Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Tổng quan về hủy phán quyết trọng tài khái niệm, bản chất, ý nghĩa của việc hủy phán quyết trọng tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.98 KB, 38 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. Tổng quan về hủy phán quyết trọng tài...................................................1
1.1. Khái niệm, bản chất, ý nghĩa của việc hủy phán quyết trọng tài..............................1
1.2. Pháp luật điều chỉnh của hủy phán quyết trọng tài...................................................2
1.3. Nội dung của pháp luật về hủy phán quyết trọng tài................................................6
CHƯƠNG 2. Căn cứ, trình tự, thủ tục và hệ quả hủy phán quyết trọng tài...............7
2.1. Căn cứ hủy............................................................................................................... 7
2.1.1 Khơng có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu........................7
2.1.2 Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, phán quyết
trọng tài có nội dung khơng thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.....................11
2.1.3 Thành phần Hội đồng Trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với
thỏa thuận của các bên hoặc trái quy định của pháp luật...........................................14
2.1.4 Chứng cứ do các bên cung cấp mà hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để phán
quyết là giả mạo, trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một
bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, cơng bằng của phán quyết trọng
tài............................................................................................................................... 17
2.1.4 Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam....19
2.2 Trình tự, thủ tục yêu cầu hủy phán quyết trọng tài..................................................22
2.2.1 Trình tự, thủ tục yêu cầu hủy phán quyết trọng tài............................................22
2.2.2 Trình tự, thủ tục liên quan đến thẩm quyền của Tòa Án trong việc hủy phán
quyết trọng tài............................................................................................................ 23
2.3. Hệ quả pháp lý của hủy phán quyết trọng tài.........................................................24
2.3.1 Khi phán quyết trọng tài bị huỷ, những ưu điểm vượt trội của trọng tài sẽ không
hiện hữu..................................................................................................................... 24
2.3.2 Những bất cập của pháp luật và giải pháp........................................................25
KẾT LUẬN

0

0



CHƯƠNG 1.

Tổng quan về hủy phán quyết trọng tài.

1.1. Khái niệm, bản chất, ý nghĩa của việc hủy phán quyết trọng tài.
Khái niệm
Ở Việt Nam, theo quy định tại Khoản 10 Điều 3 Luật trọng tài thương mại
(LTTTM) năm 2010 có quy định: “Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng
tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài.”. Được hiểu
rằng trong quá trình tố tụng trọng tài, hội đồng trọng tại có quyền ban hành những quyết
định như quyết định về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các quyết định về tố tụng,
quyết định về chấm dứt tố tụng trọng tài…Các quyết định trên là quyết định trọng tài và
được thi hành. Trong đó quyết định hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ
tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài được gọi là phán quyết trọng tài. Nhìn chung ta
có thể đưa ra một khái niệm khát quát cho phán quyết trọng tài là quyết định phán quyết
của hội đồng trọng tài thương mại giải quyết tất cả nội dung tranh chấp giữa các bên tham
gia tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài, bắt buộc các bên phải chấp hành và thực
hiện (chung thẩm). Phán quyết trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và
chấm dứt tố tụng trọng tài, khi phán quyết trọng tài đưa ra toàn bộ vụ tranh chấp sẽ được
giải quyết và thủ tục trọng tài cũng đồng thời chấm dứt. Phán quyết trọng tài là kết quả
cuối cùng của quá trình tố tụng trọng tài, kết thúc quá trình tố tụng. Phán quyết trọng tài
là chung thẩm và có hiệu lực ràng buộc đối với các bên. Chung thẩm là một trong các
nguyên tắc cơ bản của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Điều này giúp cho phán quyết
trọng tài sẽ không bị các bên tranh chấp kháng cáo với bất kỳ tòa án hoặc tổ chức nào và
phán quyết sẽ không bị cơ quan nào kháng nghị. Việc phán quyết của trọng tài là chung
thẩm tạo điều kiện cho việc giải quyết các tranh chấp diễn ra nhanh chóng, tiết kiệm thời
gian tiền bạc của cải cho các bên đương sự, để một phán quyết thể hiện được tính chung
thẩm thì quyết định của trọng tài phải vơ cùng khách quan và tuân theo các quy định của
pháp luật.

Theo quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam phán quyết trọng tài có thể chia làm
hai loại là phán quyết trọng tài trong nước (trọng tài Việt Nam) và phán quyết trọng tài
nước ngoài. Phán quyết trọng tài nước ngoài là phán quyết do trọng tài nước ngoài tuyên
ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam mục đích để giải quyết các
tranh chấp do các bên lựa chọn. Việc đó đồng nghĩa với Pháp luật Việt Nam sẽ có những
cơ chế điều chỉnh khác nhau đối với phán quyết trọng tài nước ngoài và phán quyết trọng
tài Việt Nam. Đối với phán quyết trọng tài nước ngồi ta có Bộ luật dân sự và Cơng ước
New York, ở đây tịa án có quyền cơng nhận hoặc khơng cơng nhận phán quyết trọng tài.
Cịn với phán quyết trọng tài trong Luật thương mại có quy định về thi hành phán quyết
mà khơng có thủ tục cơng nhận và cho thi hành nhưng phán quyết có thể bị tuyên hủy tại
tòa.
1

0

0


Hủy phán quyết trọng tài theo từ điển tiếng việt “hủy” là làm cho khơng có tồn tại
hoặc khơng có giá trị nữa. Như vây hủy phán quyết trọng tài là việc tịa án có thẩm quyền
quyết định phán quyết đó sẽ khơng có giá trị tồn bộ hoặc một phần. Nếu phán quyết
trọng tại bị tuyên hủy bởi toàn án có thẩm quyền thì nó sẽ khơng cịn hiệu lực và dẫn đến
việc không thể thi hành không chỉ bởi tòa án nơi tiến hành trọng tài mà cả tòa án quốc gia
ở nơi khác.
Căn cứ vào các điều quy định tại chương XI LTTTM 2010, hủy phán quyết trọng tài
là một chế định của LTTTM trong đó khi một trong các bên có đơn yêu cầu hủy phán
quyết thì tịa sẽ xem xét việc hủy phán quyết đó nếu cung cấp đầy đủ và chính xác các
căn cứ cho rằng trọng tài thương mại đã ra các phán quyết thuộc trường hợp bị hủy theo
yêu cầu của pháp luật. Việc hủy phán quyết trọng tài không phải là q trình xét xử lại vụ
kiện mà tịa án chỉ xem xét lại các trường hợp hủy phán quyết theo quy định pháp luật để

ra quyết định và ngược lại tịa sẽ khơng đưa ra hủy phán quyết đối với trường hợp bằng
chứng chứng cứ lý do không rơi vào những quy định pháp luật ấy.
Bản chất
Về mặt bản chất việc hủy phán quyết trọng tài (PQTT) là PQTT sẽ bị hủy bỏ theo
quyết định của tịa án và khơng còn hiệu lực thi hành đến tất cả các bên tranh chấp.
Ý nghĩa
Ý nghĩa tích cực của việc hủy PQTT thể hiện ở chỗ việc hủy PQTT buộc tòa án
phải cẩn trọng xem xét lại PQTT, xem xét kỹ đơn đề nghị hủy, xem xét từng căn cứ hủy
và nếu PQTT đã vi phạm pháp luật, tức là có đủ căn cứ để tun hủy thì tịa án phải tun
hủy PQTT. Tuy nhiên, việc hủy PQTT cũng có ý nghĩa tiêu cực: Với những PQTT bị hủy
bỏ toàn bộ, việc hủy bỏ PQTT sẽ có tác động tiêu cực trước hết là đối với bên thắng kiện,
cũng tức là bên mà khi PQTT được thực thi sẽ có lợi cho họ, bởi vì điều mà họ chờ đợi
khi PQTT được thi hành sẽ khơng cịn và nếu muốn bảo vệ quan điểm của mình thì họ lại
phải bắt đầu một thủ tục mới kéo dài, tốn kém về cả thời gian và cơng sức là khởi kiện ra
tịa án và điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
phá vỡ chiến lược và kế hoạch kinh doanh, xáo trộn về công việc, ách tắc về tài chính…
uy tín và thương hiệu.
1.2. Pháp luật điều chỉnh của hủy phán quyết trọng tài
Những căn cứ hủy phán quyết trọng tài được quy định tại Điều 68 LTTTM 2010
nhưng đây là một căn cứ mà việc hiểu, giải thích như thế nào cho đúng với tinh thần, ý đồ
của nhà làm luật là khó khăn nhất. Điều này được phản ánh rất rõ trong việc áp dụng khi
xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thời gian qua và cũng gây nhiều băn khoăn, trăn
trở trong giới trọng tài, các nhà nghiên cứu, nhà ngoại giao và tổ chức quốc tế vẫn luôn
quan tâm đến vấn đề này.
2

