Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Vẻ đẹp nhân cách Tú Xương qua bài thơ Thương vợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.32 KB, 24 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

Vẻ đẹp nhân cách Tú Xương trong bài thơ Thương vợ Ngữ văn 11
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Trình bày những nét khái quát về tác giả Trần Tế Xương: một ánh sao lạ vụt
sáng trên bầu trời văn chương nước Việt với những bài thơ mang tư tưởng li tâm
Nho giáo
- Thương vợ là một bài thơ tiêu biểu của Trần Tế Xương. Không chỉ thể hiện
thành cơng hình tượng trung tâm là bà Tú mà bài thơ cũng đặc biệt thành cơng
hình ảnh ơng Tú với những phẩm chất đáng quý
II. Thân bài
1. Ông Tú là người có tấm lịng thương vợ sâu sắc
• Ơng Tú cảm thương cho sự vất vả, lam lũ của bà Tú
- Ơng thương bà Tú vì phải mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom
sơng”:
+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào
+ Địa điểm “mom sơng”:phần đất nhơ ra phía lịng sơng khơng ổn định.
⇒ Ơng Tú thương hồn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn
định, bà không những phỉ ni cịn mà phải ni chồng
- Ơng thương vợ khi phải lặn lội bươn chải khi làm việc:
+ “Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng
+ Hình ảnh “thân cị”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn + khi quãng vắng:
thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu
+ “Eo sèo… buổi đị đơng”: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất
trắc + Buổi đị đơng: Sự chen lấn, xơ đẩy trong hồn cảnh đơng đúc cũng chứa
đầy những sự nguy hiểm, lo âu
⇒ Tấm lịng thương xót da diết của ơng Tú trước thực cảnh mưu sinh của bà Tú
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188




Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

• Ơng phát hiện và trân trọng, ngợi ca những đức tính tốt đẹp của vợ
- Ơng cảm phục bởi tuy vất vả nhưng bà Tú vẫn chu đáo với chồng con :
+ “ni”: chăm sóc hồn tồn
+ “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải ni cả gia đình, khơng
thiếu
- Ơng Tú trân trọng sự chăm chỉ, tần tảo đảm đang của vợ:
+ “Một duyên hai nợ âu đành phận”: chấp nhận, không than vãn
+ “dám quản công”: Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, sự tần tảo,
đảm đang, nhẫn nại.
⇒ Trần Tế Xương đã trân trọng đề cao phẩm chất cao đẹp của bà Tú: đức tính
chịu thương chịu khó, hết lịng vì chồng vì con của bà Tú
2. Ơng ý thức được bản thân là gánh nặng của vợ và căm phẫn trước xã hội đẩy
người phụ nữ vào bất cơng
• Người đàn ơng trong xã hội phong kiến đáng lẽ ra phải có sự nghiệp hiển hách
để lo cho vợ con, nhưng ở đây, ông Tú ý thức được bản thân là gánh nặng của
vợ
+ “Nuôi đủ năm con với một chồng” : Tú Xương ý thức được hồn ảnh của
mình, nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải ni con và
chồng coi mình là một đứa con đặc biệt
+ “Một duyên hai nợ”: Tú Xương cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú
phải gánh chịu
+ “Có chồng hờ hững cũng như không”: Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình
cũng là một biểu hiện của thói đời
+ Từ tấm lịng thương vợ, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen bạc đẩy người
phụ nữ vào bất công

+ “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”: tố cáo hiện thực, xã hội q bất cơng với người
phụ nữ, q bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

⇒ Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi, ơng căm phẫn
xã hội đẩy người phụ nữ vào ngang trái bất công
III. Kết bài
- Khẳng định lại những nét nghệ thuật tiêu biểu góp phần thể hiện thành cơng
hình ảnh ơng Tú
- Trình bày suy nghĩ bản thân
Bài tham khảo 1
Thơ xưa viết về người vợ đã ít mà viết về vợ khi đang còn sống lại càng
hiếm hoi hơn. Các thi nhân chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời, kể
cũng là điều nghiệt ngã, khi người vợ đi vào thiên thư mới được đi vào địa hạt
thi ca. Bà Tú có thể đã chịu nghiệt ngã của cuộc đời nhưng lại có được niềm
hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa khơng có được. Ngay lúc cịn sống, bà đã
đi vào thơ ông với tất cả niềm yêu thương, trân trọng của chồng. Ông Tú phải
thương vợ lắm thì mới hiểu và viết được như thế. Trong thơ ơng ta bắt gặp hình
ảnh bà Tú hiện lên phía trước, ơng Tú khuất lấp theo sau.
Trong bài thơ, hình ảnh bà Tú hiện lên rõ nét qua những nét hoạ của Tú
Xương, nhưng để làm được điều đó hẳn ông phải là một người chồng yêu
thương và hiểu vợ rất nhiều. Ơng ln giõi theo những bước đi đầy gian truân
của bà Tú, thương nhưng chẳng biết lằm gì, chỉ biết thể hiện nó qua thơ ca.
Bằng những lời thơ chân chất, mộc mạc chân thành, tú Xương đã khắc học rõ
nét hình ảnh bà Tú với lịng yêu thương da diết. Mỗi chữ trong thơ Tú Xương

đều chất chứa bao tình ý, u thương và lịng cảm phục sâu sắc:
Nuôi đủ năm con với một chồng
Từ đủ trong ni đủ vừa nói rõ số lượng, vừa nới chất lượng. bà Tú nuôi cả
con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến mức: “Cơm hai bữa cá kho rau muống. Quà
một chiều: khoai lang, lúa ngô Tuy chỉ ẩn hiện đằng sau hình ảnh bà Tú, khó
thấy, nhưng khi đã thấy rồi thì ấn tượng thật sâu đậm, ở đây cũng vậy, ông Tú
không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện qua từng câu thơ. Đằng sau cốt
cách khôi hài, trào phúng là một tấm lịng khơng chỉ thương mà còn là tri ân vợ.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

Có người cho rằng, trong câu thơ trên, ông Tú tự coi mình là một đứa con đặc
biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nới mà tách
riêng rặch rịi là để ông tự riêng tri ân vợ. Nhà thơ không chỉ cảm phục biết ơn
sự hi sinh rất mực của vợ mà ơng cịn tự trách mình, tự lên án bản thân. ông
không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú laays ông là do duyên,
nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải
gánh chịu. Nợ gấp đôi dun, dun ít, nợ nhiều. Ơng chủi thói đời bạc bẽo, vì
thói đời là một ngun nhân sau xa khiến bà Tú phải khổ, sự hờ hững của ong
với vợ con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo.
Ở cái xã hội đã có luật bất thành văn đối với người phục nữ: Xuất giá tòng
phu, đối với quan hệ vợ chồng thì phu xướng, phụ tuỳ thế mà có một nhà thơ
dám sịng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là quân ăn
bám vợ, khơng những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn giám tự nhận khuyết
điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao. Nhan đề Thương vợ chưa nới
hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện

đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của tâm hồn Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả khơng chỉ
biết thương vợ mà cịn biết ơn vợ. khơng chỉ đẻ lên án thói đời mà còn là để
trách bản thân. Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm
khuyết, càng thương yêu, quya trọng vợ hơn.
Tình yêu thương, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những
cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xú mới mẻ đó lại được diễn tả
bằng hình ảnh và ngơn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ
Tú Xương vừa mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu
xa trong tâm thức dân tộc.
Bài tham khảo 2
Tú Xương có nhiều vần thơ, phú nói về vợ. Bà Tú vốn là “con gái nhà
dòng, lấy chồng kẻ chợ”. một người con dâu giỏi làm ăn buôn bán, hiền lành
được bà con xa gần mến trọng
Nhờ thế mà ông Tú mới được sống cuộc đời phong lưu: “Tiền bạc phó cho
con mụ kiếm - Ngựa xe chẳng lúc nào ngơi”.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

“Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú
Xương. Nó là bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là bài thơ thế sự. Bài thơ chứa
chan tình thương yêu nồng hậu của ông Tú đối với người vợ hiền thảo của mình.
Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh của bà Tú trong gia đình và ngồi cuộc
đời - hình ảnh chân thực về một người vợ tần tảo, một người mẹ đôn hậu, giàu
đức hi sinh.
Hai câu thơ trong phần đề giớí thiệu bà Tú là một người vợ rất đảm đang,
chịu thương chịu khó. Nếu như bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay

lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, chân nam đá chân chiêu, vì tớ
đần trong mọi việc” (câu đối của Nguyễn Khuyến thì bà Tú là một người đàn bà
“Quanh năm buôn bán” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua
ngày khác, từ tháng này qua tháng khác… không được một ngày nghỉ ngơi. Bà
Tú “Buôn bán ở mom sông”, nơi cái mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước;
nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc đời
nhiều mưa nắng, một cảnh đời cơ cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “Nuôi đủ
năm con với một chồng”. Một gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ,
người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc… chứ ai
“đếm” con, “đếm” chồng(!). Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một
gia đình gặp nhiều khó khăn: đơng con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”.
Có thể nói, hai câu đầu, Tú Xương ghi lại một cách chân thực người vợ tần
tảo, đảm đang của mình.
Phần thực tô đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn
lội” làm ăn như “thân cị” nơi “qng vắng”. Ngơn ngữ thơ tăng cấp tơ đậm
thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp
nhau, bổ trợ và gia tăng: đã “lặn lội” lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”.
Nỗi cực nhọc kiếm sống ở “mom sông” tưởng như khơng thể nào nói hết được!
Hình ảnh “con cò”, “cái cò” trong ca dao cổ: “Con cò lặn lội bờ sơng…”, “con
cị đi đón cơn mưa…”, “Cái cị, cái vạc, cái nông…” được tái hiện trong thơ Tú
Xương qua hình ảnh “thân cị” lầm lũi đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng
cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ… của người phụ nữ
Việt Nam trong xã hội cũ
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí


“Eo sèo” từ láy tượng thanh chỉ sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai
dẳng; gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đị
đơng”. Một cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối
đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú
kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng” phải “lặn lội”trong mưa nắng, phải
giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hơi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn!
“Dun” là dun số, duyên phận, “nợ” là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam
phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả và khổ cực. Các số
từ trong câu thơ tăng dần lên: “một … hai… năm… mười…” làm nổi rõ đức hy
sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương chịu khó vì sự ấm no
hạnh phúc của chồng con và gia đình. “Âu đành phận”.. dám quản cơng”…
giọng thơ nhiều xót xa thương cảm.
Tóm lại, sáu câu thơ đầu, bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã
phác hoạ một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ
hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm dang, tần tảo, chịu thương,
chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện bút pháp
điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ,
phép đối, đảo ngữ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và hình ảnh “thân cị”… đã tạo
nên ấn tượng và sức hấp dẫn của văn chương.
Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom
sơng”, lúc “buổi đị đơng” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ơng tự trách mình
“ăn lương vợ” mà “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích
được gì, vơ tích sự, thậm chí cịn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách sao mà
chua xót thế!
Bài tham khảo 3
Nguyễn Khuyến khi viết về Tú Xương đã dùng những vần thơ đầy cảm xúc:
“Kìa ai chín suối xương khơng nát
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn cịn”

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242

6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

Đó là sự cịn lại của một tài năng nghệ thuật, một tâm hồn, một nhân cách lớn
trong nền văn học trung đại nói riêng cũng như văn học Việt Nam nói chung: Trần
Tế Xương.
Tú Xương sống trong thời kỳ mà bức tranh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX là
một bức tranh xám xịt, nham nhở. Đời sống thành thị bị tha hoá trong thứ xã hội
nửa tây, nửa ta nhốn nháo, hỗn tạp. Ở những vùng kẻ chợ như Hà Nội, Nam Định
(quê Tú Xương) thì phơi bày cảnh đồi bại, lố lăng. Tú Xương là con người đầy đủ
bản lĩnh và lương tri của một tri thức Việt Nam phong kiến chân chính. Ơng nhận
thức được tất cả những gì đang diễn ra nhưng khơng thể làm gì để thay đổi nên
đành bất lực. Với tài thơ văn xuất chúng, có cái tâm của một nhà nhân đạo chủ
nghĩa, yêu nước, thương xót giống nịi của mình; có cái trí của một kẻ sĩ, của một
người đủ tinh tế để nhận biết tất cả những gì đang diễn ra, để biết mình có thể chấp
nhận, phủ nhận gì. Thơ văn ơng thể hiện nỗi lòng đau đáu về một xã hội cũ đang
tan rã và một xã hội mới đang hình thành “với những vai tuồng mới, lố bịch, bất
tài, vô hạnh và vong quốc” (Đỗ Đức Hiểu). Có thể nói tâm sự của Tú Xương chính
là tâm sự chung của những người bị xã hội đen bạc gạt ra ngoài cuộc sống mà bản
thân họ cũng không thể chấp nhận. Càng chứng kiến xã hội bất công, càng hiểu về
nỗi niềm của ông, ta càng thêm cảm phục cho một tâm hồn, một nhân cách. Người
đọc biết đến Tú Xương ở hai mảng thơ trào phúng và trữ tình và hai mảng thơ này
đã góp phần hồn thiện nên bức chân dung tinh thần của ơng. Thơ trào phúng là
tiếng nói của một con người biết hết lề thói của cõi đời đen bạc, hiểu nên đứng
trên nó một cách ngơng nghênh, ngạo nghễ. Thơ trữ tình lại là những phút giây
ơng sống trong nỗi niềm băn khoăn, day dứt của một nhà thơ yêu nước trước vận
mệnh của quê hương, đất nước, trước sự tha hoá, biến chất của con người trong xã

