Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

TIỂU LUẬN môn TRIẾT học mác – LÊNIN đề tài TRIẾT học TRONG hội họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.75 KB, 15 trang )

lOMoARcPSD|20482277

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN

TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

ĐỀ TÀI:

TRIẾT HỌC TRONG HỘI HỌA

GVHD:

Ths. Đồn Thị Cẩm Vân

Nhóm:

Lê Hồng Châu (6948)
Phạm Ngọc Đức (9374)
Phạm Thị Thùy Duyên (5760)
Trần Nhật Trang (7374)
Lê Thị Mỹ Hiền (0867)
Bùi Thị Mỹ Duyên (2522)

Đà Nẵng, 10/2019


lOMoARcPSD|20482277

MỤC LỤC


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.
2.
3.
4.
5.

Lý do chọn đề tài.
Đối tượng và mục đích nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu.
Lịch sử nghiên cứu của vấn đề.
Kết cấu của tiêu luận.

PHẦN II: NỘI DUNG
1. CHƯƠNG I: Giới thiệu về triết học trong hội họa:
1.1. Lịch sử ra đời của triết học trong hội họa.
1.2. Các giai đoạn phát triển.
1.3. Các trường phái triết học hiện nay.
1.3.1. Trường phái ấn tượng.
1.3.2. Trường phái hậu ấn tượng.
1.3.3. Trường phái dã thú.
1.3.4. Trường phái biểu hiện.
1.3.5. Trường phái tương lai.
1.3.6. Trường phái siêu thực.
1.3.7. Trường phái ấn tượng trừu tượng.
1.3.8. Trường phái nghệ thuật nhận thức.
1.4. Giới thiệu tổng quan về hội họa.

2. Chương II:Tìm hiểu về triết học trong hội họa:
PHẦN III: KẾT LUẬN



lOMoARcPSD|20482277

I. PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Xưa nay người ta thường nói đến triết học văn chương nhiều hơn là
triết học dành cho các vấn đề khác. Một thứ truyền thống trong ngơn
ngữ nhất là những gì thuộc về triết học. Nhưng khơng chỉ có triết học
trong văn chương mà cịn có triết học trong hội họa. Có nghĩa là thơng
qua các bức tranh thì người họa sĩ sẽ thể hiện được tầm tư duy, ý tưởng
và quan niệm thẫm mỹ của mình đối với đời sống hiện thực. Trong đó
phương pháp dung bút trong sáng tạo nghệ thuật đã tạo dựng cho nền
nghệ thuật nhiều quan điểm, triết lý sáng tạo, triết lý sống.

2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu:
Mỗi trường phái nghệ thuật, mỗi thiên hướng sáng tạo nghệ thuật của
tác giả đó là kết quả của quá trình tư duy, những con người nghệ sĩ tiêu
biểu, tạo dựng cho thời đại nhiều tên tuổi cũng như các tác phẩm có giá
trị. Ở nước ngồi như: Lêơna da vince-Mikenlay, Raphacl, Rodin,……
cịn ở Việt Nam ví dụ như: Nguyễn Vĩnh Phối, Tơ Ngọc Vân, Hứa
Thanh Bình, …. Đối với nhóm em thì triết học trong hội họa là đối
tượng để nghiên cứu và mục tiêu là dựa vào các tác phẩm nổi tiếng trên
thế giới và Việt Nam để tích lũy thêm kinh nghiệm cũng như có thêm sự
hiểu biết về tính triết học trong hội họa.

3. Phương pháp nghiên cứu:
Tìm kiếm tư liệu, sử dụng thơng tin, phân tích, so sánh rõ từ những
giá trị ban đầu.
Thẩm định, đánh giá, xem xét, so sánh tác phẩm của họa sĩ Nguyễn

Vĩnh Phối.
Phươn pháp nghiên cứu phân tích tổng hợp, so sánh, chắc lọc giá trị
tiêu biểu hình thành qua các tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Vĩnh Phối.
Minh chứng bằng tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Vĩnh Phối biểu thị sự
đánh giá thẩm định, có tính khoa học,…v.v.

