Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Phân tích tác phẩm Bài thơ ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.42 KB, 18 trang )

Phân tích tác phẩm Bài ca ngắn đi trên bãi cát (Cao Bá Quát)
Bài tham khảo 1
1. Chu Thần – Cao Bá Quát, một hiện tượng hiếm quý trong thơ trung đại. Mà, có
lẽ cho đến nay, người đời vẫn chưa đánh giá một cách sâu sắc, đích thực…. về ông
– nhất là mảng thơ Hán tự.
Nếu gọi ra điệu hồn riêng trong thơ chữ Hán của Cao Bá Quát, có thể khái
quát trong mấy chữ này chăng: Một hồn thơ phóng khống, đơn hậu và cũng đầy
kiêu hãnh, sâu sắc!
Với “Sa hành đoản ca” (Bài ca ngắn đi trên bãi cát) – thi phẩm đặc sắc, trong
chương trình Ngữ văn lớp 11, Cao Bá Quát thực sự đã kết đọng trong lịng độc giả
những cảm nhận khó qn về một Người và cũng là một lớp Người: Nhà Nho tài
tử! Những kẻ sĩ – nghệ sĩ yêu đến tôn thờ cái đẹp:
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
(Một đời (ta) chỉ biết cúi đầu trước hoa mai!)
Những kẻ sĩ – nghệ sĩ, chân thành và kiêu hãnh trong cảm hứng trước thiên
nhiên mà giãi bày tâm nguyện:
Bất kiến ba đào tráng
An tri vạn lí tâm
(Nếu khơng thấy được sóng hùng
Làm sao biết được tấc lịng mn phương)
2. Đứng ở góc độ người dạy, muốn thẩm định thi phẩm “Sa hành đoản ca”, tôi
muốn nhấn tới một điều thiết thực, cơ bản trong giảng dạy. Đó là, giúp học sinh
nắm bắt đời và thơ của thi sĩ họ Cao – tất nhiên, từ đó cần chỉ ra nét riêng, điệu
riêng của thơ Chu Thần. Đấy chính là tâm thế, bức xúc của một thi nhân trước bao
điều bất công, ngang trái; trước bao điều thực giả hỗn độn giữa sa mạc – cuộc đời!
Cảm thức được điều đó, mới nhận ra, mới tường minh chất bản ngã, bản lĩnh riêng
của nhà thơ họ Cao. Cao Bá Quát đã chọn hình thức biểu hiện của thơ ngũ ngôn –
phù hợp với giọng điệu tâm tình, cho riêng những câu thơ đầu:
2.1. Trường sa phục trường sa,



Nhất bộ nhất hồi khước.
Nhật nhập hành vị dĩ,
Khách tử lệ giao lạc.
(Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi)
Những câu thơ đầu của “Sa hành đoản ca” mở ra một hiện trạng, một cảnh ngộ
và cũng là sự lên tiếng đầy bức xúc, bức bối của nhân vật trữ tình (Khách tử).
Khơng gian và thời gian từ những câu thơ trên như đe doạ, như dồn lữ khách
tới cái bi thương của hồn cảnh: ngày sắp tàn (thời gian) mà khơng gian vẫn trải
mở dằng dặc, mênh mang cát trắng (trường sa phục trường sa). Thực cảnh “bãi cát
dài” ấy đem đến cảm giác thật rùng mình – “Đi một bước như lùi một bước”. Hình
ảnh “bãi cát dài” vì thế có thể khơi gợi cảm hứng từ hiện thực khách quan, “được
hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi Hội, qua các tỉnh miền Trung đầy
cát trắng như Quảng Bình, Quảng Trị” (Sách Ngữ văn lớp 11 – tập I, trang 40).
Nhưng, hình ảnh “Trường sa phục trường sa” trong thơ Cao, thực sự bức bách
như nỗi ám ảnh tâm tưởng. Thế nên, sự lên tiếng của nhân vật trữ tình mới quá đỗi
chân thực và xúc động: “Khách tử lệ giao lạc” (Lữ khách trên đường nước mắt
rơi).
Từ hình ảnh về con người nhỏ bé, mong manh giữa biển cát – cuộc đời (tất
nhiên hình ảnh “trường sa” vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa là một ẩn dụ – tượng
trưng), bài thơ của Cao Bá Quát lại mở tiếp ra một cấp độ nữa của cảm xúc và suy
tư.
2.2. Cao Bá Quát đã mượn và tựa vào tích xưa – “Ơng tiên ngủ kĩ” để gửi gắm sự
sáng tạo riêng của mình trong cách nghĩ, cách nhìn vào cuộc đời và con người:
Quân bất học tiên gia mĩ thụy ơng,
Đăng sơn thiệp thuỷ ốn hà cùng!
(Anh khơng học được tiên ơng có phép ngủ kĩ



