Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

phan tich vinh biet cuu trung dai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.18 KB, 19 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Phân tích Vĩnh biệt cửu trùng đài Ngữ văn 11
Dàn ý Phân tích Vĩnh biệt cửu trùng đài
Giới thiệu chung
- "Vũ Như Tô" là vở kịch xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng và của nền kịch
Việt Nam hiện đại. Tác phẩm được sáng tác năm 1941, dựa trên một sự kiện
lịch sử xảy ra ở kinh thành Thăng Long vào thời Hậu Lê.
- Trong đoạn trích được học, gây ấn tượng sâu sắc nhất là bi kịch của nhân vật
Vũ Như Tơ.
Trình bày cảm nghĩ về bi kịch nhân vật Vũ Như Tơ
Những nét chính trong bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô
Bi kịch Vũ Như Tơ là bi kịch của người nghệ sĩ có tài và có hồi bão lớn,
nhưng khơng giải quyết được những mối quan hệ phức tạp giữa nghệ thuật và
đời sống, đặc biệt là không giải quyết được thực sự đúng đắn vấn đề sáng tạo
nghệ thuật cho ai và để làm gì.
- Vũ Như Tơ muốn xây dựng một cơng trình kiến trúc vĩ đại, tuyệt mĩ, tơ điểm
cho non sơng và mục đích đó là hết sức cao đẹp, xuất phát từ thiên chức của
người nghệ sĩ, từ lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
- Nhưng trên thực tế, Cửu Trùng Đài xây trên tiền của, mồ hôi, xương máu
của nhân dân và nếu được hồn thành, nó cũng chỉ là nơi ăn chơi sa đọa của
vua chúa. Vũ Như Tơ đã sai lầm khí lợi dụng quyền lực của bạo chúa để thực
hiện khát vọng nghệ thuật của mình, chỉ đứng trên lập trường nghệ sĩ nên trở
thành kẻ đối nghịch với nhân dân.
- Chính vì vậy, nhân dân căm hận bạo chúa, đồng thời cũng oán trách, nguyền
rủa người kiến trúc sư và cuối cùng đã giết chết cả Lê Tương Dực lẫn Vũ Như
Tô, đốt cháy Cửu Trùng Đài.
Trình bày cảm nghĩ
- Thương cảm người nghệ sĩ có tài, có tâm, đam mê nghệ thuật, khao khát
sáng tạo, sẵn sàng hi sinh tất cả cho cái đẹp, nhưng xa rời thực tế mà phải trả
giá đắt bằng sinh mệnh và cả cơng trình nghệ thuật của mình.


- Khơng có cái đẹp tách rời cái chân, cái thiện. Tác phẩm nghệ thuật không thể
chỉ mang cái đẹp thuần túy, mà phảỉ có mục đích phục vụ nhân dân. Người
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

nghệ sĩ phải có hồi bão lớn, có khát vọng sáng tạo những cơng trình vĩ đại
cho muôn đời, nhưng cũng phải biết xử lý đung đắn mối quan hệ giữa khát
vọng đó với điều kiện thực tế của cuộc sống, với địi hỏi của mn dân.
- Xã hội phải biết tạo điều kiện sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài năng
quý trọng nâng niu những sản phẩm nghệ thuật đích thực.
Kết luận
Qua bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng gợi những suy tư
sâu sắc về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với hoạt động sáng tạo nghệ thuật
và hiện thực đời sống của nhân dân.
Văn mẫu lớp 11: Phân tích Vĩnh biệt cửu trùng đài
Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) xuất thân trong một gia đình Nho giáo ở
làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Dục Tú, huyện Đông
Anh, Hà Nội). Năm 1943, ông tham gia Hội Văn hoá cứu quốc do Đảng lãnh
đạo và là đại biểu tham dự Quốc dân Đại hội ở Tận Trào tháng Tám năm 1945.
Trong sáng tác, Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và
có đóng góp nổi bật ở các thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong của ông giản
dị, trong sáng và thâm trầm, sâu sắc. Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm chính: Các vở kịch Vũ Như Tơ (1941), Bắc Sơn (1946), Những
người ở lại (1948), kịch bản phim Lũy hoa (1960); các tiểu thuyết Đêm hội
Long Trì (1942), An Tư (1945), Sống mãi với Thủ đổ (1961); kí: Kí sự Cao Lạng (1951),… Vũ Như Tơ là vở kịch đặc sắc của Nguyễn Huy Tưởng.
Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đặt ra những vấn đề sâu sắc, có ý
nghĩa mn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng

nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thân và trực tiếp
của nhân dân.
Vũ Như Tô - một kiến trúc sư thiên tài bị vua Lê Tương Dực bắt xây dựng
Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. vốn là một
nghệ sĩ chân chính gắn bó với nhân dân, cho nên mặc dù bị Lê Tương Dực
dọa giết, Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân ấy và kiên
quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài (hồi I).

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Đan Thiềm, một cung nữ đã thuyết phục Vũ Như Tô chấp nhận yêu Cầu của
Lê Tương Dực, lợi dụng quyền thế và tiền bạc của hắn, trổ hết tài năng để xây
dựng cho đất nước một tịa lâu đài vĩ đại bền như trăng sao, có thể tranh tinh
xảo với hóa cơng để cho dân ta nghìn thu cịn hãnh diện.
Theo lời khun, Vũ Như Tơ đã thay đổi thái độ, chấp nhận xây cửu Trùng
Đài. Từ đó, ơng dồn hết tâm trí và bằng mọi giá xây dựng tòa đài sao cho thật
hùng vĩ, tráng lệ. Tuy nhiên, ơng đã vơ tình gây biết bao tai hoa cho nhân dân.
Để xây dựng Cửu Trùng Đài, triều đình ra lệnh tăng thêm sưu thuế, bắt thêm
thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua vì vua
làm cho dân cùng, nước kiệt; thợ ốn Vũ Như Tơ bởi nhiều người đã chết vì
tai nạn, vì ơng cho chém đầu những kẻ chạy trốn. Cơng cuộc xây dựng càng
gần thành cơng thì mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị xa hoa trụy lạc với dân
chúng nghèo khổ, giữa Vũ Như Tô với những người thợ lành nghề và người
lao động mà ông hằng yêu mến càng căng thẳng, gay gắt (hồi II, III, IV).
Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Quận công Trịnh Duy Sản - kẻ
cầm đầu phe đối lập trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lơi kéo thợ làm
phản, giết vua Lê Tương Dực, Vũ Như Tơ, Đan Thiềm. Cửu Trùng Đài bị