hội Tây tàu lẫn lộn, cũng như những nỗi niềm của yêu thương dành cho người dân,
đành cho những người thân yêu của ông, đặc biệt là bà Tú.
Trong các tác phẩm của mình Tú Xương đã khơng ngần ngại vạch trần bộ mặt của
xã hội thời ông khi mà quan lại thực chất chỉ là những tên tay sai hèn hạ, chỉ biết
tham nhũng và hối lộ. “Quan thấy tiền như kiến thấy mỡ”. “Tiền vào nhà quan như
than vào lò”. Lại là những kẻ dốt nát chỉ biết ăn chơi, cờ bạc. Ơng đã khơng dừng
lại ở những nét cá tính bên ngồi mà dường như qua đó còn muốn khái quát lên
thành nét chung của cả thời đại. Bên cạnh quan lại, một tầng lớp cũng đặc biệt
được ơng chú ý chĩa ngịi bút chính là những “ông cử”, “ông tú”, những kẻ tri thức
“biết” vứt bỏ nhân cách của mình để chạy theo thời thế nhưng rút cuộc cũng chỉ là
một lũ tay sai nhố nhăng, vơ tích sự và mất hết liêm xỉ. Thế nên mới có cái cuộc
“Xướng danh khoa thi Ất Dậu” nhục nhã nhường này:
“Một đàn thằng hỏng đứng mà trơng
Nó đỗ phen này có sướng khơng
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng’’.
Cái đầu rồng của ông cử có vinh quang, có đẹp đẽ đến đâu thì cũng chỉ được đối
với “cái đít vịt” của bà đầm, thậm chí cịn được đổi ở trong một tư thế ngưỡng
vọng từ dưới lên. Danh giá, lòng tự trọng, nhân phẩm của những kẻ chạy theo thời
thế ấy thì cũng chỉ được đến thế mà thơi. Kéo theo sau đó cịn là một thế hệ những
kẻ công chức sản phẩm đồng thời là tay sai của chế độ thuộc địa, sống khơng lý
tưởng, vơ tích sự, “sang vác ơ đi tối vác về”. Phụ nữ thì sống lẳng lơ, bng thả:
“Em giận thân em chẳng có chồng

Ngày năm bảy mối tối nằm không’’
Bọn phụ nữ trung lưu, những bà đầm, bà me ra vẻ ta đây đài các thì lại là những kẻ
đĩ thỗ, tà dâm. Ơng thẳng tay châm biếm:
“Thơi đừng điếu tráp nghênh ngang nữa
Thằng tiểu Phù Long nó chửi mày”...
Có thể nói, trong cái nhìn của Tú Xương, trong xã hội ấy nhân cách con người trở
nên méo mó một cách thảm hại. Nó khiến cho lối sống của con người cũng bị tha
hoá theo, thuần phong mĩ tục, truyền thống đạo đức tốt đẹp vốn có của người Việt
Nam bị phá vỡ mà điển hình nhất chính là ở nơi mảnh đất Vị Hoàng quê hương tác
giả.
“Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng”
để rồi ơng phải thốt lên đau đớn: “Có đất nào như đất ấy khơng?”. Cịn lại một cái
gật mình thảng thót:
“Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình cứ ngỡ tiếng ai gọi đò"
Miêu tả hiện thực bằng một giọng trào phúng sâu cay, Tú Xương đã mang đến cho
các tác phẩm của mình “Tiếng cười thuần tuý Việt Nam, khi thì nhẹ nhàng dí dỏm,
khi thì mỉa mai chua chát, cay độc, đã văng vào mặt ai thì để lại dấu vết gột không
phai, mài không nhẵn, với những tiếng cười gằn, cười ra nước mắt, có khi là
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

những tiếng khóc, khóc ra tiếng cười” (Tú Mỡ). Cũng giống như những nhà viết
hài kịch xưa nay, Tú Xương cũng đã dùng tiếng cười của mình những mong tống
tiễn những cái kệch cỡm trong xã hội đương thời nhưng ông đành bất lực. Đằng

sau tiếng cười, tiếng chửi đời, chửi người một cách gay gắt, chua ngoa ấy, người ta
nhận ra một nhân cách lớn, người có lịng u nước mà khơng thể cam chịu, nén
lịng trước cảnh đất nước quê hương mình đang đứng trên bờ vực của sự tha hố,
suy thối. Đó là thái độ trào phúng của một tầng lớp tri thức cữ tuyệt vọng, bất
mãn với hiện thực nhưng đành bất lực. Đằng sau tiếng cười ấy, người ta cảm nhận
được những giọt nước mắt đau đớn, xót xa.
Bên cạnh thơ trào phúng, các sáng tác thơ trữ tình của Tú Xương thể hiện một góc
khác trong con người ơng: một Tú Xương tuy vẫn không mất đi vẻ sắc nhọn
nhưng cũng đầy suy tư, trầm tĩnh. Trong các tác phẩm này, chất trào phúng đã như
một đặc trưng của Tú Xương vẫn xuất hiện nhưng cái khiến cho người ta quan tâm
nhiều hơn cả vẫn là những nỗi niềm tâm sự của ông, tình cảm yêu thương mà ông
dành cho những người xung quanh mình, đặc biệt là bà Tú vợ ơng. Hãy nghe
những lời trong bài thơ mà ông viết cho bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ trăm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng
Một dun hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản cơng
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững củng như khơng”.
Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh
hai người: bà Tú hiện ra ở phía trước, ơng Tú khuất lấp phía sau. Ở bài “Thương
vợ” ông Tú tuy không xuất hiện trực tiếp nhưng hình ảnh ơng hiển hiện trong từng
câu chữ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lịng khơng chỉ
thương vợ mà cịn tri ân vợ. Ơng nhận thấy và cảm kích cho những vất vả của
cuộc đời bà Tú, cho đức hi sinh cao cả:
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