Cứ trèo non lội nước mãi, bao giờ cho hết ta ốn!)
Về hình thức và giọng điệu của hai câu thơ trên, mới đọc, cứ ngỡ như những lời
“tiên trách kỉ”, “tự trách kỉ”. Đọc và ngẫm kĩ, lại hoá ra lời phản ứng quyết liệt của
kẻ sĩ – thi nhân giàu bản lĩnh và cá tính. Làm sao có thể học “ông tiên ngủ kĩ ” để
mà làm ngơ, để mà nhắm mắt, để mà “mũ ni che tai” trước bao cảnh ngổn ngang,
chất chồng như cát, như núi, như nước giữa cuộc đời – nhân thế. Cao Bá Quát lên
tiếng chối bỏ dạng người an phận (mà thời nào chẳng có!), để rồi chuyển tiếp sang
một góc nhìn hiện thực – hiện thực đập vào mắt và chấn động tâm can về đời, về
người:
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung.
Phong tiền tửu điếm hữu mĩ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu tuý giả đồng.
(Xưa nay phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vơ số, tỉnh bao người?)
Sắc sảo trong cách nhìn và tỉnh táo trong phán xét, Cao Bá Quát đã thực sự vẽ
dựng nên một bức tranh cuộc đời, cũng là bức tranh nhân sinh:
– Phần đông con người – tầm thường mang bản chất tham lam, vị kỉ và bon chen.
Thế nên, tự cổ chí kim (cổ lai), bọn người ấy mới khốn khổ, mới vội vã, mới xô bồ
trên con đường danh lợi:
Xưa nay phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
– Cũng chính vì ham, vì mê mải trên con đường danh lợi, mà bọn người thuộc số
đông ấy thật dễ bị dẫn dụ, bị cám dỗ, bị mê hoặc bởi bao nhiêu thứ “mĩ tưủ” dậy
hương đưa từ đời, từ tửu điếm- nhân sinh:
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người.



Những câu thơ của thi sĩ họ Cao như chiếu một góc nhìn trong tâm thế vừa
thầm lặng cơ đơn, lại cũng vừa thầm lặng kiêu hãnh; nỗi cô đơn và niềm kiêu hãnh
của một con người không muốn và khơng thể tan hồ trong đám chúng sinh bon
chen cầu danh lợi. Mượn những hình ảnh hiện hữu đơn phương từ những “danh lợi
nhân”, Cao tiên sinh đã tạo nên thế tương phản, đối lập thầm lặng mà quyết liệt
giữa cái tầm thường với cái thanh cao; giữa cái ồn ã sục sôi từ thiên hạ với cái lặng
lẽ, cao ngạo từ con người – bản thể của mình.
Cao Bá Quát cũng đồng thời nói lên một sự thực mang tính quy luật: người
tỉnh trên cõi thế, giữa thời loạn luôn là người gánh chịu nỗi cô đơn. Cô đơn nên
mới một mình vất vưởng trên sa mạc mà cũng là hoang mạc – thời đại. người nghệ
sĩ – kẻ sĩ chân chính cũng phải biết chấp nhận cơ đơn, đau buồn mới tạo cho mình
một tư thế khả dĩ đối mặt với đời.
2.3. Khúc ca đường cùng – Khúc ca bi tráng
Tứ thơ của “Sa hành đoản ca” – trong những câu thơ cuối đang thực sự vận
động với nội lực đầy day dứt, trăn trở như sắp bùng phát cơn bão tố của lòng
người:
Trường sa trường sa nại cừ hà?
(Bãi cát dài, bãi cát dài biết tính sao đây?)
Một câu thơ, một câu hỏi – tự nó ngân vang lời bi thiết trước hiện trạng như bế
tắc, bần cùng khi con người đi đường mà chưa tìm ra đường. Chỉ thấy trước mắt:
đường thật nhiều ám ảnh, ghê sợ mà “bước đường bằng phẳng thì mờ mịt”!
“Sa hành đoản ca” của Cao Bá Quát, chợt cất lên tiếng thơ, tiếng hát khởi phát
từ lịng người, thật lạ:
Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca
(Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”)
Cái hay và ấn tượng trong những con chữ của Cao Bá Quát là ở chỗ: tác giả
dùng chữ “ca” (hát) chứ khơng dùng chữ “thuyết” (nói). Thế nên khơng thể:
“Thính ngã nhất xướng cùng đồ thuyết” (hãy nghe ta nói lời đường cùng).

Nỗi bi phẫn, u uất trong lịng, làm sao chỉ giải toả bằng lời nói thường tình?