chính những người thợ đập phá và thiêu hủy (hồi V).
Đoạn Vĩnh biệt Cữu Trùng Đài là hồi V của vở kịch, thể hiện hiểu biết sâu sắc
về nghệ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng: ngơn ngữ kịch điêu luyện, có tính
tổng hợp cao; dùng ngôn ngữ, hành động của nhân vật để khắc họa tính cách,
miêu tả tâm trạng, dẫn dắt và đẩy xung đột kịch đến cao trào.
Trong cung cấm, Đan Thiềm đột ngột hớt hơ hớt hải chạy vào, mặt cắt khơng
cịn hột máu, giục giã Vũ Như Tơ hãy trốn mau bởi loạn đến nơi rồi. Dân gian
đói kém nổi lên, quận công Trịnh Duy Sản mượn tiếng đi dẹp giặc rồi quay
binh về làm loạn. Nhưng Vũ Như Tô kiên quyết không chịu rời CửuTrùng Đài
một bước. Vừa lúc đó, Nguyễn Vũ lật đật chạy vào hỏi tình hình lo lắng cho
tính mạng của nhà vua. Lê Trung Mại xuất hiện thông báo Duy Sản đã đốt lửa
hiệu giả báo có giặc, nhà vua lẻn ra cửa Bảo Khánh chạy giặc thì bị Ngơ Hạch
võ sĩ của Duy Sản đâm chết. Khâm Đức hoàng hậu hay tin cũng nhảy vào lửa
tự thiêu. Nguyễn Vũ khóc lóc và rút dao tự tử. Một bọn nội gián khác thông
báo thêm sau khi giết vua Lê Tương Dực, triều đình đã lập vua khác lên ngôi.
Võ Tả Hầu là Phùng Mai đứng lên mắng quân phản nghịch đã bị chém đầu
ngay lập tức. An Hòa Hầu ở bến Bồ Đề kéo quân về đốt phá kinh thành. Thợ
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

xậy Cửu Trùng Đài quá nửa theo về quân phản nghịch. Đan Thiềm tiếp tục
giục Vũ Như Tô đi trốn nhưng ông vẫn kiên quyết ở lại. Quân khởi loạn kéo
vào. Đan Thiềm không thể xin tha được cho Vũ Như Tô, nàng bị chúng kéo đi
nên chi cịn biết Xin cùng ơng vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tơ khăng
khăng cho là mình khơng có tội, xin vào thưa với chủ tướng ý nguyện tốt đẹp
khi xây Cửu Trùng Đài nhưng qn lính khơng nghe và cho biết chính An Hịa
Hầu đã ra lệnh đốt sạch Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô đau đớn, vỡ mộng, chua
chát chấp nhận cái chết bi thảm.

Vũ Như Tô và Đan Thiềm coi Cửu Trùng Đài là cả phần xác lẫn phần hồn của
cuộc đời mình. Vì nó mà Vũ Như Tô chấp nhận làm việc cho hôn quân bạo
chúa. Vì nó mà dù bị thương trên cơng trường, ơng vẫn tiếp tục chỉ đạo cơng
việc. Cũng vì nó, để giữ gìn kỉ luật, ơng buộc phải trị tội những người thợ bỏ
trốn. Cũng lại vì nó mà ơng quyết ở lại trong cung cấm, giữa cơn biến loạn để
bảo vệ khơng phải mạng sống của mình mà là bảo vệ Cửu Trùng Đài - sinh
mạng nghệ thuật của cả đời ơng.
Tính cách nổi bật nhất ở Vũ Như Tơ là tính cách của người nghệ sĩ tài hoa
hiện thân cho niềm khao khát và đam mê sáng tạo Cái Đẹp. Nhưng trong mội
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thì Cái Đẹp ấy thành ra phù phiếm. Nó sang trọng,
siêu đẳng, thậm chí cao cả và đẫm máu như một bơng hoa ác. Vì thế, đi đến
tận cùng niềm đam mê, khao khát ấy, Vũ Như Tô tất phải đối mặt với bi kịch
đau đớn của đời mình: ơng trở thành kẻ thù của dân chúng, thợ thuyền mà
không hay biết.
Tài ba của Vũ Như Tơ được nói đến chủ yếu ở các hồi kịch trước, thông qua
hành động của ông và nhất là qua lời của các nhân vật khác nói về ơng. Tài
nghệ của ơng đạt đến mức siêu phàm, được Đan Thiềm ca ngợi là một thiên
tài ngàn năm chưa dễ có một, có thể sai khiến gạch đá như viên tưởng cầm
quân. Trong hồi thứ V, những lo lắng, toan tính và thái độ của Đan Thiềm khi
nói về Vũ Như Tơ đủ cho thấy cái tài ấy quả là hiếm hoi: tài kia không nên để
uổng..; Ơng mà có mệnh hệ nào thì nước ta khơng cịn ai điểm tơ nữa… Đừng
để phi tài trời. Hồi V khơng nói nhiều đến tài năng của nhân vật (chỉ có Đan
Thiềm nhắc đến) mà đặt Vũ Như Tơ vào việc tìm kiếm một câu trả lời: Việc
mình nhận xây Cửu Trùng Đài là đúng hay sai? Có cơng hay có tội? Nhưng
Vũ Như Tơ khơng trả tời được thỏa đáng câu hỏi đó bởi ơng chỉ đứng trên lập
trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập trường của nhân dân, đứng
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


trên lập trường Cái Đẹp mà khơng đứng trên lập trường Cái Thiện. Hành động
của ông không hướng đến sự hòa giải mà thách thức và chấp nhận sự hủy diệt.
Vũ Như Tô đã từng tranh tinh xảo vơi hóa cơng, giờ lại bướng bỉnh tranh phải
– trái với số phận và với cuộc đời. Hành động kịch hướng vào cuộc đua tranh
này và thể hiện tập trung qua diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô.
Vũ Nhự Tơ vì chìm đắm trong khao khát, đam mê Cái Đẹp mà trở nên mơ
mộng và ảo tưởng. Giấc mộng ấy bắt đầu từ khi ông quyết định nhận lời xây
Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực, mượn tay bạo chúa để xây một cơng trình
tơ điểm cho đời. Càng sáng suốt trong sáng tạo thiết kế, thi công Cửu Trùng
Đài bao nhiêu, Vũ Như Tô càng xa rời thực tế bấy nhiêu.
Ngay cả khi sự thật phũ phàng của Cơn biến loạn dội đến, Đan Thiềm cố gắng
kéo ông ra khỏi giấc mộng bằng thông tin kinh hoàng là loạn đến nơi rồi và
bằng phản ứng dữ dội của dân chúng đối với ông: Ai ai cũng cho ông là thủ
phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ơng, dân gian lầm than là vì
ơng, man di ốn giận là vì ơng, thần nhân trách móc là vì ơng:., mà Vũ Như
Tơ vẫn không tỉnh, vẫn cho là họ hiểu nhầm.
Tận mắt chứng kiến Nguyễn Vũ tự sát, nghe tên nội giám thông báo kẻ phá,
người đốt cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vẫn cho là điều vơ Ií. Nghe tiếng qn
lính reo hị truy tìm mình để phanh thây, Vũ Như Tơ vẫn cố đấu lí với số phận
và cuộc đời: Có lí gì để họ giết tơi? Đứng trước qn khởi loạn gươm giáo
sáng lịe, Vũ Như Tơ tự trấn an: Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây
một tòa đài vĩ đại để tạ lòng tri kỉ. Bị ra lệnh dẫn về trình chủ tướng, Vũ Như
Tơ vẫn hi vọng sẽ có thể phân trần giảng giải cho người đời biết rõ nguyện
vọng của ta. Ông dường như không hề nghe thấy tiếng cười ầm ĩ và lời qt
tháo của qn lính. Mày khơng biết mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài,
mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Người ta ốn mày cịn hơn ốn quỷ.
Ơng vẫn say sưa trong giấc mộng Cửu Trùng Đài: Vài năm nữa, đài Cửu
Trùng hoàn thành, cao cả, huy hồng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng
Lai…

