Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

BÀI TIỂU LUẬN môn học LỊCH sử ĐẢNG đề tài sự LÃNH đạo ĐÚNG đắn của ĐẢNG là NHÂN tố HÀNG đầu QUYẾT ĐỊNH THẮNG lợi của CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.04 KB, 22 trang )

lOMoARcPSD|20482277

TRƯỜNG ĐH DUY TÂN
KHOA KHXH & NHÂN VĂN

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG

ĐỀ TÀI: SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ
HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG
VIỆT NAM

GIÁO VIÊN:
LỚP:
SINH VIÊN:

NĂM HỌC 2021 – 2022


lOMoARcPSD|20482277

MỤC LỤC
BẢNG ĐÁNH GIÁ

1

MỤC LỤC 2
LỜI MỞ ĐẦU

3


SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU
QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM.
4
I. Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra đời.
1. Tình hình xã hội

4

4

2. Những phong trào đấu tranh

5

3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

5

II. Đảng Cộng sản ra đời có ý nghĩa lịch sử như thế nào?

8

III. Sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định đến những thắng lợi quan
trọng trong Cách mạng Việt Nam 9
1. Khái quát về bốn cuộc thắng lợi 9
2. Cách mạng tháng 8 năm 1945. 11
3. Kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954).

13


4. Kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975)

15

5. Trong sự nghiệp đổi mới từ năm 1986 đến nay

17

IV. Liên hệ thực tiễn, đánh giá vai trò lãnh đạo của đảng đối vói Việt Nam
hiện nay
19
KẾT LUẬN

21

TÀI LIỆU THAM KHẢO

22

1


lOMoARcPSD|20482277

LỜI MỞ ĐẦU
Thời gian thấm thoát, đã gần 50 năm kể từ khi Việt Nam hồn tồn được giải
phóng khỏi ách thống trị của lũ thực dân phương tây. Hình ảnh lá cờ tung bay trên
nóc của Dinh Độc Lập đánh dấu chiến thắng và sự độc lập của dân tộc đã hằn sâu
trong tâm trí của mỗi con dân Việt Nam. Một trang sử vẻ vang, hào hùng đã được
vẽ lên để ngợi ca chiến công vĩ đại của dân tộc Việt Nam khi đối đấu với quốc gia

hùng mạnh nhất thế kỷ 20. Các cuộc kháng chiến như Cách mạng tháng 8 năm
1945, cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1945 đến năm 1954 hay cuộc chiến
tranh quyết định – Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975) và ngay cả
trong sự nghiệp đổi mới đất nước đều có sự góp mặt của một yếu tố khơng thể thay
thế đó chíng là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, sức mạnh to lớn và sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam được phát huy
một cách cao độ, dẫn đến những chiến thắng vẻ vang, khơng ngoa khi nói rằng
chính sự lãnh đạo tài tình của Đảng đã quyết định thắng lợi của những cuộc cách
mạng Việt Nam.
Từ một đất nước bị chia cắt làm hai miền Bắc – Nam, với những đường lối
chính trị, đường lối quân sự, phương pháp cách mạng đúng đắn, ln ln đổi mới
để thích nghi của Đảng, đã thống nhất và giành được độc lập, tự chủ cho riêng
mình. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã quyết định mọi thắng lợi của những cuộc
cách mạng Việt Nam, đây là một việc làm hết sức ý nghĩa và đặc biệt quan trọng
đối với lớp trẻ, những người chủ tương lai của đất nước ta. Với mong muốn cho
những người trẻ thấy được công lao to lớn và đồng thời góp phần nâng cao ý thức
để họ có thể thấy được trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Đảng và nền độc lập mà nhân dân ta đã đổ bao xương máu mới giành được, cũng
như để nhắc nhở lại công lao to lớn của Đản, chúng em quyết định chọn đề tài:
“Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.” để nghiên cứu và làm tiểu luận.

2


lOMoARcPSD|20482277

SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU
QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
I. Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra đời,

1. Tình hình xã hội:
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam, từng
bước thiết lập chế độ thống trị của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
Về chính trị, người Pháp thi hành chính sách cai trị chuyên chế, trực tiếp
nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, tước hết quyền độc lập,
quyền tự do, dân chủ của nhân dân ta, biến một bộ phận của giai cấp tư sản mại
bản và địa chủ phong kiến Việt Nam thành tay sai đắc lực, tiến hành đàn áp một
cách dã man mọi phong trào yêu nước, ngăn chặn ảnh hưởng của các trào lưu tiến
bộ từ bên ngoài vào nước ta.
Về kinh tế, chính quyền thực dân thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm
sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta, bốc lột tàn bạo nhân dân ta, triệt để khai
thác Đơng Dương vì lợi ích của giai cấp tư sản Pháp. Chúng đặt ra hàng trăm thứ
thuế vơ lý, vơ nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân ta
vào cảnh bần cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để
lại hậu quả nghiêm trọng, kéo dài.
Về văn hóa - xã hội, thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân, khuyến
khích văn hố nơ dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối,
dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội
Việt Nam có những biến đổi, bên cạnh các gia cấp đã có trong xã hội phong kiến
xuất hiện hai giai cấp mới đó là: giai cấp cơng nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ
chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội tồn
tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp
địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa
thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu
thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu.