Phải cuồng ca, sảng ca – những lời ca dậy lửa, dậy sóng từ con tim đang ngập tràn
nỗi đau và niềm kiêu hãnh. Khúc ca bi tráng của Cao Bá Quát đã đến độ cao trào
của cảm hứng. Trước cảnh tượng điệp trùng vây bủa của núi, của sóng, của cát…
phải biết đi tìm sự giải thốt cho số phận:
Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp,
Nam sơn chi nam ba vạn cấp.
(Phía bắc núi Bắc núi mn trùng,
Phía nam núi Nam sóng mn đợt)
Nhà thơ họ Cao chợt tìm đến mà hạ bút kết lại “Sa hành đoản ca” trong một
câu thơ lạ. Và, cũng chính vì lạ mà chợt nâng cao và rộng mở, tầm cảm xúc và suy
tư cho toàn bộ thi phẩm; tứ thơ cũng đột ngột dâng trào từ hình thức nghi vấn.
Quân hồ vi hồ sa thượng lập?
(Anh còn đứng làm chi trên bãi cát)
Bài thơ khép lại bằng câu hỏi với bao nhiêu băn khoăn, u uất. Nhưng, cũng
chính từ câu chữ ấy, lại đánh thức sự tung phá và giải thoát cho con người và cảnh
ngộ. Với Cao Bá Quát, con đường giải thốt cho số phận mình là tìm đến và tham
gia cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương (1854) chống lại triều Nguyễn. Từ buồn đau, bế tắc
và cô đơn, trước bãi cát mịt mùng nghiệt ngã của cuộc đời – tiên sinh họ Cao tìm
đến kiêu hãnh giữa thiên nhiên khống đạt vĩnh hằng như tâm sự của ông trong
một bài thơ chữ Hán khác – “Quá Dục Thuý Sơn”:
Thiên địa hữu tư sơn
Vạn cổ hữu tư tự
Phong cảnh dĩ kì tuyệt
Nhi ngã diệc lai thử
(Trời đất có núi ấy
Mn thuở có chùa này
Phong cảnh đã kì tuyệt

Lại thêm ta đến đây)


Bài tham khảo 2
Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, Mãn Hiên, người làng Phú
Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội). Là
người nổi tiếng học giỏi, có tài văn thơ và viết chữ Hán rất đẹp nên Cao Bá Quát
được người đời tôn vinh là thánh (Thần Siêu, thánh Qt). Khí phách, bản lĩnh và
hồi bão lớn lao của ông vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp của chế độ phong kiến.
Cao Bá Quát sống ở giai đoạn nửa đầu thế kĩ XIX, khi nhà Nguyễn đã tiêu diệt
Tây Sơn, thiết lập một chính quyền phong kiến chuyên chế hà khắc, sưu cao thuế
nặng, khơng coi trọng tầng lớp trí thức Bắc Hà. Đây là thời kì có nhiều cuộc nổi
dậy của nơng dân;trong đó có cuộc khởi nghĩa ở Sơn Tây mà Cao Bá Quát đã tham
gia. Thơ văn của ông thể hiện thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ,
bảo thủ và phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trước nguy cơ bị xâm
lược bởi thế lực thực dân phương Tây. Có người cho rằng hình tượng nhân vật
Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân chính là bóng dáng
của Cao Bá Qt.
Bài ca ngắn đi trên bãi cát được sáng tác sau những lần Cao Bá Qt vào
kinh đơ Huế thi hội. Hình ảnh những bãi cát trắng chạy dọc các tỉnh miền Trung
khiến tác giả liên tưởng và hình dung ra con đường danh lợi nhọc nhằn đáng ghét
mà ông buộc phải theo đuổi, cũng như sự ngột ngạt, bế tắc của xã hội đương thời.
Một giả định khác là bài thơ ra đời khi Cao Bá Quát đã làm quan cho triều đình
nhà Nguyễn, bắt đầu cảm thấy thất vọng về lí tưởng mà mình theo đuổi bấy lâu
nay và âm thầm tìm kiếm một lí tưởng khác đúng đắn hơn.
Nội dung bài thơ phản ánh tình cảnh tù túng, khơng lối thốt của tầng lớp trí
thức trong thời kì khủng hoảng của chế độ phong kiến. Đồng thời thể hiện niềm bi
phẫn trước thực trạng xã hội, thái độ khinh bi phường danh lợi và khát khao của
những kẻ sĩ chân chính muốn sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa.
Phiên âm chữ Hán của bài thơ như sau:

Trường sa phục trường sa,
Nhất bộ nhất hồi khước.


Nhật nhập hành vị dĩ,
Khách tử lệ giao lạc.
Quân bất học tiên gia mĩ thuỵ ơng,
Đăng sơn thiệp thuỷ ốn hà cùng!
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đố trung.
Phong tiổn tửu điếm hữu mĩ tửu,
Tĩnh giả thường thiểu tuý giả đổng.
Trường sa, trường sa nại cừ hà ?
Thản lộ mang mang uý lộ đả.
Thính ngã nhất xướng cùng đổ ca,
Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp,
Nam sơn chi nam ba vạn cấp,
Quân hổ vi hồ sa thượng lập?
Dịch thơ tiếng Việt:
Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người ?
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!