Chỉ đến khi kinh thành phát hỏa, quân lính cho hay đó là lệnh của An Hịa
Hầu và tận mắt chứng kiến ánh lửa sáng rực, cả tàn than, bụi khói bay vào, Vũ
Như Tơ mới rú lên kinh hoàng, tuyệt vọng: Đốt thực rồi! Đốt thực rồi Ị ôi
đảng ác ! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ơi mộng
lớn! Ơi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! Rơi xuống từ một cửu Trùng Đài vời
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

vợi độ cao của mơ màng và ảo vọng, nỗi đau vỡ mộng trong Vũ Như Tô hoá
thành tiếng kêu bi thiết, não nùng, khắc khoải. Cửu Trùng Đài đã biến thành
một đài lửa rừng rực trong kinh thành Thăng Long đầy biến động, Vũ Như Tô
đã chết trước khi ra pháp trường. Mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài Tất
cả nối tiếp nhau dội xuống những âm thanh của đau thương tang tóc. Nỗi đau
mất mát đã hòa vào làm một, trở nên tột cùng. Âm thanh ấy trở thành âm
thánh chủ đạo dội ngược lên toàn bộ các hồi trước của vở kịch.
Khắc khoải trong lòng người đọc vẫn là những dấu chấm hỏi, những câu cảm
thán thốt ra từ đỉnh điểm của cảm xúc, từ cao trào của xung đột trong Vũ Như
Tô: Ta tội gì? Ta khơng có tội! ơi mộng lớn Ị ôi Đan Thiềm Ị Ôi Cửu Trùng
Đài! Cảm giác ngột ngạt, bức bối tưởng như còn nguyên vẹn khi Nguyễn Huy
Tưởng viết lời đề tựa: ôi khô khan! ôi gay gắt! Bi kịch Vũ Như Tô đã thức
tỉnh ý thức của chúng ta về vấn đề muôn thuở: mối quan hệ hữu cơ giữa nghệ
thuật và cuộc sống.
Ngược lại với nhận thức của Vũ Như Tô, trong mắt dân chúng, Cửu Trùng
Đài là hiện thân của thói ăn chơi xa xỉ, hiện thân của tội ác. Cửu Trùng Đài và
cha đẻ của nó - Vũ Như Tơ - chính là kẻ thù của họ. Vũ Như Tô, Cửu Trùng
Đài, lũ cung nữ… bị quân phản nghịch xếp chung vào một hạng cần phải trị
tội. Bởi vậy Cửu Trùng Đài bị thiêu cháy, Vũ Như Tô bị giải ra pháp trường
và dân chúng reo hò, ăn mừng như ăn mừng chiến thẳng lớn.

Điểu gì đã tạo nên sự khác biệt đến đối lập khi nhìn nhận và đánh giá về cơng
trình cửu Trùng Đài mà kiến trúc sư Vũ Như Tô từng kì vọng: móng phải đào
sâu xuống dưới âm ti, nóc phải vờn mây?Vũ Như Tơ xây dựng Cửu Trùng Đài
với ao ước điểm tô cho đất nước, để lại cho dân tộc một cơng trình là hiện
thân của cái đẹp cao cả, huy hoàng, đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa
đài hoa lệ, thách thức cả những cơng trình sau trước, tranh tinh xảo với Hóa
cơng. Ao ước, khao khát ấy là cao cả, là chân chính, bởi xuất phát điểm của nó
là từ một cái Tâm tha thiết với dân tộc. Cho nên ngay từ đầu, nhiều người đã
hiểu và ủng hộ Vũ Như Tô. Nhưng đài càng xây cao, mạng người càng rẻ mạt,
dân chúng càng điêu đứng, bọn hôn quân bạo chúa càng ra tay vơ vét. Cửu
Trùng Đài đã trở thành đại hoạ, gây ra bao khốn khổ điêu linh, thành một đóa
hoa ác, thành hiện thân cho thói xa hoa hưởng lạc trên xương máu của nhân
dân. Và tất nhiên, trong mắt nhân dân, Vũ Như Tô trở thành kẻ thù phải đền
tội.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Bài tham khảo 2
Vũ Như Tơ của Nguyễn Huy Tưởng, cũng như những nhân vật chính, cịn gọi
là nhân vật anh hùng (héros) của bi kịch, là một con người q khổ, ta muốn
nhận biết nó thì phải đo nó bằng cái thước của nó, chứ khơng phải của ta.
Vũ Như Tô, cũng như Hamlet, như Coriolanus, như vua Lia (Lear), không phải
là người tốt theo nghĩa thông thường. Con người tốt bụng, con người hiền từ
hay mềm yếu, mà sự mềm yếu là "phản chỉ định" đối với nhân vật bi kịch. Con
người hiền từ yếu đuối, thụ động hứng chịu, quằn quại rên xiết dưới những địn
đánh khơng hiểu nổi của số phận là đối tượng của kịch mêlô (mélodrame) ở
châu Âu, kịch cải lương ở ta. Vũ Như Tô, nhân vật bi kịch, chủ động vùng dậy
chống lại số phận, khơng đợi nó đánh mình, thách thức số phận xây Cửu Trùng