4. Lịch sử nghiên cứu của vấn đề:
“Lược sử mỹ thuật Việt Nam (thời kỳ cổ đại và phong kiến)” của
Trịnh Quang Vũ
“Những

nền nghệ thuật ngoài phương Tây “của Michael K. O’ Riley


lOMoARcPSD|20482277

“Hội hoạ Trung Hoa qua lời các vĩ nhân và danh hoạ” của Lâm Ngữ
Đường
“Tâm tư nghệ thuật” của Bùi Xuân Phái

5. Kết Cấu của tiểu luận:
Tiểu luận có 4 phần:
Phần I: Mở đầu, nêu lên phương pháp nghiên cứu, giá trị khoa học và
đóng góp của tiểu luận.
Phần II: Phần nội dung, làm rõ có tính khoa học, phương pháp so
sánh, minh chứng, diễn giải từ đó quyết định giá trị thẩm mỹ, giá trị tư
tưởng trong tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Vĩnh Phối.
Phần III: Kết luận, đúc kết lại quá trình nghiên cứu.
Phần IV: Tài liệu tham khảo và ảnh minh họa.


II. PHẦN II: NỘI DUNG
1.CHƯƠNG I: Giới thiệu về triết học trong hội họa:
1.1 Lịch sử ra đời của triết học trong hội họa:
Lịch sử hội họa được bắt đầu từ những hiện vật của người tiền sử và
trải dài theo tất cả các nền văn hóa. Nó thể hiện một sự liên tục từ truyền
thơng Cổ đại mặc dù vẫn trải qua những thời kỳ gián đoạn. Vượt qua các
nền văn hóa, sự trải dài của các lục địa và hàng thiên niên kỷ, lịch sử hội
họa vẫn là một dịng sơng đang cuộn chảy của sự sáng tạo mà vẫn được
tiếp nối ở thế kỷ XXI. Cho đến tận đầu thế kỷ XX nó vẫn phụ thuộc cơ
bản vào các mơ típ của sự tượng trưng, tôn giáo và cổ điển, nhưng sau
thời gian đó sự trừu tượng và quan niệm lại đạt được sự ưa chuộng.
1.2 Các giai đoạn phát triển:

Sự phát triển của lịch sử hội họa Phương Đơng nhìn chung là song
song với hội họa Phương Tây trong một vài thế kỉ đầu. Nghệ thuật châu
Phi, nghệ thuật của người Do Thái, nghệ thuật Hồi giáo, nghệ thuật Ấn
Độ, nghệ thuật Trung Quốc và nghệ thuật Nhật Bảntừng có ảnh hưởng
đáng kể đến nghệ thuật phương Tây và ngược lại.
Ban đầu phục vụ mục đích thực dụng, sau đó dưới sự bảo hộ của triều
đình, cá nhân và tơn giáo, hội họa Phương Tây và nghệ thuật Phương
Đơng sau đó tìm được các khán giả trong giới thượng lưu và trung lưu.


lOMoARcPSD|20482277

Từ thời kì Hiện đại, thời kì Trung cổ cho tới thời kì Phục Hưng các họa
sĩ làm việc cho các nhà thờ và tầng lớp quý tộc giàu có. Với sự khởi đầu
thời kì Baroque các nghệ sĩ nhận được hoa hồng riêng từ tầng lớp trung
lưu có học và thịnh vượng. Cuối cùng trong ý tưởng Phương Tây về
"nghệ thuật vị nghệ thuật"bắt đầu xuất hiện các biểu hiện trong các tác