Tính sao đây ? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ cịn nhiểu, đâu ít ?
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng",


Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt Anh đứng làm chi trên bãi cát ?
Chủ đề bài thơ được tác giả thể hiện qua ba hình ảnh: bãi cát dài, con đường đi
trên bãi cát và người đi trên bãi cát.
Bài thơ vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh bãi cát dài mênh mơng khơng có
điểm dừng, gợi ra một con đường bất tận, mờ mịt: Bãi cát lại bãi cát dài; … Bãi
cát dài, bãi cát dài ơi. Hình ảnh bãi cát dài có ý nghĩa nghệ thuật độc đáo vì nó
mang tính sáng tạo, khơng vay mượn từ văn học Trung Quốc như nhiều hình
tượng thơ khác mà được lấy từ hiện thực là những cồn cát trẳng hoang vu, rợn
ngợp mà tác giả đã từng vượt qua nhiều lần trên con đường vào kinh ứng thí. Dải
đất miền Trung, đặc biệt là hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị bề ngang rất hẹp, phía
Tây là dãy Trường Sơn, phía Đơng là biển. Trước mắt người đi chi thấy cát, núi và
sóng biển mà thơi.
Cùng với hình ảnh bãi cát dài là hình ảnh những con đường: Đường bằng mờ
mịt, Đường ghê sợ, đường cùng. Hai câu thơ: Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt vừa là hình ảnh thực, vừa mang ý nghĩa tượng
trưng cho đường đời đầy gian nan, thử thách.
Tác giả cảm nhận rằng con đường vượt bãi cát dài có những nét tương đồng
với con đường công danh khoa cử nhọc nhằn, thất bại thì nhiều, thành cơng thì ít,
nhưng đã lỡ bước vào nên khơng biết tính sao đây?
Bản thân Cao Bá Quát đã nếm trải đủ mùi cay đắng của việc thi cử. Đi thi từ
năm 13 tuổi (1822), đến lần thứ tư (1831) mới đậu cử nhân, lại bị đánh tụt xuống
tận chót bảng. Sau đó ơng cịn lận đận thêm ba lần thi Hội nữa mà vẫn không đỗ.
Ngay khi bước chân lên con đường danh lợi gắn với lí tưởng của tầng lớp Nho sĩ
trong xã hội phong kiến, nhà thơ đã nhận thấy sự bế tắc và mâu thuẫn không giải

quyết nổi. Nên đi tiếp hay dừng lại ? Dừng lại cũng khơng thể được. Cịn đi tiếp
thì khơng biết sẽ dẫn đến đâu ?
Hình ảnh con người đì trên bãi cát dài thật nhỏ bé và vất vả;
Đi một bước như lùi một bước.


Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mất rơi.
Người đi đường có nhiều loại, mỗi loại mang một tâm trạng khác nhau. Vơ số
kẻ say vì men thơm quán rượu thoảng từ đầu gió. Phải chăng hơi men thơm tượng
trưng cho sự lôi cuốn, dẫn dụ ghê gớm của công danh?! Trước ma lực ấy, liệu mấy
người cịn giữ được sự tỉnh táo, sáng suốt?!
Khơng học được tiên ồng phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vồ số, tĩnh bao người ?
Câu thơ thấm đẫm cảm xúc tự oán. Nhà thơ chán nản vì nhận ra rằng mình đã
tự hành hạ thân xác bằng cách theo đuổi công danh. Tại sao mình đã biết con
đường cơng danh là gian nan, mờ mịt, là đường cùng mà vẫn phải cố từng bước,
từng bước dấn thân, nhưng càng đi lại càng như thụt lùi. Theo điển tích về “phép
ngủ” của tiên ơng trong sách Thần tiên thập dị thì Hạ Hầu Ấn lúc leo núi hay lội
nước vẫn cứ nhắm mắt ngủ say. Người bên cạnh nghe thấy tiếng ngáy mà ông vẫn
bước đều khơng hề trượt vấp. Vì thế nên thiên hạ mới gọi ông là tiên ngủ. Cao Bá
Quát ước ao có được phép ngũ như tiên ơng, sống mà khơng nhìn thấy, nghe thấy
gì hết trong cuộc đời.
Những câu thơ tiếp theo phần nào giải thích lí do vì sao người ta cứ phải trèo
non, lội suối. Đó chính là do cái bả công danh cám dỗ. Những kẻ ham danh lợi xưa
nay đều tất tả chạy ngược chạy xuôi, cũng giống như người đời thấy quán rượu

ngon ở đâu là tranh nhau đổ xô đến, mấy ai tỉnh táo để thoát khỏi sự cám dỗ của
rượu. Danh lợi cũng là một thứ rượu mê hoặc con người. Cao Bá Quát tỏ thái độ
khinh rẻ phường danh lợi chi biết say sưa với bả vinh hoa phú quý và ông bắt đầu
cảm thấy sẽ là vô nghĩa nếu vẫn tiếp tục đi trên con đựờng ấy. Những câu thơ chất
chứa tâm trạng day dứt, băn khoăn: nên đi tiếp hay từ bỏ ? Mà câu trả lời thì