Ðài.
Nguyên nhân, lực đẩy của tính chủ động cao độ ấy ở nhân vật bi kịch là niềm
say mê (passion), trong trường hợp Vũ Như Tô là say mê sáng tạo. Niềm say
mê ấy như là thuốc súng, như là ét-xăng nằm sẵn bên trong nhân vật bi kịch,
chỉ chờ được châm để nổ cháy. Trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng, người
châm cho say mê nơi Vũ Như Tô bốc lửa là Ðan Thiềm (điểm thắt nút của
kịch). Không phải Ðan Thiềm đã thuyết phục hay dụ dỗ họ Vũ xây Cửu Trùng
Ðài, khát vọng xây Cửu Trùng Ðài sục sôi sẵn trong Vũ Như Tơ, chỉ cần một
lời khích lệ từ bên ngồi là nó chuyển hóa thành hành động. Bản đồ Cửu Trùng
Ðài đã được vẽ sẵn, mọi tính tốn kinh tế - kỹ thuật đã được hoàn tất trước khi
nhà kiến trúc sư thiên tài gặp mỹ nữ có tâm hồn. Mối băn khoăn xuất phát từ
lương tâm kẻ sĩ (bây giờ ta gọi là lương tâm công dân) về việc phục vụ cho hôn
quân bạo chúa, đi ngược lại quyền lợi của quần chúng nhân dân, mà chính họ
Vũ với vợ con và bạn bè đồng nghiệp là thành phần, được tháo gỡ rất dễ dàng
mà không làm giảm sức thuyết phục nghệ thuật của nhân vật và của cả tác
phẩm. Từ giây phút ấy, ngọn lửa đam mê cứ thế mà cháy, càng gặp trở ngại
càng cháy cao. Vũ Như Tô, mượn tay Lê Tương Dực cuồng bạo, hành động hối
hả và quyết liệt, lo sợ cơng trình của mình sẽ khơng hồn thành. Trong sử liệu,
Cửu Trùng Ðài xây từ năm này sang năm khác, thời gian của bi kịch được thu
rút lại trong vòng 10 tháng. Người thợ cả đôn hậu trong đời thường không ngần
ngại giết hết tất cả những ai chống lại cơng trình của y. Trong y, khơng có chỗ
cho những băn khoăn trăn trở về cái giá mà nhân dân phải trả cho tác phẩm
nghệ thuật tuyệt mĩ của y. Bao nhiêu cơng của phải đổ vào, bao nhiêu tính
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

mạng phải hy sinh cũng đều là hợp đích trong con mắt người nghệ sĩ bị ám ảnh
bởi đồ án lý tưởng của mình. Một trong những lớp kịch hay nhất (hồi 4, lớp 1):

Vũ Như Tô gặp vợ lần cuối cùng, Thị Nhiên kể cho chồng về cảnh đói kém,
mất mùa, giặc nổi lên như châu chấu ở quê nhà, con cái ốm đau quặt quẹo
không được cha chăm nom... Họ Vũ, đã què chân vì ngã từ nóc xuống, nghe
mà khơng nghe thấy, tồn bộ tâm trí bị cuốn hút bởi cảnh quan tráng lệ của
Cửu Trùng Ðài. "Khi con người ở trong nghệ thuật, nó vắng mặt ở trong cuộc
sống, và ngược lại"(6) - đó là trạng thái bi kịch (theo nghĩa triết học) muôn
thuở của nhân sinh, được phản ánh cả ở trong vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng.
Ðối với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Ðài quý hơn tính mạng của chàng, cái đó thật
đáng yêu và đáng phục. Nhưng Cửu Trùng Ðài còn quý hơn hạnh phúc và sự
sống của hàng trăm, hàng ngàn con người khác, cái đó thì lại đáng sợ rồi. Theo
đuổi cái đẹp thuần túy, biến nó khơng những thành giá trị tự thân, mà còn thành
thần tượng độc tôn, người nghệ sĩ thiên tài đã phạm tội trước nhân dân, trước
nhân loại, trước sự sống. Cái chết của Vũ Như Tơ, xét từ một góc độ xác định,
là hợp lý, là xứng đáng. Ðó là cái chết chuộc tội, mặc dù nhân vật kịch không ý
thức được điều đó.
Như chúng ta biết, tội lỗi bi kịch là một khái niệm mấu chốt trong lý thuyết bi
kịch. Không có tội lỗi bi kịch, cũng như khơng có xung đột bi kịch thì khơng
có tác phẩm bi kịch. Nhưng tội lỗi bi kịch khác những kiểu tội lỗi khác ở chỗ
nào? Hơn hai ngàn năm sau Thi pháp học của Aristote, triết gia và nhà văn hiện
sinh chủ nghĩa tiền khu Kierkegaard khẳng định: "Nếu con người hoàn toàn vơ
tội, bi kịch mất hết lý thú, bởi vì sẽ mất đi sức mạnh của xung đột bi kịch; mặt
khác, nếu nhân vật tự nó có lỗi hồn tồn, thì nó sẽ khơng thể khiến ta quan
tâm, xét từ quan điểm bi kịch"(7). Có nghĩa là nhân vật bi kịch phải vừa có tội,
lại vừa khơng có tội (đây là điểm khu biệt bi kịch với kịch anh hùng, ở ta là
kịch tuồng, trong đó những nhân vật anh hùng chính trực một trăm phần trăm
đấu tranh với những nhân vật gian ác hèn hạ cũng một trăm phần trăm). Các
nhân vật bi kịch điển hình trên kịch trường (và sau này cả trong tiểu thuyết) thế
giới đều là như thế. Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, như chúng tôi đã cố
gắng chứng minh, cũng là nhân vật như thế, cũng vừa có tội, mà tội lớn, lại vừa
khơng có tội, hay là, như một trong những nhà phê bình đầu tiên ở ta bình về

tác phẩm này nói theo lối nói điển hình Việt Nam, "có chỗ đáng giận, có điều
đáng thương"(8). Cho nên, khơng có gì đáng ngạc nhiên là, sáng tác xong vở
kịch, tác giả thấy cần phải viết thêm mấy dòng Ðề tựa nổi tiếng, trong đó nhắc
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

lại hai lần: "Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải?" Câu
hỏi này, theo chúng tôi, không thể hiện sự hạn chế về tư tưởng của tác giả, mà
nó chứng tỏ rằng tác giả, có thể chỉ bằng trực giác sáng tạo, cảm nhận rất rõ cái
bản chất bi kịch của trước tác của mình. Bi kịch, thể loại lớn của văn học và
sân khấu, bao giờ cũng đặt độc giả và khán giả trước những câu rất phức tạp,
hóc búa và nhức nhối của cuộc sống. Những câu hỏi ấy không chờ đợi những
giải đáp vội vã, dễ dãi, đơn giản. Cho nên thiết nghĩ cũng khơng nên vì cảm
thơng và mến yêu Vũ Như Tô mà gọi tội của nhân vật này là "tội thiêng
liêng"(9). Như thế từ "thiêng liêng" bị mất nghĩa, mà tính chất của cái tội ở
nhân vật vừa đáng yêu, vừa đáng sợ này lại không được thâu tóm.
Ðể làm sáng tỏ hơn cái tội bi kịch của Vũ Như Tô, xin được đi sâu một chút
vào lịch sử khái niệm này. Bi kịch, như chúng ta biết, ra đời ở Hy Lạp cổ đại và
liên quan mật thiết với tôn giáo và minh triết của dân tộc này. Người Hy Lạp
thờ nhiều thần linh, mà mỗi thần hiện thân cho một sức mạnh bản thể nào đó.
Tơn giáo Hy Lạp địi hỏi sùng kính tất cả các thần, không được coi thường một
thần nào. Trong bi kịch rất nổi tiếng Hippolyte của Euripide, chàng trai thủ tiết
Hippolyte, vì chỉ tơn sùng thần trinh nữ Artémis và khinh rẻ nữ thần Aphrodite
mà đã bị Aphrodite trừng phạt, truyền cho Phèdre, mẹ kế của Hippolyte, tình
yêu điên rồ đối với chàng; tình yêu ấy cuối cùng đã giết chết Hippolyte. Tội bi
kịch của Hippolyte là đã ái mộ chỉ một Artémis (sự trinh tiết) và rẻ rúng
Aphrodite (tình u). Nếu dịch ra ngơn ngữ khái niệm của xã hội thế tục hóa
hiện đại, thì Hippolyte đã đề cao quá mức một giá trị của nhân sinh và coi