Năm nắng mười mưa dám quản cơng”.
để sao cho “Ni đủ năm con với một chồng” bởi nói như Xuân Diệu: “Thì ra
chồng cũng là một thứ con còn dại” mà bà Tú phải nặng vai gánh vác. Con người
ấy đã thể hiện nhân cách của mình qua lời tự trách, ông không dựa vào duyên số
mà trút bỏ trách nhiệm. Ơng tự coi mình là một cái nợ đời mà bà Tú phải gánh
chịu. Mà nợ thì gấp đơi dun, dun ít, nợ nhiều, ơng tự chửi mình nhưng cũng là
chửi thói đời đen bạc:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như khơng”.
Trong cái xã hội vốn trọng nam khinh nữ, một tấm lòng tri ầm, tri kỷ, tri ân với vợ
như Tú Xương đã là đáng quý, nhưng ông vẫn cảm thấy mình đáng bị chửi, đáng
bị tự lên án bởi mình đã thật vơ nghĩa, ơng tự nhận mình chỉ là một thứ “quan ăn
lương vợ” biết mà chẳng giúp đỡ được vợ gì cho bà đỡ cơ cực. Ấy thế nên có
chồng rồi cũng chỉ hờ hững như khơng. Một nhà nho như Tú Xương, dám sòng
phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám lên tiếng chửi mình, chửi đời mà cũng là
nói hộ cho những nỗi niềm của vợ, một con người như thế là một nhân cách đẹp.
Nghe lời chửi thay cho bà Tú của ông, ta lại nhớ đến những vất vả lận đận trong
cuộc đời Tú Xương. Số phận của bản thân ông phản ánh số phận của dân tộc ơng
thời ấy. Đó là bi kịch của một con người "tiến thối lường nan", ơng khơng thể
cam tâm "vứt bút lơng đi giắt bút chì" để trở thành "Chẳng kí, khơng thơng cũng
cậu bồi" như những kẻ vơ liêm sỉ khác. Ơng cũng khơng phải hạng hủ nho vùi đầu
vào kinh sử, quanh năm "đẽo gọt con sâu". Chính vì vậy mà ơng đến nỗi "tám
khoa chưa khỏi phạm trường qui". Nói gì thì nói, đối với một người theo nghề
khoa cử, đó cũng vẫn là một nỗi buồn không thể nào khoả lấp được. Tú Xương đã
khơng có được sự dứt khốt như Nguyễn Khuyến (“Đèn sách ích gì cho buổi ấy”),

ơng tự dằn vặt mình:
“Đau q địn thù, rát hơn lửa bỏng
Tủi bút, tủi nghiên, hổ lều, hổ chõng
Nghĩ đến câu: “Nam nhi đắc chí” thêm nỗi thẹn thùng
Ngâm đến chữ: “Quản thổ trùng lai”, nói ra ngập ngọng”.
Bi kịch chính là ở chỗ, con người trí thức nho sĩ trong ơng lên tiếng địi phải khẳng
định mình với đời nhưng trong thời buổi nhố nhăng đó, làm điều ấy cũng đồng
nghĩa với việc biến mình thành những kẻ tay sai của thực dân đế quốc, điều mà
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

cặp mắt đã và đang chứng kiến biết bao những nhiễu nhương kia của ông không
bao giờ cho phép. Tú Xương đã khơng tìm được hướng đi dứt khốt cho mình.
Tuy vậy, bi kịch ấy cũng làm nên một nhân cách Tú Xương đáng trân trọng.
Nguyễn Tuân đã dùng những lời sau để bình về bức tượng tạc hình Tú Xương:
“Một ngơi tượng dong dỏng, một dáng người áo chùng khăn chít thơ thẩn bên
dịng nước mà chờ một chuyến đò thời đại. Dưới chân tượng, trước bệ tượng,
phẳng tắp một con sơng thời gian”. Đó cũng sẽ là những hình ảnh cịn đọng lại mãi
trong lịng người về Tú Xương.
Bài tham khảo 4
Trần Tế Xương hay còn có bút danh là Tú Xương, ơng là một tác giả nổi tiếng với
nhiều tác phẩm mang chất trào phúng và trữ tình. Ơng chỉ sống 37 tuổi và học vị
tú tài, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông đã trở thành bất tử. Ông để lại khoảng 100
tác phẩm gồm: thơ, văn tế, phú, câu đối,…Một trong những tác phẩm tiêu biểu của
ông là bài thơ “Thương vợ”. Một bài thơ tơ đọng trong đó là những phẩm chất tốt
đẹp của người vợ, người phụ nữ đảm đang, chịu thương, chịu khó vì hạnh phúc

của chồng con. Bài thơ được Tú Xương viết như sau:
“Quanh năm buôn bán ở non sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cị khi qng vắng
Eo xèo mặt nước buổi đị đơng.
Một duyên hai nợ, âu đành phận
Năm nắng mười mưa, dám quản cơng
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với bố cục được chia
làm bốn phần: đề, thực, luận, kết. Mỗi phần hai câu nhằm khắc họa một cách sắc
nét hình ảnh bà Tú- vợ Tú Xương, cũng như đang nói lên một phần nào đó hình
ảnh người phụ nữ ở xã hội xưa.
Trong hai cầu đề Tú Xương đã giới thiệu một cách khái qt về cơng việc của bà
Tú. Đó là sự tần tảo “quanh năm” buôn bán ở mom sông, việc mua bán này không
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

hề có cửa tiệm hay vốn liếng nhiều. Đây là một công việc vất vả, cực nhọc, thu
nhập bất ổn song bà Tú vẫn đang “nuôi đủ” năm con với một chồng mà khơng một
lời ốn trách.Trong câu này, tác giả tách mình một bên, con một bên nhằm nhấn
mạnh việc, mặc dù ông đỗ tú tài nhưng không được làm quan, phải đặt gánh nặng
lên đôi vai của người vợ, người mà ông yêu thương. Câu thơ như là lời trách nặng
nề của tác giả đối với chính bản thân mình, Nhưng qua câu thơ ta cũng thấy được
cái tình cảm yêu thương mà Tú Xương dành tặng cho vợ mình.
Để diễn tả một cách cụ thể hơn sự vất vả trong công việc của bà Tú, trong hai câu

