Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Sổ tay hướng dẫn kỹ thuật canh tác cây nhãn thích ứng với biến đổi khí hậu: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.4 MB, 38 trang )

SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU


TỔ CHỨC CHỦ TRÌ:
Cục Trồng trọt và Ban Quản lý Trung ương Các dự án Thủy lợi
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
Viện Nghiên cứu Rau quả

TẬP THỂ BIÊN SOẠN:
TS. Đào Quang Nghị - Viện Nghiên cứu Rau quả
TS. Nguyễn Văn Dũng - Viện Nghiên cứu Rau quả
ThS. Bùi Công Kiên - Viện Nước, Tưới tiêu và Mơi trường
CVC. Đồn Thị Phi Yến - Viện Nghiên cứu Rau quả
ThS. Đào Kim Thoa

2

SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU


V

LỜI NÓI ĐẦU

iệt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia sẽ bị ảnh
hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu làm thay đổi cơ
cấu mùa vụ, quy hoạch vùng, kỹ thuật tưới tiêu, sâu bệnh, năng suất, sản


lượng; làm suy thoái tài nguyên đất, nước, đa dạng sinh học; suy giảm về số
lượng và chất lượng nông sản do bão, lũ lụt, khô hạn, xâm nhập mặn,… làm
tăng thêm nguy cơ tuyệt chủng của thực vật, làm biến mất các nguồn gen
quý hiếm. Biến đổi khí hậu sẽ là một trong những nguyên nhân chính dẫn
đến mất an ninh lương thực.
Trong những năm qua, Ngành Nông nghiệp Việt Nam đã đạt được các
thành tựu to lớn trong sản xuất nông sản phục vụ nội tiêu và xuất khẩu.
Nhiều tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực trồng trọt, bảo vệ thực vật, kỹ thuật
tưới tiêu,… đã được nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn sản xuất, góp
phần phát triển ngành nơng nghiệp bền vững, hiệu quả, hạn chế thiệt hại
do biến đổi khí hậu gây ra trong những năm gần đây. Sản xuất nơng nghiệp
thơng minh thích ứng với biến đổi khí hậu (gọi tắt là CSA) - là một trong
những giải pháp để giảm nhẹ sự tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Tuy
nhiên, hiện tại chưa có một tài liệu tổng hợp hướng dẫn thực hành CSA nào
đối với từng cây trồng, bao gồm áp dụng tổng hợp các quy trình kỹ thuật
canh tác như ICM, IPM, một phải năm giảm, ba giảm ba tăng, tưới khô ướt
xen kẽ, tưới tiết kiệm,....
Từ năm 2014 - 2021, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển
khai Dự án Cải thiện nơng nghiệp có tưới (VIAIP). Mục tiêu là nâng cao tính
bền vững của hệ thống sản xuất nơng nghiệp có tưới, trong đó Hợp phần 3
của Dự án đã hỗ trợ các tỉnh vùng Dự án thiết kế và thực hành nơng nghiệp
thơng minh thích ứng với biến đổi khí hậu gồm: Áp dụng các gói kỹ thuật
về sản xuất giống cây trồng, gói kỹ thuật canh tác, bảo vệ thực vật, đánh
giá nhu cầu và áp dụng các phương pháp tưới tiên tiến nhằm nâng cao năng
suất, chất lượng cây trồng; sử dụng nước tiết kiệm và tăng hiệu ích sử dụng
nước; tăng thu nhập cho nơng dân; giảm tính dễ tổn thương với biến đổi khí

SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU


3


hậu, giảm phát thải khí nhà kính; tổ chức và liên kết sản xuất nông sản theo
chuỗi giá trị gia tăng, giảm giá thành sản xuất, tăng lợi nhuận cho người dân.
Cục Trồng trọt được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao
nhiệm vụ phối hợp với Ban Quản lý Trung ương Các dự án Thủy lợi và các
tỉnh tham gia Dự án triển khai các nội dung liên quan đến nơng nghiệp thơng
minh thích ứng với biến đổi khí hậu. Trên cơ sở tổng kết các kết quả, tài liệu
liên quan, Cục Trồng trọt xin giới thiệu Bộ tài liệu “Sổ tay Hướng dẫn gói
kỹ thuật canh tác thích ứng với biến đổi khí hậu (CSA) cho một số cây
trồng chủ lực như lúa, màu, rau, cây ăn quả có múi (cam, bưởi), chè, hồ
tiêu, điều, cà phê, nhãn, vải, xoài, chuối, thanh long và sầu riêng”. Bộ tài
liệu này được xây dựng trên cơ sở thu thập, phân tích, tổng hợp, chuẩn hóa
các kỹ thuật canh tác, kỹ thuật tưới, tiêu nước, để hồn thiện Quy trình thực
hành nơng nghiệp thơng minh thích ứng với biến đổi khí hậu cho các cây
trồng nhằm phổ biến đến các tổ chức, cá nhân và các địa phương tham khảo
áp dụng rộng rãi trong sản xuất.
Đây là một trong những tài liệu đầu tiên được chuẩn hóa về nơng nghiệp
thơng minh thích ứng với biến đổi khí hậu trong lĩnh vực trồng trọt, do vậy
khơng tránh khỏi những thiếu sót, đơn vị chủ trì xin được lắng nghe các góp
ý của quý vị để tiếp tục hoàn thiện.
Cục Trồng Trọt và Ban Quản lý Trung ương Các dự án Thủy lợi - Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trân trọng cảm ơn Ngân hàng Thế
giới (WB) đã tài trợ Dự án VIAIP, tập thể đội dự án, tập thể biên soạn và các
chuyên gia đã đồng hành trong việc xuất bản Bộ tài liệu này.
CỤC TRỒNG TRỌT