thường quá mức một giá trị khác. Ðây là một trong những kiểu lầm lỗi cơ bản
của con người và lồi người, trong văn học được thâu tóm bằng phạm trù tội lỗi
bi kịch(10). Mọi say mê của con người, nhất là những say mê chính đáng, cao
thượng, giàu tính nhân văn, càng nồng cháy bao nhiêu thì càng tiềm ẩn nhiều
nguy cơ này bấy nhiêu. Có thể tranh luận cái này có thuộc về bản chất bất hồn
hảo khơng thay đổi của con người hay không (hệ quả của "tội lỗi tổ tông", theo
tư duy thần học), nhưng rõ ràng lỗi lầm bi kịch có tính phổ biến, tính tồn nhân
loại. Lỗi lầm của Vũ Như Tơ trong kịch Nguyễn Huy Tưởng là như thế. Chàng
rất cao thượng trong khát vọng và ý chí sáng tạo của mình, nhưng chàng đã độc
tơn cái Ðẹp nghệ thuật, đặt nó lên trên mọi giá trị cơ bản khác, tuân thủ chỉ một
mệnh lệnh của cái Ðẹp và dửng dưng với mệnh lệnh của cái Thiện. Ðây là cốt
lõi của cái lỗi bi kịch ở nhân vật anh hùng này.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Trong Nhật ký tư tưởng của Nguyễn Huy Tưởng, ta bắt gặp một ý kỳ lạ, ghi
ngày 23-2-1932, lúc nhà văn tương lai chưa đầy hai mươi tuổi; nó như báo
trước cái nút khó tháo của những vấn đề triết lý của kịch Vũ Như Tô: "Cái đẹp
do ở sự giai cấp bất bình đẳng, cái sướng do ở sự giai cấp bình đẳng"(11). "Cái
sướng" ở đây có lẽ chỉ hạnh phúc, mà hạnh phúc chung, hạnh phúc ấy chỉ có
thể đạt được khi thực hiện bình đẳng giai cấp - một mệnh lệnh cơ bản của cái
Thiện. Nhưng được cái Thiện thì lại mất cái Ðẹp gắn liền với bất cơng xã hội,
bất bình đẳng giai cấp (tư tưởng này khá uyên thâm, xin trở lại với nó sau).
Phải chọn một trong hai cái, và Vũ Như Tơ, nhân vật ra đời mười năm sau
những dịng viết trên, đã dứt khoát và quyết liệt chọn cái Ðẹp.
Cho đến giờ, chúng tơi mới chỉ nói đến lỗi lầm của nhân vật số một
(protagoniste), nhưng trong bi kịch cịn có nhân vật số hai, đối kháng
(antagoniste) - quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân cụ thể, chứ không

trừu tượng ấy, trong lịch sử và trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng đã chọn
không suy nghĩ đắn đo chỉ một cái Thiện như họ hiểu nó, và chà đạp, hạ nhục
không thương tiếc cái Ðẹp. Nhân vật đối kháng tập thể, cũng hệt như nhân vật
nguyên khởi, đã phạm tội lỗi bi kịch. Trong bi kịch thực thụ không có người
chiến thắng. Tính cao cả đặc biệt của nó là ở chỗ ấy.
Ai ai cũng biết giới thuyết của Aristote về hiệu ứng tâm lý của bi kịch: nó gây
sợ hãi và xót thương. Nhưng cái đó chưa đủ và khơng phải là cái chính. Hành
động bi kịch phải dẫn đến sự thanh tẩy (catharsis) những cảm xúc ấy. Sự thanh
tẩy này đạt được bằng và nhờ sự giác ngộ cái lẽ sâu kín của những khổ đau bất
hạnh đã đến với các nhân vật kịch. Ðây cũng là điểm quan trọng khu biệt bi
kịch với kịch mêlo hay kịch cải lương. ở những thể loại này, hiệu ứng xót
thương đến trào nước mắt, đến ngất xỉu là đặc trưng và tự đủ. Vũ Như Tô, tác
phẩm bi kịch, khơng làm ta rơi nước mắt, nhưng nó bắt ta suy ngẫm về cái lẽ,
cái nghĩa sâu xa của những gì ta đã đọc hoặc đã thấy (trên sân khấu). Ðó là
hiệu ứng catharsis chậm.
Có những bi kịch có dụng ý giúp đỡ độc giả hay khán giả thực hiện catharsis
bằng cách để cho các nhân vật, ở điểm tháo nút, tự giác ngộ ý nghĩa của những
gì đã xảy ra (thí dụ, Oedipe làm vua hay Othello). Nhưng đa số các tác phẩm bi
kịch phó thác nhiệm vụ ấy cho người đọc, người xem. Vũ Như Tô thuộc loại
thứ hai. Cho đến phút bị chém đầu, nhân vật anh hùng này vẫn đinh ninh: toàn
bộ chân lý và lẽ phải thuộc về một mình chàng với Ðan Thiềm, tồn bộ tội tầy
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

trời thuộc về "đảng ác" đã đốt phá Cửu Trùng Ðài. Mặt khác, dân chúng, binh
sĩ nổi loạn cũng chỉ biết hả hê là đã loại trừ được nguyên nhân trực tiếp của
những tai họa của họ. Nhưng toàn bộ hành động kịch khiến chúng ta, sau
những phút giây xúc động mạnh, suy nghĩ dai dẳng theo nhiều hướng, cố tìm

