Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Thị trường tự do có làm xói mòn nhân cách đạo đức hay không? pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 53 trang )


Tác phẩm dịch DC-16


Thị trường tự do có làm xói mòn nhân cách
đạo đức hay không?

Phạm Nguyên Hoàng dịch







© 2011 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tác phẩm dịch DC-16


Thị trường tự do có làm xói mòn nhân cách
đạo đức hay không?
Nhiều tác giả
Phạm Nguyên Hoàng dịch










Quan điểm được trình bày trong bài viết này là của (các) tác giả và không nhất thiết
phản ánh quan điểm của dịch giả hoặc VEPR.

2

Mục lục
Lời giới thiệu 3
Bài 1: Ngược lại 4
Bài 2: Điều đó còn tùy thuộc 7
Bài 3: Đúng, Nhưng… 11
Bài 4: Không 15
Bài 5: Tất nhiên là như vậy 19
Bài 6: Không! Và, Có 23
Bài 7:Chắc chắn. Hay là có phải vậy không? 27
Bài 8: Đúng, Quá Thường Xuyên 30
Bài 9: Không, Nếu so sánh 34
Bài 10: Thà chúng ta không biết 37
Bài 11: Không chút nào 40
Bài 12: Tất cả còn tùy thuộc 44
Bài 13: Không 48

3

Lời giới thiệu

Trong mùa hè năm 2011, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) đã thực
hiện hai Khóa học Hè về Những nền tảng của kinh tế thị trường cho các bạn sinh viên khối kinh
tế và khoa học xã hội tại miền Bắc và miền Nam. Để chuẩn bị tài liệu cho khóa học, một thành

viên của Ban tổ chức là ThS. Phạm Nguyễn Hoàng (Trung tâm Nghiên cứu Khoa học và Đào tạo
chứng khoán - Ủy ban Chứng Khoán Nhà nước) đã dụng công dịch toàn bộ
13 bài thảo luận
trong cuộc tranh luận Does the free market corrode moral character? do Quỹ John Templeton tổ
chức và sau đó tập hợp lại dưới dạng
một cuốn sách nhỏ. Cuộc thảo luận này nằm trong chuỗi
những cuộc thảo luận về “Các vấn đề lớn” (“Big Questions”) do Quỹ John Templetion tổ chức,
nhằm thu nhận những trao đổi từ các nhà khoa học, học giả và các nhân vật nổi tiếng về những
câu hỏi lớn của thời đại chúng ta.
Có một sự trùng hợp thú vị, là khi khóa học diễn ra, Ban tổ chức mới biết rằng một Khách
mời củ
a chương trình là dịch giả Phạm Nguyên Trường, người ủng hộ kinh tế thị trường và chủ
nghĩa tự do, cũng đã dịch tập tiểu luận này từ trước đó, và đăng tải trên blog cá nhân của ông.
Toàn bộ phần dịch của ông đã được VEPR công bố trong Tác phẩm Dịch
DC-15: Thị trường tự
do có làm băng hoại các giá trị đạo đức hay không?.
Sự trùng hợp này cho thấy những người cùng chia sẻ một mối quan tâm, hay rộng lớn hơn,
một lý tưởng, thường dễ dàng gặp nhau, dù không hẹn trước.
Hai phiên bản tiếng Việt của tập tiểu luận có hơi khác nhau một chút (phiên bản của ThS.
Phạm Nguyễn Hoàng theo sát bản được công bố trên trang web của Quỹ John Templetion, còn
bản của dị
ch giả Phạm Nguyên Trường có nhiều hơn một tiểu luận, và được sắp xếp theo thứ tự
khác), nhưng đều là những bản dịch có chất lượng cao, thể hiện công phu và tâm huyết của
người dịch. Để độc giả có thêm điều kiện tham khảo, VEPR trân trọng công bố cả hai phiên bản
tiếng Việt. Bản dịch này của ThS. Phạm Nguyễn Hoàng được đánh số DC-16, với tự
a đề: Thị
trường tự do có làm xói mòn nhân cách đạo đức hay không?.
Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
TS. Nguyễn Đức Thành
10/2011.

4

Bài 1: Ngược lại

Jadish Bhagwati
Jadish Bhagwati là giáo sư đại học về kinh tế và luật học tại Đại học Columbia, thành viên
cao cấp kinh tế quốc tế trong Hội đồng Quan hệ đối ngoại, và là tác giả của “Bảo vệ Toàn cầu
hoá”. Ông viết nhiều về chính sách công và thương mại quốc tế.
Tôi có thể khẳng định từ kinh nghiệm bản thân là, nếu bạn cố gắng nói về thị trường tự do
tại các khu học xá ở
các trường đại học, bạn sẽ bị chôn vùi trong hàng loạt những lời chỉ trích về
toàn cầu hoá. Sự phản đối của các khoa và sinh viên đối với việc mở rộng thị trường quốc tế bắt
nguồn phần lớn từ cảm giác về lòng vị tha. Nó phát triển từ sự lo ngại của họ về các vấn đề xã
hội và đạo đức. Một cách đơn giản, họ
tin rằng toàn cầu hoá thiếu một bộ mặt nhân đạo. Tôi có
một cách nhìn ngược lại. Tôi cho rằng toàn cầu hóa dẫn tới không chỉ sự sáng tạo và lan rộng của
của cải mà còn là những thành quả thuộc về đạo đức và những nhân cách tốt hơn cho các bên
tham gia.
Nhiều người chỉ trích tin rằng toàn cầu hoá ngăn cản các vấn đề xã hội và đạo lý, như là việc
giảm lao động trẻ em và nghèo đói tạ
i các nước nghèo và việc thúc đẩy bình đẳng giới và bảo vệ
môi trường. Song, khi tôi trình bày các vấn đề này và một số vấn đề khác trong cuốn sách của
tôi, Bảo vệ toàn cầu hoá, tôi nhận ra rằng kết quả thực tế lại ngược với những ai sợ hãi nó.
Ví dụ, nhiều người tin rằng các nông dân nghèo sẽ hưởng ứng những cơ hội lớn hơn về mặt
kinh tế do toàn cầu hoá đem l
ại bằng cách cho con cái của họ nghỉ học và bắt đi lao động. Vì thế,
việc mở rộng thị trường tự do sẽ có thể là một cách thức độc ác. Nhưng tôi nhận ra rằng điều
5

ngược lại là đúng. Hoá ra là trong nhiều trường hợp, thu nhập cao hơn được thực hiện từ kết quả