4


SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB

Ngân hàng Phát triển Châu Á

BĐKH

Biến đổi khí hậu

Bộ NN&PTNT

Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn

Bộ TN&MT

Bộ Tài ngun và Mơi trường

CCA

Thích ứng với BĐKH

CSA

Nơng nghiệp thơng minh với biến đổi khí hậu

ĐBSCL


Đồng bằng sông Cửu Long

ĐBSH

Đồng bằng sông Hồng

FAO

Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hiệp Quốc

IPCC

Ủy ban liên Chính phủ về BĐKH

IPSARD

Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nơng nghiệp
Nơng thơn

KH&CN

Khoa học và cơng nghệ

KNK

Khí nhà kính

NGO


Tổ chức phi chính phủ

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam

UNDP

Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc

VIAIP

Dự án Cải thiện nơng nghiệp có tưới Việt Nam

WB

Ngân hàng Thế giới

SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

5


Nguồn ảnh: Internet


SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU


7


1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Thực trạng sản xuất nhãn ở Việt Nam
Cây nhãn (Dimocarpus longan Lour.), thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae) là
một trong những loại cây ăn quả chủ lực của nước ta. Năm 2019, diện tích
nhãn của cả nước đạt 79.355 ha, sản lượng khoảng 507.900 tấn. Trong đó,
miền Bắc có khoảng 45.000 ha, sản lượng 193.400 tấn, tập trung tại các
tỉnh: Sơn La 16.700 ha, Hưng Yên 4.500 ha, Bắc Giang 3.222 ha, Thái Nguyên
1.700 ha…; Miền Nam có diện tích 34.300 ha với sản lượng 315.000 tấn, tập
trung tại các tỉnh: Tây Ninh 4.100 ha, Tiền Giang 7.000 ha, Bến Tre 2.100 ha,
Vĩnh Long 6.200 ha, Đồng tháp 5.200 ha, Sóc Trăng 3.600 ha... (Cục Trồng
trọt, 2019).
Ở miền Bắc, Hưng Yên là tỉnh nổi tiếng với vùng nhãn đặc sản có từ
lâu đời với diện tích đến thời điểm tháng 8/2020 đạt 4.800 ha, sản lượng
đạt trên 50 ngàn tấn, cao hơn so với năm 2019 khoảng 18 ngàn tấn. Các
địa phương trồng nhãn tập trung là thành phố Hưng Yên (830 ha), Ân Thi
(370 ha), Kim Động (350 ha), Khoái Châu (1.100 ha)... (Nguyễn Quốc Hùng,
Nguyễn Thị Bích Hồng, 2019; Sở Nơng nghiệp và PTNT Hưng Yên, 2020).
Tại Sơn La: Trong những năm gần đây, Sơn La là một tỉnh có diện tích cây
ăn quả phát triển rất nhanh. Trong đó, diện tích cây nhãn tính đến hết tháng
6/2020 đạt 17.292 ha, sản lượng cả năm đạt 70.412 tấn; diện tích trồng nhãn
đã hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ứng dụng các quy trình
thâm canh tăng năng suất, chất lượng sản phẩm nhãn, được người tiêu dùng
trong và ngoài nước chấp nhận. Đến nay, tồn tỉnh Sơn La có khoảng gần 500
ha nhãn được chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Ngồi ra, diện
tích nhãn được cấp mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu sang các nước Mỹ,
Úc,… là 92 mã số với diện tích 2.415,03 ha; trong đó mã số được cấp vùng trồng
là 34 mã với diện tích 207,6 ha; mã số vùng trồng được cấp để xuất khẩu sang

thị trường Trung Quốc là 58 mã với diện tích là 2.207,43 ha (Sở Nơng nghiệp và
PTNT Sơn La, 2020).
Ở miền Nam, nhiều địa phương trồng nhãn với diện tích lớn trong đó có
Tiền Giang với diện tích hiện có khoảng 7.000 ha, năng suất bình qn 16
8

SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU


tấn/ha, sản lượng ước tính 114.000 tấn. Vùng trồng chuyên canh nhãn tập
trung tại các xã Tân Phong, Hiệp Đức, Hội Xuân thuộc huyện Cai Lậy; các xã
Nhị Quý, Phú Quý, Tân Hội và phường Nhị Mỹ thuộc thị xã Cai Lậy; các xã Nhị
Bình, Hữu Đạo, Tân Hương thuộc huyện Châu Thành; các xã Hịa Khánh, Hậu
Thành, Đơng Hịa Hiệp thuộc huyện Cái Bè (Sở Nông nghiệp và PTNT Tiền
Giang, 2019)
Tại Đồng Tháp, tổng diện tích nhãn hiện tại vào khoảng hơn 5.200 ha với
năng suất trung bình xấp xỉ 10 tấn/ha, tổng sản lượng đạt gần 50.000 tấn,
tập trung với diện tích lớn tại huyện Châu Thành. Hiện nay, diện tích trồng
ha nhãn trên địa bàn huyện Châu Thành đã đạt hơn 3.500 ha, trong đó nhãn
Edor hơn 1.500 ha. Cây nhãn là một trong 5 ngành hàng chủ lực theo đề án
tái cơ cấu nông nghiệp của huyện Châu Thành, Đồng Tháp. Theo quy hoạch,
đến hết năm 2020, tỉnh sẽ phát triển vùng trồng nhãn với diện tích 4.000 ha,
tập trung tại huyện Châu Thành, sản lượng ước đạt 70.000 tấn/năm. Theo kế
hoạch của huyện, sẽ ưu tiên phát triển giống nhãn Edor lên 2.000 ha. Vì đây là
giống nhãn cho năng suất cao, ít nhiễm bệnh chổi rồng, đầu lân, chất lượng
tốt, được thị trường ưa chuộng.
1.2. Yêu cầu sinh thái của cây nhãn
Nhiệt độ: Nhiệt độ thích hợp cho nhãn sinh trưởng và phát triển là từ
21 - 27oC; mùa hoa nở cần nhiệt độ cao 25 - 31oC; mùa đông cần một thời gian

nhiệt độ thấp để phân hóa mầm hoa. Đối với các giống nhãn ở miền Bắc, để
cho cây phân hóa được mầm hoa tốt, từ tháng 12 dến tháng 1 năm sau cần
một thời gian có nhiệt độ thấp trến dưới 10oC. Nếu trong thời gian này, nhiệt
độ dao động từ 18 - 20oC sẽ khơng có lợi cho sự hình thành và phát triển chùm
hoa. Thời kỳ hoa nở, nhiệt độ thích hợp là 20 - 27oC (Trần Thế Tục, 1998).
Đối với các giống nhãn ở miền Nam đòi hỏi phải có một mùa đơng ngắn
với nhiệt độ từ 17 - 22oC trong thời gian từ 8 - 10 tuần để kích thích sự ra hoa
và theo sau là nhiệt độ cao cho mầm hoa phát triển. Như vậy, trong điều kiện
khí hậu ở ĐBSCL, nhiệt độ thấp nhất vào ban đêm từ 19 - 20oC thường xuất
hiện trong tháng 12 - 1 và sau đó tăng cao trong tháng 2 - 3 là yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến sự ra hoa nhãn. Ngoài ra, thời điểm xuất hiện nhiệt độ
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

9


thấp cũng là mùa khô nên đây cũng là yếu tố hình thành nên mùa vụ ra hoa
nhãn. Nhiệt độ thấp và khô hạn là hai yếu tố quan trọng thúc đẩy sự ra hoa
nhãn, tuy nhiên nếu nhiệt độ thấp hay khô hạn kéo dài mầm hoa sẽ không
phát triển được (PROSEA, 1989). Nakasone và Paull (1998) cho biết nếu trong
thời kỳ kích thích ra hoa nhiệt độ trên 22oC hoặc thời gian xuất hiện nhiệt độ
thấp dưới 8 tuần cây sẽ không ra hoa.
Ánh sáng: Nhãn cần nhiều ánh sáng. Ánh sáng chiếu được vào bên trong
tán giúp cây sinh trưởng, phát triển tốt. Tuy nhiên, các giống nhãn ở miền Bắc
là cây ưa sáng nhưng lại sợ ánh sáng trực xạ, còn nhãn miền Nam nếu bị rợp
bóng, cây sẽ cho ít quả, chỉ những cành nhận đầy đủ ánh nắng mới ra hoa,
đậu quả tốt (Trần Thế Tục, 1998).
Lượng mưa và độ ẩm: Lượng mưa thích hợp cho nhãn từ 1.200 đến 1.600
mm. Nhãn là cây ưa ẩm nhưng không chịu úng và rất nhạy cảm với việc ngập