tới cái catharsis khơng thể thiếu được. Xin phác thảo một vài hướng suy nghĩ
của cá nhân, mong được trao đổi với các đồng nghiệp.
Chúng ta, những con người, luôn luôn lầm lạc trong hành động lẫn tư duy. Ðề
cao cái Chân, cái Thiện, cái Ðẹp như những giá trị cao nhất của nhân sinh (thực
ra, còn nhiều giá trị tuyệt đối khác: cái Thiêng, Tình yêu, Tự do...), chúng ta, bị
câu thúc bởi thực tiễn xã hội và bị chi phối bởi kiểu tư duy trừu tượng hóa, chủ
biệt chứ khơng chủ tồn ngày càng thống ngự đời sống tinh thần của loài người,
rất dễ xem chúng như những giá trị độc lập, có thể tồn tại riêng biệt, cái này
khơng có cái kia vẫn được. Từ đấy mà ta lại càng dễ hy sinh, dễ thí giá trị này
cho giá trị kia. Trong khi ấy trong cuộc sống lý tưởng, tức là cuộc sống duy
nhất xứng đáng với con người, mọi giá trị phải tồn tại viên mãn, không lấn át
mà nâng đỡ, bổ sung hài hòa cho nhau. Bi kịch của Nguyễn Huy Tưởng nhắc
nhở chúng ta về mối họa lớn của sự tách rời và đối nghịch hóa các giá trị. Nó
chứng minh đầy thuyết phục rằng cái Ðẹp tự sát, khi nó nhảy múa trên thân thể
quằn quại của cái Thiện, nhưng giết cái Ðẹp vì cái Thiện cũng là giết ln cả
cái Thiện.
Trên đây chúng tôi vừa dẫn một tư tưởng tổng kết rất cô đúc của Nguyễn Huy
Tưởng: "Cái đẹp do ở sự giai cấp bất bình đẳng..." Như chúng tơi hiểu, ý nhà
văn muốn nói, cái đẹp nhân tạo (không phải cái đẹp thiên tạo) ra đời trong xã
hội bất bình đẳng và ln ln phục vụ cho những giai cấp thống trị, bị những
giai cấp ấy chiếm hữu. Ðây quả là mâu thuẫn cơ bản và bi kịch của cả văn
minh lồi người, và chính kịch Vũ Như Tô phản ánh một cách nổi bật mâu
thuẫn ấy. Mâu thuẫn này nhiều khi trở nên gay cấn đến nỗi một thiên tài sáng
tạo đúng là "ngàn năm chưa dễ có một" như L. Tolstoi (mà Nguyễn Huy Tưởng
rất ái mộ), đã cương quyết chối từ cả cái Ðẹp lẫn tồn bộ văn hóa, văn minh,
kêu gọi lồi người trở lại và tự ông cũng cố trở lại với cuộc sống tự nhiên, mộc
mạc của những con người làm ruộng chân lấm tay bùn - cái cuộc sống mà trong
kịch của Nguyễn Huy Tưởng, Thị Nhiên (chỉ một cái tên của nữ nhân vật này
đã là một sáng tạo đáng phục!) kêu gọi Vũ Như Tô trở về. Nhưng nhân loại đã
không nghe theo một trong những người thầy đáng kính đáng u nhất của nó.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

(Có thể một phần bởi lẽ ơng thầy này, cũng như nhiều ông thầy lớn khác, muốn
trở thành vị thầy duy nhất). Nó đã khơng chối từ những giá trị siêu đẳng, chỉ vì
chúng đương bị một thiểu số không xứng đáng chiếm giữ, để thỏa mãn với chỉ
những giá trị sơ đẳng, vừa tầm với tuyệt đại đa số. Bởi vì hàng trăm hàng ngàn
đình làng mà Thị Nhiên nhắc đến không thay thế được một Cửu Trùng Ðài.
Nhưng quan hệ giữa cái siêu đẳng và cái sơ đẳng trong văn hóa là tương hỗ,
ni dưỡng lẫn nhau. Khơng có cái siêu đẳng, cái sơ đẳng càng quảng bá càng
trở nên thô kệch. Nhưng cắt đứt quan hệ với cái sơ đẳng ("cái tự nhiên" hay là
"đất" của văn hóa), cái siêu đẳng tự làm cho mình mất đi nhựa sống. Bệnh Ðan
Thiềm trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng (không phải trong lời Ðề tựa!) là
bệnh khát khao và quý giá chỉ một cái đẹp siêu đẳng. Cái đó có thể châm chước
cho nàng, nhưng nếu họ Vũ chỉ say đắm Ðan Thiềm và quên hẳn Thị Nhiên,
thiên tài của chàng sẽ cạn kiệt.
Một trong những hiệu ứng tâm lý quan trọng nữa của bi kịch là ưu tư bi
kịch(12). Bi kịch được viết không phải để truyền cho ta niềm vui sống hay an
ủi ta trong những khổ đau, có những thể loại khác phục vụ những nhu cầu ấy.
Bi kịch khiến chúng ta lo lắng cho vận mệnh của những giá trị lớn của xã hội
và con người. Vũ Như Tô là một tác phẩm như thế. Trong lý thuyết giá trị,
người ta phân biệt cấp và lực của giá trị, giữa chúng có thể có độ vênh lớn(13).
Những giá trị ở cấp thấp thường có lực lớn (thí dụ sự tồn tại vật chất hoặc
những lợi ích vật chất). Càng lên cao, thì các giá trị càng dễ (không phải tất
yếu!) yếu đi và rất nhiều khi trở nên khả nghi. Ðó cũng là nghịch lý bi kịch của
xã hội loài người. Kịch Nguyễn Huy Tưởng nhắc nhở chúng ta về cái nghịch lý
trường tồn ấy. Những giá trị cấp cao muốn tự bảo tồn và tỏa sáng không được
quay lưng lại những giá trị cấp thấp, như họ Vũ trong kịch của Nguyễn Huy

Tưởng làm, nhưng phải biết liên thông và liên kết với chúng, mà vẫn khơng
đánh mất bản thân. Ðó là nhiệm vụ rất khó, nhưng tương lai của nền văn minh
con người phụ thuộc vào việc giải quyết nhiệm vụ này.
Và, cuối cùng, xin trở lại với mối băn khoăn được nêu trong lời Ðề tựa kịch.
"Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ðài Cửu Trùng
không thành, nên mừng hay nên tiếc? Tháp người Hời nguyên là giống
Angkor!" Văn minh Chiêm Thành và văn minh Angkor thuộc số những nền
văn minh đã tử vong. Số phận, bí quyết trường tồn hay tử vong của các nền văn
minh và các dân tộc là một chủ đề tư tưởng sâu kín của vở kịch của Nguyễn
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Huy Tưởng và những suy ngẫm kiên trì, lắng đọng từ thuở thiếu thời cho đến
tận lúc qua đời, của ông về số phận của dân tộc chúng ta, so với số phận các
dân tộc khác, cho thấy ông thực sự là một Con Người Việt Nam viết hoa. Ông
vừa mừng vui cho sự trường tồn của dân tộc, vừa lo lắng cho tiền đồ của nó,
tiền đồ ấy, ông nghĩ rất đúng, phụ thuộc vào việc dân tộc có hiện thực hóa được
những tiềm năng sáng tạo của mình hay khơng. Ðây là động cơ mãnh liệt khiến
Nguyễn Huy Tưởng viết đi viết lại kịch Vũ Như Tô. Nguyễn Huy Tưởng ghi
lại, nhưng không chia sẻ tư tưởng của Trương Tửu về cái Ðạo Việt Nam, mà
cốt lõi là "sống trước đã, sáng tạo sau"(14). Bởi lẽ sáng tạo thuộc về nhiệm vụ,
thiên chức của từng con người và từng dân tộc. Có thể thực hiện nó dưới nhiều
hình thức, khơng nhất thiết phải bằng những cơng trình nghệ thuật kỳ vĩ khiến
thế giới kinh ngạc. Nhưng nhiệm vụ ấy phải được thực hiện, và không thể coi
nó là nhiệm vụ cấp thứ hai, như Trương Tửu làm. Nhìn vào lịch sử, ta thấy có
những dân tộc hay những nền văn minh đã suy vong do, trong một giai đoạn
nào đó, đã huy động đến vắt kiệt những tiềm lực sáng tạo của mình (văn minh
Angkor là thí dụ điển hình). Nhưng, ngay trước mắt chúng ta, một số dân tộc (ở