toàn cầu hoá – ví dụ thu nhập tăng lên của những nông dân trồng lúa ở Việt Nam, đã thúc đẩy
những bậc cha mẹ tiếp tục cho con đi học. Rút cuộc là họ đã không còn cần tới những khoản thu
nhập còm cõi từ một lao động trẻ em tăng thêm có thể mang lại.
Hoặc là xem xét bình
đẳng giới. Với toàn cầu hoá, những ngành nào sản xuất hàng hoá và
dịch vụ có thể trao đổi được sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh quốc tế mạnh mẽ hơn. Sự cạnh
tranh này đã làm giảm khoảng cách tại nhiều nước đang phát triển giữa tiền công trả cho những
nhân công nam và nữ có trình độ ngang nhau. Tại sao? Bởi vì các công ty cạnh tranh toàn cầu
nhanh chóng nhận thấy rằng họ không thể
tiếp tục giữ những thành kiến ủng hộ nam giới. Dưới
sức ép cắt giảm chi phí và hoạt động hiệu quả hơn, họ ngày càng chuyển từ lao động nam giới
chi phí cao sang lao động nữ rẻ hơn, vì thế thù lao trả cho lao động nữ tăng và trả cho lao động
nam giảm. Toàn cầu hoá chưa tạo ra bình đẳng về lương, nhưng chắc chắn đã thu hẹp khoảng
cách.
Hiện nay có rấ
t nhiều bằng chứng cho thấy Ấn Độ và Trung Quốc, hai nước cùng có những
vấn đề đói nghèo to lớn, đã và đang có thể tăng trưởng rất nhanh bằng cách tận dụng lợi thế
thương mại và đầu tư nước ngoài, và thông qua đó đã giảm được đói nghèo một cách đáng kể.
Họ vẫn còn con đường dài phía trước, nhưng toàn cầu hóa đã cho phép họ cải thiện những đ
iều
kiện cơ bản cho hàng trăm triệu người dân. Một vài nhà chỉ trích đã lên án quan điểm tấn công
đói nghèo thông qua tăng trưởng kinh tế là một chiến lược “nhỏ giọt” chậm rãi. Họ gợi lên
những hình ảnh về những người quý tộc và tư sản no nê, háu ăn đang đánh chén đùi cừu trong
khi những người hầu và chó dưới gầm bàn thì ăn những mẩu thịt và mảnh vụ
n rơi vãi. Trong
thực tế, tập trung vào tăng trưởng được miêu tả tốt hơn như là một chiến lược “kéo lên” mang
tính xã hội. Những nền kinh tế tăng trưởng kéo người nghèo lên những công việc có lợi và giảm
đói nghèo.
Thậm chí nếu họ chấp nhận rằng toàn cầu hoá nhìn chung giúp đạt được những mục tiêu xã
hội nhất định, một số người chỉ trích vẫn tranh luận rằng nó làm suy thoái nhân cách đạo

đức. Họ
nói rằng một thị trường tự do mở rộng sẽ bành trướng sang những lĩnh vực mà lợi nhuận được
theo đuổi, và việc tìm kiếm lợi nhuận làm cho mọi người ích kỷ và xấu xa. Nhưng điều này khó
có thể hợp lý. Hãy xem những người dân ở Calvin trong lịch sử Hà Lan được Simon Schama
miêu tả. Họ kiếm lợi từ thương mại quốc tế, nhưng họ
đã nuôi dưỡng lòng vị tha của mình thay
6

vì những ham muốn cá nhân, chứng tỏ những gì mà Schama đã gọi một cách thích hợp là “sự
lúng túng của người giàu”. Sự tự kiềm chế tương tự có thể nhìn thấy ở Jains of Gujerat, một bang
ở Ấn Độ quê của Mahatma Gandhi. Sự giàu có mà Jains khai thác được từ các hoạt động thương
mại xuất phát từ các giá trị của họ chứ không phải là một cách khác.
Đối với sự ảnh hưởng mà toàn cầu hoá tiếp tục di
ễn ra với nhân cách đạo đức, cho phép tôi
trích dẫn một quan điểm của John Stuart Mill khi ông viết trong Các nguyên lý kinh tế chính trị
(1848) như sau:
Lợi thế kinh tế của thương mại bị vượt qua về tầm quan trọng bởi những lợi thế từ tác động
của nó, là những gì thuộc về tinh thần và đạo đức. Trong trạng thái thấp hiện nay về sự cải thiện
con người, thật khó có thể đ
ánh giá quá cao giá trị của việc việc đặt con người trong mối liên hệ
với những người không giống nhau, và với các hình thức tư tưởng và hành động không phải của
họ…Có thể nói không ngoa rằng phạm vi rộng và sự gia tăng nhanh chóng trong thương mại
quốc tế là sự đảm bảo chính của hoà bình thế giới, là an ninh lâu bền nhất đối với quá trình tiến
triển không ngừng của các ý tưởng, thiết chế, và nhân cách của loài ng
ười.
Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, chúng ta liên tục nhìn thấy những hiện tượng mà Mill
đã miêu tả. Khi các công ty đa quốc gia của Nhật mở rộng hoạt động trong thập kỷ 80, những
nhân viên điều hành nam mang theo vợ của họ tới tận New York, London, và Paris. Khi những
phụ nữ truyền thống Nhật Bản này nhìn thấy phụ nữ được đối xử như thế nào ở phương Tây, họ
đã h

ấp thụ ý tưởng về quyền và sự bình đẳng của nữ giới. Khi trở về Nhật, họ trở thành các hạt
nhân cải cách xã hội. Thời nay, tivi và Internet đang đóng một vai trò khổng lồ trong việc mở
rộng ý thức xã hội và đạo đức vượt ra ngoài ranh giới những cộng đồng và quốc gia-dân tộc.

Adam Smith nổi tiếng đã viết về “một người nhân đạo ở châu Âu”, là người sẽ không “ngủ
tối nay” nếu “anh ta phải mất ngón tay út vào ngày mai” nhưng sẽ “ngủ ngon với sự yên tâm cao
nhất” nếu một trăm triệu người Trung quốc “đột nhiên bị nuốt gọn bởi một trận động đất”, bởi vì
“anh ta chưa bao giờ nhìn thấy họ”. Đối với chúng ta, những người Trung quốc này không còn
nhìn thấy n
ữa, đã nằm ngoài phạm vi mà David Hume đã gọi là vòng tròn đồng tâm của sự đồng
cảm. Cuộc động đất vào mùa hè năm ngoái tại Trung quốc, với những hậu quả mang tính thảm
hoạ đã ngay lập tức được truyền tới các màn hình của chúng ta, đã được phần còn lại của thế giới
đón nhận không phải với sự thờ ơ mà là sự cảm thông và ý thức sâu sắc về trách nhiệ
m đạo đức
đối với các nạn nhân Trung quốc. Đó là giờ phút đẹp nhất của toàn cầu hoá.
7

Bài 2: Điều đó còn tùy thuộc

John Gray
John Gray là giáo sư danh dự tại Trường Kinh tế Luân Đôn. Những sách viết gần đây của
ông là: “Buổi đầu sai lầm: Những ảo tưởng về chủ nghĩa tư bản toàn cầu” (False Dawn: The
Delusions of Global Capitalism), và “Tập hợp đen tối: Tôn giáo khải huyền và cái chết của xã
hội không tưởng” (Black Mass: Apocalyptic Religion and the Death of Utopia).
Thị trường tự do làm xói mòn một số khía cạnh về tính cách trong khi nâng cao một số khía
cạnh khác. Sau khi cân nhắc kỹ có thể thấy k
ết quả trên là tốt hay không còn phụ thuộc vào việc
người ta nhìn nhận một cuộc sống tốt như thế nào. Một phần nhiều cũng phụ thuộc vào việc liệu
người ta có tin là những hệ thống kinh tế khác có thể hoạt động tốt hơn. Câu hỏi này chỉ có thể
được trả lời bằng cách so sánh những sự thay thế thực tiễn và bằng cách hiểu được những hệ

th
ống khác nhau thúc đẩy như thế nào việc hình thành những tính cách không giống nhau.
Điều quan trọng là tránh những suy nghĩ về những mô hình lý tưởng. Trong những năm gần
đây đã có xu hướng nghĩ rằng thị trường tự do nổi lên một cách tự phát khi sự can thiệp của Nhà
nước vào nền kinh tế được dỡ bỏ. Nhưng thị trường tự do không đơn giản là sự vắng mặt của
Chính phủ. Thị
trường phụ thuộc vào những hệ thống luật pháp để quyết định những gì có thể
giao dịch như là hàng hoá và những gì không thể. Nô lệ bị cấm ở các nền kinh tế thị trường hiện
đại; tống tiền và khiêu dâm trẻ em cũng như vậy. Thị trường tự do luôn luôn bao gồm một số hạn
chế đạo đức về mặt này, và đây là điều do Chính phủ ki
ểm soát. Nói một cách tổng quát hơn, thị
trường tự do phụ thuộc vào các loại quyền tài sản - và những quyền này cũng được áp đặt và
thường được tạo ra bởi Chính phủ.
8