phẩm của các họa sỹ lãng mạn như Francisco de Goya, John
Constable và J.M.W Turner. Thế kỷ XIX chứng kiến sự nổi lên của các
phòng trưng bày nghệ thuật thương mại, được bảo trợ trong thế kỷ XX.
Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc có truyền thống mạnh mẽ trong hội
họa cũng đồng thời gắn liền với nghệ thuật thư pháp và tranh in (thứ
được đánh giá là rất giống với hội họa). Hội họa Phương Đông lâu đời
được đặc trưng bởi kỹ thuật dựa vào nước, các đối tượng ít tính thực tế,
"thanh lịch" và cách điệu, tiếp cận để mô tả bằng đồ họa, tầm quan trọng
của khoảng trống (hoặc không gian âm) và ưu tiên phong cảnh (thay vì
con người) làm chủ đề. Ngồi mực và màu vẽ trên lụa hoặc giấy cuộn,
sơn được làm từ vàng mài cũng là một chất liệu phổ biến trong các tác
phẩm hội họa Đông Á. Mặc dù lụa là một chất liệu hơi đắt tiền trong quá
khứ, sự phát minh ra giấy vào thế kỉ thứ nhất Công nguyên bởi thái giám
triều Han tên là Thái Luân không chỉ cung cấp nguyên liệu rẻ và phổ
biến cho việc viết lách mà còn là nguyên liệu rẻ và phổ biến cho hội họa
(khiến nó dễ tiếp cận với công chúng hơn).
Những tư tưởng của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo đóng vai trị
quan trọng trọng hội họa Đông Á. Các họa sĩ ở triều đại Tống thời trung
cổ là Lin Tinggui và bức La Hán giặt đồ ở thế kỷ XII (lưu giữ tại bảo
tàng Nghệ thuật tự do của Smithsonian) là một ví dụ điển hình cho tư
tưởng phật giáo hợp nhất với các tác phẩm nghệ thuật cổ điển Trung
Hoa. Trong bức tranh trên lụa sau đó, các vị La Hán trọc đầu được miêu
tả trong một khung cảnh thực thế là đang giặt quần áo bên một con sông.
Tuy nhiên, tác phẩm này tự bản thân nó đã là một cái nhìn tuyệt vời, các
vị La Hán được miêu tả mộ cách chi tiết và các màu sắc tươi sáng, trong
trẻo đối lập với mơi trường mờ ảo, rừng gỗ nâu ảm đạm. Ngồi ra, các
ngọn cây được bao phủ trong sương mù xoáy, mang tới các "không gian
âm" phổ biến đã được nêu trên trong hội họa Đông Á.
Trong Chủ nghĩa Nhật Bản, những họa sĩ hậu trừu tượng như Van
Gogh hay Henri de Toulouse-Lautrec, và các họa sĩ trường phái tôn màu

thống nhất như James McNeil Whistler, ngưỡng mộ họa sĩ đầu thế kỷ
XIX người Nhật Ukiyo-e cùng với tác phẩm Hokusai (1760 - 1849) và
Hiroshige (1797 - 1858) và bị ảnh hưởng bởi chúng.
1.3 Các trường phái triết học hiện nay:
1.3.1 Trường phái ấn tượng:
Ấn tượng là một trào lưu nghệ thuật bắt đầu tại Paris (Pháp) vào cuối
thế kỷ 19. Trường phái ấn tượng đánh dấu một bước tiến quan trọng của