Bắc và Trung Phi) có lịch sử khá lâu đời; họ đương thực hiện - khó nói một
cách khác - sự tiêu diệt lẫn nhau và sự tự diệt. Phải chăng bởi vì họ đã khơng
tìm ra con đường giải phóng những tiềm lực sáng tạo của mình, và những tiềm
lực ấy chuyển hóa thành những lực hủy hoại? Bi kịch Vũ Như Tô thôi thúc
chúng ta suy nghĩ và suy nghĩ...
Một tác phẩm như Vũ Như Tơ chỉ có thể ra đời trong thời đại ngày nay, nó là
một trong những trái chín sớm của tiến trình văn hóa Việt Nam hội nhập văn
hóa thế giới. Chúng tôi đã cố gắng khảo cứu kịch và tiểu thuyết Âu - Mỹ thế kỷ
XIX - XX, nhưng chưa tìm ra được tác phẩm nào viết trước những năm 1940
có chủ đề tương tự và đạt sức khái quát lịch sử như trước tác của Nguyễn Huy
Tưởng. Nhưng cũng trong những năm mà nhà văn của chúng ta viết đi viết lại
vở kịch tâm đắc của mình, bên kia bờ Thái Bình Dương, nhà văn Ðức lưu vong
Thomas Mann sáng tác tiểu thuyết - bi kịch Bác sĩ Faustus(15). Nhân vật chính
trong tiểu thuyết ấy, nhạc sĩ thiên tài Adrian Leverkuhn, sống trong thời đại,
khi mà nghệ thuật đã ngạo nghễ tự khép mình trong tháp ngà của mình, khơng
muốn biết đến những lĩnh vực khác của cuộc sống, khi mà sự cách tân trong
nghệ thuật trở thành mục đích tự thân và mệnh lệnh câu thúc mọi văn nghệ sĩ,
Adrian Leverkuhn càng quên mình sáng tạo càng cảm thấy cạn kiệt bên trong
cảm hứng sáng tạo. Và, bị quỷ dữ cám dỗ, chàng đã bán linh hồn mình cho quỷ
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

dữ để đổi lấy hai mươi bốn năm sáng tạo đầy hứng khởi, nhưng dưới ngòi bút
của chàng chỉ hiện ra những bản nhạc của sự nhạo báng tất cả, sự hủy hoại
cuồng say và sự tuyệt vọng giá lạnh... Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng và
Bác sĩ Faustus của Thomas Mann như gọi nhau từ hai bờ đại dương. Một tác
phẩm vừa đòi cho cái Ðẹp nghệ thuật quyền trở thành giá trị tự thân, vừa cảnh
báo về mối họa nằm sẵn trong tham vọng của nó muốn đứng lên trên mọi giá

trị khác của sinh tồn. Tác phẩm khác phơi bày những hệ quả bi thảm, khi tham
vọng đấy được thỏa mãn.
Bài tham khảo 3
Trong làng kịch hiện đại Việt Nam, bên cạnh Lưu Quang Vũ tài năng, vực dậy
cả một nền văn học kịch đang trên đà tuột dốc, ta cũng không thể không nhắc
đến Nguyễn Huy Tưởng một trong những nhà viết kịch và tiểu thuyết xuất sắc.
Các tác phẩm của ông thường đi khai thác các đề tài lịch sử và tác phẩm Vũ
Như Tô là tác phẩm nổi bật nhất. Xung đột kịch được đẩy lên đến cao trào và
được giải quyết ở hồi thứ 5 “Vĩnh biệt cửu trùng đài” qua đó thể hiện quan
niệm sâu sắc của ơng về cuộc đời và nghệ thuật.
Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài giỏi, bị Lê Tương Dực – tên vua tàn bạo bắt
xây Cửu Trùng Đài thành nơi để hắn ăn chơi, hưởng lạc. Là một người nghệ sĩ
chân chính, Vũ Như Tơ đã khơng nhận lời dù có bị hắn đe dọa sẽ giết chết.
Nhưng Đam Thiềm một cung nữ đã thuyết phục được ông xây Cửu Trùng Đài.
Cửu Trùng Đài xây cao bao nhiêu, lòng dân ốn hận Vũ Như Tơ bấy nhiêu. Lợi
dụng tình thế đó Trịnh Duy Sản đã dấy binh nổi loạn. Đoạn trích “Vĩnh biệt
cửu trùng đài” là sự tiếp nối các sự kiện đang bị đẩy lên đến cao trào đó.
Mở đầu tác phẩm là tiếng hoảng hốt của Đam Thiền, khuyên Vũ Như Tô hãy
mau trốn đi. Cơn biến loạn xảy ra ở kinh thành nên tình trạng của Vũ Như Tô
hết sức nguy hiểm, nhưng Vũ Như Tô lại nhất định không trốn, không nghe lời
khuyên của Đam Thiền bởi “Những người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà
vạn nhất có chết, thì cùng phải để cho mọi người biết rằng cơng việc mình làm
chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng
Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tơi dể cả ở đây, thì tơi
chạy đi đâu?”. Ơng hi sinh hết mình cho nghệ thuật, ơng cố thủ ở lại cũng
mong Cửu Trùng Đài sẽ được hoàn thiện, để tranh tinh xảo với hóa cơng.
Nhưng ơng nào biết, chính quyết định đó đã khiến ơng nhận lấy cái chết oan
nghiệt, đến cả lúc chết ông vẫn không thể lí giải vì sao mình phải chết.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Khi nhận lời xây dựng Cửu Trùng Đài bản thân Vũ Như Tô đã mắc phải sai
lầm trong suy nghĩ và hành động. Vũ Như Tô mượn uy quyền và tiền bạc của
Lê Tương Dực để thực hiện giấc mộng Cửu Trùng Đài. Nhưng tiền bạc đó
chính là công sức, của cải của nhân dân, ông chỉ nhìn thấy cái bề nổi khi xây
dựng xong Cửu Trùng Đài, mà không nhận ra phần sâu của sự việc. Cửu Trùng
Đài càng đến ngày hồn thiện thì mâu thuẫn giữa ông với nhân dân càng lớn
dần, họ căm ghét Vũ Như Tô bởi ông đã hạ lệnh giết chết những người bỏ trốn
để duy trì kỉ luật trên cơng trường. Đó là hành động hết sức tàn nhẫn, đặt cơng
trình lên trên tính mạng của thợ thuyền. Vũ Như Tô đã biến thành một kẻ đáng
sợ, người dân không cịn thấy hình ảnh của Vũ Như Tơ gần gũi với nhân dân
đâu nữa. Vì xây Cửu Trùng Đài mà cuộc sống của nhân dân ngày càng cực khổ.
Vũ Như Tô là một thiên tài nhưng không phải là một hiền tài. Ơng khơng thấu
hiểu nỗi thống khổ của nhân dân.
Vũ Như Tô bị đặt vào mâu thuẫn không thể hóa giải, điều hịa: một bên là khát
vọng nghệ thuật, một bên là đời sống của nhân dân. Bởi vậy, cuối cùng ông đã
nhận lấy cái kết vô cùng bi thảm. Vũ Như Tô bị hiểu lầm và bị kết tội: Nhân
dân coi bạo chúa và Vũ Như Tô là một là hai người gây ra tội ác: “Bạo chúa đã
chết, cịn thằng Vũ Như Tơ đem phanh thây thành trăm mảnh”. Ơng khơng chỉ
bị nhân dân kết tội mà giấc mộng cuộc đời ông, ông đã dồn biết bao tài năng và
tâm sức xây dựng Cửu Trùng Đài giờ cũng rơi vào tuyệt vọng, Cửu Trùng Đài
bị phá hủy. Trước cảnh tượng Cửu Trùng Đài rực cháy, Vũ Như Tơ rú lên kinh
hồng, tất cả giấc mộng đẹp tan tành, sụp đổ, đó là tiếng rú kinh hồng, sợ hãi.
“Thông thế là hết, dẫn ta đến pháp trường” – Vũ Như Tô người sáng tạo cái
đẹp cũng bị giết. Cái chết của Vũ Như Tô là một kết cục tất yếu vì Cửu Trùng
Đài là một cơng trình đẹp, tuyệt mĩ nhưng nó lại là biểu hiện của cái xấu, cái ác,
nên tất yếu nó sẽ bị hủy diệt. Qua đó Nguyễn Huy Tưởng cũng nêu lên mối
quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật phải xuất phát từ cuộc sống và