nước kéo dài. Ngược lại, nếu gặp khô hạn trong thời gian dài sẽ làm cho cây
sinh trưởng chậm, ra hoa và đậu trái khó khăn. Trong thời gian ra hoa và sinh
trưởng của quả, cây nhãn cần nhiều nước. Ngược lại, trong các tháng mùa
đông và trong thời gian quả vào chín, cây nhãn cần ít nước. Trong thời kỳ nở
hoa nếu mưa nhiều sẽ ảnh hưởng đến quá trình thụ phấn, thụ tinh của hoa,
tỷ lệ đậu quả sẽ thấp (Trần Thế Tục, 1998).
Gió: Gió có tác dụng hỗ trợ hoa thụ phấn, thụ tinh. Tuy cây nhãn là cây có
sức chống chịu gió bão tốt nhưng trong thời gian quả phát triển, gió to làm
quả bị rụng, cành gãy, thậm chí đổ cây. Gió Tây khơ, nóng gây khơ hạn ở một
số vùng trồng làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của quả. Chính vì vậy, khi thiết
kế chọn vườn cần có biện pháp bảo vệ vườn cây khi gió bão và gió nóng như:
Che, chắn, chống giữ cây hay trong quá trình canh tác, cắt tỉa thường xuyên
để cây có bộ tán thấp.
Đất: Nhãn có tính thích ứng rộng, có thể trồng trên nhiều loại đất từ
vùng nước ngọt quanh năm đến vùng nhiễm mặn. Tuy nhiên, đất trồng nhãn
thích hợp nhất là đất cát, cát pha, cát, đất cồn và phù sa ven sông, đất có độ
pH từ 5,5 - 6,5. Nhãn khơng thích hợp trên đất sét nặng và quá ẩm ướt. Nên
trồng nhãn ở các vùng đất thấp, không trồng ở quá cao, nơi thiếu nước (Trần
Thế Tục, 1998; Huỳnh Trí Đức, 2003).
10

SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU


1.3. Một số nghiên cứu về các biện pháp kỹ thuật
1.3.1. Kết quả nghiên cứu biện pháp kỹ thuật nhân giống nhãn
Trước đây, cây nhãn được nhân giống chủ yếu bằng gieo hạt, rất lâu được
thu hoạch và chất lượng vườn nhãn khơng đồng đều. Vì thế, nhân giống bằng
gieo hạt đã được thay thế dần bởi nhân giống bằng chiết cành và gần đây là

phương pháp ghép. Cho đến nay phương pháp nhân giống nhãn bằng ghép
đã và đang được áp dụng với quy mô lớn ở hầu khắp các nước và vùng trồng
nhãn trên thế giới.
Nhiều kết quả nghiên cứu ở Trung Quốc đã khẳng định nhiệt độ khi ghép
trong khoảng từ 20 - 30oC thích hợp đối với ghép nhân giống nhãn, tỷ lệ
ghép thành công 70 - 80% và cây ghép sinh trưởng khoẻ. Tuổi của cây gốc
ghép có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả ghép. Tỷ lệ cây ghép bật mầm đạt đến
75% nếu tuổi của gốc ghép là 6 tháng. Trong trường hợp tuổi của gốc ghép
già hơn, đến 18 tháng, tỷ lệ cây ghép bật mầm giảm đáng kể, chỉ còn 60%. Thời
vụ ghép nhãn thích hợp nhất là vào vụ xuân và vụ thu. Hiện vẫn còn nhiều ý
kiến thảo luận về xác định giống cây gốc ghép. Tuy nhiên, phần lớn các kết quả
nghiên cứu đều khẳng định tốt nhất là sử dụng cây gốc ghép và cây cành ghép
của cùng một giống. Có rất nhiều phương pháp ghép nhãn nhưng đạt hiệu
quả cao hơn cả là phương pháp ghép đoạn cành.
Kỹ thuật ghép cải tạo giống: Với những vườn nhãn già cỗi hoặc giống cũ,
muốn chuyển đổi sang giống mới, việc ghép cải tạo thay thế giống đã được
nghiên cứu và áp dụng thành công tai nhiều địa phương, Đặc biệt ở Sơn La
đã áp dụng trên hàng trăm héc-ta. Đến nay, các diện tích này đã cho hiệu quả
kinh tế cao.
1.3.2. Nghiên cứu về kỹ thuật cắt tỉa
Ở tất cả các nước trồng nhãn cũng như các đối tượng cây ăn quả thân gỗ
khác trên thế giới đều có những nghiên cứu về các biện pháp cắt tỉa, tạo hình
và đều nhằm mục đích tạo cho cây có bộ khung tán cân đối, thuận lợi cho
quang hợp, hạn chế sâu bệnh hại, dễ chăm sóc, quản lý, làm tăng năng suất,
phẩm chất quả.
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

11



Phương pháp cắt tỉa nhìn chung tương đối giống nhau. Tùy theo từng
loại cây mà phương pháp cắt tỉa có thể là tạo tán mở hình phễu hay tạo tán
hình rẻ quạt... Ngoài việc cắt tỉa cành, ở Trung Quốc còn sử dụng biện pháp
cắt ngắn chùm hoa nhằm hạn chế tiêu hao dinh dưỡng, giúp cho quá trình
đậu quả và phát triển của quả tốt hơn.
Việc cắt tỉa, tạo hình có thể coi như là các kỹ thuật điều chỉnh sinh trưởng
và phát triển của cây trồng nói chung và cây nhãn nói riêng. Muốn biết cắt tỉa
vào lúc nào, những cành nào nên cắt bỏ thì phải có những nghiên cứu cụ thể,
dựa trên các nguyên lý chung sau đây:
+ Sự phát triển của các bộ phận trên mặt đất và dưới mặt đất có sự cân
bằng theo tỷ lệ nhất định đối với từng loài cây trồng. Nếu phá vỡ sự cân bằng
này, cây sẽ tự thiết lập lại một cân bằng mới, dựa vào đặc điểm này ta có thể
thay lộc, cành mới hay phục tráng lại bộ rễ.
+ Những cành ở trên mặt tán có hiện tượng ưu thế ngọn, kìm hãm sự
phát triển của các cành phía dưới. Phá vỡ hiện tượng ưu thế ngọn sẽ tạo điều
kiện cho các cành phía dưới phát triển.
+ Theo lý luận về giai đoạn phát dục của các vị trí cành trên cây, sự phát
dục giảm dần từ cành ngọn xuống cành ở dưới. Vì vậy, cần tạo cho cây có bộ
tán phân bố đều. Mặt khác, thông qua cắt tỉa sẽ làm tăng khả năng ra hoa,
đậu quả của cây.
Nguyên tắc cắt tỉa:
+ Đối với cây trẻ: Thời kỳ này cây mới cho quả nên cắt tỉa nhẹ, để lại nhiều
cành. Nói chung, chỉ cắt bỏ những cành đã mất khả năng quang hợp, cành la
sát mặt đất và một số ít cành mọc sít nhau, cành tăm, cành sâu bệnh. Thời kỳ
này chỉ cắt tỉa khoảng 10% số cành.
+ Đối với cây trưởng thành: Giai đoạn này cây nhãn đã chuyển sang thời kỳ
sai quả, tiêu hao nhiều dinh dưỡng vì vậy nên cắt tỉa nặng, để dinh dưỡng tập
trung cho những cành còn lại, thúc đẩy lộc thu phát triển, bảo đảm chắc chắn
sang năm có quả. Thời kỳ này cắt tỉa khoảng 20 - 30% số cành.