0

0



Vì vậy, việc tiếp cận ở các góc độ khác nhau cả về mặt lý luận, quy định của pháp
luật, các quy định quốc tế có liên quan như Cơng ước NewYork, bình luận án… là rất
cần thiết để có cách nhìn tồn diện, đầy đủ và chính xác nhất nhằm áp dụng quy định này
trong thực tế giải quyết tranh chấp, trong xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài một
cách đúng đắn là rất cần thiết, vừa góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên đương sự, lợi ích của bên thứ ba (lợi ích cơng cộng, lợi ích nhà nước và xã hội…)
vừa làm cho Luật TTTM ngày càng đi vào cuộc sống, hoạt động trọng tài Việt Nam
không ngừng phát triển, thương nhân có nhiều niềm tin, sự lựa chọn các phương thức giải
quyết khi có tranh chấp là mong muốn không chỉ của giới doanh nhân của các Trọng tài
viên, mà cịn của mỗi chúng ta vì sự phát triển giàu mạnh của đất nước. Với suy nghĩ như
vậy, bài luận này sẽ làm rõ để chúng ta nên hiểu, giải thích quy định tại điểm đ khoản 2
Điều 68 Luật TTTM như thế nào là hợp lý nhất, phù hợp với ý định của nhà làm luật.
Điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật TTTM quy định: “Phán quyết trọng tài trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Có thể hiểu, đây là phán quyết vi phạm các
nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp
luật Việt Nam.
Trong thực tiễn xét xử, rất nhiều trường hợp Tòa án căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều
68 để hủy phán quyết trọng tài. Rất nhiều nguyên tắc cơ bản hoặc ngun tắc khơng cơ
bản được Tịa án viện dẫn trong quyết định khi hủy phán quyết trọng tài đều là các
nguyên tắc có nội dung hướng dẫn cách xử sự của các bên đương sự trong q trình giao
kết, thực hiện hợp đồng, chứ khơng phải là các nguyên tắc hướng dẫn cách xử sự của cơ
quan tài phán. Mặt khác, hầu hết quyết định của Tòa án khi áp dụng điểm đ khoản 2 Điều
68 Luật TTTM đều xem xét, giải quyết lại nội dung vụ tranh chấp đã được trọng tài xét
xử. Đây rõ ràng là sự vi phạm nghiêm trọng quy định tại khoản 4 Điều 71 Luật TTTM.
Khoản 4 Điều 71 quy định: “Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ vào
các quy định tại Điều 68 của Luật này và các tài liệu kèm theo để xem xét, quyết định;
không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết”. Nghiên
cứu khoản 2 Điều 68 sẽ thấy rõ, đối với các trường hợp thuộc điểm a, b, c, d khoản 2
Điều 68 thì người có đơn u cầu hủy phán quyết trọng tài phải xuất trình chứng cứ

chứng minh cho u cầu của mình, nếu khơng chứng minh được sẽ khơng được Tịa án
chấp nhận. Đây là điểm khác biệt giữa tố tụng dân sự với Luật TTTM. Vì sao có sự khác
biệt đó?
Một là, Tịa án khi xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không xét lại nội dung
vụ tranh chấp. Tòa án chỉ xem xét dưới góc độ tố tụng (thẩm quyền, thủ tục tố tụng, thành
phần Hội đồng trọng tài…). Nếu đương sự cho rằng, phán quyết trọng tài vi phạm một
trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm d khoản 2 Điều 68 thì phải
chứng minh được sự vi phạm đó, khơng chứng minh được rõ ràng có sự vi phạm thì
khơng chấp nhận u cầu hủy phán quyết trọng tài.
3

0

0


Hai là, việc tranh chấp là quan hệ riêng tư, lợi ích của các đương sự, của thương
nhân, đó là quan hệ tư, việc của cá nhân các bên trong quan hệ tranh chấp, chứ không
phải là việc “công”, lợi ích “cơng”. Do đó, các bên phải chứng minh, phải tự bảo vệ lợi
ích của mình, nhà nước (cụ thể là Tịa án) khơng làm thay.
Ba là, các bên trong quan hệ tranh chấp thường là các thương nhân, là đối tượng vừa
có điều kiện kinh tế, sự hiểu biết hơn người dân bình thường, có đủ điều kiện để tự mình
hoặc nhờ Luật sư giúp đương sự tự bảo vệ lợi ích tư của mình, chính các bên trong quan
hệ tranh chấp hiểu rõ sự việc hơn ai hết, biết phải làm gì để tự bảo vệ lợi ích của mình,
nên Luật TTTM khơng quy định trọng tài hay Tịa án có nghĩa vụ điều tra, thu thập chứng
cứ, khơng có nghĩa vụ chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên trong quan hệ
tranh chấp thay đương sự.
Bốn là, chúng ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, gia nhập sân
chơi chung thì ngồi những điểm đặc thù, về cơ bản Luật TTTM phải phù hợp với sân
chơi chung đó, khơng thể có lựa chọn khác. Luật TTTM của các nước, Công ước, luật

mẫu… đều quy định trách nhiệm chứng minh thuộc về đương sự, Luật TTTM của chúng
ta cũng đã quy định như vậy.
Do đó, đương sự muốn bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi viện dẫn một trong các
căn cứ hủy phán quyết trọng tài được quy định từ điểm a đến điểm d khoản 2 Điều 68 thì
các đương sự phải chứng minh trước Tịa án, phán quyết trọng tài vi phạm một hay nhiều
các căn cứ đó. Đối với yêu cầu hủy “phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam” thì Luật TTTM quy định rất rõ: “…Tịa án có trách nhiệm chủ
động xác minh, thu thập chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng
tài”. (điểm b khoản 3 Điều 68 Luật TTTM). Không phải do tùy hứng hay ngẫu nhiên mà
chỉ có điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật TTTM mới quy định khi áp dụng căn cứ này Tòa án
phải chủ động xác minh, thu thập chứng cứ.
Nếu cho rằng đương sự trong vụ tranh chấp muốn bảo vệ quyền và lợi ích của mình
trong trường hợp này gặp khó khăn khi chứng minh phán quyết trọng tài vi phạm, nên
mới quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 68 như vậy thì khơng chỉ vơ lý mà cịn tạo ra sự
xung đột, mâu thuẫn với các quy định khác của Luật TTTM, khơng thể giải thích các quy
định của Luật TTTM một cách nhất quán. Điều đó chứng tỏ “đối tượng” chính mà quy
định này hướng đến để bảo vệ là những giá trị chung có tính cơ bản, bao trùm về kinh tế,
chính trị, xã hội, đạo đức, sự cơng bằng, nó có thể là lợi ích cơng, trật tự cơng, lợi ích
quốc gia, dân tộc, lợi ích nhà nước, đạo đức xã hội… hoặc lợi ích của cơng dân, chủ thể
khác không liên quan tới quan hệ tranh chấp, nhưng phán quyết trọng tài đã xâm phạm
lợi ích của họ. Đó có thể được coi là sự vi phạm cơng lý hiển nhiên khơng ai có thể chấp
nhận được. Do đó, Tịa án phải chủ động thu thập chứng cứ chứng minh và bảo vệ các
đối tượng, các lợi ích đó. Điểm đ khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP
ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
4

0

0



một số quy định của Luật Trọng tài thương mại đã ghi rõ: “…Tòa án chỉ hủy phán quyết
trọng tài sau khi đã chỉ ra được rằng phán quyết trọng tài có nội dung trái với một hoặc
nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam mà Hội đồng trọng tài đã không thực
hiện nguyên tắc này khi ban hành phán quyết trọng tài và phán quyết trọng tài xâm phạm
nghiêm trọng lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của một hoặc các bên, người
thứ ba…”. Từ hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán có thể thấy trong trường hợp nội dung
của phán quyết trọng tài chỉ phân xử trong phạm vi lợi ích của hai bên đương sự trong
quan hệ tranh chấp và phán quyết đó khơng xâm phạm lợi ích của các chủ thể khác thì
khơng được sử dụng các ngun tắc điều chỉnh hành vi, xử sự của các bên trong quan hệ
hợp đồng để xem xét, giải quyết lại nội dung quan hệ tranh chấp.
Cần phải thống nhất rằng, luật đã quy định rõ, Tịa án khơng được xem xét lại nội
dung vụ tranh chấp. Đây là một nguyên tắc không được vi phạm khi áp dụng pháp luật
trọng tài, luật tố tụng dân sự khi xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Do đó, dù Hội
đồng xét đơn có nhận thấy Hội đồng trọng tài đã diễn giải sai sự kiện, sai tình tiết, sai nội
dung tranh chấp hoặc áp dụng sai pháp luật nội dung… nhưng không phải do gian lận,
không phải do không vô tư, khách quan thì, đó cũng khơng phải là căn cứ để hủy phán
quyết trọng tài và càng không phải là cơ sở để áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật
TTTM. Trong thời gian qua, một số Hội đồng xét đơn cho rằng, phán quyết trọng tài sai
là áp dụng các nguyên tắc cơ bản theo kiểu suy diễn là phán quyết trọng tài trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, hoặc không vô tư, khách quan, nhưng khơng
có chứng cứ rõ ràng, cụ thể mà vẫn hủy phán quyết trọng tài là sai lầm nghiêm trọng, một
kiểu “lạm dụng” luật pháp.
Áp dụng các căn cứ hủy phán quyết trọng tài phải gắn với việc áp dụng quy định tại
Điều 13, khoản 4 Điều 63, khoản 7 Điều 71 Luật TTTM. Khi áp dụng các căn cứ hủy
phán quyết trọng tài được quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM thì phải hiểu sâu sắc
rằng, tố tụng trọng tài có rất nhiều điểm khác biệt với tố tụng dân sự tại Tịa án. Nếu
khơng nắm vững tính đặc thù đó rất dễ xét xử lại vụ tranh chấp, hoặc Hội đồng trọng tài
có vi phạm Luật TTTM, vi phạm thỏa thuận trọng tài…nhưng thuộc trường hợp vi phạm
đó khơng cịn là căn cứ để hủy, khơng được hủy phán quyết. Ví dụ như việc đã mất quyền