lOMoARcPSD|20482277

hội họa. Cái tên “ấn tượng” do các nhà phê bình gọi theo một bức tranh
nổi tiếng của Claude Monet: Impression, soleil levant (Ấn tượng mặt
trời mọc).
Trường phái ấn tượng hình thành từ Paris hiện đại. Đó là chất xúc tác,
là nơi xuất phát và là chủ đề của trường phái ấn tượng. Trong thập niên
1850, Paris vẫn còn là một thành phố thời Trung cổ với những con
đường quanh co, nhỏ hẹp, thiếu vệ sinh và thiếu cả ánh sáng. Vào
khoảng thập niên 1870, thời hoàng kim của trường phái ấn tượng, thành
phố cũ già nua này đã bị phá bỏ thành bình địa để từ đó xây dựng lại
một thủ đô với những đại lộ dài, với hàng dãy tiệm cà phê, nhà hàng, và
nhà hát.
Những bức tranh thuộc trường phái ấn tượng được vẽ bằng những nét
cọ có thể nhìn thấy được, sự pha trộn khơng hạn chế giữa các màu với
nhau và nhấn mạnh đến sự thay đổi và chất lượng của độ sáng trong
tranh.
Hai ý tưởng đáng chú ý trong trường phái này là: Bức tranh được vẽ
rất nhanh với mục đích là ghi lại một cách chính xác tổng quan của
khung cảnh.Tiếp theo sau là thể hiện một cái nhìn mới,nhanh và khơng
định kiến; khác với trường phái hiện thực,tự nhiên.

Các họa sĩ tiêu biểu của trường phái này: Mary Cassatt, Paul Cezanne
(sau này đã rời bỏ phong trào), Edgar Degas, Max Liebermann, Édouard
Manet (tuy nhiên Manet khơng xem mình thuộc phong trào), Claude
Monet, Berthe Morisot, Camille Pissarro, Pierre-Auguste Renoir,
Zinaida Yevgenyevna Serebryakova, Alfred Sisley.
1.3.2 Trường phái hậu ấn tượng:
Hậu ấn tượng là tên gọi chung để chỉ tới những nghệ sĩ thuộc thời kỳ
sau trường phái ấn tượng. Trường phái ấn tượng là một bước ngoặt trong
hội họa, rũ bỏ những quan niệm từng tồn tại rất nhiều năm ở châu Âu.
Từ sau ấn tượng, nhiều nghệ sĩ độc lập tìm tịi sáng tạo và đi theo các
hướng khác nhau. Mặc dù họ không có phong cách sáng tác giống nhau,
nhưng được gọi chung là hậu ấn tượng. Thuật ngữ này do nhà phê bình
người Anh Roger Fry đặt ra chỉ những họa sĩ như Paul Cézanne, Paul
Gauguin, Vincent Van Gogh. Nghiên cứu về các họa sĩ này cũng cho
thấy sự phát triển của nghệ thuật Pháp thời gian cuối thế kỷ 20.
Các nghệ sĩ hậu ấn tượng từ chối rập khuôn theo chủ nghĩa ấn tượng
và từng người tìm cách nổi bật cá tính của mình, có thái độ biểu hiện
chủ nghĩa trong hình họa, màu sắc và cách giải quyết đề tài. Đó thực sự
làm nên một nghệ thuật mới với những tuyên ngôn thẩm mĩ khác, không
giống với nghệ thuật và kĩ thuật của xu hướng ấn tượng mà họ cùng
tham gia trước đó. Ba họa sĩ Paul Cézanne, Paul Gauguin, Vincent Van


lOMoARcPSD|20482277

Gogh với ba phong cách hiện thực đã làm phong phú và đa dạng một
thời kỳ ngắn ngủi nhưng vang dội và đầy hấp dẫn của của nghệ thuật.
Họ báo hiệu cho các trào lưu sẽ nở rộ ở thế kỷ 20.
1.3.3 Trường phái dã thú:
Để chống chọi với trường phái Ấn tượng, quá chú trọng đến ánh sáng