khơng dễ dàng gì. Nhà thơ nhận rõ sự vơ nghĩa của con đường cơng danh khoa cử
trong hồn cảnh thực tại, nhưng nếu đi tiếp thì sẽ phải đi như thế nào đây?
Người đi trên bãi cát dài bỗng nhiên dừng lại. Nỗi chán ngán, tuyệt vọng
choán đầy tâm hồn bởi vì: Đường bằng mờ mịt, Đường ghê sợ cịn nhiều, đâu ít?
Có lẽ đã đến bước đường cùng? Nếu khơng đi tiếp thì đi đâu?! Tâm trạng bế tắc và
tuyệt vọng bao phủ lên cả người đi, cả bãi cát dài. Bức xúc đến thế thì người đi chĩ
còn cách là cất lên tiếng hát buồn thảm về con đường cùng của mình:
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt Anh đứng làm chi trên bãi cát ?
Tâm trạng của tác giả khi đi trên bãi cát dài là nhận thức rõ con đường danh
lợi đầy nhọc nhằn chơng gai, cần phải thốt ra khỏi bãi cát cuộc đời ấy nhưng chưa
thể tìm được một con đường nào khác. Người đi trên bãi cảt dài tự thấy sự vơ
nghĩa trong hành động của mình và ngao ngán đến cực độ: Bãi cát dài bãi cát dài
ơi. Tỉnh sao đây đường bằng mờ mịt… và tự hỏi: Anh đứng làm chi trên bãi cát đó
là cái cảm giác bất lực, tuyệt vọng, đành đứng chôn chân trôn bãi cát, chịu một
khối mâu thuẫn lớn đè nặng lên tâm hồn. Hình tượng người lữ hành ấy vừa cơ độc,
vừa cả quyết lại vừa tuyệt vọng trên con đường đi tìm chân lí gian trn, mờ mịt.
Tâm trạng phức tạp của nhân vật dự báo một hành động bứt phá, một sự phản
kháng âm thầm với trật tự hiện hành. Tư tưởng tiến bộ của Cao Bá Quát thể hiện ở
cho ơng đã nhận rõ tính chất vơ nghĩa của lối học khoa cử và con đường tiến thân
theo lề lối cũ.
Trong bài thơ, tác giả đã đặt mình ở nhiều vị trí khác nhau để bộc lộ tâm trạng

và đối thoại với chính mình. Cao Bá Qt sử dụng nhiều đại từ xưng hơ khác
nhau, Có khi ơng dùng từ khách (khách là một danh từ đối lập với chủ), có khi lại
dùng từ qn (anh, ơng – đại từ nhân xưng ngơi thứ hai số ít), có chỗ lại dùng từ
ngã (tôi, ta – đại từ nhân xưng ngơi thứ nhất số ít). Tuy nhiên, tất cả đều để chi bản
thần tác giả. Khi gọi là khách, nhà thơ nhìn mình như nhìn một người khác. Khi
gọi là anh, nhà thơ như đối thoại với mình. Khi xưng ta, tác giả muốn trực tiếp thổ


lộ tâm sự. Các cách xưng hô trên đều thể hiện thái độ trăn trở, bức xúc của nhà thơ
trên con đường tạo lập cơng danh, sự nghiệp.
Vậy là hình tượng người đi trên bãi cát dài được tác giả thể hiện khơng đơn
nhất mà đa chiều. Khi thì được miêu tả như một khách thể, khi lại như một người
đối thoại, khi lại như một chủ thể tự thể hiện. Thậm chí có khi tác giả cho chủ thể
ẩn đi. Mục đích là nhằm bày tỏ những tâm trạng, thái độ khác nhau, trước những
hoàn cảnh khác nhau.
Nội dung Bài ca ngắn đi trên bãi cát phần nào lí giải nguyên nhân tại sao Cao
Bá Quát đã đứng về phía nơng dân khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà
Nguyễn.
Trước hết, bài thơ cho thấy thái độ chán ghét danh lợi và nhận thức đúng đắn
của tác giả về sự bế tắc của lối học hành khoa cử theo kiểu cũ. Diễn biến tâm trạng
của tác giả là từ băn khoăn, phân vân đến gay gắt tự hỏi: Anh đứng làm chi trên
bãi cát.
Bài thơ là tâm sự chân thành của một kẻ sĩ có tầm tư tưởng lớn, ý thức rất rõ
vể sự trì trệ, bế tắc của thời đại. Đây cũng là cảm giác thất vọng của tác giả trước lí
tưởng mà mình tơn thờ. Sự bế tắc, tuyệt vọng trước đường cùng đã được đẩy đến
đỉnh điểm.
Cao Bá Quát đã thể hiện những mâu thuẫn sâu sắc trong tư tưởng của bản thân
và của xã hội đương thời một cách nghệ thuật. Đó là mâu thuẫn giữa khát vọng
sống cao đẹp với hiện thực đen tối; giữa tinh thần dám xả thân của một kẻ sĩ chân
chính với thói cẩu an hưởng lạc của người đời giữa lí tưởng phị vua giúp nước của