phản đối được quy định tại Điều 13 Luật TTTM.
Đối với tố tụng trọng tài, nếu trong quá trình giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng
tài có vi phạm quy định của Luật TTTM hoặc thỏa thuận trọng tài một hoặc các bên đều
biết, đều phát hiện vi phạm đó, nhưng vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không
phản đối với Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài những vi phạm đó trong thời hạn do
Luật TTTM quy định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài, hoặc tại Tòa án đối với những
vi phạm đã biết đó. Trường hợp Luật TTTM khơng quy định thời hạn thì thời hạn được
xác định theo thỏa thuận của các bên hoặc quy tắc tố tụng trọng tài. Trường hợp các bên

5

0

0


không thỏa thuận hoặc quy tắc tố tụng trọng tài khơng quy định thì việc phản đối phải
được thực hiện trước thời điểm Hội đồng trọng tài tuyên phán quyết.
Như vậy, dù quá trình giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài có vi phạm Luật
TTTM, vi phạm thỏa thuận trọng tài, nhưng một trong các bên phát hiện vi phạm mà
không phản đối trong thời hạn được quyền phản đối những vi phạm đó, phải được coi là
các bên đã chấp nhận trên thực tế về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài về các hoạt động,
cách làm đó của trọng tài. Một khi được coi là các bên đã chấp nhận hoạt động đó của
trọng tài thì khơng cịn được coi hoạt động đó là vi phạm. Nói khác đi, hoạt động đó của
trọng tài được coi là hợp pháp, có giá trị pháp lý. Sở dĩ trong tố tụng, trong hoạt động
trọng tài điều đó được thừa nhận khi đương sự không thực hiện quyền phản đối là vì tố
tụng trọng tài hết sức mềm dẻo, linh hoạt. Trong nhiều trường hợp, tố tụng trọng tài là do
đương sự lựa chọn, hoặc do các bên thỏa thuận. Mối quan hệ giữa Hội đồng trọng tài và
các bên trong tranh chấp (quyền và nghĩa vụ của Hội đồng trọng tài và các bên, trong một
vụ việc cụ thể có thể là mối quan hệ hợp đồng. Do đó, các bên có thể tự do thỏa thuận

bằng văn bản (thỏa thuận trọng tài, quy tắc trọng tài hay thỏa thuận riêng của các bên…)
hoặc bằng hành vi cụ thể (biết nhưng im lặng và không phản đối) đối với tất cả các quyền
và nghĩa vụ đó trong giới hạn pháp luật áp dụng cho phép.
Trong tố tụng trọng tài, phán quyết trọng tài là chung thẩm, có hiệu lực kể từ ngày
ban hành, khơng có trình tự xét xử phúc thẩm và khơng có trình tự giám đốc thẩm.
Nhưng theo quy định tại khoản 4 Điều 63 Luật TTTM thì: “Trường hợp các bên khơng có
thỏa thuận khác, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết, một bên có
thể yêu cầu Hội đồng trọng tài ra phán quyết bổ sung đối với những yêu cầu được trình
bày trong q trình tố tụng nhưng khơng được ghi trong phán quyết và phải thông báo
ngay cho bên kia biết. Nếu Hội đồng trọng tài cho rằng yêu cầu này là chính đáng thì ra
phán quyết bổ sung trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được u cầu”. Thậm chí,
khi đương sự đã có đơn u cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài, Tòa án đã thụ lý đơn,
nhưng theo quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật TTTM thì: “Theo yêu cầu của một bên và
xét thấy phù hợp, Hội đồng xét đơn yêu cầu có thể tạm đình chỉ việc xem xét giải quyết
đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong thời hạn không quá 60 ngày để tạo điều kiện
cho Hội đồng trọng tài khắc phục sai sót tố tụng trọng tài theo quan điểm của Hội đồng
trọng tài nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài. Hội đồng trọng tài phải thơng
báo cho Tịa án biết về việc khắc phục sai sót tố tụng. Trường hợp Hội đồng trọng tài
khơng tiến hành khắc phục sai sót tố tụng thì Hội đồng tiếp tục xét đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài”.
1.3. Nội dung của pháp luật về hủy phán quyết trọng tài
Có thể hiểu pháp luật về hủy phán quyết trọng tài là tổng thể các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong q trình tịa án xem xét hủy phán quyết
trọng tài. Đó là các quan hệ như quan hệ giữa bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với
6

0

0



tịa án có thẩm quyền, quan hệ giữa các bên trong vụ tranh chấp có yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài, quan hệ giữa tòa án với viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Việc đưa ra
khái niệm pháp luật về hủy phán quyết trọng tài là nhằm phân định ranh giới giữa các
nhóm quan hệ xã hội, qua đó lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp, đạt được
hiệu quả điều chỉnh cao.
Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài thông thường bao gồm các nội dung cơ bản sau
đây: Quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, căn cứ hủy phán quyết trọng tài, thời hạn
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, thủ tục hủy phán quyết trọng tài, hậu quả của việc hủy
phán quyết trọng tài, về thỏa thuận trọng tài (TTTT) vô hiệu, về quyền yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài của các bên ,về quyền và nghĩa vụ của bên yêu cầu hủy phán quyết trọng
tài, về tịa án có thẩm quyền hủy phán quyết trọng tài và những quy định về quyền và
nghĩa vụ của tòa án trọng việc hủy phán quyết trọng tài…Như vậy, nội dung của pháp
luật về hủy phán quyết trọng tài bao gồm nhiều vấn đề với nhiều quy định cụ thể và đa
dạng.
/> />CHƯƠNG 2. Căn cứ, trình tự, thủ tục và hệ quả hủy phán quyết trọng tài.

2.1. Căn cứ hủy.
2.1.1 Khơng có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vơ hiệu.
Khơng có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu là một trong các
căn cứ hủy phán quyết trọng tài tại khoản 2 điều 68 Luật trọng tài thương mại và được
quy định tại điểm a khoản 2 Điều 14 Nghị quyết 01/2014/HĐTP ( NQ 01/2014) về
Hướng dẫn thi hành một số quy định luật trọng tài thương mại có nêu như sau: Khơng có
thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu là thỏa thuận trọng tài thuộc một
trong các trường hợp quy định tại Điều 6 và Điều 18 Luật TTTM và hướng dẫn tại các
điều 2, 3 và 4 Nghị quyết này.”
* Khơng có thỏa thuận trọng tài
Khoản 2 điều 3 LTTTM nêu rõ: “Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên
về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”. Định
nghĩa trên cho thấy tính quan trọng của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Các

nước trên thế giới đều ghi nhận vấn đề này rất rõ ràng cụ thể trong các văn bản pháp luật.
Và dựa vào đó, ta có thể hiểu được, khái niệm thỏa thuận trọng tài thương mại chính là sự
thỏa thuận bằng văn bản, theo đó các bên tham gia ký kết thống nhất đưa một số hoặc tất
cả những tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh từ các hoạt động kinh doanh thương mại được
pháp luật cho phép giải quyết bằng phương thức trọng tài.
7

0

0


Điều 381 BLDS 2015 có nêu: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Căn cứ này kết hợp với định nghĩa
về khái niệm thỏa thuận trọng tài tại khoản 2 Điều 3 LTTTM 2010 cho thấy bản chất của
thỏa thuận trọng tài chính là hợp đồng, là một giao dịch dân sự. Vậy nên nó có vai trị
ràng buộc các bên phải tiến hành giải quyết tranh chấp tại trọng tài đúng như thỏa thuận
đã được xác lập. Điều này khiến nó giống với mục đích của các biện pháp bảo đảm nghĩa
vụ khi giao kết hợp đồng
Điều 6 LTTM 2010 quy định như sau: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có
thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Tồ án phải từ chối thụ lý, trừ
trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài khơng thể thực hiện
được”. Như vậy, để Tịa án thụ lý thì cần phải thuộc các trường hợp thỏa thuận trọng tài
vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.
- Có thể kết luận như sau:
+ Thỏa thuận trọng tài là điều kiện đầu tiên và quan trọng của tố tụng trọng tài.
+ Thỏa thuận trọng tài phải được xác lập trên cơ sở ý chí tự nguyện, bình đẳng giữa các
bên.
+ Là bằng chứng xác định thẩm quyền, thông qua thỏa thuận trọng tài, các bên từ chối
thẩm quyền xét xử của tòa án và từ chối giải quyết tranh chấp bằng các hình thức khác.

