộ mới càng nhiều.
Vả chăng, số cán bộ cũ có ít, không đủ cho Đảng dùng. Đồng thời, theo
luật tự nhiên, già thì phải yếu, yếu thì phải chết. Nếu không có cán bộ mới thế
vào, thì ai gánh vác công việc của Đảng.
Vì vậy, cán bộ cũ phải hoan nghênh, dạy bảo, dìu dắt, yêu mến cán bộ mới.

Cố nhiên cán bộ mới, vì công tác chưa lâu, kinh nghiệm còn ít, có nhiều khuyết
điểm. Nhưng họ lại có những ưu điểm hơn cán bộ cũ: họ nhanh nhẹn hơn,
thường giàu sáng kiến hơn.
Vì vậy, hai bên phải tôn trọng nhau, giúp đỡ nhau, học lẫn nhau, đoàn kết
chặt chẽ với nhau.
Cán bộ cũ thường giữ địa vị lãnh đạo. Vì vậy, nếu từ nay, quan hệ giữa hai
hạng cán bộ ấy không ổn thoả, thì cán bộ cũ phải chịu trách nhiệm nhiều hơn.
Như thế mới chữa khỏi bệnh hẹp hòi.
Từ trước đến nay, vì bệnh hẹp hòi mà có những sự lủng củng giữa bộ phận
và toàn cuộc, đảng viên với Đảng, cán bộ địa phương và cán bộ phái đến, cán bộ
quân sự và cán bộ "mặt trận", cán bộ mới và cán bộ cũ, cơ quan này và cơ quan
khác, bộ đội này và bộ đội khác, địa phương này và địa phương khác.
Vậy từ nay, chúng ta phải tẩy cho sạch cái bệnh nguy hiểm đó, khiến cho
Đảng hoàn toàn nhất trí, hoàn toàn đoàn kết.
Bệnh hẹp hòi đối ngoại.
Có nhiều đồng chí có bệnh tự tôn, tự đại, khinh rẻ người ta, không muốn biết,
muốn học những ưu điểm của người khác. Biết được vài câu lý luận đã cho mình là
giỏi, không xem ai ra gì, tưởng mình là hơn hết. Đó là bệnh hẹp hòi hạng nặng.
Họ quên rằng: chỉ đoàn kết trong Đảng, cách mạng cũng không thành công
được, còn phải đoàn kết nhân dân cả nước. Họ quên rằng: so với số nhân dân thì
số đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một người đảng viên.
Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết.
Vì vậy ta cần phải hợp tác với những người ngoài Đảng. Ta không được
khinh rẻ họ, chê bai họ. Ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được
rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại.
14
Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết dùng nhân tài, việc gì cũng ôm lấy
hết. Ôm lấy hết thì cố nhiên làm không nổi.
Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết cách xử trí khôn khéo với các hạng
đồng bào (như tôn giáo, quốc dân thiểu số, anh em trí thức, các quan lại cũ,

v.v.).
Từ nay, mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, phải kiên quyết chữa cái bệnh hẹp hòi
đó để thực hành chính sách đại đoàn kết. Chính sách thành công thì kháng chiến
mới dễ thắng lợi.
Bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi, v.v., mỗi chứng bệnh là một kẻ
địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch
bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong
phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phòng những kẻ địch đó, phải chữa hết những
chứng bệnh đó.
Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi:
Vì sao có vấn đề này?
Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao?
Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp
sao làm vậy.
Để chữa khỏi những bệnh kia, ta phải tự phê bình ráo riết, và phải lấy lòng
thân ái, lấy lòng thành thật, mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải
đi đôi với nhau.
Trong lúc phê bình, khuyết điểm phải vạch ra rõ ràng, mà ưu điểm cũng
phải nhắc đến. Một mặt là để sửa chữa cho nhau. Một mặt là để khuyến khích
nhau, bắt chước nhau.
Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự
sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có
bệnh mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng.
Hội nghị Trung ương (6 lần 2) Khoá VIII chỉ rõ sự suy thoái về đạo đức lối
sống của một bộ phận cán bộ đảng viên đang là vấn đề bức xúc nhất đối với xã
hội ta. Từ thực tiễn như vậy Đảng ta đã mở cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn
Đảng; tiến hành tự phê bình và phê bình trong các cấp uỷ , tổ chức đảng và cán
15
bộ chủ chốt từ Trung ương đến cơ sở. Qua thời gian thực hiện cuộc vận động đã
thu được một số kết quả và kinh nghiệm bước đầu. Trong công tác xây dựng