3



lOMoARcPSD|20482277

Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ
chống địa chủ phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân
tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu đặt ra
với cách mạng Việt Nam.
2. Những phong trào đấu tranh:
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân tộc
ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng,
bất khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta liên tiếp đứng
lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa
lớn, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau, như
khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong
trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình
Phùng, Hồng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa,
phong trào đấu tranh đó vơ cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn
bạo và cuối cùng đều thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con
đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của thời đại và xã hội Việt Nam.
Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.
Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải
phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường
lối cứu nước, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
(Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước ngồi, bắt đầu đi tìm con đường cứu
nước. Người đã qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập,
nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp,

Mỹ), tích cực tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, qua đó để tìm đường
cứu nước, giành lại độc lập dân tộc.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư
tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục
V.I.Lênin và đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vệ cách mạng Nga; tham gia
4


lOMoARcPSD|20482277

sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú đó đã giúp
Người từng bước rút ra những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con
đường cách mạng của mình.
Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương đã giải
đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở. Từ đây, Người đã tìm
ra con đường cứu nước, cứu dân đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản''1. Đó là sự xác định
đúng đắn những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc, con đường giải
phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã
hội, giai cấp vơ sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân
tộc từng nước với phong trào cách mạng trên thế giới.
Đối với Nguyễn Ái Quốc, đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng
sản quốc tế. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên
tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, tìm ra con đường
đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt
động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào cách mạng thuộc

địa; nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam qua các báo
Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản án
chế độ thực dân Pháp (1925).
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc
tế Cộng sản, tháng 1l-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực
tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người sáng
lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và viết
bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... nhằm
tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo bồi
dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho
việc thành lập Đảng.

5


lOMoARcPSD|20482277

Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc
được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như ''người đi đường
đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn''. Nó lơi cuốn những người
u nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên cao trào đấu
tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước. Việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
phong trào quần chúng và phong trào công nhân, làm cho phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, giai cấp công
nhân ngày càng trở thành một lực lượng chính trị độc lập, địi hỏi phải có tổ chức
đảng chính trị lãnh đạo. Đến cuối những năm 20 của thế kỷ XX, ở nước ta, các tổ
chức cộng sản lần lượt được thành lập:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
- Khoảng tháng 11 năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam
Kỳ.

- Ngày l-l-1930, Đơng Dương Cộng sản Liên đồn được thành lập ở Trung Kỳ.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã thành lập ba tổ chức
cộng sản. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở
Việt Nam; đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong
một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng đặt
ra là cần thống nhất một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - cán bộ
của Quốc tế Cộng sản, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam - là
người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu thống nhất các tổ chức
cộng sản.
Từ ngày 6-l đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp
tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt
của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như
là Đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của
cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ
XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân
6


lOMoARcPSD|20482277

và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc
của lịch sử và của q trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của
một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước. Chánh cương vắn tắt của

Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng
Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để
thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải
phóng con người.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách
mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức
lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
II. Đảng Cộng sản ra đời có ý nghĩa lịch sử như thế nào?
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh
dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Đồng thời
đây cũng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là
hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp
giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Sự
kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc son chói lọi trên con
đường phát triển của dân tộc ta.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng
đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng
dân tộc theo phương hướng cách mạng vơ sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản
Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt
Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp
lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng
7



lOMoARcPSD|20482277

phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho
sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư
tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to
lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển,
bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm qua.
Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử công nhân và của
cách mạng Việt Nam, chứng tỏ giai cấp vô sản nước ta trưởng thành và đủ sức lãnh
đạo cách mạng, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về
đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng
trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và
sự đồn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân
tộc. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp
công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản.
Với chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách
mạng thế giới, ĐCSVN đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ
vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
III. Sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định đến những thắng lợi quan
trọng trong Cách mạng Việt Nam
1. Khái quát về bốn cuộc thắng lợi
Từ một quốc gia phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, một nước thuộc
địa, bị đế quốc, thực dân cai trị, dân tộc Việt Nam đã giành lại độc lập bằng cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử; tiến hành
hai cuộc kháng chiến giải phóng, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước; thực hiện
công cuộc đổi mới đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đảng cũng thẳng thắn nêu rõ những khuyết điểm, hạn

chế, khó khăn, thách thức, nguy cơ cần phải khắc phục, vượt qua.
Tổng kết kinh nghiệm, bài học, tìm ra quy luật riêng của cách mạng Việt
Nam là công việc thường xuyên của Đảng ở mỗi thời kỳ lịch sử.