Vậy nên, thỏa thuận trọng tài là một yếu tố quan trọng trong quá trình tố tụng liên
quan đến trọng tài thương mại, có vai trị quyết định trong việc sử dụng trọng tài như một
phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Khơng có thỏa thuận trọng tài thì sẽ
khơng có giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
* Thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Điều 18 LTTM nêu cụ thể các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu:
+ Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy
định tại Điều 2 của Luật này.
+ Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
+ Người xác lập thoả thuận trọng tài khơng có năng lực hành vi dân sự theo quy định của
Bộ luật dân sự.
+ Hình thức của thoả thuận trọng tài khơng phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật
này.
+ Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong q trình xác lập thoả thuận trọng
tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
8

0

0


+ Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Như vậy, để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực thì thỏa thuận đó phải thỏa mãn 4 điều
kiện về thẩm quyền, chủ thể, hình thức và nội dung đáp ứng yêu cầu của luật điều chỉnh
- Về thẩm quyền: khoản 1 Điều 3 NQ 01/ 2014 có quy định “Tranh chấp phát sinh trong
các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài” được LTTTM 2010 quy định
tại khoản 1 Điều 18 là trường hợp thỏa thuận trọng tài được xác lập để giải quyết tranh
chấp không thuộc lĩnh vực được quy định tại Điều 2 Luật TTTM 2010.
Điều 2 LTTTM 2010 quy định về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng

tài gồm có tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại, tranh chấp phát
sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại, tranh chấp khác giữa
các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
Vậy các trường hợp tranh chấp mà không được quy định như trên thì khơng thuộc
thẩm quyền giải quyết của Trọng tài.
- Về chủ thể: khoản 2 điều 3 NQ 01/2014/NQ-HĐTP “Người xác lập thỏa thuận trọng tài
không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật TTTM là người xác lập thỏa thuận
trọng tài khi không phải là người đại diện theo pháp luật hoặc không phải là người được
ủy quyền hợp pháp hoặc là người được ủy quyền hợp pháp nhưng vượt quá phạm vi được
ủy quyền”. Do đó người xác lập thỏa thuận trọng tài phải là người đại diện theo pháp luật
hoặc là người được ủy quyền hợp pháp. Tuy nhiên vẫn có ngoại lệ cũng tại Điều này:
“Trường hợp thỏa thuận trọng tài do người khơng có thẩm quyền xác lập nhưng trong q
trình xác lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố tụng trọng tài mà người có thẩm
quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận hoặc đã biết mà khơng phản đối thì thỏa
thuận trọng tài khơng vơ hiệu.
- Về hình thức: là bằng chứng cho thấy sự thống nhất về ý chí của 2 bên thỏa thuận trọng
tài. Là một trong những điều kiện quan trọng để đảm bảo thỏa thuận trọng tài không bị vô
hiệu vậy nên phải bắt buộc tuân thủ theo đúng pháp luật quy định. Tại khoản 4 Điều 3
NQ 01/2014/NQ-HĐTP có quy định “Hình thức của thoả thuận trọng tài khơng phù hợp
với quy định tại Điều 16 Luật TTTM quy định tại khoản 4 Điều 18 Luật TTTM là trường
hợp thỏa thuận trọng tài không được xác lập bằng một trong các hình thức quy định
tại Điều 16 Luật TTTM và hướng dẫn tại Điều 7 Nghị quyết này.”
Viện dẫn Điều 16 LTTTM 2010 về hình thức thoả thuận trọng tài như sau:
1. Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp
đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.

9

0


0


2. Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận
sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện
tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại
bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài
như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả
thuận do một bên đưa ra và bên kia khơng phủ nhận.
Tại điều 7 NQ 01/2014 có quy định hướng dẫn về điều 16 LTTTM:
1. Trường hợp có nhiều thỏa thuận trọng tài được xác lập đối với cùng một nội dung tranh
chấp thì thỏa thuận trọng tài được xác lập hợp pháp sau cùng theo thời gian có giá trị áp
dụng.
2. Trường hợp thỏa thuận trọng tài có nội dung khơng rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự để giải thích.
3. Khi có sự chuyển giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, hợp đồng mà trong giao
dịch, hợp đồng đó các bên có xác lập thỏa thuận trọng tài hợp pháp thì thỏa thuận trọng
tài trong giao dịch, hợp đồng vẫn có hiệu lực đối với bên được chuyển giao và bên nhận
chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
4. Việc gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp để giải quyết trong cùng một vụ kiện
được thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Các bên thỏa thuận đồng ý gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp vào giải quyết trong
cùng một vụ kiện;
b) Quy tắc tố tụng trọng tài cho phép gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp vào giải

quyết trong cùng một vụ kiện.
Nội dung đáp ứng yêu cầu của luật điều chỉnh: Vì khơng phải tất cả mọi tranh chấp
đều có thể giải quyết bằng trọng tài nên dù thỏa mãn các điều kiện về chủ thể và hình
thức nhưng khơng nằm trong thẩm quyền tranh chấp thì vẫn bị coi là vô hiệu. Kể cả khi
các bên đều tự nguyện thì thỏa thuận này cũng bị coi là vơ hiệu nếu những loại tranh chấp
này không được pháp luật cho phép giải quyết bằng trọng tài hay không đáp ứng yêu cầu.
10

0

0


Ví dụ: Nội dung của của 1 thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng,
quyền được thừa kế, quyền lợi, lợi ích khác của cha mẹ con và thành viên khác trong gia
đình. Thỏa thuận này sẽ bị vơ hiệu nếu thỏa thuận đó nằm trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
hoặc để tước bỏ quyền thừa kế của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc hoặc vi phạm các quyền, lợi ích khác của cha mẹ con và các thành viên khác
trong gia đình được pháp luật quy định.
Căn cứ tại khoản 6 Điều 3 NQ 01/2014: “Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm
của pháp luật quy định tại khoản 6 Điều 18 Luật TTTM là thỏa thuận thuộc trường hợp
quy định tại Điều 128 của Bộ luật dân sự” và Điều 128 của BLDS 2015: “Người có năng
lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và
làm chủ được hành vi của mình thì có quyền u cầu Tịa án tun bố giao dịch dân sự đó
là vơ hiệu”.

2.1.2 Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, phán
quyết trọng tài có nội dung khơng thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.
Điểm b khoản 2 điều 68 LTTTM 2010, là một trong các căn cứ hủy phán quyết trọng tài.
* Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài ( HĐTT):

- Phạm vi và đối tượng: Căn cứ tại điều 3 Luật thương mại 2005: “Hoạt động thương mại
là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu
tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Suy ra, tranh
chấp thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực thi quyền và nghĩa
vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại giữa các chủ thể là cá
nhân, tổ chức kinh tế có đăng ký kinh doanh. Theo quy định của LTTTM 2010 thì trọng
tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại,
tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại và
các tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài.
Như vậy, trọng tài có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp phát sinh từ hoạt động
thương mại. Tương tự, theo quy định tại điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Tịa án có
quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân và tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau vì mục đích lợi nhuận. Vì thế, phạm vi
và đối tượng thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và Tòa án tương đồng với nhau.
- Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài được quy định thành một hệ thống nằm rải rác ở
nhiều chương, điều, khoản khác nhau, nhưng có thể chia ra làm các loại thẩm quyền sau
đây:
+ Thẩm quyền do các bên trao cho Hội đồng. Hội đồng trọng tài chỉ tồn tại khi có ý
chí các bên tranh chấp tự nguyện lựa chọn. Khác với Tòa án, các tranh chấp được giải
11