một đấng nam nhi với những khó khăn gian khổ khó vượt qua trên con đường tiến
thân.
Bài ca còn thể hiện cảm xúc bi phẫn và cảm quan nhạy bén của Cao Bá Quát
về một thời đại đen tối, đầy nghịch cảnh đối với những bậc trí thức tài hoa; đồng
thời đánh dấu sự thức tĩnh của một số kẻ sĩ trước con đường cơng danh truyền
thống. Phải chăng điều đó đã gợi cho chúng ta một suy nghĩ và nhận xét: xã hội
phong kiến đương thời không thể dung nạp được lí tưởng của Cao Bá Quát. Con


người ấy nhất định không chịu đứng chôn chân trên bãi cát mà đang nung nấu thái
độ phản kháng âm thầm nhưng quyết liệt với trật tự hiện hành. Cao Bá Quát đã
nhận thấy cần phải làm một việc gì đó lớn lao hơn, có ích cho đời hơn. Đó cũng là
lí do đưa ơng đến với cuộc khởi nghĩa của nông dân, chọn con đường phản kháng
chống lại triều đình nhà Nguyễn, để rồi cuối cùng phải chịu kết thúc bi thảm.
Bài thơ đứợc viết theo thể hành, khá tự do về kết cấu, vần và nhịp điệu. Các
câu thơ dài ngắn khác nhau (câu 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ), nhịp ngắt của mỗi câu thơ
cũng đa dạng phù hợp với việc phản ánh tâm trạng phức tạp đầy băn khoăn, dạy
dứt của người đi trên bãi cát dài (nhịp 2/3 : Trường sa / phục trường sa; nhịp 3/5:
Quàn bất học / tiên gia mĩ thụy ông nhip 4/3: Phong tiền tửu điếm / hữu mĩ tửu).
Nhiều câu có ngữ điệu cảm thán: (Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng), ngữ điệu hỏi:
(Trường sa, trường sa nại cừ hà? Quân hồ vi hồ sa thượng lập?).
Nhịp điệu của Bài ca ngắn đi trên cát là nhịp gập ghểnh, trúc trắc của những
bước đi khó nhọc trên bãi cát dài, trên con đường công danh khoa cử gian nan, vất
vả và đáng chán. Đặc biệt, câu thơ cuối cùng là một câu hỏi day dứt và ám ảnh.
Lời ca mang âm hưởng u buồn, ngầm chứa thái độ phản kháng của tác giả đối với
trật tự xã hội hiện hành và cảnh báo sự đổi thay tất yếu trong tương lai.
Bài tham khảo 3
Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt
Anh đứng làm chi trên bãi cát ?

Cao Bá Quát là một nhà nho nổi tiếng học giỏi và viết chữ đẹp nhưng rất lận
đận về đường cơng danh. Sống trong cảnh chính quyền phong kiến hà khắc,
chuyên chế, áp bức dân lành, ông cũng như những người khác thuộc tầng lớp trí
thức, dù có tài nhưng cũng khơng được coi trọng. Khí phách, bản lĩnh và hồi bão
lớn lao của ơng đã khiến ơng trở nên chán ghét những khn khổ bó hẹp của chế
độ phong kiến hủ bại. Các tác phẩm của ông thể hiện sự bất mãn đối với những bất
công, ngang trái trong cuộc đời và đối với chế độ đương thời. “Bài ca ngắn đi trên
bãi cát” là một tác phẩm được sáng tác sau khi tác giả đi qua miền Trung, nhìn


những bãi cát dài trắng chạy dài vơ tận. Đó là bãi cát – hay cũng chính như cuộc
đời, như đương cơng danh mà những người trí thức lúc bấy giờ vẫn đang theo
đuổi, nhọc nhằn, mờ mịt.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh người đi khó nhọc trên bãi cát:
“Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.”
Những bãi cát dài cứ nối tiếp nhau không bao giờ ngững nghỉ, tựa như chẳng
thấy điểm kết thúc. Bốn bề đều là một màu cát trắng, núi và biển. Chỉ thấy màu
nắng, màu cát mà thôi. Trong khung cảnh vắng lặng ấy, có một người đang lê từng
bước khó nhọc, “đi một bước như lùi một bước”. Giữa thiên nhiên mênh mông,
giữa bốn bề cát trắng, con người thật nhỏ bé, cô độc biết bao.
“Mặt trời đã lặn, chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”
Mặt trời đã lặn, nhưng làm sao có thể dừng bước vì giữa biển cát, biết tìm đâu
ra chỗ ngủ cho đêm nay. Một con đường đi, cứ đi, đi mãi mà chẳng thể dừng lại,
mà tiếp cũng chẳng biết bao giờ sẽ tới nơi.
Hình ảnh con đương trên cát bất tận, hình ảnh người lữ khách nhỏ bé bất lực
giữa thiên nhiên, hay đó chính là con đường cơng danh mà Cao Bá Quát, cũng như
rất nhiều những trí sĩ đương thời đang dấn thân vào. Một con đường đầy gian nan,
thử thách, cay đắng, mệt nhọc. Ngay chính nhà thơ, cũng rất lận đận với con