Thị trường tự do tồn tại ở nước Anh giữa thời kỳ trị vì của nữ hoàng Victoria không phải vì
Nhà nước rút ra khỏi nền kinh tế, mà là do quyền lực Nhà nước được sử dụng để tư hữu hóa đất
đai vốn đã tồn tại dưới nhiều hình thức sở hữu chung khác nhau hoặc không do ai sở hữu. Kinh
tế tự do (laissez faire) một vài thập kỷ tại Anh trong thế kỷ 19
đã có thể tồn tại nhờ Luật tịch
biên. Những luật này do Quốc hội ban hành và bắt đầu từ nửa sau của thế kỷ 18 đã chuyển những
lao động nông trại khỏi nông thôn và tạo ra tầng lớp lao động công nghiệp và đó là cơ sở nhân
lực cho thị trường tự do. Nhưng với sự mở rộng của quyền bầu cử dân chủ vào cuối thế kỷ 19 và
đầu thế kỷ 20, những công nhân này bắt đầu đòi hỏi rằng hoạt động kinh tế phải phụ thuộc vào
những quy chế khác nhau. Kết quả cuối cùng là một nền kinh tế thị trường có quản lý tồn tại ở
nước Anh và nhiều nước ngày nay.
Một quan điểm lịch sử là có ích bởi vì nó cho phép chúng ta nhìn các hệ thống kinh tế như là
các thực thể sống. Trong thực tế, những thị
trường tự do hiếm khi vận hành theo những mô hình
do các nhà kinh tế xây dựng nên. Có những thời kỳ tăng vọt và bong bóng, bùng nổ và phá sản.

Chỉ có trong các sách giáo khoa về kinh tế học cho rằng thị trường tự nó điều chỉnh. Trên nền
tảng này, mối quan hệ giữa kinh tế học và đạo đức có thể được nhìn nhận ngày càng rõ ràng hơn.
Một nét tính cách có ý nghĩa nhất do thị trường tự do mang lại là tính táo bạo của các doanh
nghiệ
p, sự sẵn lòng đầu cơ và đánh cược, và khả năng nắm bắt và tạo ra cơ hội mới. Cũng cần
lưu ý rằng những điều đó không phải là những tính cách được ca ngợi nhất bởi những nhà luân lý
học bảo thủ. Sự cẩn trọng, tính tiết kiệm và khả năng chịu đựng sức ép một cách kiên nhẫn
những hình thức cuộc sống giố
ng nhau có thể là những phẩm chất đáng ngưỡng mộ, song chúng
không phải luôn dẫn tới thành công trên thị trường tự do.
Trong thực tế, khi thị trường biến động mạnh, những nét bảo thủ này có thể chính là con
đường dẫn tới huỷ hoại. Trang bị lại công cụ cho mọi người, sắp đặt lại, chuyển đổi nghề nghiệp
– những hoạt động chấp nhận rủi ro này giúp mọi ngườ
i tồn tại và thịnh vượng trong những nền
kinh tế thị trường tự do. Song kiểu hành vi rủi ro này không nhất thiết tương thích với các giá trị
truyền thống vốn nhấn mạnh giá trị của việc duy trì những gì gắn bó với con người.
Adam Smith, một trong những người khai sinh ra kinh tế học trường phái tự do, cũng là một
người chỉ trích sắc sảo đối với xã hội thương mại. Smith sợ r
ằng kinh tế thị trường xuất hiện
trong thời kỳ của ông có thể khiến cho công nhân phải lang bạt trong các thành phố thiếu những
cộng đồng gắn kết. Theo như ông nhận thức, động lực mang tính phá vỡ của thị trường không
9

thể chỉ giới hạn trong phạm vi thị trường. Thị trường tự do đòi hỏi mức độ di động cao và sự sẵn
sàng chắc chắn thoát khỏi các mối quan hệ không còn lợi ích. Một xã hội trong đó con người liên
tục di chuyển sẽ không thể là một xã hội có các gia đình ổn định hoặc tuân thủ luật pháp.
Cuối cùng, câu trả lời cho vấn đề này phụ thuộc vào việc người ta nhậ
n thức như thế nào về
một cuộc sống tốt. Những gì mà một nhà đạo đức học truyền thống nhìn nhận về một gia đình đổ
vỡ có thể được một người theo chủ nghĩa tự do nhìn nhận như là việc thực hiện quyền tự chủ cá

nhân. Đối với những người theo chủ nghĩa tự do, sự lựa chọn cá nhân là thành tố quan trọng số
ng
còn nhất đối với một cuộc sống tốt, trong khi những người bảo thủ có thể xem việc bảo tồn
những định chế truyền thống là quan trọng hơn. Đối với những xã hội phương Tây hiện đại, tôi
có xu hướng quan điểm tự do. Nhưng điểm quan trọng không phải chỉ là những khái niệm nào
trong số này người ta chấp nhận. Thay vào đó, nó là như thế này: m
ột vài đặc điểm thuộc về đạo
đức được tạo ra thông qua thị trường tự do, nhưng chúng cũng làm hủy hoại những đặc điểm
khác. Nếu chúng giải phóng sự lựa chọn cá nhân, đồng thời chúng làm suy thoái một số đức
hạnh truyền thống. Một người không thể có mọi thứ.
Rủi ro đạo đức của thị trường tự do không có nghĩa là các hệ thống kinh t
ế khác là tốt hơn.
Những hệ thống kế hoạch hoá tập trung đã làm suy thoái nhân cách một cách có hại hơn nhiều và
tạo ra ít hơn lợi ích về mặt hiệu quả và năng suất. Những nền kinh tế kế hoạch hoá thuộc khối
Sô-viết, trong phạm vi có thể, chỉ có thể hoạt động được nhờ có các thị trường tự do và chợ đen
hoạt động chui. Tham nhũng thì tồn tạ
i khắp nơi. Trong mô hình Mác xít, tình trạng hỗn loạn của
thị trường do tính vụ lợi gây ra được thay thế bởi kế hoạch hoá dựa trên chủ nghĩa vị tha. Nhưng
cuộc sống thật sự ở các xã hội Sô-viết lại giống như một bức tranh biếm hoạ cực đoan về chủ
nghĩa tư bản tự do, một môi trường lộn xộn và lãng phí trong đó mỗi ngườ
i đều đấu tranh để
được sinh tồn. Nhân chi sơ tính bản ác là quy tắc, và lòng vị tha là ngoại lệ. Trong những hoàn
cảnh này, những người có kỹ năng tồn tại phát triển tốt nhất và ít cân nhắc những khía cạnh đạo
đức nhất đã làm việc tốt nhất.
Không có hệ thống kinh tế nào có thể nâng cao mọi khía cạnh của nhân cách đạo đức. Tất cả
phụ thuộc trong một phạm vi nào đó vào nhữ
ng động cơ đáng đặt dấu hỏi về mặt đạo đức. Lòng
tham và sự ghen tị có thể là thói xấu xa, nhưng chúng cũng là những nhân tố kích thích kinh tế.
Một hệ thống kinh tế là tốt trong phạm vi nó khắc phục những khiếm khuyết của con người và vì
phúc lợi của con người. Sự lựa chọn không phải là giữa những mô hình trừu tượng như là thị