thực tác giả đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam để biến thành “thân
cò” nhằm thể hiện sự lặn lộn vất vả của bà Tú trong công việc mưu sinh hàng ngày
tại nơi “quang vắng”. Bên cạnh đó, Tú Xương cịn khai qt một cách sinh động
cảnh bán buôn ở mom sông của bà Tú qua câu “Eo xèo mặt nước buổi đị đơng”.
Đó là hình ảnh nhốn nháo, tranh chấp mua bán của nhiều con người có cơng việc
như bà Tú. Nhìn chung, cuộc đời bà Tú khơng ít khó khăn gian khổ.
Sự khó nhọc, vất vả của bà Tú khơng được dừng lại ở hai phần đề và thực mà nó
cịn tăng lên ở phần luận. Bằng việc sử dụng hai câu thuật ngữ “một duyên, hai
nợ” và “năm nắng mười mưa” tác giả đã toát lên sự hi sinh cao cả của bà Tú, đó là
việc chấp nhận số phận chăm lo cho chồng con và dù nắng hay mưa cũng không
bỏ việc. Ở đây, Tú Xương đã nêu lên đức tính tốt đẹp của bà Tú nói riêng và người
phụ nữ nói chung, đó là sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại, sẵn sàng hi sinh vì gia
đình. Đồng thời qua đây tác giả cũng bộc lộ nổi niềm biết ơn và quý trọng đối với
bà Tú.
Cùng với quý trọng và biết ơn bà Tú ở hai câu luận, thì hai câu kết là một cách nói
ngao ngán về nổi niềm tâm sự của tác giả- Tú Xương. Một lời thở dài về “cái thói
đời” ơng nhắc đến chính là cái xã hội lúc bấy giờ- một xã hội mang tính nửa tây
nửa ta, nửa phong kiến, nửa thực dân với những tư tưởng và đạo lí bị suy thối.
Bên cạnh ông tự trách bản thân sao mà “ăn ở bạc” thi cử hồi mà khơng đỗ đạt,
chẳng thể làm quan, khơng giúp được gì cho vợ con, đẩy vợ con phải chịu khổ vì
mình. Cuối cùng mọi thứ đúc kết trong lời than đầy xót xa của Tú Xương “Có
chồng hờ hững cũng như khơng”.
Tóm lại “Thương vợ” là một bài thơ hay mang đậm giá trị cảm xúc của Tú Xương.
Nó hay trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong ca dao, thành ngữ của Tú
Xương. Bài thơ lại mang đậm cảm xúc chân thành, lời thơ giản dị mà sâu sắc, nói
lên tình cảm u thương,sự quý trọng mà Tú Xương dành cho vợ.Bên cạnh đó, bài
thơ cịn thể hiện đức tính đẹp của người phụ nữ Việt Nam xã hội xưa nói chung và
bà Tú nói riêng.
Bài tham khảo 5
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242

6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

Thơ văn Trần Tế Xương gồm hai mảng lớn: trào phúng và trữ tình. Có bài
hồn tồn là đả kích, châm biếm, có bài thuần là trữ tình. Tuy vậy, hai mảng không
tuyệt đối ngăn cách. Thường là châm biếm sâu sắc nhưng vẫn có chất trữ tình.
Ngược lại, trữ tình thấm thìa cũng pha chút cười cợt theo thói quen trào phúng.
Thương vợ là một bài thơ như vậy.
Thương vợ là bài thơ phản ánh hình ảnh bà Tú vất vả, đảm đang, lặng lẽ hi
sinh vì chồng vì con, đồng thời thể hiện tình thương yêu, quý trọng và biết ơn của
Tú Xương đối với người vợ của mình.
Quanh năm bn bán ở mom sơng,
Ni đủ năm con với một chồng.
Chi bằng vài lời kể nôm na, bình dị, Tú Xương đã giúp người đọc hình dung ra
cảnh bà Tú một mình mang trên vai gánh nặng gia đình, lặn lội nơi đầu sơng, bến
chợ.
Mom sơng là mỏm đất nhơ ra dịng sơng, cũng là một địa điểm ở phía Bắc
thành phố Nam Định. Ngày xưa, đây là nơi trên bến dưới thuyền, người từ các nơi
đổ về buôn bán. Quanh năm, bà Tú làm ăn ở đó để kiếm tiền trang trải cho cuộc
sống gia đình gổm hai vợ chồng và nám đứa con thơ.
Quanh năm bn bán có nghĩa là khơng nghi ngơi ngày nào. Hơn nữa, chữ
mom sồng càng tô đậm thêm cái thế chênh vênh, không vững vàng của công việc
làm ăn. Mom sơng ba bề là nước, có thể đổ ùm xuống sông lúc nào không biết. Ở
cái mỏm đất chênh vênh ấy, hình ảnh bà Tú dường như càng nhỏ bé và cơ đơn.
Một mình bà phải xơng pha nơi đầu sông ngọn nguồn, vất vả tội nghiệp biết bao!
Trên đây là thời gian, khơng gian và cả tính chất công việc làm ăn buôn bán của bà
Tú.

Tại sao bà Tú lại chấp nhận sự lam lũ, vất vả như thế? Đương nhiên là để nuôi
chổng, nuôi con. Ngày xưa, xã hội phong kiến dành cho phụ nữ bổn phận là thờ
chổng, nuôi con. Với bà Tú, chắc chắn là có chuyện thờ chổng. Thờ chồng bao
hàm cả nghĩa vụ ni chồng. Đó là sự bất cơng của xã hội, nhưng xét về mặt đức
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

độ thì sức đảm đang tháo vát của những người vợ như bà Tú thật đáng nể phục.
Cái khơng bình thường trong bài thơ là cách đếm số người, Giá như tính gộp
lại là sáu miệng ăn và một mình bà Tú mà phải cáng đáng đến chừng ấy cũng đã là
nhiều. Trên đời, phần lớn phụ nữ cũng gặp cảnh như thế. Đằng này, tác giả đếm rõ
ràng là: năm con với một chồng. Đặc biệt là tách riêng ông chồng ra và đếm là một
Xuân Diệu có nhận xét rất hay khi đọc câu thơ này: “Hố ra ơng chồng cũng phải
ni, tựa hồ như lũ con bé bỏng nên mới đếm ngang hàng với chúng nó: một
miệng ăn, hai miệng ăn…”.
Mà bà Tú ni chồng đâu có đơn giản như ni con. Cơm ăn đã đành, đơi khi
phải có tí rượu tí trà cho ơng ngâm nga câu thơ câu phú. Áo mặc đã đành, cịn phải
có bộ cánh tử tế cho ơng đi đây đi đó, chứ ai lại để cho ơng quanh năm Bức sốt
nhưng mình vẫn áo bơng và Một đồn rách rưới con như bố. Lại phải cho ơng
xỏng xảnh ít tiền trong túi để gặp bạn, gặp bè. Ấy thế mà bà nuôi đủ, tức là đủ cả
về số lượng lẫn chất lượng. Như vậy là bà Tú không chỉ ni ống Tú mà cịn cung
phụng, cịn thờ.
Nhưng kể ra được những điều ấy chứng tỏ là ông chồng thấu hiểu và biết đánh
giá một cách xứng đáng công lao của bà vợ. Như vậy là thương vợ.
Đến câu thứ ba, hình ảnh bà Tú một mình thui thủi làm ăn càng hiện lên cụ thể
và rõ nét hơn:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đơng.
Tú Xương dùng một hình tượng quen thuộc trong văn chương dân gian nới về
người phụ nữ lao động ngày xưa: Con cị lặn lội bờ sơng… nhưng ơng khơng so
sánh mà đồng nhất thân phận bà Tú với thân cò. Tấm thân mảnh dẻ, yếu đuối của
bà Tú mà phải chịu dãi nắng dầm sương thì đã là gian nan, tội nghiệp, vậy mà bà
còn phải lặn lội sớm trưa. Nghĩa đen của từ này cũng gợi ra đầy đủ cái vất vả, khó
nhọc trong nghĩa bóng. Tấm thân cò ấy lại lặn lội trên quãng vắng đường xa. Nói
quãng vắng là tự nhiên nổi lên Cái lẻ loi, hiu quạnh, lúc cần không biết nương tựa
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