0

0


quyết do các bên đưa ra. Do thế, những thẩm quyền đầu tiên HĐTT có được bắt nguồn từ
các bên trao cho HĐTT dưới 2 hình thức trực tiếp và gián tiếp. Các thẩm quyền này được
thể hiện qua cụm từ “nếu khơng có thỏa thuận khác” trong các điều luật. Theo đó, ý chí
của các bên đương nhiên chuyển thành thẩm quyền của HĐTT. Đó là các trường hợp liên

quan đến ngơn ngữ có yếu tố nước ngồi ( khoản 2 điều 10 ), địa điểm tranh chấp ( Điều
11), gửi thơng báo và trình tự gửi thơng báo ( điều 12) luật áp dụng giải quyết tranh chấp
có yếu tố nước ngoài ( điều 14) và các điều 46, 47, 48 đều được quy định trong LTTTM
2010.
+ Thẩm quyền do Pháp luật quy định. Những thẩm quyền mà pháp luật trao cho
HĐTT tự quyết định là xuất phát từ nhận thức được thừa nhận rộng rãi rằng HĐTT được
thành lập và tồn tại là do ý chí của các bên nhưng khi đã tồn tại thì Hội đồng buộc phải
đứng ở vị trí vững vàng về chun mơn nhằm chứng tỏ khả năng cân bằng giữa ý chí của
các bên và yêu cầu của trật tự công cộng. Quyết định hay phán quyết của HĐTT là của
riêng Hội đồng chứ không thể là của các bên. Căn cứ tại khoản 1, 3 điều 14; khoản 2,
Điều 35 về Luật áp dụng đối với các trường hợp tranh chấp khơng có yếu tố nước ngồi.
Trong trường hợp đó, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp sẽ là pháp luật Việt Nam.
Trong tố tụng trọng tài, có thể hiểu những thẩm quyền của Tòa án phát sinh từ yêu cầu
của HĐTT chính là thẩm quyền của HĐTT chứ khơng đơn thuần là thẩm quyền của Tòa
án.
+ Thẩm quyền do chính Hội đồng quyết định cho mình. Một trong những loại thẩm
quyền đặc biệt của HĐTT là thẩm quyền tự xem xét về năng lực pháp lý của mình trong
những vụ việc cụ thể. Bản chất của trọng tài là một thiết chế tài phán, do vậy đòi hỏi các
trọng tài viên phải thực hiện chức năng của mình một cách trung lập, vô tư. Trọng tài
không phải là người của các bên, do đó phải có sự tự xét đốn tự do, khơng ràng buộc.
Do đó, tại LTTTM 2010 đã quy định chế định khước từ trọng tài cho 2 trường hợp: khước
từ trọng tài viên ( từ phía các bên) và tự khước từ của HĐTT hay còn gọi là khước từ
thẩm quyền. Khước từ thẩm quyền có 2 loại: khước từ một phần và khước từ toàn phần.
Căn cứ tại điều 44 LTTTM 2010 có nêu: Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp,
HĐTT phải xem xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài: thỏa thuận có thuộc trường hợp
khơng thể thực hiện được hay khơng và xem xét thẩm quyền của mình. Truờng hợp vụ
việc khơng thuộc thẩm quyền của mình hoặc xác định rõ là thỏa thuận trọng tài không thể
thực hiện được thì HĐTT quyết định đình chỉ việc tranh chấp và thông báo ngay cho các
bên biết. Dù cho quyết định này của HĐTT có thể bị Tịa án bác bỏ theo yêu cầu các bên
( điều 45), thì HĐTT vẫn có thẩm quyền tự xem xét thẩm quyền của mình.

Tại điểm b khoản 2 điều 14 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP có hướng dẫn như sau:
“Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận
của các bên hoặc trái với các quy định Luật TTTM là trường hợp các bên có thỏa thuận
về thành phần Hội đồng trọng tài, quy tắc tố tụng trọng tài nhưng Hội đồng trọng tài thực
12

0

0


hiện không đúng thỏa thuận của các bên hoặc Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng
quy định Luật TTTM về nội dung này mà Tịa án xét thấy đó là những vi phạm nghiêm
trọng và cần phải hủy nếu Hội đồng trọng tài không thể khắc phục được hoặc khơng khắc
phục theo u cầu của Tịa án quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật TTTM”.
Khoản 7 điều 71 LTTTM có nêu: “Theo yêu cầu của một bên và xét thấy phù hợp,
Hội đồng xét đơn yêu cầu có thể tạm đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu hủy
phán quyết trọng tài”, “Trường hợp Hội đồng trọng tài khơng tiến hành khắc phục sai sót
tố tụng thì Hội đồng tiếp tục xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài”.
Trong văn bản hướng dẫn thi hành LTTTM 2010, cụ thể tại khoản 2 điều 15 Nghị
quyết 01/2014 quy định rằng: “Nếu xét thấy phán quyết trọng tài thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM và Hội đồng trọng tài không khắc
phục hoặc không thể khắc phục được theo yêu cầu của Tòa án quy định tại khoản 7 Điều
71 Luật TTTM, thì Hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ vào điểm tương ứng tại khoản 2
Điều 68 Luật TTTM để ra quyết định huỷ phán quyết trọng tài. Nếu xét thấy phán quyết
trọng tài không thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật
TTTM, thì Hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định không huỷ phán quyết trọng tài”.
Như vậy, căn cứ để hủy phán quyết trọng tài do tranh chấp không thuộc thẩm quyền
của Hội đồng trọng tài, phán quyết trọng tài có nội dung khơng thuộc thẩm quyền của
Hội đồng trọng tài là đúng đắn và dựa trên cơ sở pháp lý các điều khoản đã nêu.

* Về phán quyết của trọng tài
Căn cứ tại khoản 10 Điều 3 LTTTM 2010: “ Phán quyết trọng tài là quyết định của
Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng
tài”.
Nguyên tắc ra phán quyết trọng tại được nêu tại điều 60 LTTTM 2010:
1. Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài bằng cách biểu quyết theo nguyên tắc đa số.
2. Trường hợp biểu quyết khơng đạt được đa số thì phán quyết trọng tài được lập theo ý
kiến của Chủ tịch Hội đồng trọng tài.
Nguyên tắc đa số được quy định rõ tại khoản 1 Điều 60 LTTTM 2010. Theo đó khi
ban hành phán quyết trọng tài, các thành viên HĐTT sẽ biểu quyết và phán quyết sẽ được
lập dựa trên đa số phiếu. Phán quyết đa số sẽ là phán quyết có hiệu lực ràng buộc đối với
các Bên tranh chấp. Điều 60 còn dự liệu trong trường hợp biểu quyết không đạt được đa
số với việc quy định tại khoản 2 rằng phán quyết sẽ được lập theo ý kiến của Chủ tịch
Hội đồng Trọng tài. Như vậy, nguyên tắc “biểu quyết” đa số theo Điều 60 LTTTM còn có
thể hiểu thêm rằng mỗi trọng tài viên được các bên chỉ định sẽ có 1 “phiếu”, và chủ tịch
Hội đồng sẽ có hơn “1 phiếu” trong q trình biểu quyết.
13

0

0


Căn cứ cụ thể để áp dụng nguyên tắc đa số trong tố tụng trọng tài tại Việt Nam được
dựa trên Điều 60 của Luật trọng tài thương mại và quá trình tố tụng trọng tài tại VIAC là
Điều 29 Quy tắc của VIAC. Cần phải lưu ý nguyên tắc đa số là một quy định mang tính
thủ tục, đặc biệt khi quan điểm đa số chưa chắc đã chính xác hơn ý kiển thiểu số về mặt
nội dung vụ tranh chấp. Một cơ sở pháp lý khác dẫn đến việc cần áp dụng nguyên tắc đa
số chính là nghĩa vụ giải quyết tranh chấp của của Hội đồng Trọng tài và nghĩa vụ ban
hành phán quyết kịp thời trong thời hạn luật định 30 ngày kể từ ngày kết thúc phiên họp

cuối cùng ( khoản 3 điều 61 LTTTM 2010). Cụ thể hơn, nguyên tắc đa số sẽ đảm bảo một
phán quyết sẽ luôn được ban hành và ban hành đúng thời hạn dù HĐTT có bất đồng quan
điểm. Nội dung của phán quyết trọng tài được quy định trong điều 61 LTTTM 2010 về
nội dung, hình thức và hiệu lực của phán quyết trọng tài.
Tài liệu tham khảo
Trương Thị Thu Hà ( 2018), Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật trọng tài
thương mại ở Việt Nam hiện nay
Nguyễn Phương Linh ( 2017), Thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo pháp luật trọng tài
thương mại ở Việt Nam hiện nay
Tống Thị Lan Hương ( 2011), Pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài
Đoàn Trung Kiên và Nguyễn Thị Vân Anh ( 2020), Tạp chí Nghề luật số 06/2020 Về giải
pháp hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam
LS. Nguyễn Mạnh Dũng và Lê Quang Hưng, Nguyên tắc lập phán quyết, quyết định
trọng tài
Đào Trí Úc ( 2010), Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và vai trò của Tòa án trong quá
trình tố tụng trọng tài
2.1.3 Thành phần Hội đồng Trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp
với thỏa thuận của các bên hoặc trái quy định của pháp luật.
*THÀNH PHẦN HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI
Hội đồng trọng tài là Bộ phận chuyên trách giải quyết tranh chấp thương mại trong
trung tâm trọng tài thương mại gồm một hoặc một số trọng tài viên, được thành lập theo
sự chỉ định của các bên tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật về trọng tài và quy
tắc tố tụng của trung tâm trọng tài để giải quyết vụ việc. Có hai loại hội đồng trọng tài là
hội đồng trọng tài được thành lập tại trung tâm trọng tài thương mại và hội đồng trọng tài
do các bên thành lập.
Điều 39 Luật Trọng tài thương mại 2010 có quy định về thành phần Hội đồng trọng
tài:
14

0


0


1. Thành phần Hội đồng trọng tài có thể bao gồm một hoặc nhiều Trọng tài viên theo sự
thỏa thuận của các bên.
2. Trường hợp các bên khơng có thoả thuận về số lượng Trọng tài viên thì Hội đồng trọng
tài bao gồm ba Trọng tài viên"
Như vậy,
-

Các bên được tự do thỏa thuận về số lượng trọng tài viên cũng như thủ tục chỉ
định các trọng tài viên đó.
Nếu các bên không thỏa thuận về số lượng trọng tài viên, Hội đồng trọng tài sẽ
bao gồm 3 trọng tài viên.