10

trường tự do và kế hoạch hoá tập trung. Trong thực tế lịch sử, cả hai mô hình này đều không tồn
tại dưới hình thức do những người cổ suý nó hình dung. Sự lựa chọn thật sự là giữa những sự
pha trộn khác nhau của các thị trường và cơ chế quản lý, và không có mô hình nào trong số này
sẽ là tốt lành hoàn toàn về mặt đạo đức. Một sự pha trộn hợp lý không thể đạt được bằng cách áp
d
ụng một mô hình lý tưởng về nền kinh tế nên vận hành như thế nào. Những sự kết hợp khác
nhau sẽ là tốt nhất trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Nhưng có một điều rõ ràng: một
nền kinh tế thị trường hiện đại không thể hoạt động mà không có một thước đo về sự suy thoái
đạo đức.




















11

Bài 3: Đúng, Nhưng…

Garry Kasparov
Cựu vô địch cờ vua thế giới Garry Kasparov là lãnh đạo của liên minh ủng hộ dân chủ có
tên Một nước Nga khác. Ông là tác giả của một cuốn sách về việc ra quyết định: “Cuộc sống mô
phỏng cờ vua như thế nào”, và diễn thuyết trước giới kinh doanh ở nhiều nước. Ông hiện đang
sống tại Mát-xcơ-va.
Thị trường tự do là một lò lửa cạnh tranh có thể tạo ra nền tả
ng cho nhân cách con người.
Cạnh tranh là khốc liệt, và khi sự sinh tồn bị đe dọa, sẽ không còn chỗ trống nào cho đạo đức.
Nhưng để nói lại lời của Churchil, cho dù có những thiếu sót, một thị trường tự do vẫn ưu việt
hơn tất cả các thoả thuận kinh tế khác đã từng diễn ra.
Trước hết có vẻ rõ ràng là một hệ thống dựa hoàn toàn vào tính tư lợi sẽ dẫn t
ới sự mục
ruỗng đạo đức cá nhân. Nếu bạn tạm dừng ngay việc trợ giúp anh em mình trong lúc đấu tranh
giành vị trí dẫn đầu – để chiến đấu với đối thủ cạnh tranh, để tối đa hoá thu nhập, để mua một
ngôi nhà lớn hơn – bạn sẽ bị vượt qua ngay bởi những người không có những mối quan tâm này.
Trong một thị trường hoàn toàn tự do, liệu có thể tồn tại mộ
t sự cân nhắc như thế nào nhằm lợi
ích của một người anh em?
Bất chấp bản chất dường như là tàn bạo của các lực lượng thị trường không có quản lý, có
hai con đường quan trọng theo đó có thể cải thiện phúc lợi xã hội, phần nhiều giống như định
luật của Darwin tạo ra các dạng thức cuộc sống thích nghi tốt nhất. Thứ nhất, nếu nhân cách đạo
đức do xã hội đánh giá, nó có thể nằm trong lợi ích của một người nhằm thực hành và thuyết
giáo hành vi đạo đức. Dường như có ít ý nghĩa đối với một công ty khi họ đóng góp một phần lợi
nhuận vào quỹ từ thiện khi đồng tiền đó thay vì thế có thể dùng cho việc nâng cao vị thế cạnh
12


tranh của công ty. Nhưng chúng ta biết rằng việc đóng góp này có thể nâng cao hình ảnh của
công ty theo cách nó nâng cao vị thế cạnh tranh. Trong một thị trường tự do, sự nổi tiếng được
dựa trên quan điểm chung, và nhận thức có thể trở thành một lợi ích vật chất.
Thứ hai, nếu xã hội (hoặc ít nhất là đa số trong xã hội) đạt tới một điều mà ta gọi là trạng
thái thặng dư, trong
đó sự sống còn không còn phải lo lắng, mọi người đều có được sự thoả mãn
nhân cách đạo đức của mình. Không ai sẽ lấy đi thức ăn đang được thèm khát khỏi miệng của
chính đứa con của mình để đem đi cho một đứa trẻ nhà khác. Sự trao tặng và bản năng đạo đức
của chúng ta tồn tại, nhưng chúng xếp sau đòi hỏi phải phát triển. Tính hào phóng làm cho lòng
từ thiệ
n trở nên khả thi.
Tất nhiên, có những ngoại lệ đối với cả hai quy tắc này, mặc dù chúng chỉ làm mạnh thêm
hoàn cảnh chung cho thị trường tự do. Khi thiếu cạnh tranh thực sự, không có lợi thế thương mại
nào cho hành xử đạo đức. Điều này được chứng minh quá rõ qua hành vi keo kiệt của các thế lực
do Nhà nước bợ đỡ hoạt động ở nước Nga hiện nay. Một nhóm chi phối đơn giản ch
ẳng quan
tâm đến danh tiếng.
Những quốc gia giàu tài nguyên như Arập Xê út và (ngày càng rõ và thật không may) nước
Nga có thể tạo ra tài sản thặng dư bất chấp nền kinh tế mệnh lệnh và nạn tham nhũng có thể viết
thành sách. Nhưng có một sự thặng dư có được mà không cần trách nhiệm – đối với nhân công,
cổ đông, và người tiêu dùng (hoặc cử tri, tôi có thể thêm vào) – dẫn tới tham nhũng đủ loại hình.
Hầu hết tấ
t cả các quốc gia đang hưởng lợi nhiều nhất từ giá năng lượng tăng cao kỷ lục gần đây
đã sử dụng tài sản không làm mà có này để khống chế quan điểm bất đồng và bảo tồn những chế
độ hà khắc nhất thế giới này.
Những người phụ thuộc vào thiện chí của hàng xóm có xu hướng hành động đạo đức. Các
công ty dựa vào sự trung thành của nhân công, sự
ưu ái của người tiêu dùng, và sự ủng hộ của
các nhà đầu tư cũng như vậy (để nói thật, nếu phải đạo đức như họ cần có). Và các chính phủ
dựa trên sự tham gia và đóng thuế của công dân cũng như vậy. Mặc dù sự theo đuổi không

ngừng của tính tư lợi có thể mua chuộc, một thị trường tự do rõ ràng tạo ra những động lực cho
hành vi đạ
o đức. Những hệ thống khác thiếu những động lực cụ thể này.
Những nhà tư tưởng xã hội không tưởng ở thế kỷ 19 đã chắc chắn rằng một thiên đường xã
hội chủ nghĩa toàn cầu là không thể tránh khỏi. Nhìn quanh những sự quá đáng của cách mạng
công nghiệp, đặc biệt là tại Vương quốc Anh và nước Mỹ, họ tưởng tượng về một tươ
ng lai trong
13