vào đâu, chưa nói đến những hiểm nguy bất trắc đối với thân gái dặm trường. Eo
sèo chi sự nói đi nói lại, có ý bất bình. Đị đơng có thể hiểu hai cách: một là đị
ngang đã chở đầy người, hai là đò từ các nơi tập hợp lại rất đông. Hiểu cách nào
cũng đúng với ý định đặc tả hơi khó nhọc, gian nan trong cảnh kiếm ăn của bà Tú.
Bên cạnh nỗi khổ vật chất cịn có nỗi khổ tinh thần. Vì chồng con mà phải lặn
lội đường xa quãng vắng, nhưng liệu chồng con có biết cho chăng? Và bà Tú cứ
âm thầm lo toan như vậy cho đến hết đời, hết kiếp… số phận bà là vậy.
Câu thơ miêu tả mà đầy chất trữ tình, nghe thật xót xa, tội nghiệp! ơng Tú tỏ ra
thơng cảm với nỗi khó nhọc của vợ và thương vợ đến vậy là sâu sắc.
Ông Tú hiểu thấu công việc làm ăn của bà Tú. Khi quãng vắng, buổi đị đơng,
bà đều vất vả khó nhọc, khơng kể gian nan, khơng quản thân mình, một lịng vì
chồng, vì con. Bà Tú mà nghe được những lời như thế của ơng chắc cững thấy
gánh nặng trên vai mình nhẹ bớt và trong thâm tâm bà cũng được an ủi ít nhiều.
Nhưng khơng phải chĩ có thế, Giọng điệu trữ tình kín đáo lồng trong hai câu

tường thuật miêu tả (câu 3, 4) chứng tỏ tim ông Tú không phải dửng dưng.
Thương vợ nhưng cũng là tự trách mình. Khơng phải chỉ tự coi mình là một miệng
ăn để vợ phải ni mà cịn hổ thẹn, thấy mình có cái gì đó như nhẫn tâm. Ơng
chồng trụ cột gia đình là mình ở đâu rồi mà để vợ phải nhọc nhằn, gian nan đến
vậy? Tự trách mình như thế cũng là thương vợ thêm sâu.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Tú Xương lại vận dụng thêm một thành ngữ, một câu ca dân gian khác: Vợ
chồng là duyên là nợ, Một duyên hai nợ ba tình… Vợ chồng gặp nhau là do ơng
Tơ bà Nguyệt sắp đặt từ kiếp trước. Có dun thì tốt đẹp, hạnh phúc, là nợ thì đau
khổ một đời.
Có lẽ ở đây, ông Tú mượn tâm tư bà Tú mà suy ngẫm hay đúng ra, ơng hố
thân vào bà để cảm thông sâu sắc hơn: lấy chồng như thế này thì cũng là dun
hoặc nợ thơi, số phận đã thế thì cũng đành thế. Cho nên có khổ cực bao nhiêu,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

năm nắng mười mưa cũng phải chịu, phải lo, nào dám quản cơng. Chẳng cịn là
chuyện thân nữa, dù là thân cò, mà đã là chuyện phận rồi, chuyện số phận.
Ôi! Lấy vợ lấy chồng, người ta bảo là duyên là nợ, nghĩ cũng đúng thật! Số
phận đã như thế thì cũng đành thơi, chứ biết làm thế nào?! Cái số kiếp người phụ
nữ như tấm lụa đào, như hạt mưa sa, như con thuyền lênh đênh mười hai bến
nước, như cơm nguội đỡ khi đói lịng… Trách làm sao được! Vậy thì cịn dám kể
gì gian lao, dám quản gì mưa nắng!
Lại thêm nghĩa của mấy nhóm từ âu đành, dám quản. Âu đành là một sự bất
đắc dĩ, xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục.. Dám quản tức là khơng

dám kể gì đến công lao, là thái độ chấp nhận gánh chịu mọi sự nhọc nhằn. Thêm
âm thanh nặng nề của từ phận ở cuối câu khép lại cáng làm cho câu thơ phù hợp
với cảm xúc bị dồn nén vào trong.
Vậy là chi bốn câu thơ mà chân dung bà Tú hiện lên hoàri Chĩnh: từ vất vả
bon chen, lăn lộn ở ngồi đời, đến năm liệu bảy lo trong gia đình, từ con người của
công việc làm ăn, đảm đang tháo vát, chịu thương chịu khó, đến con người của
đức độ, thảo hiền, đầy tinh thần vị tha. Hình ảnh bà Tú tiêu biểu cho phẩm chất tốt
đẹp của những người vợ, người mẹ Việt Nam.
Thương vợ mà nói ra là mình thương thì cung đã q ở đây, ơng Tú đã nhập
thân vào bà Tú để thấu hiểu nỗi niềm và thể hiện tình cảm của mình bằng những
lời thơ chân thành, thấm thía. Như vậy mà khơng phải là thương vợ sâu sắc hay
sao?
Đó là thương vợ, cịn tự trách mình? Ngày ngày ngồi khơng, làm một miệng
ăn cho vợ nuôi, điềm nhiên hưởng thụ trong khi vợ phải ngược xi tần tảo, nghe
cũng đã có cái gì đó bất nhẫn. Nay vợ thầm oán trách, tủi hờn mà quy số phận bất
hạnh ấy là do một duyên hai nợ, thử hỏi ông chồng làm sao mà không nhận thấy
lỗi của mình? Tự trách đến như vậy là ngồi tình thương vợ đã có thêm ý thức
trách nhiệm.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