đường thi cử, công danh, rất nhiều lần bị đánh tụt hạng, đánh trượt trong các khoa
thi nhưng cũng chỉ biết chấp nhận.
Bất lực, bế tắc, nhà thơ chỉ biết tự ốn:
“Khơng học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người ?”


Nhà thơ chỉ tiếc mình khơng thể học được phép ngủ của tiên ông, cứ sống mà
mặc kệ mọi danh lợi, mọi ốn hận của thế gian. Mắt khơng thấy thì tâm khơng
đau. Nhìn người, nhìn mình. Biết con đường công danh là gian nan, là phải “tất tả”
ở nơi phường danh lợi, thế nhưng vẫn cứ dấn thân vào. Rồi càng đi vào, càng thấy
hoang mang, không biết lối ra cũng chẳng thể dừng lại. Vì cơng danh phải vất vả.
Vì cơng danh phải cố bước. Bởi cơng danh như hơi men rượu, lôi cuốn, hấp dẫn
người ta, như hơi men trong gió từ quán rượu, cũng đủ làm người ta say trong mê
muội. Vơ số người tìm đến rượu, bị rượu hấp dẫn, rồi say trong đó khơng biết lối
ra. Có biết bao người say, có được bao nhiêu người tỉnh táo để không bị cái danh
lợi mê hoặc? Nhà thơ tỉnh, nhưng rồi tỉnh vói nỗi băn khoăn khơng biết con đường
này có nên đi tiếp hay không?
Người đi trên bãi cát đã quá cùng cực, chán ngán, tuyệt vọng:
“Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây ? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiểu, đâu ít ?
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”
Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt
Anh đứng làm chi trên bãi cát ?”

Người lữ khách loay hoay, cô độc, chỉ biết hỏi nơi bãi cát vơ tri xem phải tính
sao với con đường khó khăn này. Đường bằng thì mờ mịt, mà đường gập ghềnh
ghê sợ thì cũng đâu phải ít. Đường cơng danh là thế, biết bao chơng gai, cạm bẫy
ln rình rập. Làm thế nào để được sống như mình muốn trên con đường ấy đây?
Một cảm giác tuyệt vọng, bất lực trào dâng trong lòng người khách độc hành, chỉ
biết cất lên khúc hát “đường cùng” để bày tỏ tâm trạng.
Nhìn bốn bề, chỉ thấy sóng, thấy núi, chưa có một con đường nào để người lữ
khách có thể bước đi cả. Nhưng chẳng lẽ đứng mãi nơi cồn cát ấy? Anh cịn đứng
làm gì trên bãi cát ấy. Hãy đi đi, băng qua núi, băng qua biển, có gian truân, có vất
vả nhưng có lẽ sẽ khơng cịn mờ mịt như việc anh đi cứ hoài trên bãi cát kia. Câu


hỏi cuối, như dự báo một hành động dứt khoát lựa chọn rời khỏi đường công danh,
mà lựa chọn một con đường, một lí tưởng cho riêng mình.
Bài thơ là lời tâm sự, băn khoăn của một trí thức có tư tưởng, có hồi bão lớn,
khơng cam chịu bó buộc trong những gị bó của chế độ phong kiến bất công, đồng
thời cũng là báo hiệu cho sự thức tỉnh của một con người, một thế hệ.
Bài tham khảo 4
Cao Bá Quát là một trong những nhà thơ nối tiếng sống trong một xã hội coi
trọng người Nam hơn người Bắc. Chính điều này đã gây nên nhiều điều bất bình
xảy ra trong nhà Nguyễn. Ơng là người có bản lĩnh, có cá tính trong cuộc sống
thời ấy. Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát có thể được tác giả làm trong khi đi thi
Hội, là thời điểm ông rất muốn thi thố tài năng, thực hiện ý chí của mình. Nó biểu
lộ sự chán ghét cũa một người trí thức đối với con đường danh lợi tầm thường
đương thời và niềm khao khát thay đổi cuộc sống.
Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Không học được tiên ông phép ngủ,

Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trẽn đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ cịn nhiều, đâu ít?
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.