đó sự hoà thuận sẽ thay thế đấu tranh và sự hợp tác vô tư sẽ thay thế cạnh tranh tàn độc. Đây là
một phản ứng có thể thông cảm và hiểu được đối với sự chịu đựng mang lại bởi các lực lượng thị
trường tự do không được kiềm chế và chưa tạo ra tập hợp lớn giá trị thặng dư. (Người ta có thể
chỉ vào hàng triệu người nghèo
đói trên thế giới hiện nay và tranh luận rằng chúng ta vẫn không
đủ giàu có để tin tưởng vào thị trường tự do). Chắc chắn rằng họ nghĩ sẽ phải có một cách tốt
hơn trong một tương lai tươi sáng hơn.
Giấc mơ xã hội chủ nghĩa chỉ dựa một phần trên sự bất mãn với hiện trạng tư bản chủ nghĩa.
Nó cũng một phần là niềm tin vào tính b
ản thiện của con người. Đối với cơ hội và nền giáo dục
đầy đủ, những người lý tưởng tin rằng, con người sẽ hy sinh lợi ích riêng trước mắt để đổi lấy
một điều tốt hơn. Điều đó đến lượt mình cuối cùng sẽ tạo ra sự dư thừa thoải mái cho tất cả và
chấm dứt nỗi khổ trên diện rộng củ
a con người.
Có thể sẽ có ít sự thống khổ trong một thế giới trong đó con người ước vọng sự hoà thuận và
mãn nguyện hơn là cạnh tranh và đạt được. Nhưng thế giới đó không tồn tại. Chúng ta là sản
phẩm của tổ tiên chúng ta đấu tranh để tồn tại. Và chúng ta rất nguy hiểm đã phủ nhận những
bản năng của chúng ta. Khi đối mặt với ước muốn t
ự nhiên trong con người chúng ta, sự khao
khát trỗi dậy về bình đẳng đã nhanh chóng biến thành sự bình đẳng ép buộc. Các động lực tự tạo
của hành vi đạo đức được thay thế bằng các sắc lệnh và trừng phạt. Cà rốt nhường đường cho

cây gậy.
Tôi dành nửa đời mình sống dưới chế độ này ở Liên Xô. Ở đó, nguyện vọng của mỗi một
người bị đè nén và dồn vào nh
ững gì đã được dự định là định mệnh vĩ đại quốc gia. Nhưng nếu
không có sự tham gia tự nguyện của toàn thể công dân, nhân cách đạo đức không thể được trao
hoặc thiết lập mà không có bản thân ý chí tự do. Liên Xô nhanh chóng rơi vào chế độ độc tài và
khủng bố giống như là nhiều quốc gia cộng sản khác.
Sự thay thế không phải là tình trạng vô chính phủ; một xã hội không phải là xã hội đáng
s
ống nếu không có quy tắc luật pháp và sự bảo vệ những nhóm thiểu số về chính trị, tôn giáo và
kinh doanh. Thay vào đó, sự lựa chọn là một hệ thống trong đó tự do cá nhân được kết hợp với
các động lực hành xử một cách đạo đức. Kinh tế thị trường tự do –cùng với dân chủ, đó là thị
trường tự do của các ý tưởng – là gần nhất với những gì mà chúng ta vừa bàn.
Vì thế
, đúng, thị trường tự do có thể dẫn tới việc mua chuộc nhân cách đạo đức. Bản chất
của con người luôn là muốn nhiều hơn, và thị trường tự do cho phép những ham muốn này với ít
14

sự bảo vệ cho những người không phát triển được. Nhưng cố gắng kiềm chế những bản năng và
ham muốn con người này sẽ dẫn tới những tội ác lớn hơn. Tất cả những bằng chứng cần có có
thể tìm thấy trong thế kỷ qua tại nước Nga, từ Nga hoàng đến Liên Xô và đến chế độ cầm quyền
hiện nay của Putin./.
























15

Bài 4: Không


Qinglian He
Qinglian He là một nhà kinh tế học người Trung Quốc và từng là một biên tập viên cao cấp
của “Nhật báo pháp luật Thâm Quyến”. Bà là tác giả của bài viết: “Những cạm bẫy của hiện
đại hoá: Các vấn đề kinh tế và xã hội của Trung Quốc đương đại” và “Màn khói của sự kiểm
duyệt: Kiểm soát báo chí ở Trung Quốc.”
Trong những thế kỷ qua, thế giới đã chứng kiến nhiều con đường theo đó m
ột thị trường tự
do hiệu quả gia tăng các tiến bộ vật chất và xã hội trong khi tăng cường các nhân cách đạo đức.
Ngược lại, những người đã sống trong sự cạnh tranh hiện đại sơ khai của thị trường tự do dưới
nền kinh tế kế hoạch hoá do ý thức hệ chi phối đã phải phải chịu đựng khi hoạt động kinh tế bị

đình tr
ệ, xã hội dân sự bị tàn lụi, và đạo đức bị suy thoái. Trong những thập kỷ gần đây, những
nền kinh tế kế hoạch hoá đã sụp đổ trong sự mâu thuẫn của chính nó, môi trường không tưởng
này đã chứng tỏ là sự thất bại mang tính hệ thống. Những công dân đã phải chịu đựng nhiều năm
trong khủng hoảng kinh tế, đạo đức và chính trị đã háo hức lo
ại bỏ nó.
Tất nhiên, nền kinh tế thị trường không phải là một hệ thống hoàn hảo. Nhưng những khuyết
tật của thị trường bắt nguồn từ những hoạt động và sự thúc đẩy của những người tham gia trong
đó hơn là do từ bản thân thiết kế thị trường. Kinh nghiệm đã dạy chúng ta rằng một thị trường tự
do có mối liên hệ mật thi
ết với một xã hội tự do. Trong những xã hội tự do, con người có thể
hành động tốt hơn cùng nhau để cải thiện cuộc sống của họ. Xã hội tự do ban cho con người cơ
hội làm cho những hệ thống chính trị và xã hội của chính họ trở nên công bằng hơn. Nói chung,
những hoạt động này hỗ trợ hơn là làm xói mòn đạo đức.
16

Từ một góc nhìn so sánh lịch sử, chúng ta có xu hướng định nghĩa thị trường như là một hệ
thống kinh tế xã hội hoàn thiện, bao gồm cả các thiết chế kinh tế, quan hệ xã hội và nền văn hoá.
Nhưng khi chúng ta phân tích mối quan hệ giữa thị trường và đạo đức, sẽ hợp lý nếu sử dụng
một định nghĩa hẹp hơn về thị trường như là những quy tắ
c điều phối hoạt động kinh tế.
Vậy thị trường hay đạo đức là tác nhân rõ nhất trong phân tích của chúng ta? Chúng ta phải
thừa nhận rằng những phán xét đạo đức về các hoạt động kinh tế xã hội đặc thù là khác với
những phán xét đạo đức về các quy tắc thị trường. Các giá trị và đao đức kinh doanh định hình
hành vi của các nhân vật kinh tế. Nếu hoạt động của họ kéo theo những hệ qu
ả không được ưu
thích hoặc không dự kiến, chúng ta nên tìm kiếm một sự giải thích trước hết là trong các định
chế xã hội hỗ trợ thị trường chứ không phải là bản thân các quy tắc thị trường.
Những thảo luận về “đạo đức hoá thị trường” - nghĩa là về viêc làm mềm đi một vài hậu quả
của tăng trưởng hoặc là từ sự mở rộng toàn cầ