mà quên đường nét của cảnh vật, nên trường phái Dã thú ra đời.
Trường phái Dã thú có sự phản ứng mạnh mẽ chống lại trường phái
Ấn tượng, chống lại sự mất mát không gian do dùng quá nhiều ánh sáng,
do sự phân tích tỉ mỉ, khơng theo quy luật nào, vì thế chỉ là sự ngẫu
nhiên và khơng có suy tính trước. Sự cần thiết cho họa sĩ trường phái Dã
thú là màu sắc, chứ không phải vẽ như thấy thực tế, mà là phải sáng tạo
sắc độ. Bức tranh là một bố cục nhiều màu, không phải là sự sao chép
thiên nhiên; là sự liên tục tạo hình sống động, không là cảnh sắc vặt vụn,
là một sự bố cục màu sắc mạnh bạo, khơng phải là sự tình cờ đẹp mắt.
Năm 1905, triễn lãm mùa thu ở Paris có một phòng tranh giới thiệu
những tác phẩm mới, đặc biệt dữ dội về màu sắc. Công chúng xem tranh
phản ứng khác nhau, vì có một sự thật là một loạt tiêu chí hội họa cổ
điển nữa đang bị phá vỡ. Phịng tranh được nhà phê bình LuisVauxcelles
gọi là ” Chuồng dã thú “, và cái tên Dã thú đã bước vào lịch sử hội hoạ
Thế giới. Tên goi đó rất phù hợp với các họa sĩ này bởi vì những màu
sắc mà họ sử dụng là dữ dội một cách cố tình.
Khuynh hướng Dã thú ra đời đầu thế kỷ XX, phát triển cực thịnh năm
1905 – 1906, có dấu hiệu suy tàn năm 1907 và chấm dứt hoạt động
trước chiến tranh Thế Giới thứ nhất để chuyển sang những phong cách
rất khác nhau. Những thành viên tiêu biểu là: Henri Matisse, Vlaminck,
Derain, Van Doghen, Marquet, Dufy….
Hầu hết thành viên của trường phái Dã thú là người Pháp và trẻ tuổi.
So với khuynh hướng Ấn tượng, sự xuất hiện của hội họa Dã thú mang
tính chất đảo lộn, phủ định hơn rất nhiều. Tất cả đều cùng ý chí ” Nổi
loạn màu sắc”, Vlaminck và Derain tuyên bố sẽ ” Đốt trụi trường Mỹ
thuật bằng các sắc xanh Cobalt và đỏ son”.
Để thực hiện tham vọng sáng tạo một nền hội họa mới, các họa sĩ Dã
thú chủ trương phất cao lá cờ tự do, không lệ thuộc vào đề tài, vào thiên
nhiên và sử dụng màu sắc một cách mạnh mẽ nhất, dùng màu nguyên
chất tạo sự tương phản mạnh và vứt bỏ khối vờn, bỏ diễn tả sáng tối.

Theo họ như vậy tranh mới phát huy được hết các cường độ và âm
hưởng của màu, mới tương ứng với tình cảm mạnh mẽ của lớp thanh
niên đầu thế kỷ. Nhãn thức Dã thú đã đưa hội họa đến một khơng gian
chói chang. Họ sử dụng bút pháp phóng đại cường điệu. Con người và
sự vật trong tranh được vẽ bởi những nét rất dứt khoát và đậm. Với họ,


lOMoARcPSD|20482277

bức tranh phải thể hiện cá tính mạnh mẽ, biểu hiện những tư tưởng tình
cảm và rung động chủ quan của tác giả.
1.3.4 Trường phái biểu hiện:
Chủ nghĩa biểu hiện hay Trường phái biểu hiện (Expressionism) là
một trào lưu nghệ thuật xuất hiện và phát triển ở châu Âu vào những
năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, có đặc điểm nhấn mạnh, thậm xưng
trong sự thể hiện cảm tính – xúc cảm của chủ thể (thường là cảm xúc
con người hoặc một nhóm người) hoặc xúc cảm của chính người họa sĩ.
Những cảm xúc này thường được gây ra bởi một sự kiện đặc biệt nào
đó, cũng có thể bởi sự gặp mặt-giao lưu của nhiều người hoặc sự giao
lưu của những xu hướng hội họa khác nhau (như cổ điển và hiện đại).
Chủ nghĩa biểu hiện thể hiện trong nhiều dạng nghệ thuật, từ hội họa,
kiến trúc cho đến văn học, thơ ca, nhạc kịch và điện ảnh.
1.3.5 Trường phái tương lai:
Chủ nghĩa tương lai là một trường phái nghệ thuật bộc lộ một cách
trần trụi sự bất mãn với xã hội đương thời. Trường phái này nổi bật nhất
ở Italy.
Các họa sĩ của trào lưu Giacomo Balla, Umberto Boccioni, Carlo
Carrà, Severini, Luigi Russolo đã mượn kỹ thuật điểm mảng màu của
trường phái Ấn tượng mới và trường phái Lập thể để chồng chéo hình
thức, nhịp điệu, màu sắc và ánh sáng, qua đó thể hiện một “cảm giác