*THỦ TỤC TỐ TỤNG TRỌNG TÀI KHÔNG PHÙ HỢP VỚI THỎA THUẬN CỦA
CÁC BÊN HOẶC TRÁI QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
- Căn cứ hủy phán quyết trọng tài. Khi có căn cứ cho rằng phán quyết Trọng tài
thuộc một trong các trường hợp có thể bị hủy bỏ thì theo đơn yêu cầu của một bên, Tòa
án xem xét việc hủy bỏ phán quyết Trọng tài. Điểm b Khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài
thương mại 2010 qui định về căn cứ hủy phán quyết trọng tài. “Thành phần Hội đồng
trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với
các quy định của Luật này”
- Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa
thuận của các bên hoặc trái với các quy định Luật. Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 14 Nghị
quyết 01/2014/ NQ-HĐTP quy định. “Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng
trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định Luật
TTTM” là trường hợp các bên có thỏa thuận về thành phần Hội đồng trọng tài, quy tắc tố
tụng trọng tài nhưng Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng thỏa thuận của các bên

hoặc Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng quy định Luật TTTM về nội dung này mà
Tịa án xét thấy đó là những vi phạm nghiêm trọng và cần phải hủy nếu Hội đồng trọng
tài không thể khắc phục được hoặc không khắc phục theo yêu cầu của Tòa án quy định tại
khoản 7 Điều 71 Luật TTTM.
Ví dụ 1: Trường hợp một bên không được thông báo về đơn khởi kiện quy định tại Điều
32 Luật TTTM kịp thời và hợp pháp theo quy tắc tố tụng trọng tài, Luật TTTM dẫn tới
việc không đảm bảo được quyền được thành lập Hội đồng trọng tài là trường hợp vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trọng tài quy định tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật
TTTM.
Ví dụ 2: Các bên thỏa thuận tranh chấp được giải quyết bởi Hội đồng trọng tài gồm ba
trọng tài viên và áp dụng luật nội dung của Việt Nam để giải quyết vụ tranh chấp nhưng
thực tế việc giải quyết tranh chấp được tiến hành bởi Hội đồng Trọng tài gồm một Trọng
tài viên duy nhất, pháp luật áp dụng là pháp luật nội dung của Singapore mặc dù một bên
15

0

0


có phản đối nhưng khơng được Hội đồng trọng tài chấp nhận thì đây là trường hợp vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trọng tài quy định tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật
TTTM.”
Nghĩa vụ chứng minh.
Tòa án khi xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài khơng xét lại nội dung vụ tranh
chấp. Tịa án chỉ xem xét dưới góc độ tố tụng (thẩm quyền, thủ tục tố tụng, thành phần
Hội đồng trọng tài…). Nếu đương sự cho rằng, phán quyết trọng tài vi phạm một trong
các trường hợp được quy định từ Điểm a đến Điểm d khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài
thương mại 2010 thì phải chứng minh được sự vi phạm đó. Nghĩa vụ chứng minh các yêu
cầu hủy phán quyết trọng tài thuộc trường hợp “Thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp

với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của pháp Luật” là nghĩa vụ của bên
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
Căn cứ điểm b khoản 3 điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010 về căn cứ hủy phán quyết
trọng tài, “Bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài quy định tại các điểm a, b, c và d khoản
2 Điều này có nghĩa vụ chứng minh Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong
các trường hợp đó”.
Quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
Quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là quyền của các bên tranh chấp (gồm 2
chủ thể là nguyên đơn và bị đơn). Các bên tranh chấp được quy định tại khoản 3 Điều 3
Luật trọng tài thương mại 2010 “Các bên tranh chấp là cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt
Nam hoặc nước ngoài tham gia tố tụng trọng tài với tư cách nguyên đơn, bị đơn.”
Trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài thì các bên tranh
chấp có quyền gửi yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Về sự kiện bất khả kháng sẽ khơng
được tính vào thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài phải có đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng
tài là có căn cứ và hợp pháp. Theo quy định tại Điều 69 Luật trọng tài thương mại 2010:
“1. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên có
đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong
những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật này, thì có quyền làm đơn gửi
Tồ án có thẩm quyền u cầu huỷ phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài là có căn cứ và hợp pháp.
2. Trường hợp gửi đơn quá hạn vì sự kiện bất khả kháng thì thời gian có sự kiện bất khả
kháng khơng được tính vào thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.”
Hệ quả pháp lý của việc hủy phán quyết trọng tài
16

0

0



Kết quả của thủ tục hủy phán quyết trọng tài là Tịa án sẽ ban hành quyết định huỷ
hoặc khơng huỷ phán quyết trọng tài. Quyết định của Toà án là quyết định cuối cùng và
có hiệu lực thi hành. Đối với quyết định hủy phán quyết trọng tài thì các bên có thể thỏa
thuận lại để đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Trọng tài hoặc một bên có quyền khởi
kiện tại Tịa án. Đối với quyết định khơng hủy phán quyết trọng tài thì phán quyết trọng
tài được thi hành, các bên có nghĩa vụ phải thực hiện trong thời hạn nhất định.
Nguồn
Nghị quyết 01/2014/ NQ-HĐTP
Luật Trọng tài thương mại 2010
Đình Khơi, Tịa án huỷ phán quyết của trọng tài thương mại có được hay khơng? Quyền
yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài như thế nào? />
2.1.4 : Chứng cứ do các bên cung cấp mà hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để
phán quyết là giả mạo, trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất
khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, cơng
bằng của phán quyết trọng tài.
Theo điểm d khoản 2 Điều 14 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP, Tòa án chỉ xem xét
việc xác định chứng cứ giả mạo nếu có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó và chứng
cứ đó phải có liên quan đến việc ra phán quyết, có ảnh hưởng đến tính khách quan, cơng
bằng của phán quyết. Tịa án phải căn cứ vào quy định Luật trọng tài thương mại, quy tắc
tố tụng trọng tải, thỏa thuận của bác bên và quy tắc xem xét, đánh giá chứng cứ mà Hội
đồng trọng tài áp dụng khi giải quyết vụ việc để xác định chứng cứ giả mạo.
Trường hợp các chủ thể tham gia tố tụng là người trực tiếp thực hiện hành vi vi
phạm nhưng Hội đồng trọng tài với trách nhiệm kiểm sốt q trình tố tụng để khơng xảy
ra vi phạm mà vi phạm vẫn xảy ra thì đây cũng được xem là lỗi của Hội đồng trọng tài.
Tuy nhiên, đối với việc sử dụng chứng cứ giả mạo lại khác. Ở đây, có thể xảy ra hai
trường hợp:
+ Trường hợp 1: Với những chứng cứ được cung cấp, Hội đồng trọng tài có cơ sở và
điều kiện để kết luận chứng cứ đó là giả mạo nhưng vẫn sử dụng chứng cứ này để đưa ra

phán quyết thì đó là lỗi cố ý của Hội đồng trọng tài. Tức là Hội đồng trọng tài đã “không
khách quan, công bằng” nên đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng để từ đó xem xét
hủy phán quyết trọng tài theo căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật TTTM
17

0

0


năm 2010.
+ Trường hợp 2: Với những chứng cứ được cung cấp, Hội đồng trọng tài “không
biết” và “không thể biết” chứng cứ đó là giả mạo nên về mặt ý chí, Hội đồng trọng tài tin
rằng đó là thật và dựa vào những chứng cứ này để ra giải quyết vụ tranh chấp.
Căn cứ hủy phán quyết trọng tài liên quan đến chứng cứ do các bên cung cấp mà
Hội đồng Trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết trọng tài. Chứng cứ trong tố tụng
trọng tài được hiểu là những gì có thật được các chủ thể trong vụ tranh chấp và cá nhân,
cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Trọng tài hoặc do Trọng tài thu thập được theo trình
tự, thủ tục do pháp luật trọng tài quy định mà Trọng tài dùng để xác định yêu cầu hay sự
phản đối của các chủ thể là có căn cứ và hợp pháp hay khơng cũng như những tình tiết
khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ tranh chấp. Như vậy, chứng cứ có ý nghĩa
rất lớn trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án, nhất là với mơ hình tố tụng dựa
chủ yếu vào “hồ sơ vụ án” như Việt Nam hiện nay. Chính vì vai trị quan trọng nói trên
của chứng cứ mà điểm d khoản 2 Điều 68 Luật TTTM năm 2010 đã quy định nếu “chứng
cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo”
thì đây sẽ là căn cứ để Tịa án hủy phán quyết trọng tài. Quy định này được hướng dẫn cụ
thể tại điểm d khoản 2 Điều 14 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP.
Có quan điểm cho rằng: “Việc trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất
khác của một bên tranh chấp dường như ít có khả năng làm xoay chuyển được tính cơng
bằng của phán quyết trọng tài. Bởi lẽ, đối với một Hội đồng trọng tài gồm ba người, thì

họ chỉ có thể “mua chuộc” được một người, như vậy cũng chẳng có ảnh hưởng gì đến
phán quyết của Hội đồng trọng tài”. Tuy nhiên, thiết nghĩ, quan điểm trên không thật sự
thuyết phục bởi nếu một bên đã mua chuộc được một Trọng tài viên thì họ cũng có thể
mua chuộc những Trọng tài viên cịn lại.
-