Anh đứng làm chi trên bãi cát?
Mới vào bài thơ ta thấy cụm từ “bãi cát” được lặp lại hai lần: “Bãi cát lại bãi
cát dài". Bãi cát ớ đây là hình ảnh được tác giả tả thực gợi lên một khơng gian khó
khăn, dài thăm thẳm. Thơng thường chúng ta đi trên cát rất khó, khơng giống như
đi trên đường đất bình thường, chân bước tới cứ bị trượt về sau. Trên bãi cát ấy là
một con đường rộng lớn, mờ mịt, rất khó mà xác định phương hướng như đứng ớ
bên này nhìn qua bên kia chân trời. Đó khơng chỉ là ruột con đường thực, mà là
con đường hiểu theo nghĩa tượng trưng cho một con đường xa xơi, mờ mịt. Để tìm
được chân lí, tìm được cái đích thực sự có ý nghĩa cho cuộc đời thì con người phải
vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ đầy thử thách.
Trên bãi cát ấy có hình ảnh một con người (tác giả), người đi trên bãi cát. Một
con người nhỏ bé, lẻ loi, cô độc đi trên một bãi cát rộng, dài bao la, quanh quanh
hình ảnh con người ấy. Bước chân của người đi cát rất khó khăn, như giậm chân
tại chỗ “Đi một bước như lùi một bước”. Ta thấy được nỗi chán nản, bất mãn của
tác giả khi thấy mình hành hạ thân xác để theo đuổi con đường công danh.
“Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước

Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.”
Người đi trên bài cát ở đây lịng ai ốn vì con đường cơng danh của mình mãi
chưa tới đích, khơng đành lịng làm một kẻ “ngủ qn” để có cớ mà rời bỏ đường
di.
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất cả trên dường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vơ số, tỉnh bao người?
Tác giả cịn nói đến sự cám dỗ của công danh đối với người đời. Nhận định


mang tính khái quát về những kẻ ham danh lợi đều phải chạy ngược chạy xi,
hình ảnh đó được tác giả minh hoạ bằng những hình ảnh thực tế của cuộc sống là ở
đâu có quán rượu ngon người nhậu đều đổ xơ đến, có được máy ai tỉnh táo để
thốt ra khỏi sự cám dỗ của rượu. Từ đó tác giả cũng muốn liên tường đến người
đọc vấn đề danh lợi cũng là một thứ rượu dễ làm thay đổi lịng người. Ơng khinh
bỉ những phường danh lợi tầm thường kia, nhưng cũng nhận ra sự cơ độc của
mình. Phải chăng, con đường mà ơng dấn thân vào, lí tưởng mà ơng đeo đuổi, chỉ
là điều vơ ích, chẳng ai thèm để ý, quan tâm. Ơng khơng có người ủng hộ, đồng
hành. Niềm xúc động ấy đã đưa tác giả trở về với hiện thực. Điều này chuẩn bị cho
kết luận của ơng đó là cần phải thốt ra khỏi cơn say danh lợi vơ nghĩa. Nếu đi tiếp
thì rất có thể ơng cũng chỉ là một trong phường danh lợi mà ông từng khinh miệt,
phê phán. Nhưng nếu dừng lại, ơng cũng khơng biết mình sẽ đi đâu. về đâu. Có cả
một khối mâu thuẫn đang đè nặng lên tâm hồn của tác giả lúc này. Sự dằn vặt ấy là
sự nuối tiếc vì đường đau khổ, mờ mịt nhưng lại q đẹp đè, cao sang. Thơi thì
đành đứng chôn chân trên bãi cát vậy.
Người đi trên cát bỗng nhiên dừng lại.

Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?
Hãy nghe ta hút khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc, núi muốn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.
Anh đứng làm chi trên bãi cát?
Nỗi băn khoăn choáng váng lấp đầy tâm hồn. Và lần đầu tiẽn, người đã phân
vân tự hỏi, vậy là thế nào, có nên đi tiếp, hay từ bỏ nó “Tính sao đây? Đường bằng
mờ mịt". Nếu đi tiếp, cũng không biết phải đi như thế nào. Bởi vì, “Đường bằng
thì mờ mịt - Đường ghê sợ thì nhiều!” vì thế, có lẽ đã đến bước đường cùng? Nỗi
bế tắc và tuyệt vọng phù trùm lên cả người đi, cả bãi cát dài. Người đi chỉ cịn có
thể cất lên tiếng hát về con đường cùng của mình, về sự tuyệt vọng của mình.


Tóm lại bài thơ “Bài ca ngắn đi trên cát" được thể hiện theo cách đa chiều. Khi
thì được miêu tả như một khách thể, khi thì lại như một người đối thoại. Thậm chí
tác giả cịn cho ẩn chủ thể. Mục đích là nhằm có những tâm trạng khác nhau, thái
độ khi đứng trước những hoàn cảnh khác nhau. Nó biểu lộ sự chán ghét của một
người trí thức đối với con đường danh lợi và niềm khao khát thay đổi cuộc sống.



×