động” và tính đồng thời của các trạng thái tâm hồn, cấu trúc phức tạp
của thế giới.
1.3.6 Trường phái siêu thực:
Trường phái surrealissm đã phô bày những tác phẩm nghệ thuật bằng
trang và bằng chữ viết. Họ nhấn mạnh đến sức mạnh của trí tuệ khi tạo
ra những tác phẩm nghệ thuật có ý nghĩa.
Với trường phái hội họa này, những chủ thể rất bình dị được đặt trong
một phơng màn hoặc bí ẩn, hoặc hùng vĩ, khiến cho bức tranh mang một
sức sống mới, ý nghĩa mới, như tồn tại trong mơ cùng những sự vật hiện
thực trong trạng thái không thực.


lOMoARcPSD|20482277

1.3.7 Trường phái ấn tượng trừu tượng:
Trong khoảng thời gian ngắn, nước Mỹ đã phải trải qua một thời kỳ
mà phong trào nghệ thuật lên cao. Trường phái ấn tượng trừu tượng này
đã đánh dấu một kỷ nghuyên trong lịch Mỹ. Trường phái De Stijl bao
gồm một loại hình nghệ thuật mới, đó là kiến trúc nghệ thuật hiện đại.
Trường phái này sử dụng những tài năng của các nghệ sỹ để thiết kế nhà
cửa, cơng trình và đồ đạc.

1.3.8 Trường phái nghệ thuật nhận thức:
Chính trường phái này đã chấm dứt kỷ nguyên được gọi là “nghệ
thuật hiên đại”. Ngày nay, trường phái hậu hiện đại, tân hiện đại và nghệ
thuật nhận diên đã chiếm ưu thế trong thị trường nghệ thuật. Các nghệ
sỹ của ngày hôm nay không còn là một phần của nguồn nghệ thuật tập
thể nhưng họ đã đào sâu những xu hướng và ý tưởng mới thay đổi từ
năm này sang năm khác.
Trường phái nghệ thuật nhận thức này đã giúp chúng ta đem lại độc lập,

và trong một khía cạnh nào đó nó đã hoàn thành một kỷ nguyên với
những tư tưởng nghệ thuật mới, mà khởi đầu là từ trường phái ấn tượng
cách đây 100 năm.
1.4 Giới thiệu tổng quan về hội họa:
Hội họa là một ngành nghệ thuật trong đó con người sử dụng màu
vẽ để tô lên một bề mặt như là giấy, hoặc vải, để thể hiện các ý tưởng
nghệ thuật. Thông thường, công việc này do họa sĩ thực hiện. (Họa sĩ là
từ dùng để chỉ những người coi hội họa là nghề nghiệp của mình). Kết
quả của cơng việc đó là các tác phẩm hội họa hay cịn gọi là các tranh
vẽ. Hội họa là một trong những loại hình nghệ thuật quan trọng và phổ
biến nhất. Nói cách khác, hội họa là một ngôn ngữ để truyền đạt ý tưởng
của người nghệ sĩ bằng các tác phẩm hội họa sử dụng kỹ thuật (nghệ) và
phương pháp (thuật) của họa sĩ.
Những hình vẽ về thú vật đã xuất hiện vào khoảng 30000 tới 10000
năm trước Công nguyên trên trong các hang động miền Nam nước Pháp
và Tây Ban Nha. Theo các nhà khoa học, người hang động dùng mỡ
động vật trộn với các loại bột màu làm màu nước và dùng lông thú hay
cành cây để vẽ.