u của thị trường – được giải quyết tốt nhất là với
những ưu tiên văn hoá xã hội của các thành viên kinh tế. Các quốc gia, các tổ chức quốc tế, hoặc
những nhóm và phong trào dân sự phải giúp định hình những giá trị mới và những mối quan tâm
về đạo đức trước khi họ có thể hy vọng định hình những quy tắc thị trường và chứng kiến hành
vi được mong ước hơn.
Tấ
t cả các hoạt động kinh tế đều được gắn vào các hoàn cảnh văn hoá xã hội. Từ thế kỷ thứ
10 ở Trung Quốc đến thế kỷ 21 ở châu Âu, tiêu dùng và sản xuất đã vận hành theo các giá trị đạo
đức phổ biến. Và trong tất cả các hoàn cảnh lịch sử, cái nhìn đạo đức đã luôn được liên hệ với
các tín ngưỡng tôn giáo. Ví dụ, có một nhận thức ngày nay là người dân theo tôn giáo ở các nước
Đông Á có xu h
ướng lương thiện trong kinh doanh. Ngược lại, ở Trung Quốc đương đại, nơi tôn
giáo đã từng bị cấm và vẫn còn bị kiểm soát một cách chặt chẽ bởi Nhà nước, đạo đức nghèo nàn
trong kinh doanh trở nên phổ biến trong khi kinh tế thị trường đang bén rễ.
Các nhân tố khác cũng ảnh hưởng đến góc nhìn đạo đức. Sự toàn cầu hoá về kinh tế và văn
hoá trong những thập kỷ gần đ
ây đã du nhập vào các nước đang phát triển không chỉ các thiết
chế kinh tế mới mà còn là các thể thức và giá trị của phương Tây vốn liên tục thay đổi. Xu
hướng nổi lên gần đây là các sản phẩm tiêu dùng thân thiện môi trường và sự thiết lập các chuẩn
mực quốc tế về điều kiện làm việc, giống như là trong bộ 8000 chuẩn mực về trách nhiệm xã hội
được xây dự
ng một thập kỷ trước. Cả hai đều là các ví dụ nổi bật của việc dịch chuyển tập tục,
17

nhưng yếu tố sau đã có ảnh hưởng lớn hơn nhiều đối với các nước như Trung quốc, nơi đã cải
thiện các điều kiện làm việc trong nhiều nhà máy trước đây vốn là các cơ sở lao động khổ sai.
Sự điều chỉnh căn bản các giá trị đạo đức đang xảy ra trong các xã hội chuyển đổi hiện nay,
giống như là các nền kinh tế
kế hoạch hoá đã từng biệt lập trước đây hiện nay đang được chuyển
hoá thành các hệ thống thị trường có tính kết nối. Chắc chắn là di sản của các tổ chức mang tính

thống kê và vai trò của các thành phần chủ đạo có thể làm chậm hoặc cản trở sự điều chỉnh này.
Ở châu Âu, sự hội nhập của các nước khối Sô viết cũ vào hệ thống th
ương mại tự do của châu
lục dường như không phải kéo theo nhiều hậu quả đạo đức tiêu cực. Nhưng ở Trung quốc, người
ta có thể dễ dàng tìm thấy bằng chứng về sự xuống dốc của cả đạo đức và triết lý kinh doanh.
Ảnh hưởng chính trị và các vị trí cơ quan chính phủ được mua bán bằng tiền, hối lộ giải thoát
người ta khỏi án phạt hình sự, chủ lao
động trẻ em hiếm khi bị phạt, và buôn bán máu và các bộ
phận cơ thể người trở thành một hiện tượng phổ biến.
Tất cả những hoạt động này là bất hợp pháp tại Trung quốc, nhưng chính phủ đều dung thứ.
Rõ ràng là đất nước này vẫn còn xa mới đạt được quy tắc luật pháp. Thật vậy, nó được cai quản
bởi một nhóm chính trị đứng trên luật pháp. Các tổ chức phi chính phủ
(NGOs) đang đấu tranh
chống lại những vấn đề phiền toái này, nhưng hoạt động của họ bị kiểm soát một cách chặt chẽ
và mỗi một tổ chức phải được giám sát bởi một cơ quan chính phủ. Thay vì tiến hành các hoạt
động mang tính quyết định để ngăn cấm các hoạt động “bất hợp pháp” về mặt danh nghĩa này,
chính phủ đã nỗ lực rất lớ
n kiểm soát báo chí và tranh luận trên Internet về “những tin tức tiêu
cực ảnh hưởng nguy hại đến hình ảnh chế độ.”
Vậy điều gì đáng trách đối với sự phi đạo đức hoá quá trình phát triển tại Trung quốc – bản
thân thị trường tự do hay sự thất bại của Nhà nước và riêng với nhóm cầm quyền? Những người
thiết lập và đảm bảo thực thi các quy tắc của mỗi thị tr
ường đóng vai trò tối quan trọng. Điều này
đặc biệt đúng ở Trung quốc, nơi chính phủ và các quan chức đảng lập ra luật pháp và giám sát
các hoạt động kinh tế cho dù thậm chí bản thân những người này cũng tìm cách kiếm lợi. Chính
sự dung thứ của họ đối với các hoạt động phi đạo đức, chứ không phải là sự tăng trưởng của thị
trường tự do, đã bóp méo trật tự
đạo đức của xã hội Trung quốc.
Dựa trên kinh nghiệm gần đây của Trung quốc, tôi có thể rút ra ba bài học quan trọng. Trước
hết, cho dù có tất cả các bài viết tán dương trên báo chí quốc tế, ảnh hưởng của chính phủ Trung

quốc đối với thị trường chưa phải là tích cực một cách tuyệt đối. Thứ hai, một thị trường bền
18

vững và mạnh đòi hỏi một cấu trúc chính trị dân chủ. Thứ ba, việc theo đuổi phát triển đạo đức là
một nhiệm vụ không kém phần quan trọng đối với Trung quốc so với việc khuyến khích phát
triển kinh tế./.





















19

Bài 5: Tất nhiên là như vậy


Micheal Walzer
Micheal Walzer là giáo sư danh dự tại Trường Khoa học Xã hội thuộc Viện Nghiên cứu cao
cấp Princeton, bang New Jersey. Ông tham gia làm biên tập viên cho “Cộng hoà mới” (New
Republic), đồng biên tập cho “Bất đồng ý kiến”, và gần đây nhất là tác giả của “Suy ngẫm theo
chính trị” (Thinking politically).
Cạnh tranh trên thị trường đặt mọi người vào sức ép lớn phải phá vỡ các quy tắc hành xử tao
nhã và sau đó tạo ra lý do để làm điều đó. Chính sự hợp lý hoá này – việc cần ph
ải liên tục tự lừa
dối mình để đáp ứng điều mấu chốt nói trên và vẫn cảm thấy bình thường về điều đó – đã làm
xói mòn nhân cách đạo đức. Nhưng bản thân điều này không phải là một luận điểm chống lại thị
trường tự do. Hãy nghĩ về những cách thức mà nền chính trị dân chủ cũng làm hỏng nhân cách
đạo đức. Cạnh tranh vì quy
ền lực chính trị đưa người ta vào sức ép lớn – hét lên những lời nói
dối tại các cuộc mít-tinh với công chúng, hứa suông những điều mà họ không thể làm, nhận tiền
từ các nhân vật mờ ám, và thoả hiệp các nguyên tắc không nên bị thoả hiệp. Tất cả những điều
đó phải được bảo vệ bằng cách nào đó, và nhân cách đạo đức không tồn tại được qua sự bảo vệ