8


lOMoARcPSD|20482277

Từ năm 1930 đến năm 1945, Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh khơng ngừng bổ
sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc theo
con đường xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện đường lối giải phóng dân tộc, lãnh đạo các
phong trào cách mạng rộng lớn (1930-1931), (1936-1939) và cao trào giải phóng
dân tộc (1939-1945) dẫn đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945
và bản Tuyên ngôn độc lập (2-9-1945) - một thời đại mới được mở ra trong lịch sử
dân tộc và cách mạng Việt Nam. Đảng đã đề ra đường lối và lãnh đạo kháng chiến
làm thất bại các kế hoạch chiến trang của thực dân Pháp đưa đến chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ (7-5-1954) và các nước ký kết Hiệp nghị Geneve (21-7-1954).
Đế quốc Mỹ thay thế thực dân Pháp, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam
Việt Nam và tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam từ năm 1954 đến năm
1975 với các chiến lược chiến tranh tàn bạo chống lại dân tộc Việt Nam và phong
trào cách mạng giải phóng trên thế giới. Đảng đề ra đường lối, kiên trì lãnh đạo
đấu tranh, vượt qua thách thức hiểm nghèo dẫn đến tồn thắng của Chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975).
Sự phát triển đường lối và tổ chức thực hiện hơn 30 năm qua đưa đất nước
vững bước phát triển trên con đường xã hội chủ nghĩa. Lãnh đạo cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, các cuộc kháng chiến, cách mạng xã hội chủ nghĩa phải vượt
qua nhiều nguy cơ, khó khăn, thách thức, trong đó có cả khuyết điểm, yếu kém ở
mỗi thời kỳ. Đảng đã kiên cường cùng toàn dân vượt qua, quyết tâm sửa chữa
khuyết điểm, thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Nhận thức rõ hơn những truyền thống vẻ vang của Đảng.Từ thành công về xây
dựng Đảng và thắng lợi của cách mạng, khẳng định những truyền thống vẻ vang
của Đảng: truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng; truyền thống yêu nước,
đấu tranh kiên cường, bất khuất, thật sự vì nước, vì dân; truyền thống gắn bó mật
thiết với dân tộc, giai cấp và nhân dân, trưởng thành trong phong trào cách mạng
của quần chúng; truyền thống của chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Hệ thống các sự kiện lịch sử Đảng làm rõ thắng lợi, thành tựu của cách
mạng, đồng thời cũng thấy rõ những khó khăn, thách thức, hiểu rõ những hy sinh,
cống hiến lớn lao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, sự hy sinh, phấn đấu của các
tổ chức lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, của mỗi cán bộ, đảng viên, với
những tấm gương tiêu biểu. Các sự kiện phải được tái hiện trên cơ sở tư liệu lịch
sử chính xác, trung thực, khách quan.

9


lOMoARcPSD|20482277

2. Cách mạng tháng 8 năm 1945
Ngay khi vừa mới ra đời, Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết chung quanh mình tất
cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách
mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay
sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Qua 15 năm đầu tiên lãnh đạo cách mạng (1930-1945), trải qua các cuộc đấu
tranh gian khổ, với ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931, 1936-1939, 19391945), khi thời cơ đến, Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm
1945 thành công. Nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nơ lệ của chế độ thực
dân và lật đổ chế độ phong kiến tay sai thối nát.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, yếu tố hết sức quan trọng là Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đứng trên lập trường giai cấp công nhân, vận dụng sáng
tạo lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh Việt Nam, phát huy cao độ sức

mạnh tổng hợp, nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự tôn, tự
hào dân tộc, dũng khí đấu tranh anh hùng, bất khuất của nhân dân Việt Nam. Để có thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vượt qua bao thử
thách, cam go để từng bước hoàn thiện đường lối chiến lược, sách lược và có những
quyết sách hết sức sáng tạo.
Trước hết, Đảng đã chuyển hướng chiến lược một cách kịp thời, đúng đắn, sáng
tạo. Luận cương chính trị của Đảng tháng 10-1930 xác định, có đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa mới phá được giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; có phá tan
chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa. Giai đoạn 1936-1939, trước
nguy cơ phát xít, Đảng ta thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương, nhằm kết hợp đấu
tranh dân tộc với đấu tranh dân chủ để chống phát xít. Chiến tranh thế giới lần thứ hai
bùng nổ tháng 9-1939, Đảng ta đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, nêu cao
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm thời hạ thấp khẩu hiệu “phản phong”. Tại Hội nghị
Trung ương 6, họp từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939, Đảng ta chỉ rõ: “Đứng trên lập trường
giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách
mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”. Chủ
trương đó của Đảng đã tạo nên sức mạnh đồn kết tồn dân đấu tranh chống phát xít xâm
lược; dấy lên làn sóng cách mạng phản đế, tiêu biểu là ba cuộc khởi nghĩa: Bắc Sơn, Nam
Kỳ, Đô Lương, làm cho bộ máy thực dân hoang mang, dao động.
Đầu năm 1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước, chỉ đạo Hội nghị Trung ương
8 (họp từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941 ở Pác Bó, Cao Bằng). Tại hội nghị này, Đảng đã
10