Theo quy định điểm d khoản 2 Điều 68 Luật TTTM năm 2010 thì căn cứ hủy
phán quyết trọng tài này yêu cầu phải đáp ứng đủ 3 điều kiện
+ Điều kiện 1: Đối tượng mà Trọng tài viên nhận từ các bên chỉ là “tiền”, “tài
sản” và “lợi ích vật chất khác”. Theo quy định tại Điều 163 BLDS 2005 thì tài sản
bao gồm “vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Như vậy, khi nói đến tài
sản là đã bao hàm cả “tiền” và có thể là cả “lợi ích vật chất khác”. Do đó, việc
dùng thuật ngữ của Luật TTTM năm 2010 tại đây nên có sự sửa đổi để tạo sự
tương đồng với luật gốc là Bộ luật Dân sự

+ Điều kiện 2: Chủ thể mang đến các lợi ích trên cho Trọng tài viên là “một bên
tranh chấp”

18

0

0


+ Điều kiện 3: Việc thực hiện hành vi hối lộ phải dẫn đến hệ quả là “làm ảnh
hưởng đến tính khách quan, cơng bằng của phán quyết trọng tài”
Có thể thấy, việc pháp luật Việt Nam ghi nhận việc sử dụng chứng cứ giả mạo có
thể là một trong những căn cứ để hủy phán quyết trọng tài là hoàn toàn hợp lý. Bởi lẽ: Về
cơ chế hủy phán quyết dựa trên căn cứ, điểm d khoản 2 Luật TTTM năm 2010 chỉ quy

định hết sức ngắn gọn: “… chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ
vào đó để ra phán quyết là giả mạo”. Tuy nhiên, điểm d khoản 2 Điều 14 Nghị quyết
01/2014 đã hướng dẫn cụ thể như sau:“Tòa án chỉ xem xét việc xác định chứng cứ giả
mạo nếu có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó và chứng cứ đó phải có liên quan đến
việc ra phán quyết, có ảnh hưởng đến tính khách quan, cơng bằng của phán quyết. Tòa án
phải căn cứ vào quy định Luật TTTM, quy tắc tố tụng trọng tài, thỏa thuận của các bên và
quy tắc xem xét, đánh giá chứng cứ mà Hội đồng trọng tài áp dụng khi giải quyết vụ việc
để xác định chứng cứ giả mạo”.
2.1.4 Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam.
Trong các căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, trường hợp phán quyết trọng tài
trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam rất dễ bị lấy làm cơ sở xin hủy phán
quyết trọng tài, và thực tế rất nhiều vụ yêu cầu đã viện dẫn lý do này. Hơn nữa, Luật
TTTM năm 2010 quy định trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ để quyết
định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài do trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam lại thuộc về Tòa án chứ không phải bên yêu cầu. Trong thực tế, khả năng thành
công nếu yêu cầu hủy phán quyết dựa vào căn cứ này là khá cao bởi những lý do như đã
trình bày ở phần trên của bài luận này.
Theo các trường hợp quy định tại Điều 459 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì đối với phán
quyết của trọng tài nước ngoài, các phán quyết, quyết định của trọng tài nước ngồi
khơng được cơng nhận và thi hành ở Việt Nam và Tịa án chỉ hủy tồn bộ phán quyết
trọng tài khi toàn bộ phán quyết vi phạm Điểm đ Khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương
mại. Nếu phán quyết có nhiều phần, nhưng chỉ có một phần của phán quyết vi phạm
Điểm đ Khoản 2 Điều 68, cịn các phần khác của phán quyết khơng vi phạm, trong khi
phần phán quyết có vi phạm điểm đ khoản 2 Điều 68 độc lập với các phần khác của quyết
định thì khơng được hủy tồn bộ phán quyết mà chỉ hủy phần phán quyết vi phạm đó khi
Tịa án đã căn cứ vào Khoản 7 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại 2010, tạo điều kiện
cho Hội đồng trọng tài khắc phục sai sót trong tố tụng, nhằm loại bỏ căn cứ hủy phán
quyết, nhưng Hội đồng trọng tài không thực hiện được.
Điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại quy định một căn cứ hủy phán

quyết trọng tài là “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam”. Căn cứ này cịn chung chung và khơng rõ ràng. Luật Trọng tài thương mại không
19

0

0


làm rõ nội hàm khái niệm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Hiện nay,
pháp luật Việt Nam khơng có định nghĩa chung về thuật ngữ “các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam”. Việt Nam cũng chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về việc “trái
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” là như thế nào. Việc hiểu như thế nào
là “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” đang là vấn đề có nhiều cách hiểu
khác nhau.
Pháp luật hiện hành quy định phán quyết trọng tài là chung thẩm, các bên có nghĩa
vụ phải thi hành. Tuy nhiên, Tịa án có thể tun hủy phán quyết trọng tài trong một số
trường hợp nhất định.
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo
đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của nhà nước.
Trong quá trình xây dựng và ban hành pháp luật, việc quan trọng đầu tiên là phải xác
định nguyên tắc cơ bản của pháp luật, từ đó làm định hướng cho cả q trình, tránh tình
trạng lệch lạc, khác với mục tiêu mà pháp luật hướng đến. Nguyên tắc pháp luật là những
tư tưởng chỉ đạo phản ánh khát quát sự vật khách quan liên quan tới q trình xây dựng
và hồn thiện hệ thống pháp luật. Đây là những cơ sở quan trọng của toàn bộ q trình
xây dựng pháp luật, địi hỏi tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình này phải nghiêm
chỉnh tuân theo.
( />Về pháp luật Việt Nam, nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc tự do, cam kết, thỏa thuận
(theo điều 3 Bộ Luật dân sự 2015). Ví dụ như các bên thỏa thuận về việc giải quyết tranh
chấp và thỏa thuận này không trái với pháp luật, đạo đức xã hội nhưng hội đồng trọng tài

không ghi nhận sự thỏa thuận đó của các bên trong phán quyết trọng tài, trong trường hợp
này phán quyết trọng tài đã vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết trong lĩnh vực
thương mại quy định tại Điều 11 Luật Thương mại và Điều 4 của Bộ luật dân sự... tòa án
xem xét, quyết định việc hủy phán quyết trọng tài thương mại này vì trái ngyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam đã được Luật Thương mại và Bộ luật dân sự quy định. “Phán
quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” là phán quyết vi
phạm các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực
hiện pháp luật Việt Nam.
Khi xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án phải xác định được phán quyết
trọng tài có vi phạm một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật và nguyên tắc đó có
liên quan đến việc giải quyết tranh chấp của Trọng tài.
Tòa án chỉ hủy phán quyết trọng tài sau khi đã chỉ ra được rằng phán quyết trọng tài
có nội dung trái với một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam mà Hội
đồng trọng tài đã không thực hiện nguyên tắc này khi ban hành phán quyết trọng tài và
20

0

0


phán quyết trọng tài xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của một hoặc các bên, người thứ ba.
( />Nguyên tắc “ Trọng tài viên phải khách quan, vô tư” (khoản 2 điều 4 Luật trọng tài
thương mại 2010), ví dụ một bên tranh chấp cung cấp chứng cứ chứng minh phán quyết
trọng tài được lập có sự cưỡng ép, lừa dối, đe dọa hoặc hối lộ. Trong trường hợp này
phán quyết trọng tài đã vi phạm nguyên tắc “Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô
tư” quy định tại khoản 2 điều 4 luật thương mại. Phán quyết trọng tài trái với các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, xác định được có sự vi phạm ngun tắc cơ bản và
Tịa án phải chứng minh trọng tài đã không áp dụng quy định được xác định là nguyên

tắc cơ bản. Ví dụ, các bên đã tự nguyện thỏa thuận về giải quyết tranh chấp và thỏa thuận
này không trái pháp luật, đạo đức xã hội nhưng Hội đồng trọng tài không ghi nhận sự
thỏa thuận đó của các bên trong phán quyết trọng tài.
( />Theo quy định tại khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 thì Tịa án
khơng được xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết. Tuy
nhiên, để xét Phán quyết trọng tài có trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam
(thuộc trường hợp phải hủy phán quyết trọng tài theo quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều
68 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010) hay khơng thì Tịa án bắt buộc phải xem xét lại
nội dung của vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết.
( />Trường hợp các bên tranh chấp lợi dụng tính khơng minh bạch của các căn cứ hủy
phán quyết trọng tài để đưa ra yêu cầu hủy phán quyết. Trường hợp “phán quyết trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, Nghị quyết 01/2014/NQ- HĐTP Tòa án
nhân dân tối cao đã đưa ra phạm vi căn cứ là những nguyên tắc liên quan đến việc giải
quyết tranh chấp của trọng tài, như các bên đã thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài, thỏa thuận đó khơng trái pháp luật, khơng vi phạm đạo đức, không nhằm trốn
tránh nghĩa vụ, nhưng Hội đồng trọng tài không chấp nhận; Hội đồng trọng tài đã vi
phạm một nguyên tắc quan trọng của tố tụng trọng tài. Chỉ trong những trường hợp này
mới coi là phán quyết trọng tài vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận, định
đoạt. Đây là nguyên tắc tồn tại trong rất nhiều luật nội dung và luật hình thức, một
nguyên tắc mang tính phổ quát.
21

0

0


( />2.2: Trình tự, thủ tục yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
2.2.1: Trình tự, thủ tục yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
*Nộp đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.