Có chổng hờ hững cũng như khơng.
Câu kết là một tiếng chửi đổng cái thỏi đời ăn ở bạc. Không phải lần này ông
Tú mới chửi như thế. Trong bài Gặp người ăn xin, ông cũng đã từng chửi – chửi
mình mà thực ra là chửi đời: Người đói, ta đây cũng chẳng no, Cha thằng nào có,

tiếc không cho. Chi khác ở chỗ là lần này, lời chửi tuy có ném thẳng vào đời,
nhưng trước hết là ném vào mình. Để tự trách mình thì ơng phải chửi. Mà ông phải
đặt câu chửi ấy vào miệng bà.Tú thì mới đích đáng! Nhứng bà Tú vốn con gái nhà
dịng, chẳng đời nào lại chanh chua, thơ tục dám chửi chồng. Nhưng đối với ơng
Tú thì tự trách đến mức phải bật ra tiếng chửi như thế là giận mình thật sự. Bài thơ
ơng viết ra cốt để bày tỏ tình thương yêu, quý trọng người vợ đảm đang và tự trách
mình ià đồ tầm thường, vơ tích sự.
Bà Tú vất vả đến thế, ơng Tú tự trách mình đến thế thì đương nhiên là phải
bực bội đến bật ra tiếng chửi. Nhận lỗi chưa đủ, nguyền rủa mình bằng câu chửi
đổng mới xứng với tội lỗi ông Tú lại chẳng dè dặt gì với chữ nghĩa mà dùng ln
cách chửi dân gian: Cha mẹ thói đời:
Bà Tú khơng hề coi chồng là ăn ở bạc, nhưng ông Tú thi gọi đích đanh tội lỗi
của mình ra như vậy, vợ chồng với nhau mà như thế thì cịn gì mà khơng ơng Tú
lại khơng nói trực tiếp là mình ăn ở bạc mà khái quát nó lên thành thói đời. Thói
đời đen bạc tượng trưng cho bản chất của xã hội kim tiền dưới thời thực dân phong
kiến, ở thành thị điều đó càng tệ hại hơn. Hố ra đệ tử của thánh hiền là ông tú mà
cũng bị nhiễm cái thói dời xấu xa ấy. Như vậy ỉà từ hổ thẹn, ơng Tú đã đi tới chỗ
xót xa, tự trách.
Câu kết là sự phán xét vô cùng đau đớn nhưng cũng rất cơng minh, ơng Tú xỉ
vả mình là ăn ở bạc, nhưng xét ra cái bạc ấy cũng chỉ mới ở mức hờ hững. Hờ
hững trước việc nhà, trước mọi lo toan, vất vả, trước thái độ cam phận của vợ. Đã
là vợ chồng, trăm sự cùng lo mới phải. Bà Tú không bắt buộc ông vất vả như bà
mà chỉ mong ông đừng hờ hững, ông hãy quan tâm lo cho gia đình chút ít, trước
hết là ông hiểu cho bà, như thế cũng đủ cho bà ấm lịng và có niềm vui.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí


Cả bài thơ cơ đúc lại ở ý này: ở câu đề, ơng chồng có mặt với tư cách là một
miệng ăn phải nuôi, ở câu thực, câu luận, ơng chồng vắng bóng. Bài thờ chấm dứt
bằng sự day dứt, ân hận trong câu kết: Có chồng hờ hững cũng như không, càng
làm tăng thêm nỗi thương vợ của nhà thơ. Đó là cách nói của Tú Xương, đã nói gì
là nói ráo riết đến tận cùng. Tuy nhiên, có điều này ơng đã nói oan cho mình: đó là
hai chữ hờ hững. Vì giận mình mà ơng nói thế thơi, chứ thực lịng ơng đâu có hờ
hững với bà. Bởi nếu ơng hờ hững thì đã khơng có bài Thương vợ thấm thía và
cảm động đến như vậy.
Bài tham khảo 6
Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ
là nhà thơ trào phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Thơ trào lộng,
châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính
chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Dịng trữ tình trong thơ Tú Xương đơi
khi được tách ra thành những bài thơ trữ tình thuần khiết, thấm thía. Hai kiệt tác
“Sơng Lấp” và “Thương vợ” tiêu biểu cho dịng thơ trữ tình của Tú Xương.
Bài thơ sau đây là bài “Thương vợ” của Tú Xương:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vẵng,
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.
Một dun hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản cơng.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như khơng!”
Trần Tế Xương lận đận trong thi cử, đi thi đến lần thứ tám mới đậu được cái tú
tài. Ông học giỏi nhưng phải cái ngông quá, thật ra thái độ ngông của ông là một
cách ông phản kháng lại chế độ thi cử lạc lậu, quan trường “ậm ọc” lúc bấy giờ.
Mà đậu được cái tú tài thì rồi cũng làm “quan tại gia” thơi. Hồi đó phải đậu cử
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242

6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

nhân mới được bổ tri huyện. Thế là bà Tú gần như phải ni chồng suốt đời. Ơng
Tú chỉ cịn biết đem tài hoa của mình mà ghi công cho bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sống,
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Từ “mom” thật là hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh
năm bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lịng của nhà thơ đối với việc bn bán
khó nhọc của vợ. Từ “mom” là tổng hợp nghĩa của các từ ven, bờ, vực, thềm,
thành một từ sáng tạo của nhà thơ làm giầu thêm cho tiếng Việt. Bà Tú buôn thúng
bán bưng quanh năm ở “mom sông” mà nuôi chồng, nuôi con:
“Nuôi đủ năm con với một chồng”
Câu thơ chỉ mấy con số khô khốc thế vậy mà tế tối lắm đó! “Ni đủ năm
con” là vì con, phải ni, nên đếm ra để mà ni. Nhưng cịn chồng thì một chồng
chứ mấy chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Là vì chồng cũng phải
ni, mà bà Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã là vất vả, lại thêm một
ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng gấp đơi. Thời đó mà ni một ơng Tú, lại là
Tú Xương nữa thì nhiêu khê lắm.
Nhưng bà Tú được an ủi là vì ơng Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bông
đùa, cười cợt đó lại để tâm đến từng bước chân của bà trên đường lặn lội bn
bán:
“Lặn lội thân cị khi qng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng”
Có thể nói lòng thương vợ của nhà thơ dào dạt lên trong hai câu thơ này. Hình
ảnh lặn lội thân cị được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân
gian để nói về người phụ nữ lao động:

“Con cị lặn lội bờ sơng
Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”
Nếu như từ “lặn lội” được đảo ra phía trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả
của bà Tú, thì từ “eo sèo” gợi lên âm thanh hỗn tạp (tiếng kì kèo mặc cả, tiếng cãi
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

cọ tranh giành) của “buổi đị đơng”. Hai tình huống đối lập thật hay: “vắng” và
“đơng”. Người phụ nữ gánh hàng lặn lội trên quãng đường vắng thật là khổ. Mà
đến chỗ “đị đơng” thì thật là đáng sợ! Nghĩa là nhìn từ phía nào, nhà thơ cũng
thương vợ, tình thương thấm thía, cảm động.
Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như
lời độc thoại của người vợ:
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản cơng”
Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là dun nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ
ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì
đã có sự tham gia của đấng vơ hình (ơng Tơ bà Nguyệt), cịn “nợ” thì đã thành
trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm
trí của bà Tú. “Một duyên hai nợ âu đành phận” là bà Tú đã thuận theo lòng trời và
thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp
nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, bà chấp nhận một ông đồ nho
ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bà chấp nhận vị quan “ăn lương
vợ” nên bà đâu “dám quản công”:
“Năm nắng mười mưa dám quản công”
Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm

nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã
thấm thía với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một
chồng). Giờ đây là sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong
câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ
cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết.
Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “ni đủ
năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ cịn biết tự trách mình.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như khơng!”
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

Vì q thương vợ mà nhà thơ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ
thói đời…” thì đã thành lời xỉ vả mình. Thật ra là một cách ơng Tú nhún mình để
cho cơng trạng của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải là người “ăn ở bạc”. Ăn
chơi sa đà thì có, “hờ hững” nữa, thì nhà thơ đã thành thật nói rồi, chứ bạc tình,
bạc nghĩa thì khơng. Gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật
là con người đáng kính.
Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện
được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng ni con. Bà
Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.
Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ơng Tú dành cho bà Tú, ơng chỉ nhận về
cho mình một chữ “khơng”. Nhưng bình tâm mà xét thì ơng Tú cũng xứng với bà
Tú vì trên đất nước gian lao và vất vả này có hàng triệu người như bà Tú, nhưng
chỉ có một bà Tú là được vào cõi thơ, cõi bất tử!
Bài làm 7

Tú Xương là nhà thơ trào phúng bậc thầy trong nền văn học Việt Nam. Ngoài
những bài thơ trào phúng sắc nhọn, lấy tiếng cười làm vũ khí chế giễu và đả kích
sâu cay bộ mặt xấu xa, đồi bại của cái xã hội thực dân nửa phong kiến, ơng cịn có
một số bài thơ trữ tình, chứa chất bao nỗi niềm của một nhà nho nghèo về tình
người và tình đời sâu nặng.
“Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú
Xương. Nó là một bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ
chứa chan tình thương yêu nồng hậu của nhà thơ đối với người vợ hiền thảo.
Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh bà Tú trong gia đình là một người vợ rất đảm
đang, chịu thương chịu khó. Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay
lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân nam đá chân chiêu,
vì tớ đỡ đần trong mọi việc” (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú lại là một
người đàn bà:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

Ni đủ năm con với một chồng”
“Quanh năm buôn bán” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày
khác, từ tháng này qua tháng khác, không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú “buôn
bán ở mom sông”, nơi mỏm đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước, nơi làm ăn là cái
thế đất chênh vênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng,
một cảnh đời lắm cay cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “nuôi đủ năm con với một
chồng”.
Một gánh gia đình đè nặng lên đơi vai người mẹ, người vợ. Thông thường
người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc,… chứ ai “đếm” con, “đếm” chồng.

Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia cảnh gặp nhiều khó khăn:
đơng con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”.
Có thể nói, hai câu thơ trong phần đề, Tú Xương ghi lại một cách chân thực
hình ảnh người vợ tần tảo, đảm đang của mình.
Phần thực, tơ đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn
lội” làm ăn như “thân cị” nơi “qng vắng”. Ngơn ngữ thơ tăng cấp, tô đậm thêm
nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ
trợ và gia tăng; đã “lặn lội” Lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc
kiếm sống ở “mom sơng” tưởng như khơng thể nào nói hết được! Hình ảnh “con
cị” cái cị trong ca dao cổ: “Con cị lặn lội bờ sơng…”, “Con cị đi đón cơn
mưa…”, “Cái cị, cái vạc, cái nơng,..” được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình
ảnh “thân cị” lầm lũi, đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà
Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội
cũ:
“Lặn lội thân cò nơi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
“Eo sèo” là từ láy tượng thanh chỉ sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai
đẳng: gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đị đơng”.
Một cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí

làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được
“nuôi đủ năm con với một chồng’” phải. “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật
“eo sèo”, phải trả giá bao mồ hơi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn! Tiếp theo là
hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ”

và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong
cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:
“Một duyên hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa dám quản công.”
“Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận,
chịu đựng.”Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực.Các số từ trong
câu thơ tăng dần lên: “một…hai…năm..mười…làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng
của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì sự ấm no, hạnh phúc của
chồng con và gia đình. “Âu đành phận”,… “dám quản cơng”… giọng thơ nhiều
xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le.
Tóm lại, sáu câu thơ đầu bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã
phác họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền
thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu
khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện một tài năng
điêu luyện trong sử dụng ngơn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ,
phép đối, thành ngữ và hình ảnh “thân Cò”… đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn
văn chương.
Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom
sông” lúc “buổi đị đơng” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ơng tự trách mình:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như khơng!”
Trách mình “ăn lương vợ”, mà “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha
chẳng giúp ích được gì, vơ tích sự, thậm chí cịn “hờ hững” với vợ con. Lời tự
trách sao mà chua xót thế! Ta đã biết, Tú Xương có văn tài, nhưng công danh dở
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn
phí


dang, thi cử lận đận. Sống giữa một xã hội “dở Tây, dở ta”, chữ nho mạt vận, lúc
mà “Ơng Nghè, ơng Cống cũng nằm co”, cho nên nhà thơ tự trách mình đồng thời
cũng là trách đời đen bạc. Ơng khơng xu thời để vinh thân phì gia “tối rượu sâm
banh, sáng sữa bò”.
Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói
của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương gia cảnh
nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương mình vậy: nỗi đau thất thế của
nhà thơ khi cảnh đời thay đổi!
Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngơn bát cú. Ngơn ngữ thơ
bình dị như là tiếng nói đời thường nơi “mom sơng” của những người bn bán
nhỏ, cách đây một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với
“năm con, một chồng”) vừa khái quát sâu sắc (người phụ nữ ngày xưa). Hình
tượng thơ hàm súc, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi
đau đời. “Thương vợ’” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ,
người phụ nữ ngày xưa với bao đức tính tốt đẹp, hình ảnh bà Tú được nói đến
trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.
Tú Xương chiếm một địa vị vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi
ông sống mãi với non Côi, sông Vị.
Mời các bạn cùng tham khảo />
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188



×