này, ít nhất cũng không tiếp tục được mà không bị ảnh hưởng. Song những thói xấu hiển nhiên
này không tạo nên một quan điểm ngược lại dân chủ.
Để chắc chắn, cạnh tranh kinh tế và chính trị cũng tạo ra những dự án mang tính hợp tác
nhiều loại khác nhau – đối tác, công ty, đảng phái, hiệp hội. Trong phạm vi những dự án này, sự
cảm thông, tôn trọng lẫn nhau, tình hữu nghị, và sự đoàn kết được phát tri
ển và củng cố. Mọi
người sẽ học sự tính toán mang tính hợp tác trao và nhận. Họ đảm nhận các vị trí, chấp nhận rủi
ro, và tạo lập các liên minh. Tất cả các quá trình này xây dựng nên nhân cách. Nhưng do lợi ích
quá cao nên các bên tham gia trong các hoạt động này cũng học được cách giám sát và không tín
20

nhiệm lẫn nhau, che đậy các kế hoạch của mình, phản bội bạn bè, và – như chúng ta biết- từ

Watergate tới Enron. Họ trở thành các “nhân vật” trong các câu chuyện tương tự nhau về tham
nhũng công ty, rắc rối chính trị, cổ đông bị lừa gạt, và các cử tri bị lừa dối. Hãy để người mua
thận trọng! Hãy để cử tri thận trọng.
Có cách nào làm cho cạnh tranh kinh tế và chính trị an toàn đối với những người có
đạo đức.
Chắc chắn là không thể làm điều đó hoàn toàn an toàn được. Thị trường tự do và bầu cử tự do
vẫn nguy hiểm một cách cố hữu đối với tất cả các bên tham gia, không chỉ bởi vì con người, sản
phẩm, hay chính sách sai có thể đã thắng thế, mà còn là bởi chi phí chiến thắng cho những người,
sản phẩm, và chính sách ngay thẳng có thể là quá cao. Tuy nhiên, chúng ta không cư xử những
nguy cơ của thị tr
ường và các cuộc bầu cử theo một cách như nhau. Chúng ta làm việc chăm chỉ
để thiết lập các giới hạn về cạnh tranh chính trị và mở cửa nền chính trị cho cả những người ít
hay nhiều đạo đức tham gia. Ngày nay các chính trị gia không được công nhận rộng rãi như là
những tấm gương, một phần bởi vì họ sống phụ thuộc quá nhiều vào con mắt của các phương
tiện truyền thông, và mọi t
ội lỗi, mọi nhược điểm đều được truyền phát ra thế giới.
Tuy vậy, những nền dân chủ hiến pháp đã thành công trong việc chặn đứng những hình thức
tồi tệ nhất của tham nhũng chính trị. Chúng ta tự do trước ý muốn của các bạo chúa, sự ngạo
mạn của giới thượng lưu, sự trấn áp, bắt bớ chuyên quyền, sự kiểm duyệt, các phòng xử án và
phiên xử - tuy không quá tự do đến nỗi mà chúng ta không cần phải cảnh giác bảo vệ sự tự do
của chúng ta, song cũng đủ tự do để tổ chức sự bảo vệ này. Các chính trị gia nói dối quá thường
xuyên hoặc nuốt quá nhiều lời hứa thường có xu hướng thua trong bầu cử. Không, những tham
nhũng tồi tệ nhất của cuộc sống chúng ta không phải xuất phát từ chính trị mà là nền kinh tế, và
chúng xuất hi
ện bởi vì chúng ta không có những giới hạn tương tự mang tính hiến pháp đối với
hành vi thị trường.
Có lẽ thành quả quan trọng nhất của nền dân chủ hiến pháp là tách sự liều lĩnh ra khỏi chính
trị. Mất quyền lực không có nghĩa là bị bắn bỏ. Những người ủng hộ phía bên mất quyền lực
không bị bắt làm nô lệ hoặc phải sống lưu vong. Lợi ích trong đấu tranh quyề
n lực là thấp hơn

như thường thấy, và nó cải thiện đáng kể sự lựa chọn cách hành xử đạo đức. Nhà nước phúc lợi
hiện đại được cho là tiến hành điều tương tự đối với nền kinh tế: hiến pháp hoá thị trường bằng
cách đặt ra các giới hạn cho những gì có thể mất. Nhưng trong thực tế, ít nhất tại nước Mỹ,
chúng ta không có nhiều trong con
đường hiến pháp hoá thị trường. Đối với quá nhiều người,
21

cuộc tranh đấu mang tính cạnh tranh này là khá gần với sự tuyệt vọng. Điều đang rủi ro ở đây là
sự sống còn của gia đình, chăm sóc y tế cho con cái, giáo dục tử tế, tước vị cao khi tuổi già. Và
những rủi ro như vậy không có chỗ trống dành cho đạo đức. Những người đàng hoàng sẽ hành
xử một cách đàng hoàng, và hầu hết con người ta đều tử tế khi họ có thể
như vậy. Vẫn như vậy,
các hiệu ứng của cuộc đấu tranh là mang tính huỷ hoại một cách chắc chắn.
Một thành quả khác của nền hiến pháp là việc đặt ra các giới hạn trong quyền lực chính trị
của hầu hết những cá nhân có quyền lực. Họ phải sống với những quyền lực đối chọi, các đảng
phái và phong trào đối lập, các cuộc bầu cử
định kỳ, một nền báo chí tự do và đôi lúc mang tính
chỉ trích. Điểm đầu tiên của những giới hạn này là giảm thiểu các tác hại mà những nhân vật đã
suy thoái đạo đức có thể làm. Nhưng một số chính trị gia của chúng ta thực sự đã tiếp thu những
giới hạn này một cách vô thức, và đó là một quá trình xây dựng nhân cách quan trọng.
Chủ nghĩa thị trường hợp hiến sẽ áp đặ
t những giới hạn tương tự cho quyền lực kinh tế của
những người giàu có nhất. Nhưng rõ ràng một lần nữa chúng ta không có gì nhiều đối với một
hiến pháp thị trường. Những giới hạn về quyền lực kinh tế là rất yếu; quyền lực đối chọi của các
công đoàn lao động đã bị giảm xuống rất nhiều; hệ thống thuế đ
ang gia tăng luỹ tiến; quản lý
ngân hàng, đầu tư, chính sách định giá, và các quỹ hưu trí thì hầu như không tồn tại. Sự kiêu
ngạo của giới thượng lưu kinh tế trong vài thập kỷ qua đang thật ngạc nhiên. Và điều này bắt
nguồn từ một quan điểm được nhìn nhận rõ ràng là họ có thể làm bất kỳ điều gì muốn. Kiểu
quyền lực như vậy, theo như Acton