lOMoARcPSD|20482277

hoàn thiện việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, thay khẩu hiệu “phản đế” bằng khẩu
hiệu “cứu quốc”. Nghị quyết hội nghị chỉ rõ: “Cuộc cách mạng Đông Dương trong giai
đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”. Chính sách của Đảng khi đó là
chính sách cứu quốc, nên mục đích của các hội quần chúng cũng xoay về việc cứu quốc

là cốt yếu. Mặt trận Việt Minh ra đời, các đoàn thể cứu quốc phát triển rộng khắp cả ở
Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Như vậy, chiến lược cách mạng của Đảng ngày càng được
hồn thiện và ln đi đơi với những sách lược cách mạng mềm dẻo, thêm bạn bớt thù.
Chiến lược, sách lược đó phù hợp với yêu cầu cách mạng và nguyện vọng của quần
chúng nhân dân, được cụ thể hoá trong “Chương trình cứu nước” của Mặt trận Việt Minh.
Chương trình được các đảng viên tích cực tun truyền, đã thấm sâu vào quần chúng
nhân dân, tạo nên cao trào tiền khởi nghĩa rộng lớn, tiến tới Tổng khởi nghĩa thành công.
Cùng với quyết sách nêu trên, Đảng ta đã thực thi quyền dân tộc tự quyết của ba
nước Đông Dương. Quyền dân tộc tự quyết là vấn đề quan trọng trong chiến lược cách
mạng và trong quan hệ quốc tế. Tại Hội nghị Trung ương 8, tháng 5-1941, dưới sự chỉ
đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Đảng ta quyết định thành lập ba Đảng với ba mặt trận
của ba nước Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia. Các sách lược mềm dẻo của Đảng đã tranh
thủ được nhiều nhân vật thuộc hoàng gia và thân sĩ yêu nước vào Mặt trận Cứu quốc, góp
thêm sức mạnh cho cách mạng. Với tinh thần dân tộc tự quyết, sự phát triển song song
của cách mạng ba nước Đơng Dương từ đó trở đi ngày càng thu được những thành tựu to
lớn. Đảng ta từ chỗ xác định tiến hành song song hai nhiệm vụ “phản đế” và “phản
phong”, đến chỗ xác định rõ nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc. Điều đó chứng tỏ,
quyết sách chiến lược trên thể hiện tư duy hết sức đúng đắn, sáng tạo, sáng suốt của Đảng
ta, góp phần trực tiếp đến Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công.
Một nhân tố quyết định trực tiếp nữa là lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây
dựng căn cứ địa, phát triển lực lượng và có phương châm chiến lược cách mạng đúng
đắn. Đầu tháng 5-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân
Trào làm căn cứ địa cách mạng. Người lập ra các căn cứ địa, các chiến khu cách mạng và
chỉ thị thành lập Khu giải phóng, chuẩn bị triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại
hội Quốc dân Việt Nam. Theo đó, Tổng bộ Việt Minh triệu tập hội nghị ngày 4-6-1945,
tuyên bố thành lập Khu giải phóng Việt Bắc và thi hành 10 chính sách lớn của Việt Minh.
Đó là những chủ trương, quyết sách rất sáng suốt, kịp thời của lãnh tụ Hồ Chí Minh và
Đảng ta, tạo điều kiện thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân trên cả nước phát
triển mạnh mẽ, góp phần cho Tổng khởi nghĩa thành cơng.


11

Downloaded by thoa Nguyen van ()


lOMoARcPSD|20482277

3. Kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954)
Bất chấp mong muốn độc lập và hồ bình của Chính phủ và nhân dân ta,
mặc dù chúng ta đã nhân nhượng nhưng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng có dã
tâm cướp nước ta một lần nữa
Đúng như dự đoán tại Hội nghị Tân trào (14 -15/8/1945) của Đảng, âm mưu
tái chiếm Việt Nam được thực hiện bởi Pháp nhanh chóng trở thành thực tế. Rạng
sáng 23/9/1945, thực dân Pháp với sự giúp đỡ của quân Anh đánh úp vào Sài Gòn,
mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần hai.
Trong hồn cảnh đối phó với lực lượng qn Pháp ở miền Nam, Đảng ta
cũng phải chịu sự uy hiếp lật đổ chính quyền của quân Tưởng và tay sai của Pháp ở
miền Bắc. Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra: “Phải tránh các trường
hợp một mình phải đốiphó với nhiều lực lượng Đồng minh tràn vào nước ta”.
Chiều 6/3/1946, đồng chí Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hồ kí kết với J. Sainteny bản “Hiệp định sơ bộ” tạm thời hồ hỗn với Pháp.
Bước vào tháng 9/1946, chủ trương của Đảng ta lúc này là “vẫn tranh thủ
khả năng hồ bình”, nhưng phải “chuẩn bị cấp tốc để tiến hành chiến tranh tồn
dân, tồn diện và trường kì”. Nước ta bắt tay ngay vào công tác chuẩn bị kháng
chiến. Nhân dân ta tiến hành công tác di chuyển, thực hiện “Tiêu thổ kháng chiến”,
vấn đề tích trữ muối gạo được đặc biệt quan tâm. Trưa ngày 19/12/1946, Ban
thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Tất cả sẵn sàng”, toàn dân kháng chiến và
20 giờ cùng ngày Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam phát tín hiệu bắt đầu cuộc
kháng chiến tồn quốc. Đêm 19/12, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến”, khẳng định nguyện vọng hồ bình, quyết tâm kháng chiến và