lOMoARcPSD|20482277

Tiêu biểu là những bức hình trong hang Chauvet tại Pháp có 32.000
năm tuổi được xem là tác phẩm hội họa cổ nhất được biết đến ngày nay.
Ở đây, người nguyên thủy đã dùng đất đỏ và than để thể vẽ ngựa, tê
giác, sư tử, bò và voi ma mút. Đây là những bức vẽ thuộc hội họa hang
động.
Cách đây 30000 năm, con người đã phát minh ra các dụng cụ căn bản
để vẽ tranh và không ngừng cải tiến trong các thế kỷ tiếp theo. Người Ai
Cập khoảng 5000 năm trước, đã phát huy kỹ thuật vẽ tranh của riêng

mình bằng cách sơn màu nước trên bùn thạch cao hay đá vôi.
Một số tác phẩm nổi tiếng như:













Tranh sơn mài “Vườn xuân Trung Nam Bắc” - Nguyễn Gia Trí.
Tranh sơn dầu “Thiêu nữ bên hoa huệ” - Tô Ngọc Vân.
Tranh “Đôi bạn” - Nguyễn Tường Lân.
Tranh sơn dầu “Nữ dân quân miền biển” - Trần Văn Cẩn.
Tranh sơn màu Xuân hồ Gươm” - Nguyễn Tư Nghiêm.
Tranh phấn màu “Hào” - Dương Bích Liên.
Tranh sơn mài “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” - Nguyễn Sáng.
Tranh sơn dầu “Phổ cổ Hà Nội” - Bùi Xuân Phái.
Tranh “Mona Lisa” - Leonardo da Vinci.
Tranh “Ngôi sao Đêm” - Vincent van Gogh.
Tranh “Sáng tạo” - Adam Michelangelo.
Tranh “The Scream” - Edvard Much.

2. CHƯƠNG II: Tìm hiểu về triết học trong hội họa:
Trong một thời gian dài, bậc thầy hội họa người Pháp thế kỷ 17

Nicolas Poussin luôn được coi là một “họa sĩ triết học”. Những bức
tranh của ông luôn chứa đựng những tư tưởng sâu sắc và thu hút những
khán giả ngưỡng mộ trí tuệ thâm sâu.
Poussin cũng là một người tự nghiêm khắc với bản thân, với sức
mạnh tinh thần mạnh mẽ đến từ đạo đức vững chắc của ông kết hợp với
trí tưởng tượng tự do làm nâng tầm cho nghệ thuật của mình.
Trong suốt bốn thế kỷ qua, các nhà sử học nghệ thuật đều đồng ý rằng
họa sĩ người Pháp này có một đời sống tâm linh mạnh mẽ, nhưng làm
thế nào để hình dung các đặc tính tâm hồn của ơng qua các tác phẩm thì
thật sự đã có nhiều cách nhận xét khác nhau.
Họa sĩ cổ điển có tính cách đơn giản và trang trọng này cũng là một
thi nhân Cơ đốc vĩ đại, một độc giả sùng đạo của Thánh Augustinô, lại
là một nhà tư tưởng tự do có thể thốt khỏi giáo điều. Đối với những


lOMoARcPSD|20482277

khán giả thơng thường, Poussin là rất khó hiểu. Triển lãm “Poussin và
Thần” vừa kết thúc tại Paris đã mở ra bức màn về nghệ thuật của
Poussin cho khán giả, diễn giải sâu sắc các tác phẩm, đặc biệt là cho
cơng chúng biết diện mạo động lịng người nhất của nghệ thuật Poussin,
đó là sự linh thiêng của “Thần thánh” trong hội họa.