12

SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU


+ Đối với cây nhãn đã nhiều năm tuổi, già cỗi: Căn cứ vào khả năng sinh
trưởng và tình hình ra quả vụ trước để xác định mức độ cắt tỉa nặng hay nhẹ.
Cây có nhiều cành, cành yếu thì cắt tỉa nặng, làm giảm sinh trưởng để tập
trung dinh dưỡng ra lộc mới mập và khoẻ hơn. Trọng tâm thời kỳ này là phục
tráng và trẻ hóa bộ tán lá.
Phương thức cắt tỉa:
+ Cắt tỉa cành: Thời gian cắt tỉa tiến hành trước khi nhú lộc xuân là thích
hợp. Sau khi cắt tỉa, trong năm sẽ ra 2 - 3 đợt lộc để khôi phục tán. Ở thời kỳ này,
nếu cần phục tráng cây, có thể phải hủy bỏ 1 - 2 vụ quả tiếp theo để tập trung
dinh dưỡng tái tạo lại thân, cành và bộ tán.
+ Thay rễ mới: Việc thay rễ mới cũng được coi là một biện pháp cắt tỉa. Bộ
rễ có tác dụng quyết định đối với sinh trưởng của cây. Nếu bộ rễ già cỗi, năng
lực hấp thu kém, lộc mới sinh trưởng cũng kém, mức độ nặng dẫn đến rụng
lá thậm chí cây bị chết khô. Cắt đứt rễ cũ sẽ thúc đẩy phát sinh nhiều rễ mới,
nâng cao khả năng hấp thu, tạo cơ sở vật chất cho cành sinh trưởng. Biện
pháp hữu hiệu nhất là làm đứt rễ đúng mức và cải tạo đất.
Ở Thái Lan và Trung Quốc, cắt tỉa trên cây nhãn nhằm cải thiện bộ tán
cây, kích thước quả và tính ổn định về năng suất. Ở Thái Lan, những cành
khỏe mọc vượt ra ngoài tán và cành nhỏ ở bên trong của cây bị loại bỏ, tạo
thành một bộ tán thơng thống hình bán cầu. Người trồng nhãn ở Trung
Quốc thường cắt ngắn để loại bỏ 40% chùm hoa và 30% số quả non ở cây
sai quả, chỉ để lại hơn 500 g quả trên mỗi chùm đến khi thu hoạch. Các chùm
hoa được cắt tỉa vào thời điểm khi chúng có độ dài khoảng 10 - 12 cm. Điều
này làm tăng kích thước quả. Thời gian tỉa quả vào thời điểm khi chúng có

kích thước bằng hạt đậu.  Người trồng nhãn ở Thái Lan lại loại bỏ một nửa số
hoa trên mỗi cành hoa trước khi đậu quả và tỉa bớt 10% số quả sau khi đậu
quả vào những năm được mùa. Những chùm quả nhỏ chỉ để khoảng 30 quả/
chùm. Những chùm lớn để tối đa 180 quả (Chritopher M. Menzel, 2005).
Ở Việt Nam, việc cắt tỉa, tạo hình để tạo cho cây có bộ khung cân đối, tán
cây có khả năng hấp thu tốt nhất ánh sáng mặt trời, tạo điều kiện thuận lợi cho
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

13


việc chăm bón, phịng trừ sâu bệnh, điều tiết sinh trưởng. Những quy trình cắt
tỉa được các cơ quan nghiên cứu và Sở Nơng nghiệp và PTNT các tỉnh khuyến
khích áp dụng như sau:
Đối với sản xuất nhãn ở miền Bắc:
* Đốn tỉa tạo hình trong giai đoạn kiến thiết cơ bản:
- Đối với cây nhân giống bằng phương pháp ghép, sau khi trồng 40 - 45
ngày tiến hành cắt ngọn cành ghép cách mắt ghép 40 - 50 cm, khi cây bật
mầm phải tỉa bớt mầm, chỉ để lại 3 - 4 mầm khoẻ và phân bố đều về các
hướng (cành cấp 1). Khi cành cấp 1 dài 30 - 35 cm lại tiến hành bấm ngọn để
tạo cành cấp 2, cứ như vậy tới hết năm thứ hai hoặc thứ ba.
- Đối với cành chiết, chọn để lại 2 - 3 cành cấp 1 phân bố đều về các hướng.
Khi cành cấp 1 dài 45 - 50 cm, tiến hành bấm ngọn để tạo cành cấp 2 và các cấp
cành tiếp theo như đối với cây nhân giống bằng phương pháp ghép.
- Đối với những cây nhãn ra hoa sau hai năm trồng phải ngắt bỏ hoa để
cho cây tập trung phát triển thân tán.
* Cắt tỉa cho nhãn trong thời kỳ kinh doanh:
- Cắt tỉa cành: Sau khi thu hoạch, cắt tỉa toàn bộ những cành tăm, cành
bị sâu bệnh, cành trong tán, cành vượt, cành sát mặt đất tạo cho cây thơng

thống. Ngồi ra trong q trình sinh trưởng thường xun cắt tỉa những
cành vơ hiệu cho cây theo các đợt lộc.
- Tỉa hoa: Thời gian tỉa hoa thích hợp là vào tháng 3 khi chùm hoa đã dài
khoảng 12 - 15 cm, nụ hoa trông đã rõ nhưng chưa nở. Tùy thuộc vào khả
năng ra hoa của từng cây mà có thể tỉa bỏ 20 - 30% số chùm hoa, tỉa bỏ các
chùm hoa bị sâu bệnh và các chùm hoa nhỏ. Trong trường hợp hoa ra trên
tồn bộ tán, mỗi đầu cành hình thành lộc thu cắt tỉa để lại 1 chùm hoa.
- Tỉa quả: Sau khi kết thúc đợt rụng quả sinh lý lần 1, khi quả đã lớn bằng hạt
đậu tương, tiến hành tỉa bỏ những quả bị sâu bệnh, quả dị hình. Những chùm
quả quá lớn cần tỉa bỏ bớt quả hoặc cắt bớt đầu chùm, những cây quá nhiều
chùm quả cần tỉa bỏ bớt số chùm quả trên cây.
14

SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU


1.3.3. Nghiên cứu về dinh dưỡng và bón phân cho nhãn
Bón phân được xem là khâu kỹ thuật quan trọng trong kỹ thuật thâm
canh để nâng cao năng suất và chất lượng quả. Bón phân dựa vào tính chất
nơng hố - thổ nhưỡng, yêu cầu dinh dưỡng của cây, quy luật sinh trưởng,
phát triển, năng suất dự kiến thu được và vào tuổi cây. Một số nước đã ứng
dụng kỹ thuật bón phân cho cây dựa trên phân tích chẩn đoán dinh dưỡng lá
như ở Israel, Australia, Florida - Mỹ.
Ở Trung Quốc, vườn nhãn cao sản 11 - 12 tấn quả/ha cần bón 22,5 tấn
nước phân và 15 tấn phân chuồng kết hợp với 180 kg urê, 225 kg lân supe
và 300 kg kali clorua. Khi phân tích 1000 kg quả tươi thì thấy rằng cây lấy đi
của đất 4,01 - 4,08 kg N; 1,46 - 1,58 kg P2O5 và 7,54 - 8,96 kg K2O, tương ứng
với tỷ lệ N : P : K là 1 : 1,28 - 1,37 : 1,76 - 2,15. Từ kết luận trên đây, người ta đề
nghị liều lượng phân bón cho mỗi cây 2,7 kg urê, 3,5 kg lân supe và 3,0 kg

kali clorua. Trong sản xuất có thể căn cứ vào năng suất vụ quả trước để bón.
Thơng thường, cứ thu hoạch 100 kg quả thì lượng phân bón sẽ là 2 kg N, 1
kg P2O5 và 2 kg K2O.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về bón phân cho nhãn đã được đúc kết thành
quy trình. Lượng phân bón theo các quy trình đã được khuyến cáo ở các địa
phương cho vườn nhãn thời kỳ kinh doanh như sau:
- Ở Hưng Yên: Lượng phân bón cho cây theo độ tuổi
+ Cây 4 - 6 năm tuổi: 30 - 50 kg phân hữu cơ + 0,3 - 0,5 kg phân urê + 0,7
- 1,0 kg lân supe + 0,5 - 0,7 kg kali clorua.
+ Cây 7 - 10 năm tuổi: 50 - 70 kg phân hữu cơ + 0,8 - 1,0 kg phân urê +
1,5 - 1,7 kg lân supe + 1,0 - 1,2 kg kali clorua.
+ Cây trên 10 năm tuổi: 70 - 100 kg phân hữu cơ + 1,2 - 1,5 kg phân urê +
2,0 - 3,0 kg lân supe + 1,2 - 2,0 kg kali clorua.
- Ở Sơn La: Mức độ có cao hơn so với ở Hưng Yên:
+ Cây 4 - 6 năm tuổi: 30 - 50 kg phân hữu cơ + 0,5 - 0,7 kg phân urê + 1,0
- 1,5 kg lân supe + 0,5 - 0,7 kg kali clorua.
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