đã viết trước đây, đang trở nên đồi bại một cách sâu sắc.
Sự tham nhũng mở rộng đến chính trị, nơi mà ảnh hưởng của đồng tiền có được mà không
chịu han chế nào trong các thị trường không bị kiểm soát, làm cho xói mòn nền hiến pháp chính
trị. Ví dụ, bạn cần tiền để thực hiện một chiến dịch chính trị (vì một ứng cử viên tốt hoặc một lý
do hợp lý), và có ngay một người nào đó- một chủ ngân hàng, một đại gia doanh nghiệp- những
người có nhiều tiền và đang cung cấp để đổi lấy một thứ, chính sách hoặc là những luật nào giúp
cải thiện vị trí trên thị trường của họ. Phía bên kia cũng đang quyền tiền theo kiểu như vậy nhiều
nhất trong phạm vi khả năng. Nhân cách của bên nào sẽ không bị suy thoái đây?
Một vài người có th
ể tranh luận: có phải theo cách này nhân cách được thử thách? Nếu nền
hiến pháp thị trường giới hạn quyền lực của cải và nhà nước phúc lợi giảm được nỗi lo nghèo
đói, thì chúng ta sẽ có được phẩm giá một cách quá dễ dàng chăng? Có thể là dễ hơn, nhưng
không bao giờ là quá dễ. Hãy cân nhắc lại hai điều tương tự sau về mặt chính trị: có phải chúng
22

ta có phẩm giá quá dễ khi ta từ chối quyền lực chuyên chế của các Tổng thống và khi chúng ta
bảo vệ những người yếu thế khỏi bị bức hại? Sức ép mang tính phá vỡ trong cạnh tranh bầu cử
không mất đi. Chúng ta đặt ra các giới hạn đối với các sức ép nào không lưu tâm đến những
điểm yếu của con người. Và nếu chúng ta cần làm điều đó đối với các chính phủ, ch
ắc chắn ta
cũng phải thực hiện đối với thị trường.























23

Bài 6: Không! Và, Có

Michael Novak
Michael Novak là học giả quỹ George Frederick Jewett về Tôn giáo, Triết học, và Chính
sách công tại Viện doanh nghiệp Mỹ. Trong số hơn hai mươi lăm đầu sách của ông, có “Tinh
thần của chủ nghĩa tư bản dân chủ”, và gần đây là “Không có ai nhìn thấy thượng đế”.
Vào lúc ra đời nước Mỹ, hầu hết các xã hội đều được tổ chức dựa trên sự nắm giữ đất đai
của tầng lớp quý tộ
c hoặc là những cơ sở quân sự mạnh. Những người thành lập nước Mỹ phản
bác những mô hình này và tranh luận một cách tích cực rằng một xã hội mới, được xây dựng trên
cơ sở thương mại tự do, sẽ sinh ra cả một loạt các đức tính tốt mới và đồng thời chứng tỏ là an
toàn hơn, và có sự cam kết rõ hơn, với quy tắc luật pháp. Một xã hội như vậ
y sẽ không phải là
được dành cho việc theo đuổi quyền lực mà là tạo ra sự sung túc. Như Alexander Hamilton đã
ghi chú trong Những người chủ nghĩa liên bang số 12: “Sự thịnh vượng của thương mại bây giờ

được tất cả các chính khách đã được khai sáng cảm nhận và thừa nhận là nguồn của cải quốc gia
hữu dụng nhất đồng thời hiệu quả nhất, và vì vậy đã trở thành m
ột mục tiêu hàng đầu trong các
lưu tâm về chính trị.” Thương mại sẽ làm cho con người sao lãng khỏi những bè phái trước đây.
Ước vọng của họ sẽ chuyển từ các sự nghiệp chính trị sang các hoạt động thị trường, và tinh thần
hợp tác cần thiết cho các nền kinh tế thị trường sẽ dần dần gắn kết sự trung thành của họ với nền
cộng hoà rộng lớn h
ơn.
Một xã hội thương mại cũng có thể là tốt hơn rất nhiều đối với người nghèo, và nó sẽ có một
hiệu ứng có ích đối với công chúng và đạo đức cá nhân. Qua những nghiên cứu cẩn thận của
mình về lịch sử, những nhà sáng lập đã biết rằng một xã hội bắt nguồn từ sức mạnh quân sự có
xu hướng trở thành dễ bị đụng chạ
m và thất thường – phản ứng quá nhanh để chiến đấu chống lại
24

lòng kiêu hãnh bị tổn thương – với sự đánh đổi lớn và lặp đi lặp lại đối với người nghèo. Như
nhà triết học Xcốt- len David Hume đã khẳng định, các thế hệ nối tiếp nhau đã chứng kiến những
bước tiến nhỏ nhoi thoát ra khỏi đói nghèo. Các cuộc chiến vì danh dự, lòng hận thù và xung đột
giữa các hoàng đế, quốc vương và nam tước đã liên tục xoá bỏ bấ
t kỳ bước tiến nào vì người
nghèo.
Đối với tầng lớp quý tộc nhiều đất, những mảnh sân nhà của họ cũng được dành cho việc
tiêu khiển, giải trí , những cám dỗ và sự suy đồi. Mặc dù có rất nhiều bá tước và nam tước hào
hiệp đã là những chiến binh giỏi và xây dựng quân đội của chính họ, cuộc sống của họ nhìn
chung là nhàn rỗi. Họ ngồi mát ăn bát vàng trên những khối tài s
ản ngày càng mở rộng của mình
và những lao động nông dân. Họ đào tạo quân đội để sử dụng hết các nguồn thặng dư nông
nghiệp của chính mình, là những gì mà những cách thức nguyên thuỷ và sự thiếu vắng quy tắc
luật pháp (bên ngoài các thành phố lớn) đã ngăn cản không thể trở thành một nguồn lực cho
thương mại hiệu quả.

Việc tổ chức một xã hội mới trên c
ơ sở tầng lớp quý tộc hoặc quân sự sẽ là không an toàn
cho một nền cộng hoà, theo lời kết luận của những nhà sáng lập nước Mỹ. Một nền cộng hoà sẽ
cần những công dân độc lập, tự chủ, có tài phát minh và óc sáng tạo, không e ngại bàn tay bị bẩn,
tự hào là những công nhân chăm chỉ, tràn đầy động lực sáng tạo, và quyết tâm tìm ra những cách
thức làm việc tốt hơn (thường là ít nặ
ng nhọc hơn). Sự độc lập và sáng tạo, dẫn tới một lợi ích
chung được cải thiện liên tục, sẽ là thành quả của một xã hội thương mại, ít nhất đối với một nền
cộng hoà như là nước Mỹ non trẻ.
Hơn nữa, các nhà sáng lập nghĩ rằng một xã hội được xây dựng dựa trên thương mại sẽ phải
thiết lập trách nhiệm cá nhân tr
ước luật pháp. Không có một xã hội biết tuân thủ luật pháp mà
dựa trên toà án để cưỡng chế các hợp đồng, làm sao những người can dự vào thương mại có thể
chịu những rủi ro lớn trước khi họ được thanh toán thậm chí đầy đủ cho các nỗ lực của mình?
Các tàu thuỷ từ New England mang trà đen từ châu Á phải thanh toán trước khi họ có thể trở lại
và bán hàng. Cướp biển sẽ cần phải được chố
ng lại, không chỉ bởi luật thành văn mà còn bởi luật
pháp được thực hiện bằng cách chĩa súng trên biển (vì thế mà có các chiến dịch của Jefferson
chống lại cướp biển Barbery). Chẳng thế mà có khẩu hiệu của Amsterdam, khi đó là một thế giới
tư bản thương mại lớn trên thế giới và là một đối tượng thán phục của các nhà sáng lập, đó là:

×