niềm tin tất thắng của nhân dân ta, đồng thời nêu ra tư tưởng cơ bản và đường lối
chiến tranh nhân dân. Công tác xâydựng mọi mặt cho kháng chiến lâu dài được đặt
lên hàng đầu. Về chính trị, ngày 20/12, Chính phủ ra sắc lệnh số 1/SL về việc
thành lập Uỷ ban bảo vệ tại các quân khu quân sự, các đơn vị hành chính từ cấp uỷ
trở xuống.
Về quân sự, vấn đề xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang trở thành một
nhiệm vụ cấp bách, không chỉ đáp ứng các nhu cầu trước mắt mà còn đảm bảo
kháng chiến lâu dài.

12

Downloaded by thoa Nguyen van ()


lOMoARcPSD|20482277

Về kinh tế, một chương trình kinh tế kháng chiến gồm hai mặt được đề ra:
phá hoại kinh tế địch bằng cách tẩy chay và quân sự pháhoại; xây dựng kinh tế của
ta, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, lập nền kinh tế tự chủ.
Về văn hoá - giáo dục – y tế, Đảng và nhà nước đã khắc phục được nhiều
mặt hạn chế của đời sống nhân dân như vận động “Thi đua sản xuất”, lập công,
giảm tô, giảm tức, xố nợ, hỗn nợ, tịch thu lại ruộng đất của địa chủ và thực dân
để chia lại ruộng đất cho người dân; củng cố chính quyền các cấp tại địa phương,
phải lấy xây dựng chính trị làm nhiệm vụ hàng đầu; mở các lớp Nha Bình dân học
vụ để đồng bào đều biết đọc, biết chữ, diệt hoàn toàn giặc dốt; hoạt động giáo dục
được đẩy mạnh; công tác chăm lo, bảo vệ sứckhoẻ nhân dân được chú ý.
Với sự hướng dẫn và chỉ đạo sát sao của Đảng, nhân dân ta nhanh chóng
dành thắng lợi trên các mặt trận phải kể đến là chiến dịch Việt Bắc Thu –Đông
(1947) làm thất bại âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp;
chiếndịch Biên giới (1950); chiến dịch Hoà Bình (1951) phá tan âm mưu “lấy

chiến tranh ni chiến tranh”; chiến dịch Đông- Xuân (1951-1952); chiến dịch Tây
Bắc (1952) với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”; Thượng
Lào Xuân-Hè (1953); đặc biệt nhất có lẽ là chiến thắng được coi là “tiếng chuông
báo tử của chủ nghĩa thực dân”,“lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” Điện Biên
Phủ (1954) tạo điều kiện đấu tranh ngoại giao của ta ở Hội nghị Giơnevơ giành
thắng lợi. Hiệp định chính là văn bản quốc tế quan trọng ghi nhận quyền dân tộc cơ
bản của Việt Nam là một nước độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Đánh giá ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử một nước thuộc địa nhỏ yếu
đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của
nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hồ bình,
dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới''.
Thắng lợi đó làm sáng tỏ một chân lý: “…trong điều kiện thế giới ngày nay,
một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu
tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác - Lênin để giành độc lập và dân chủ,
thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Như vậy, chiến thắng
của cuộc kháng chiến chống Pháp lần này đã chứng tỏ chủ trương của Đảng là một
bước đi đúng đắn của cách mạng Việt Nam trong cơng cuộc gìn giữ chủ quyền dân