15


+ Cây 7 - 10 năm tuổi: 50 - 70 kg phân hữu cơ + 1,0 - 1,2 kg phân urê +
2,0 - 2,5 kg lân supe + 1,0 - 1,2 kg kali clorua.
+ Cây trên 10 năm tuổi: 70 - 100 kg phân hữu cơ + 1,5 - 1,7 kg phân urê +
3,0 - 3,5 kg lân supe + 1,5 - 1,7 kg kali clorua.
- Ở các tỉnh phía Nam áp dụng theo quy trình của Viện Cây ăn quả miền
Nam khuyến cáo và tiêu chuẩn ngành 10 TCN 480:2001. Cụ thể:
Bảng 1. Lượng phân bón cho cây nhãn ở thời kỳ kiến thiết cơ bản
Liều lượng (g/cây/năm)

Tương
P2O5
đương
K2O
lân supe

Tuổi cây
(năm)

Số đợt bón
(đợt/năm)

N

Tương
đương
urê

1

4-5

100

217

50

303


100

167

2

3-4

200

435

70

424

150

250

3

3

300

652

100


606

200

333

Tương
đương
KCl

Đối với cây trên 3 năm tuổi, số lượng phân bón trên (thời kỳ kiến thiết
cơ bản) tăng dần từ 20 - 30% mỗi năm và số lần bón trong năm được chia ra
như sau:
Lần 1: Sau khi thu hoạch quả một tuần bón: 60%N2O + 60%P2O5 + 25% K2O.
Lần 2: Trước khi cây ra hoa 5 tuần bón: 40% P2O5 + 25% K2O.
Lần 3: Đường kính quả khoảng 1 cm bón: 40% N2O + 25% K2O.
Lần 4: Trước khi thu hoạch quả 1 tháng bón: 25% K2O.
Hàng năm cần bón thêm phân chuồng hoai mục khoảng 10 - 20 kg/gốc/
năm hoặc bón phân tro trấu, xác thân đậu, vỏ đậu. Tùy tình hình sinh trưởng,
năng suất nhãn của vụ trước mà điều chỉnh lượng phân bón NPK cho vụ nhãn
kế tiếp.
1.3.4. Các biện pháp kỹ thuật làm tăng khả năng ra hoa, đậu quả, năng suất
và phẩm chất nhãn
Khoanh vỏ có tác dụng làm cho cây trong một thời gian nhất định ngừng
vận chuyển sản phẩm quang hợp từ ngọn xuống phía dưới, làm tăng đư­ờng
16

SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU



tổng số trên cành, tạo cơ sở thuận lợi cho việc hình thành mầm hoa và các bộ
phận của hoa, hơn nữa cịn có tác dụng làm giảm năng l­ượng cung cấp cho
bộ rễ, giảm cơ năng hoạt động của bộ rễ, giảm hấp thu n­ước, nâng cao nồng
độ dịch tế bào, từ đó kích thích việc phân hóa mầm hoa. Khoanh vỏ trong giai
đoạn nở hoa còn làm nâng cao tỷ lệ đậu quả do ức chế sinh trưởng của rễ
làm mất khả năng cạnh tranh dinh dưỡng của rễ và quả. Những nghiên cứu
này đã được tiến hành thí nghiệm ở cả trong phịng thí nghiệm lẫn trên đồng
ruộng và kết quả đã cho thấy, khoanh vỏ đã ngăn cản C14 tổng hợp xuống
rễ. Những cây khoanh vỏ tập trung tinh bột trong quả nhiều hơn những cây
không khoanh vỏ (Huang, 2000).
Sử dụng KClO3 riêng rẽ hoặc kết hợp khoanh cây, cành xử lý cho nhãn ra
hoa trái vụ hoặc ra hoa đồng loạt đã được thực hiện tại Viện Nghiên cứu Rau
quả, Viện Cây ăn quả miền Nam và một số vùng trồng nhãn ở đồng bằng
sông Cửu Long.
Ở miền Bắc, sử dụng chất điều tiết sinh trưởng, trong đó có KClO3 kết hợp
với các biện pháp khoanh vỏ đã góp phần quan trọng khắc phục hiện tượng
ra hoa, quả không ổn định ở cây nhãn.
Biện pháp làm tăng khả năng đậu hoa, đậu quả cho nhãn tốt nhất là
phun thuốc đậu quả. Đó là các chất kích thích sinh trưởng như NAA, GA3, axit
Boric. Có thể dùng riêng rẽ hay dùng hỗn hợp các nguyên tố vi lượng với các
chất kích thích sinh trưởng phun khi hoa bắt đầu nở và khi hoa nở rộ có tác
dụng làm tăng tỷ lệ đậu quả, giảm tỷ lệ rụng quả non.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Hồng (2006) trên giống nhãn
Hương Chi cho thấy việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật cắt tỉa cành sau thu
hoạch và khoanh cành vào khoảng thời gian từ giữa tháng 11 đến đầu tháng
12 khi bộ lá nhãn đã thành thục có tác dụng làm tăng tỷ lệ cây và cành ra hoa.
Các loại phân vi lượng bón qua lá: Kích phát tố hoa trái Thiên nơng,
Atonic, Bayfolan, Orgamin, Spray-N-Grow (SNG), Bill’s perfect fertilize (BPF)
và FITO... có tác dụng làm tăng tỷ lệ đậu quả, tăng cường phẩm chất quả một

số giống nhãn chín muộn ở Hà Tây cũ và Hưng Yên.

SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

17


Viện Cây ăn quả miền Nam sau khi tiến hành thí nghiệm “Ảnh hưởng của
các liều lượng phân bón NPK đến năng suất và phẩm chất nhãn tiêu da bò” đã
kết luận: Năng suất nhãn tăng lên một cách có ý nghĩa ở cơng thức bón phân
NPK cao 450 - 240 - 330; 350 - 180 – 270; (N - P2O5 - K2O g/cây/vụ) + phân hữu
cơ so với công thức đối chứng. Các cơng thức bón lượng kali cao và bón thêm
phân hữu cơ đã làm gia tăng độ Brix (%), màu sắc vỏ trái cũng sáng đẹp hơn.
1.3.5. Phòng trừ sâu bệnh hại
Các biện pháp kỹ thuật phòng trừ, quản lý sâu bệnh hại cũng đã được
các cơ quan nghiên cứu như Viện Bảo vệ thực vật, Viện Cây ăn quả miền Nam,
Viện Nghiên cứu Rau quả và Trung tâm Nghiên cứu Cây ăn quả Phủ Quỳ tiến
hành ở các vùng trồng nhãn từ những năm 1997 - 1998. Kết quả đã phát hiện
12 loại bệnh và 38 loại sâu hại trên nhãn. Các đối tượng gây thiệt hại đáng
kể nhất là bọ xít, rệp sáp, sâu đục quả, sâu đục thân, sâu tiện vỏ, bệnh sương
mai. Việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật để phòng và trừ các loại sâu
bệnh đã mang lại hiệu quả phịng trừ rõ rệt, góp phần làm tăng năng suất và
chất lượng của quả nhãn.
1.3.6. Nghiên cứu về tưới nước cho cây nhãn
Tương tự như cây vải, tưới thường xuyên là điều cần thiết trong quá trình
sinh trưởng của cây nhãn trong thời kỳ kiến thiết cơ bản. Trong thời gian khơ
hạn, có thể cần tưới các giai đoạn cách nhau 2 - 3 tuần. Đối với cây trong thời
kỳ kinh doanh, độ ẩm nên được hạn chế trong mùa thu và mùa đông để ngăn
cản sự phát triển sinh dưỡng và thúc đẩy sự ra hoa.

Một số nghiên cứu khác cho thấy hạn hán trong quá trình phát triển làm
giảm sản lượng. Khi cụm hoa đã xuất hiện và trong suốt quá trình phát triển
của quả, duy trì độ ẩm thích hợp là cần thiết. Việc tưới nước sẽ được kết thúc
trong một vài tuần trước khi thu hoạch. Trong thời kỳ quả đang phát triển,
sự căng thẳng về độ ẩm trong các tình huống khơng được tưới có thể gây ra
hiện tượng quả ngừng phát triển. Sau khi thu hoạch, ngoài biện pháp cắt tỉa,
bón phân, cần tưới nhiều để thúc đẩy hình thành chồi mới.
Các nghiên cứu ở Ấn Độ, Úc và Nam Phi (Menzel C.M. and Waite G.K, 2005)
đã chỉ ra rằng, cây có thể lấy nước ở độ sâu đáng kể trong hầu hết các loại đất
18

SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU


và tạo ra sản lượng chấp nhận được dưới chu kỳ tưới khá dài. Tưới 2 tuần/lần
là đủ trong đất mùn cát và 3 - 4 tuần/lần trong đất sét. Trên đất pha cát cần
tưới trước khi 50% lượng nước sẵn có trong đất được sử dụng
Hệ thống tưới tiêu cho nhãn cần thiết kế có đủ khả năng cung cấp từ 2
đến 8 Ml/ha nước chất lượng tốt mỗi năm. Nếu nước có tảo hoặc sắt vi khuẩn,
cần có hệ thống lọc đặc biệt. Hệ thống phải có khả năng cung cấp nước cho
vùng rễ chính, có thể sâu 1,5 m trong hình chiếu của tán cây.
Có thể thiết kế hệ thống tưới cho từng loại đất. Vòi phun nước mini dưới
gốc cây thường gặp ở Nam Phi và Úc, ngược lại bằng nhỏ giọt phổ biến ở
Israel. Vòi phun nước mini với công suất tưới 80 - 250 l/h được khuyến nghị. Hệ
thống tưới nhỏ giọt tưới tiết kiệm nước hơn và làm ướt vùng rễ hiệu quả hơn
so với vòi phun mưa. Tuy nhiên khơng thích hợp cho cát vì nước ngấm thẳng
xuống dưới, chỉ ngấm sang xung quanh một chút. Do đó cây có thể bị khơ khi
thời tiết nóng. Hệ thống tưới tiêu phải cung cấp nước đồng đều cho từng cây
trong vườn. Do đó, các vịi phun cần có thiết bị bù áp.

Việc tính tốn lượng nước tưới được dựa trên lượng bốc hơi của cây trồng
và diện tích bề mặt tán. Tuy nhiên cũng cần căn cứ vào điều kiện vùng trồng
và nhu cầu của cây để có biện pháp tưới phù hợp.
Ở Việt Nam, do các vùng trồng nhãn có lượng mưa tương đối thuận đối
với sinh trưởng phát triển của cây nhãn nên khơng có nghiên cứu về tưới trên
cây nhãn. Tuy nhiên, thời điểm hiện nay, thời tiết thay đổi do biến đổi khí hậu.
Tình trạng nắng nóng, khơ hạn trong mùa mưa thường xuyên xảy ra, ảnh
hưởng lớn đến quá trình sinh trưởng phát triển của cây nhãn. Các biện pháp
tưới chủ yếu ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước được cải tiến phù hợp
với từng vườn hộ. Phương pháp tưới vẫn dựa trên kinh nghiệm.
1.4. Luận giải về tính cấp thiết
1.4.1. Tình hình nghiên cứu về thực hành nơng nghiệp thơng minh thích ứng
với biến đổi khí hậu (CSA)
Ngành Nơng nghiệp đang phải giải quyết đồng thời 3 thách thức có liên
quan mật thiết đến nhau: (i) đảm bảo an ninh lương thực (ANLT) và thu nhập
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

19


cho người dân; (ii) thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH); và (iii) giảm nhẹ
BĐKH.
Sự gia tăng dân số tồn cầu, theo ước tính của FAO, đến năm 2050, dân
số thế giới sẽ tăng thêm 1/3 so với hiện tại tương đương khoảng 2 tỷ người
và chủ yếu sống ở các nước đang phát triển. Tăng dân số sẽ tạo áp lực cho
nông nghiệp trong việc sản xuất để đáp ứng nhu cầu về lương thực thực
phẩm, dẫn đến tăng nhu cầu về sử dụng đất đai và các nguồn tài nguyên
thiên nhiên để phục vụ cho sản xuất nơng nghiệp. Do đó, ANLT vẫn là thách
thức lớn trong bối cảnh BĐKH đã và đang diễn ra ngày càng khắc nghiệt hơn

trong tương lai.
BĐKH sẽ gây ra các biến đổi thời tiết bất thường, cực đoan làm ảnh hưởng
đến các mặt của đời sống và đặc biệt ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây
trồng. Đồng thời, BĐKH còn làm suy giảm các nguồn tài nguyên nhất là đất
canh tác, nước và đa dạng sinh học. Mặt khác, BĐKH và nước biển dâng gây
ra hạn hán và ngập mặn gia tăng, đồng nghĩa với việc tăng diện tích đất bị sa
mạc hóa hoặc nhiễm mặn, giảm diện tích đất canh tác nơng nghiệp. Do vậy,
trong các lĩnh vực nói chung và nơng nghiệp nói riêng cần tăng cường áp
dụng giải pháp nhằm thích ứng cao hơn nữa với các biến đổi bất thường đó.
Tại Việt Nam, nơng nghiệp đã và sẽ tiếp tục là một trụ cột chính của nền
kinh tế. Nơng nghiệp đóng góp 16,23% GDP, 18,2% giá trị xuất khẩu và tạo
việc làm cho khoảng 41,9% lao động (Tổng cục Thống kê, 2017). Vì vậy, nơng
nghiệp cần phải duy trì đà tăng trưởng để đảm bảo nhu cầu về lương thực và
các nhu cầu khác về thực phẩm, năng lượng, thuốc chữa bệnh, nguyên nhiên
liệu phục vụ nền kinh tế.
Nông nghiệp thông minh với BĐKH:
Nông nghiệp thông minh với BĐKH (CSA) được FAO (2013) xác định như
một cách tiếp cận nhằm đảm bảo ANLT cho hơn 9 tỷ người trên toàn cầu vào
năm 2050. CSA là sản xuất nông nghiệp với bền vững về tăng năng suất, tăng
cường khả năng chống chịu (thích ứng), giảm hoặc loại bỏ, tăng khả năng
hấp thụ KNK (giảm nhẹ) bất cứ khi nào có thể và tăng khả năng đạt được mục
20

SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU


tiêu quốc gia về an ninh lương thực và mục tiêu phát triển bền vững. Mục
tiêu của CSA là đảm bảo tính sẵn có, đủ các chất dinh dưỡng của lương thực,
thực phẩm trong khi giảm được tác động của BĐKH, cũng như đóng góp cho

giảm phát thải KNK. Tính “thông minh” của CSA nhằm đạt được 3 mục tiêu:
(i) đảm bảo an ninh lương thực và dinh dưỡng; (ii) thích ứng bao gồm khả
năng chống chịu và phục hồi với các điều kiện bất lợi của khí hậu, dịch hại
và sâu bệnh, ổn định năng suất...; và (iii) giảm lượng phát thải KNK cũng như
hấp thụ/tích tụ các-bon. Trong điều kiện Việt Nam, với cách tiếp cận “không
hối tiếc” thì khơng nhất thiết ở mọi lúc, mọi nơi 3 mục tiêu này đều được đặt
ngang nhau khi lựa chọn các thực hành CSA.
An ninh lương thực, thích ứng và giảm nhẹ được xác định là 3 trụ cột
quan trọng nhằm đảm bảo đạt được mục tiêu cơ bản của CSA.
An ninh lương thực: Tăng năng suất và thu nhập một cách bền vững từ
trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản mà khơng tác động xấu tới mơi trường, từ
đó đảm bảo an ninh lương thực và dinh dưỡng.
Thích ứng: Giảm các rủi ro cho nông dân trong ngắn hạn, trong khi vẫn
nâng cao khả năng chống chịu thông qua xây dựng năng lực thích ứng với
các tác động dài hạn của BĐKH. Các dịch vụ hệ sinh thái góp phần quan trọng
vào duy trì năng suất và khả năng thích ứng với BĐKH.
Giảm nhẹ: Giảm hoặc loại bỏ phát thải KNK bất cứ khi nào có thể. Ngăn
chặn phá rừng, quản lý đất, cây trồng hiệu quả nhằm tối đa hóa khả năng dự
trữ và hấp thụ CO2 trong khí quyển.
Các đặc điểm chính của CSA:
CSA giải quyết các thách thức của BĐKH: Khác với phát triển nông nghiệp
truyền thống, CSA lồng ghép yếu tố BĐKH một cách hệ thống vào các quy
hoạch, phát triển của các hệ thống nông nghiệp bền vững.
CSA lồng ghép cùng lúc nhiều mục tiêu và lựa chọn các giải pháp phù hợp:
Theo khái niệm được FAO, CSA phải hướng tới đồng thời 3 mục tiêu: tăng
năng suất, nâng cao tính chống chịu và giảm phát thải. Tuy nhiên, trên thực
tế rất khó để đạt được đồng thời cả 3 mục tiêu trên. Trong quá trình triển khai
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU


21


CSA, thường phải cân nhắc (đánh đổi) các lựa chọn. Do đó cần phải xác định
các yếu tố tổng hợp, cân nhắc về chi phí và lợi ích của từng lựa chọn dựa vào
mục tiêu được xác định. CSA phải được lựa chọn phù hợp với từng đối tượng
(người sản xuất, cây, con, loại hình nơng sản, loại hình thời tiết, khí hậu...),
điều kiện (tự nhiên, kinh tế, xã hội) của từng vùng miền, địa phương, cộng
đồng cụ thể. Ví dụ, tại các khu vực kinh tế khó khăn, với các nhóm cộng đồng
yếu thế thì trụ cột về năng suất, an ninh lương thực (ANLT) phải được ưu tiên
hơn, trong khi với các doanh nghiệp/vùng miền phát triển có khả năng đầu
tư nơng nghiệp cơng nghệ cao thì mục tiêu giảm phát thải KNK cần được đặt
ngang hàng với các trụ cột khác.
CSA duy trì dịch vụ hệ sinh thái: HST cung cấp cho con người các dịch vụ
cần thiết bao gồm các nguyên vật liệu, thực phẩm, thức ăn và khơng khí sạch.
CSA áp dụng cách tiếp cận cảnh quan dựa trên các nguyên tắc của nông
nghiệp bền vững nhưng không dừng lại ở các cách tiếp cận theo các ngành
hẹp mà là quản lý và quy hoạch tích hợp, đa ngành liên khu vực.
CSA có nhiều cách tiếp cận và được xem xét ở các cấp độ khác nhau: CSA
không nên chỉ được coi là tập hợp của các thực hành hoặc công nghệ sản
xuất. CSA bao gồm cả một q trình từ phát triển các cơng nghệ và thực
hành tới thiết lập mơ hình dựa trên các bối cảnh BĐKH khác nhau; tích hợp
cơng nghệ thơng tin, các cơ chế bảo hiểm hạn chế rủi ro, theo chuỗi giá trị
và thơng qua bố trí thể chế và hệ thống chính sách. Như vậy, CSA khơng chỉ
là công nghệ sản xuất mà là tổng hợp của nhiều giải pháp can thiệp về hệ
thống sản xuất, cảnh quan, chuỗi giá trị hoặc chính sách mang tính bao trùm
trong một vùng nhất định.
CSA mang tính cụ thể: Nơng nghiệp thơng minh tại khu vực này có thể sẽ
khơng được coi là thông minh tại khu vực khác và không có giải pháp can
thiệp nào là thơng minh với khí hậu tại mọi lúc hoặc mọi nơi. Các giải pháp

can thiệp cần phải xem xét sự tương tác giữa các yếu tố khác nhau tại cấp độ
cảnh quan, trong và giữa các hệ sinh thái cũng như là một phần của thực tế
chính sách và thể chế.
CSA có sự lồng ghép về giới và các nhóm yếu thế: Nhằm đạt được mục tiêu
ANLT và nâng cao tính chống chịu, các cách tiếp cận CSA phải có sự tham gia
22

SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU


của các nhóm dễ bị tổn thương nhất và đói nghèo. Các nhóm này thường
sống ở những vùng dễ bị tổn thương nhất đối với BĐKH như hạn hán và lũ
lụt, do đó đây là nhóm chịu ảnh hưởng nhiều nhất của BĐKH, với nhóm này,
mục tiêu về đảm bảo ANLT phải được ưu tiên hàng đầu. Giới là một cách tiếp
cận quan trọng khác của CSA. Phụ nữ ít có quyền và cơ hội tiếp cận về đất
đai, hoặc các nguồn lực kinh tế và sản xuất khác. Việc này đã làm cho phụ nữ
ít có khả năng xây dựng năng lực thích ứng với BĐKH như hạn hán, xâm nhập
mặn và lũ lụt.
CSA trong việc giải quyết các thách thức:
CSA đặt trọng tâm vào việc tăng năng suất/thu nhập và giảm nhẹ rủi ro
của BĐKH và giảm phát thải KNK. Các rủi ro về khí hậu địi hỏi ngành nông
nghiệp phải đổi mới công nghệ và cách tiếp cận. Cách tiếp cận CSA giúp
nông dân và các nhà hoạch định chính sách có thể chủ động xây dựng các
kế hoạch thích ứng với BĐKH cả trong ngắn và dài hạn. Các giải pháp CSA
cung cấp chiến lược nhằm tăng khả năng phục hồi của hệ thống sản xuất ở
các quy mơ.
1.4.2. Luận giải về tính cấp thiết
Hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng là ngành gây phát thải lớn, chiếm
14% tiềm năng làm nóng lên tồn cầu, trong đó 17% CO2 tương đương từ