Chủ thể có quyền nộp: đương sự trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán
quyết trọng tài, nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã
ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật
Trọng tài thương mại 2010.
Đơn yêu cầu phải có các nội dung chính quy định tại Điều 70 Luật Trọng tài thương
mại 2010. Đặc biệt đơn yêu cầu phải kèm theo theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là có căn cứ và hợp pháp, nếu khơng chứng minh
được Tịa án sẽ không chấp nhận. Riêng yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với lý do phán
quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của Pháp luật Việt Nam.thì khơng bắt buộc
cung cấp chứng cứ mà lúc này Tịa án có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng
cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài. Tòa án phải chủ động thu thập
chứng cứ chứng minh và bảo vệ các đối tượng, các lợi ích đó.
Điểm đ Khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của
Luật Trọng tài thương mại đã ghi rõ:“…Tòa án chỉ hủy phán quyết trọng tài sau khi đã
chỉ ra được rằng phán quyết trọng tài có nội dung trái với một hoặc nhiều nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam mà Hội đồng trọng tài đã không thực hiện nguyên tắc này khi
ban hành phán quyết trọng tài và phán quyết trọng tài xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của
nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của một hoặc các bên, người thứ ba…”
*Chủ thể có thẩm quyền nhận đơn và giải quyết: Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương nơi Hội đồng trọng tài đã tuyên phán quyết trọng tài. Trong tố tụng
trọng tài, phán quyết trọng tài là chung thẩm, có hiệu lực kể từ ngày ban hành, khơng có
trình tự xét xử phúc thẩm và khơng có trình tự giám đốc thẩm.
Thụ lý đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Căn cứ Điều 71 Luật Trọng tài
thương mại 2010 thì sau khi nhận đơn và xét thẩm quyền giải quyết Tịa án thụ lý đơn
u cầu và thơng báo ngay cho Trung tâm trọng tài hoặc các Trọng tài viên của Hội đồng
trọng tài vụ việc, các bên tranh chấp và Viện kiểm sát cùng cấp biết về việc đã thụ lý yêu
cầu hủy phán quyết trọng tài.
*Phiên họp xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày được chỉ định, Hội đồng xét đơn yêu cầu phải phải mở phiên họp để xét đơn yêu

22

0

0


cầu huỷ phán quyết trọng tài. Xét đơn yêu cầu: Tại phiên họp Tòa án xem xét nội dung
yêu cầu chứ không xét xử lại nội dung tranh chấp đã được Hội đồng trọng tài giải quyết,
không đánh giá quyền, nghĩa vụ của hai bên tranh chấp là đúng hay sai, mà chỉ xét lại
dưới góc độ tố tụng như thẩm quyền, thủ tục tố tụng, thành phần hội đồng trọng tài. Khi
quyết định Hội đồng thảo luận và quyết định theo đa số.
Nguồn: />2.2.2 Trình tự, thủ tục liên quan đến thẩm quyền của Tòa Án trong việc hủy
phán quyết trọng tài
Hủy phán quyết trọng tài là một thủ tục pháp lý do Tòa án thực hiện nhằm xem xét
lại phán quyết trọng tài được ban hành có tuân thủ đầy đủ các quy định về trình tự, thủ
tục xét xử của trọng tài thương mại theo luật định.
*Trình tự Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
Theo Điều 425 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 và Điều 71 Luật Trọng tài thương mại
2010 thì trình tự Tịa án xem xét đơn được quy định tại Điều 71 Luật Luật Trọng tài
thương mại 2010 như sau:
-

-

-

-

Thụ lý đơn và thông báo: sau khi thụ lý đơn u cầu huỷ phán quyết trọng tài, Tồ

án có thẩm quyền thông báo ngay cho Trung tâm trọng tài hoặc các Trọng tài viên
của Hội đồng trọng tài vụ việc, các bên tranh chấp và Viện kiểm sát cùng cấp.
Chỉ định hội đồng xem xét đơn: trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày thụ
lý, Chánh án Toà án chỉ định một Hội đồng xét đơn yêu cầu.
Chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu. Trong thời hạn 07 ngày làm
việc trước ngày mở phiên họp, Tòa án phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng
cấp nghiên cứu để tham dự phiên họp. Hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải gửi trả
lại hồ sơ cho Tòa án để mở phiên họp
Mở phiên họp xem xét đơn. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được chỉ định, Hội
đồng xét đơn yêu cầu phải phải mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
Hội đồng xem xét đơn ra quyết định. Hội đồng xét đơn u cầu có quyền ra quyết
định huỷ hoặc khơng huỷ phán quyết trọng tài. hoặc ra quyết định đình chỉ việc
xét đơn yêu cầu. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định, Tòa
án gửi quyết định cho các bên, Trung tâm trọng tài hoặc Trọng tài viên Trọng tài
vụ việc và Viện kiểm sát cùng cấp.
Lệ phí về yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Theo quy định tại Điều 72 Luật TTTM
2010, lệ phí về yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài được thực hiện theo quy định của
pháp luật về án phí và lệ phí tịa án (quy định tại khoản 3 Điều 39 Nghị quyết
320/2016/UBTVQH14)

23

0

0


Nguồn:
/>2.3. Hệ quả pháp lý của hủy phán quyết trọng tài.
2.3.1 Khi phán quyết trọng tài bị huỷ, những ưu điểm vượt trội của trọng tài

sẽ không hiện hữu.
Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng, thuận lợi cho
các bên. So với Tịa án, trọng tài thương mại đảm bảo tối đa quyền tự do thỏa thuận của
các bên, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các bên, nâng cao được hiệu quả kinh doanh;
đảm bảo được bí mật trong q trình giải quyết tranh chấp; mang tính thân thiện tạo khả
năng tiếp tục duy trì mối quan hệ của các bên; là cơ chế giải quyết tranh chấp trung lập
cho các bên; các phán quyết của trọng tài có thể được cơng nhận và cho thi hành ở nước
ngồi; mang tính chun môn cao; không đại diện cho quyền lực Nhà nước nên thích hợp
để giải quyết các tranh chấp giữa các bên có quốc tịch khác nhau.
Như vậy hủy phán quyết trọng tài là một chế định đặc biệt trong pháp luật trọng tài.
Đặc biệt là vì dù nằm trong luật trọng tài nhưng nó lại đưa ra các quy định liên quan đến
tòa án theo hướng trao khá nhiều quyền cho tòa án trong việc hủy phán quyết trọng tài,
tòa án có thẩm quyền xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, tịa án có thẩm
quyền ra quyết định hủy một phần hoặc toàn bộ phán quyết trọng tài, tịa án có quyền trả
lại phán quyết trọng tài để các trọng tài viên xem xét lại… Như vậy, chế định này đóng
vai trị quan trọng khơng thể thiếu và trở thành nội dung quan trọng của pháp luật trọng
tài. Đó là các quy định về hủy phán quyết trọng tài cũng tức là hệ thống các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến việc hủy phán quyết trọng tài
Việc số lượng phán quyết trọng tài bị Tịa án tun hủy có xu hướng tăng khiến cho
không chỉ cộng đồng doanh nghiệp hoang mang, mà ngay chính các trọng tài viên cũng
“đứng ngồi khơng n”. Do tình trạng số lượng phán quyết trọng tài bị hủy cao, khiến các
trọng tài viên lo lắng việc “xử mà khơng biết phán quyết có bị hủy hay khơng”. Đây là
thực trạng cần khắc phục, vì bản chất Luật Trọng tài thương mại năm 2010 là tạo hành
lang pháp lý cho phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phát triển, nhưng thực
tế thì đang đi ngược lại do số phán quyết trọng tài bị tuyên hủy, thậm chí cịn nhiều hơn
so với giai đoạn trước.
Khi tịa án ra quyết định hủy trọng tài thương mại làm chấm dứt tố tụng trọng tài và
có giá trị chung thẩm ràng buộc đối với các bên. Những năm gần đây, phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ngày càng được cộng đồng doanh nghiệp ở
Việt Nam lựa chọn. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đang phải đối

mặt với nguy cơ là phán quyết trọng tài bị hủy. Sau khi có phán quyết trọng tài, trong
vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, các bên có quyền yêu cầu hủy

24

0

0


×