13

Downloaded by thoa Nguyen van ()


lOMoARcPSD|20482277

tộc, xác định đúng vai trị, vị trí của các giai cấp, các giới, các lực lượng, các tầng
lớp nhân dân, đặc biệt là vai trị của cơng nhân và nông dân.
4. Kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975)
Nước Mĩ lúc bấy giờ với bản chất là một con quỷ xảo trá, lừa lọc, ngấm

ngầm can dự vào các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa ở Đông Dương để ngăn
chặn chủ nghĩa xã hội từ Liên Xô đến các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á.
Mặc dù tại quốc gia đó ln đề cao về quyền bình đẳng và dân chủ, thế nhưng Mĩ
đã thẳng tay khước từ lá thư của Hồ Chủ tịch đề nghị công nhận lãnh thổ chủ
quyền Việt Nam và không hề có động thái nào trong việc ngăn chặn thực dân Pháp
tái chiếm nước ta. Đảng đã nhận ra rằng một đợt chiến tranh mới sắp nổ ra.
Ngay sau khi Pháp thất thủ, đế quốc Mĩ đã gạt Pháp, độc chiếm miền Nam
Việt Nam, biến miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng khác nhau: chiến
lược cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc và chiến lược cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân miền Nam. Chủ trương kháng chiến “toàn dân, toàn diện, lâu dài và
tự lực cánh sinh” vẫn được Đảng nhấn mạnh và tiếp tục thực hiện. Bên cạnh các
hoạt động củng cố chiến lược quân sự để chuẩn bị cho kháng chiến, chính phủ và
Đảng ở miền Bắc tiến hành việc khôi phục kinh tế sau chiến tranh chống Pháp.
Giai đoạn 1954-1960, Đảng ta đã hoàn thành cải tạo ruộng đất; thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp; khôi phục và phát triển cơng nghiệp nhẹ. Về sự nghiệp văn hố - giáo
dục - y tế, hơn một triệu người biết chữ; giáo dục phổ thông hệ 10 năm, nền đại
học cũng được chú ý; công tác y tế được coi trọng, các bệnh truyền nhiễm được
đẩy lùi. Bên cạnh đó, lực lượng kháng chiến cũng được chú trọng và nâng cao.
Món đòn của Mĩ đối với chiến tranh Việt Nam man rợ và tàn bạo hơn Pháp
rất nhiều lần: chúng lập chính phủ bù nhìn ở miền Nam; lùng bắt, tìm diệt, tra tấn
những cán bộ Cộng sản; chống phá, cản trở các hoạt động cách mạng của Đảng.
Tháng 8/1956, đồng chí Lê Duẩn đã soạn thảo “Đề cương cách mạng miền Nam”
nhấn mạnh nhiệm vụ của miền Nam là trực tiếp đánh đổ chính quyền phát xít Ngơ
Đình Diệm, tay sai của Mĩ, giải phóng nhân dân khỏi ách đế quốc phong kiến,
thống nhất, độc lập và dân chủ nhân dân. Tại Hà Nội, từ ngày 13/01/1959, Hội
nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng được khai mạc và quyết định
phát động quần chúng nhân dân, tiến hành khởi nghĩa vũ trang. Quân đội Việt Nam
được xây dựng thành quân đội chính quy, bước đầu được trang bị hiện đại, đủ sức
14


Downloaded by thoa Nguyen van ()


lOMoARcPSD|20482277

bảo vệ miền Bắc, đáp ứng yêu cầu giải phóng miền Nam. Bằng sự chỉ đạo và theo
dõi sát sao của Đảng, quân và dân ta đã chiến thắng được chiến lược “chiến tranh
đặc biệt” (1961-1965) khiến Mĩ từ bỏ ý định xâm chiếm miền Nam; đánh bại chiến
lược “chiến tranh cục bộ” trong giai đoạn (1965-1968); khiến mọi nỗ lực phản
cách mạng của địch trở nên công cốc bằng việc làm tiêu tàn chiến lược “Việt Nam
hoá chiến tranh” (1969-1973) với phương hướng “Đánh cho Mĩ cút, đánh cho nguỵ
nhào”. Trải qua 21 năm chiến đấu kiên cường, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hy sinh, được sự đồng tình ủng hộ của
các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đã lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến
tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải
quân ở miền Bắc. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với
thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Thắng lợi oanh liệt mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến
tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn một
thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ trong cả nước; bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
thống nhất đất nước qua bao năm bị chia cắt, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập,
thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Thành công lớn nhất phải kể đến trong nỗ lực và chủ trương của Đảng đó là
đàm phán và kí kết được hiệp định Paris (1973) về “Hiệp định về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hồ bình ở Việt Nam”. Sự kiện này được coi là thắng lợi to lớn nhất
của nhân dân ta trong hơn 20 năm chiến đấu anh dũng, kiên cường, bền bỉ. Đất
nước đã hoàn toàn thống nhất 2 miền Nam-Bắc, hồ bình chính thức được xác lập.