q trình sử dụng đất và thay đổi sử dụng đất trong nông nghiệp, 3% CO2
tương đương từ quá trình quản lý chất thải trong nơng nghiệp. CH4 và N2O là
nguồn khí nhà kính (KNK) phát thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp. Ủy
ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (Intergovernmental Panel on Climate
Change, viết tắt là IPCC) (2007) đã chỉ ra rằng các nước phát triển chỉ chiếm
chưa tới 20% về dân số nhưng lại gây phát thải tới 46,4% lượng KNK toàn
cầu, trong khi các nước đang phát triển chỉ chiếm 53,6% về tổng lượng KNK
nhưng chiếm trên 80% về dân số.
Dựa trên các kết quả dự báo quốc tế cho thấy, nếu khơng có các chính
sách can thiệp kịp thời, lượng phát thải khí nhà kính (KNK) tồn cầu sẽ tăng
từ 25 - 90% vào năm 2030 so với hiện trạng phát thải KNK năm 2000. Đặc biệt,
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

23


lượng phát thải KNK sẽ tăng mạnh ở các nước đang phát triển như nước ta
(dự báo KNK tăng lên gấp 4 lần vào năm 2030). Sự gia tăng KNK đòi hỏi các
quốc gia cần nỗ lực hơn để giảm phát thải KNK nhằm ngăn chặn, hạn chế quá
trình gia tăng biến đổi khí hậu tồn cầu (các hoạt động phát thải thấp) ở hầu
hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Trong đó, hoạt động sản xuất nơng nghiệp
được đánh giá là một trong những nguồn phát thải KNK chủ yếu ở các quốc
gia đang phát triển. IPCC đã có hướng dẫn chi tiết (phương pháp, hệ số) để
ước tính lượng phát thải KNK cho các hoạt động sản xuất nơng nghiệp (q
trình lên men ở động vật; quản lý hữu cơ và đất nông nghiệp).
Sản xuất nông nghiệp mặc dù được cho là ngành phát thải lớn nhưng
cũng được đánh giá là ngành có tiềm năng giảm phát thải cao. Những tính
tốn về phát thải KNK và chi phí cận biên giảm phát thải KNK của một số hoạt
động sản xuất nông nghiệp cho thấy nhiều hoạt động sản xuất nơng nghiệp

có tiềm năng lớn trong giảm phát thải KNK (Mai Văn Trịnh và cs., 2015). Tại
Indonesia, Ủy ban về Biến đổi khí hậu nước này đã dự báo rằng các hoạt động
kinh tế có tiềm năng giảm phát thải KNK 164 triệu tấn CO2 tương đương (CO2e),
trong đó chỉ tính riêng lĩnh vực nơng nghiệp đã có tiềm năng giảm 105 triệu
tấn CO2 tương đương thông qua các hoạt động cải thiện hệ thống tưới tiêu
trong canh tác lúa nước, cải tiến quản lý giống cây trồng, giám sát và quản lý
phân đạm, quản lý chất thải hữu cơ từ chăn nuôi và hệ thống cung cấp thức ăn
chăn ni (mặc dù có chi phí rất cao).
Trong những năm gần đây Việt Nam chịu tác động nghiêm trọng bởi
hiện tượng El Nino kéo dài nhất trong lịch sử từ cuối 2014 đến tháng 6 năm
2016, gây ra hiện tượng hạn hán và xâm ngập mặn nghiêm trọng tại các tỉnh
Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và đồng bằng sơng Cửu Long.  Năm 2016 đã có
18 tỉnh của Việt Nam tuyên bố tình trạng thiên tai. Tổng thiệt hại do thiên tai,
BĐKH gây ra trong năm 2016 ước khoảng  39.000 tỷ đồng, tương đương 1,7
tỷ đô la Mỹ (Bộ Nơng nghiệp và PTNT, 2016).
Ngành Nng nghiệp hiện đóng góp khoảng 16,23% GDP và tạo ra khoảng
47% việc làm (FAO, 2016), nhiều hộ gia đình vẫn dựa vào nơng nghiệp để
đảm bảo an ninh lương thực. Diện tích đất nơng nghiệp chiếm khoảng 35%
24

SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU


tổng diện tích của cả nước (FAO, 2016). Việt Nam là một trong những nước
dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu (BĐKH). Nước biển dâng và nhiễm
mặn ở vùng ven biển, lũ lụt và hạn hán xảy ra thường xuyên và khắc nghiệt
hơn. Năng suất cây trồng (đặc biệt là lúa, ngô, sắn) được dự báo sẽ giảm đáng
kể vào năm 2030 và 2050. Theo kịch bản phát thải trung bình (WB, 2010), thì
đến năm 2050, sản lượng lúa dự kiến sẽ giảm từ 10 - 20%. Kết quả nghiên cứu

của Ngân hàng Thế giới cho thấy việc thiếu các biện pháp thích ứng BĐKH
trong nơng nghiệp sẽ gây thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế nông nghiệp của
Việt Nam (GDP giảm hơn 2%, giá trị gia tăng trong nông nghiệp thấp hơn
13% so với đường cơ sở vào năm 2050), cũng như giảm thu nhập của nơng
hợ và các nhóm dễ bị tổn thương ở nơng thơn (WB, 2010).
Các thách thức do BĐKH địi hỏi Ngành Nông nghiệp Việt Nam phải hành
động ngay để tìm ra giải pháp ứng phó hiệu quả, phù hợp với điều kiện tự
nhiên và hoạt động sinh kế của từng vùng, địa phương và của quốc gia.
Đối với sản xuất nhãn ở nước ta, là loại cây trồng được coi là có tính thích
ứng rộng. Có nhiều giống khác nhau, thích ứng với những vùng sinh thái
nhất định. Tuy nhiên, không ngoại lệ, cây nhãn cũng chịu các tác động của
biến đổi khí hậu gây ra .
Trong điều kiện hiện nay, biến đổi khí hậu ảnh hưởng khơng nhỏ đến
lĩnh vực sản xuất nhãn. Trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng
0,5 - 0,7oC, mực nước biển dâng khoảng 20 cm. Biến đổi khí hậu khiến các
quy luật mùa bị phá vỡ. Mùa xuân ngắn lại, mùa hè dài ra. Nóng, lạnh bất
thường. Các cực trị thay đổi, bão nhiều lên ở một số vùng. Lượng mưa giảm
nhưng mưa rất lớn, không mưa là hạn khốc liệt. Ngoài ra, tác động tiêu cực
của BĐKH làm giảm lượng mưa, giảm nguồn nước tưới trong thời kỳ cây nhãn
mang quả cũng ảnh hưởng tới sinh trưởng, phát triển, năng suất cũng như
chất lượng quả nhãn tại các vùng trồng.
Trong điều kiện thực tế ở miền Bắc, không như cây vải, cây nhãn không
yêu cầu điều kiện nhiệt độ lạnh vào mùa đông. Tuy nhiên, các điều kiện bất
thường như: nhiệt độ tăng cao, nắng nóng kéo dài, mưa bão thất thường đã
ảnh hưởng không nhỏ đến sinh trưởng, phát triển và năng suất, chất lượng
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY NHÃN
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

25



×