Đảng bên cạnh những ưu điểm, đang nổi lên một số vấn đề yếu kém và khuyết
điểm, nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Tại Đại hội IX, Đảng ta đánh giá một trong những nguy cơ thách thức của
đất nước ta hiện nay là: "tình trạng tham nhũng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm
trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong
nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta". Đại
hội X chỉ rõ: "tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh
cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ
phận cán bộ công chức diễn ra nghiêm trọng”. Sở dĩ có tình trạng suy thoái về
đạo đức lối sống như vậy là do các nguyên nhân:
Một là: trong điều kiện mới, một bộ phận cán bộ, đảng viên mắc chủ nghĩa
cá nhân, sống buông thả, thiếu tự giác rèn luyện tu dưỡng, trong khi đó sự giáo
dục, quản lý, kiểm tra của các tổ chức đảng, trước hết là các chi bộ và cấp uỷ lại
lỏng lẻo.
Hai là: Nhiều tổ chức Đảng coi nhẹ công tác giáo dục đạo đức cách mạng
cho cán bộ đảng viên, thiếu những hình thức biện pháp quản lý, kiểm tra việc
rèn luyện của cán bộ, đảng viên , xử lý chưa kịp thời, thiếu nghiêm minh khi có
vi phạm.
Ba là: trong điều kiện đảng cầm quyền , một số cán bộ, đảng viên "cơ hội"
không chịu rèn luyện phẩm chất của người cộng sản đã biến ""quyền lực thành
lợi ích vật chất cá nhân, sống trên dân, xa cách dân.
Bốn là: mặt trái của cơ chế thị trường và mở cửa đang hàng ngày hàng giờ
tác động đến tư tưởng tình cảm của cán bộ đảng viên trong khi chế độ chính
sách đãi ngộ, nhất là chính sách tiền lương bảo đảm cho cán bộ công chức còn
nhiều bất cập.
Năm là: các thế lực thù địch ráo riết thực hiện chiến lược diễn biến hoà
bình, bằng mọi âm mưu thủ đoạn tinh vi và thâm độc: dùng tiền, gái làm tha
hoá cán bộ đảng viên, hòng thực hiện những âm mưu, ý đồ thâm độc của chúng.
Sự hư hỏng cán bộ đã dẫn đến 40.000 Đảng viên bị kỷ luật trong một

16
nhiệm kỳ đại hội, trong đó số cán bộ do Ban chấp hành trung ương, Bộ Chính
trị, Ban bí thư đã kỷ luật là 114, có 12 ủy viên trung ương Đảng. Chỉ riêng vụ án
Năm Cam đã có 17 Đảng viên bị phạt tù, trong đó có người từng giữ những
cương vị quan trọng trong bộ máy công quyền. Vụ xảy ra ở PMU 18 dẫn đến Bộ
trưởng phải từ chức và thứ trưởng bị khởi tố điều tra.
Tóm lại, có thể nói tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, về phẩm chất
đạo đức, lối sống dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, Đảng viên diễn ra nghiêm trọng làm cho
nhân dân bất bình, lo lắng, giảm lòng tin đối với Đảng, nhà nước, là nhân tố kìm
hãm bước tiến của công cuộc đổi mới và vẫn là nguy cơ, hiểm họa lớn đe dọa sự
tồn vong của Đảng, chế độ ta.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta xác định trong những
năm tới toàn Đảng tiếp tục thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII về xây dựng ,chỉnh đốn Đảng. Nghị
quyết Đại hội X chỉ rõ: "Tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức lối sống, nâng
cao tính tiền phong gương mẫu, phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ,
Đảng viên”
9
. Trong điều kiện hiện nay để đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng
thật sự vững mạnh có đủ năng lực và phẩm chất ngang tầm với bản chất cách
mạng của một đảng cầm quyền trong sự nghiệp đổi mới cần tập trung làm tốt
những nội dung cơ bản sau:
Một là: mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự rèn luyện, tu dưỡng
về đạo đức lối sống thực hiện tốt tư tưởng của Hồ Chủ tịch cần kiệm, liêm
chính, chí công, vô tư. Chấp hành nghiêm túc điều lệ Đảng, pháp luật nhà nước,
gương mẫu giữ gìn phẩm chất đạo đức người đảng viên cộng sản trong điều kiện
và môi trường mới.
Hai là: Phải thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình theo
phương châm từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài và lấy ý

kiến của quần chúng trong cơ quan đơn vị và ý kiến của nhân dân trong khu dân
cư nơi cán bộ đảng viên cư trú góp ý kiến phê bình cán bộ đảng viên.
Ba là: Không ngừng hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật, trước hết
là về mặt kinh tế nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế
9
. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, HN 2006, Tr 280.
17
thị trường và hội nhập. Giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, các
bộ phận, các tầng lớp, các ngành nghề trong xã hội
Bốn là: Tập trung chỉ đạo đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng,
quan liêu, tiêu cực làm trong sạch đội ngũ đảng viên.
Năm là: Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nhân rộng các điển hình tiên tiến,
tuyên truyền kịp thời những gương người tốt, việc tốt, lên án cái xấu, cái ác, tích
cực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí quan liêu và các tệ nạn xã hội khác.
Sáu là: các cấp uỷ đảng và chi bộ phải nắm chắc tình hình mọi mặt của
đảng viên cán bộ được quản lý, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong
lãnh đạo và quản lý rèn luyện cán bộ đảng viên, phát huy dân chủ trong quản lý
và giám sát, kiểm tra.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, xây dựng công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước, những yêu cầu về đạo đức đối với cán bộ, đảng viên đòi hỏi phải được
tăng cường rèn luyện, tu dưỡng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Có đạo đức
cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi
bước. Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và
của loài người mà không ngần ngại hy sinh lợi ích riêng của ác nhân mình. Đó là
biểu hiện cao quý của đạo đức cách mạng. Bác nói: Có đạo đức thì khi gặp
thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, “lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt, chứ không
tính toán, kèn cựa để hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu
ngạo, hủ hoá. Người còn nói: Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.

Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.
18

×