Chiến thắng to lớn này chính là lời khẳng định về sự thành công trong công tác
thực hiện chủ trương đường lối chiến tranh “toàndân, toàn diện, lâu dài và tự lực
cánh sinh”.
Đánh giá tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (năm 1976) khẳng định:
''Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong
những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một

15

Downloaded by thoa Nguyen van ()


lOMoARcPSD|20482277

chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và
có tính thời đại sâu sắc”.
5. Trong sự nghiệp đổi mới từ năm 1986 đến nay
Sau khi đất nước được thống nhất, trong mn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh
đạo nhân dân vừa khôi phục kinh tế, vừa tiến hành hai cuộc chiến đấu chống xâm
lược ở hai đầu biên giới, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước vừa đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật
chất, vừa tìm tịi, tháo gỡ khó khăn, khắc phục trì trệ, khủng hoảng kinh tế-xã hội,
từng bước hoạch định đường lối đổi mới.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, nhất là từ Đại hội VI đến
nay, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước bổ sung, phát triển đường lối đổi mới
theo phương châm: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt, cùng với phát triển văn hóa-nền tảng tinh thần của xã hội và

quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng xác định mơ hình kinh tế
tổng qt trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là kinh tế thị trường XHCN:
“Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong chỉ đạo
phát triển kinh tế, đi đôi với tập trung phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể,
Đảng coi trọng vai trò của kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
Bên cạnh đó, Đảng chủ trương đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
trước tiên là cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp và xây dựng nơng thơn
mới. Nhờ vậy, hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, tăng trưởng kinh tế trung
bình hằng năm đạt 7%. GDP năm 2019 gấp 12,5 lần năm 2001. Thu nhập bình
quân đầu người tăng từ 200USD năm 1990 lên 1.168USD năm 2010 và hơn
3.500USD năm 2021.
Cùng với việc tập trung xây dựng và phát triển kinh tế, Đảng chủ trương xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng văn hóa và
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển. Vấn
đề xã hội là lĩnh vực được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, thể hiện sự ưu
việt của chế độ XHCN ở Việt Nam. Quan điểm cốt lõi của Đảng về chính sách xã
16

Downloaded by thoa Nguyen van ()


lOMoARcPSD|20482277

hội là: Chính sách xã hội vì con người, lấy con người là trung tâm. Kết hợp tăng
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi,
từng chính sách, ở quy mơ quốc gia, địa phương và cơ sở. Thực hiện chính sách
phát triển bao trùm để mọi người dân đều được hưởng trực tiếp và công bằng các

thành tựu của phát triển, để khơng ai bị bỏ lại phía sau. Sự quan tâm của Đảng đã
tạo ra sự chuyển biến về văn hóa-xã hội. Đời sống vật chất và tinh thần của các
tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt. Văn hóa-xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã
hội được bảo đảm.
Công tác xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa
sống cịn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh
đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng; đồng thời tăng cường đấu tranh,
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Tăng cường cơng tác xây dựng Đảng về đạo đức. Chú trọng đổi
mới công tác cán bộ trên cơ sở lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước
đo phẩm chất, năng lực của cán bộ. Từng bước kiện toàn hệ thống tổ chức của
Đảng và Nhà nước theo hướng tinh gọn, giảm bớt đầu mối trung gian. Đến hết năm
2019, số đầu mối trực thuộc Trung ương giảm 4 đầu mối; tổng cục và tương đương
giảm 7; cục, vụ và tương đương giảm 83; sở, ngành và tương đương giảm 119; đơn
vị công lập giảm 5.145; thôn, tổ dân phố giảm 15.354...Về đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý: Giảm 827 lãnh đạo sở, ngành và tương đương; 9.063 lãnh đạo cấp
phòng và tương đương; 8.131 cán bộ lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp ở địa
phương.
Xác định quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu nên trong thời kỳ đổi
mới, Đảng chủ trương tiến hành bảo vệ Tổ quốc “từ sớm”, “từ xa”. Kiên quyết,
kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững mơi
trường hịa bình để phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh trong từng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội; xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng vững
chắc để xây dựng nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân. Chủ trương đúng
đắn của Đảng và nỗ lực của tồn qn đã góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng và chế độ XHCN; giữ vững an ninh
chính trị và trật tự an tồn xã hội. Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố an ninh,
quốc phòng với chống “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ; vơ hiệu hóa hoạt động

17

Downloaded by thoa Nguyen van ()


lOMoARcPSD|20482277

của các đối tượng phản động trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn
giáo, nhân quyền để gây mất ổn định. Tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố
một bước; xây dựng quân đội và cơng an theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại; xây dựng được thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an
ninh nhân dân.
Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng sau hơn 35 năm qua là minh chứng hùng
hồn chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc đổi mới, bảo đảm đất nước phát triển bền vững, theo đúng định hướng
XHCN. Đó là cơ sở, nền tảng để tiếp tục xây dựng dựng đất nước phồn vinh, hạnh
phúc.
IV. Liên hệ thực tiễn, đánh giá vai trò lãnh đạo của đảng đối vói Việt Nam
hiện nay
Trong quá trình lịch sử trước đây, để có thành cơng trong công cuộc đấu
tranh giành độc lập và thống nhất đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong giai đoạn mới, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục
được khẳng định với vai trò đưa đất nước phát triển nhanh, ổn định, đem lại đời
sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam.
Với các phương pháp, cách thức cầm quyền dân chủ, khoa học và phù hợp
với yêu cầu, nhiệm vụ từng thời kỳ của Đảng, nên sự nghiệp cách mạng Việt Nam
nói chung, sự nghiệp đổi mới đất nước nói riêng đã đạt được những thắng lợi và
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đó là thắng lợi của hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập dân tộc, thống nhất

đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là những thành tựu to lớn của
công cuộc đổi mới, đưa nước Việt Nam từ một nước nông nghiệp nghèo, thiếu
lương thực, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thấp kém so với các nước trong khu
vực trở thành một nước đang phát triển, một cường quốc xuất khẩu gạo và thủy
sản; nền kinh tế ln duy trì mức tăng trưởng cao, bình quân GDP 10 năm trở lại
đây đạt trung bình 6%/năm. Việt Nam là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành
công nhất thế giới; dự trữ ngoại hối tăng nhanh qua các năm, đạt mức kỷ lục gần
100 tỷ USD năm 2020; hệ thống chính trị ổn định; quốc phịng, an ninh được giữ
vững; dân chủ trong Đảng và trong xã hội được phát huy; quan hệ đối ngoại ngày
18

Downloaded by thoa Nguyen van ()


lOMoARcPSD|20482277

càng rộng mở, với trên 190 nước, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác
toàn diện với tất cả các nước lớn; có quan hệ kinh tế - thương mại với trên 220
nước và vùng lãnh thổ, tạo điều kiện cho thế và lực của Việt Nam trên trường quốc
tế ngày càng tăng. Những thành tựu đó đã được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng khẳng định tại Đại hội XIII của Đảng: “Đất nước ta chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và
xã hội được khẳng định ở sự tiêu biểu về trí tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng đã
đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Đảng luôn bám sát thực tiễn, tôn
trọng quy luật khách quan, tiếp thu ý kiến của Nhân dân để hoàn thiện đường lối và
phương pháp lãnh đạo của mình. Điều này thể hiện khi xây dựng Cương lĩnh,
đường lối, chủ trương, nhất là khi chuẩn bị Đại hội Đảng, Đảng luôn tổ chức cho
Nhân dân thảo luận, góp ý xây dựng văn kiện của Đảng, các ý kiến góp ý được
tổng hợp, chắt lọc, tiếp thu, làm cho các Nghị quyết của Đảng trở thành sản phẩm

kết tinh trí tuệ của tồn Đảng, tồn dân, phát huy vai trò của Nhân dân tham gia
xây dựng Đảng. Điều này khẳng định khơng có sự “mất dân chủ”, “độc tôn, độc
tài” như các đối tượng thù địch rêu rao.
Sự lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới
hiện nay đã đưa đất nước ta đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, tạo ra “cơ
đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay” chính là minh chứng bác bỏ các luận
điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
với Nhà nước và xã hội. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được ghi nhận
trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và ngày càng được
khẳng định.

19

Downloaded by thoa Nguyen van ()


lOMoARcPSD|20482277

KẾT LUẬN
Trải qua những chặng đường lịch sử gian nan, đầy vẻ vang Đảng ta đã khẳng
định được vai trò của chính Đảng là khơng thể thiếu và vơ cùng cần thiết cho nước
ta. Đảng vẫn tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp để đáp ứng sự mong mỏi của
nhân dân và khơng ngừng hồn thiện bản thân để có được sự đáp ứng tốt nhất
giành cho nhân dân. Có thể nói khơng có mất Đảng Cộng sản nào trên thế giới có
được thành tựu vẻ vang như Đảng Cộng Sản Việt Nam. Một Đảng đã ăn sâu vào
trong từng người dân Việt Nam về vai trị của nó.
Tóm lại, lịch sử cách mạng Việt Nam cận, hiện đại đã chứng tỏ khơng có
một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng. Trong thời kỳ mới, Đảng không ngừng
củng cố, bồi đắp nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, nâng cao trình độ lý luận, trí tuệ. Không ngừng bổ sung, phát triển Cương
lĩnh, đường lối, lãnh đạo Nhà nước, cụ thể hóa, thể chế hóa đường lối thành chính
sách, pháp luật. Rèn luyện đạo đức cách mạng theo tấm gương Hồ Chí Minh đề
cao trách nhiệm nêu gương. Từ đó, mỗi sinh viên cũng khơng ngừng phát huy, nỗ
lực, thực hiện trách nhiệm để bảo vệ Đảng, bảo vệ nền tư tưởng của Đảng để
chống lại những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù.

20

Downloaded by thoa Nguyen van ()


lOMoARcPSD|20482277

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng, Cách mạng tháng tám 1945, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1971
1. Nghiên cứu lịch sử, số 163, năm 1975
2. Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb CTQG, H.1996
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb CTQG-ST, H.2011
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG-ST, H.2011
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb
Sự thật, H.1987
7. Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Hà Nội (2018), PSG.TS Nguyễn
Trọng Phúc.

21


Downloaded by thoa Nguyen van ()



×