lOMoARcPSD|20482277

Bức “Le Matyre de Saint Erasme” được vẽ năm 1628, là bức tế đàn
mà Poussin đã vẽ cho nhà nguyện Erasmus thuộc Nhà thờ St. Peter.
Đây cũng là cơng trình công cộng đầu tiên của ông ở Rome. Bức tranh
mô tả vị giám mục của Erasmus bị kết án tử hình vì khơng chịu thờ

phụng các vị thần La Mã. Họa sĩ Poussin là người có xu hướng cổ điển,
xử lý với những cảnh khốc liệt và tàn bạo bằng sự hướng nội. Ví dụ,
trong bức tranh này vị thánh dù đang bị xử tử vẫn duy trì sự bình tĩnh và
nhân phẩm trong nỗi đau; màu sắc tươi sáng của tranh cũng làm nhẹ bớt
đi sự tàn khốc. Các thiên thần nhỏ bên trên chào đón ơng bằng một vịng
hoa vinh quang và chiếc lá cọ chiến thắng, có nghĩa là vương quốc thiên
đàng đang đón chào một tín đồ kiên đinh đã bị đàn áp vì sự thật và công
lý.
Bức “L’Instlation d’Eucharitie” được Poussin vẽ vào năm 1641, tại
nhà nguyện hoàng gia của lâu đài Saint-Germain-en-Anre: miêu tả
Chúa Giêsu trong lần ăn tối cuối cùng với các môn đồ của mình; ơng dự
đốn rằng ơng sắp phải chịu đau khổ; ơng chia rượu và bánh mì, tượng
trưng cho máu thịt của mình cho các mơn đồ, lập giao ước với họ về sự
hy sinh của chính mình, u cầu họ truyền bá phúc âm và cứu độ thêm
nhiều người hơn nữa.

III.

PHẦN III: KẾT LUẬN
Sự ra đời và phát triển của các trường phái hội họa là một quy luật tất
yếu của cuộc sống, trải qua nhiều thế kỉ đã ra đời và tồn tại nhiều quan
niệm sáng tác và quan điểm thẩm mĩ trái ngược nhau. Để thể hiện những
quan niệm đó chắc chắn sẽ dẫn đến những thay đổi trong ngôn ngữ hội
họa. Mỗi trường phái hội họa đều có quan điểm riêng về cái đẹp, quyết
định riêng việc lựa chọn đề tài, phương cách vận dụng ngơn ngữ tạo
hình và xử lý kỹ thuật chất liệu riêng để đạt hiệu quả mong muốn. Hội
họa là một bộ môn nghệ thuật phục vụ cuộc sống, phản ánh cuộc sống
có trách nhiệm làm thỏa mãn những nhu cầu về vật chất, tinh thần của
con người vì vậy việc các họa sĩ dày cơng tìm tịi, khám phá thêm những
chất liệu, màu sắc mới, sáng tác nên những tác phẩm đẹp cũng chỉ một

mục đích duy nhất là làm đẹp cho cuộc đời, làm thăng hoa cho cuộc
sống. Màu sắc còn là tâm hồn của mỗi dân tộc thuộc về mặt tâm lý và
phong tục, là tiếng nói quan trọng của bức tranh, tiếng nói tình cảm của
người họa sĩ. Màu sắc không thể tách rời khỏi môi trường nuôi sống con

Downloaded by thoa Nguyen van ()


lOMoARcPSD|20482277

người, nó tạo nên nét đặc sắc cho từng dân tộc. Bản thân của màu sắc
khơng có cá tính nhưng việc sử dụng, kết hợp màu sắc lại phần nào nói
lên được suy nghĩ, cá tính, sức khỏe, tâm trạng… của người thể hiện. Nó
phụ thuộc vào thị hiếu của từng người sử dụng cũng như sự biểu cảm
của người nghệ sĩ.

Downloaded by thoa Nguyen van ()


lOMoARcPSD|20482277

Downloaded by thoa Nguyen van ()


lOMoARcPSD|20482277

Downloaded by thoa Nguyen van ()




×