phục vụ con người mới có thể tồn tại nếu khơng nó tất yếu sẽ bị diệt vọng.
Ngồi nhân vật Vũ Như Tơ, ta cũng khơng thể không nhắc đến Đam Thiền. Bà
là một cung nữ xinh đẹp, tài năng nhưng bị bỏ rơi. Đam Thiền là người yêu cái
đẹp, cái thái độ “biệt nhỡ liên tài”, chính bà là người đã khun Vũ Như Tơ nên
ở lại để xây dựng Cửu Trùng Đài điểm tô cho đất nước, cũng chính bà đã
khun Như Tơ trốn đi khi xảy ra biến loạn. Và bà tình nguyện ở lại để bảo vệ
Cửu Trùng Đài bởi “tôi chết đi không thiệt hại cho đời”. Cũng như Vũ Như Tô,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Đam Thiềm cũng rơi vào bi kịch vỡ mộng: hi sinh tất cả danh dự tính mạng để
bảo vệ Cửu Trùng Đài nhưng cuối cung vẫn phải chết. Đau đớn hơn trước khi
chết còn phải chứng kiến cảnh Cửu Trùng Đài bị đốt phá tan tành. Người bà
hết lịng bảo vệ là Vũ Như Tơ cũng bị đưa ra pháp trường.
Hồi năm của vở kịch Vũ Như Tô đã được Nguyễn Huy Tưởng sử dụng ngôn
ngữ kịch điêu luyện, mang tính tổng hợp cao. Nhịp điệu lời thoại nhanh, gấp
gáp, sử dụng những câu văn ngắn cho thấy tình thế cấp bách. Tính cách, tâm
trạng nhân vật được bộ lộc rõ nét.
Với các lớp kịch linh hoạt, tự nhiên tác giả đã tái hiện thành công hồi kịch thứ
năm. Qua hồi kịch này ông gửi gắm sự ảm thông với bi kịch của Vũ Như Tô,
Đồng thời đặt ra vấn đề mối quan hệ hài hòa giữa nghệ thuật và con người.
Không chỉ vậy xã hội cần trân trọng, nâng niu những tài năng nghệ thuật, để họ
có thể phát huy tài năng của bản thân, xây dựng sự giàu đẹp cho đất nước.
Bài tham khảo 4
Vào năm 1516 dưới triều vua lợn Lê Tương Dực vốn nổi tiếng là ăn chơi, sa
đọa đã sai Vũ Như Tơ xây điện 100 nóc và xây cơng trình quy mô lớn là Cửu
trùng đài. Đây là một sự kiện có thật được nhà viết kịch tài ba Nguyễn Huy
Tưởng khai thác để dựng lên vở kịch “Vũ Như Tô” phản ánh hai mâu thuẫn cơ

bản về xã hội và con người. Đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” thuộc hồi
cuối tác phẩm thể hiện cao trào kịch tính được đẩy lên đến đỉnh điểm, cùng với
đó là bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô và nữ phụ Đan Thiềm_những người
nghệ sĩ say mê cái đẹp mà quên mất mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống,
giữa lí tưởng nghệ thuật thuần túy với lợi ích của nhân dân.
Vũ Như Tô là một nhà kiến trúc sư tài giỏi bị Lê Tương Dực ép xây dựng
Cửu trùng đài để làm nơi hưởng lạc vui chơi với cung nữ. Ơng vốn là người
nghệ sĩ chân chính lại gắn bó gần gũi với nhân dân nên đã từ chối, quyết không
nhận lời và ngang nhiên mắng chửi tên hôn quân bạo ngược. Về sau khi được
Đan Thiềm_người cung nữ say mê cái đẹp và biết quý trọng người tài thuyết
phục là lợi dụng tiền bạc và quyền lực của vua để xây dựng một tòa lâu đài cho
đất nước “Bền như sao trăng”, có thể “tranh tinh xảo với hóa cơng” và để cho
“dân ta nghìn thu cịn hãnh diện”. Kể từ đó ơng thay đổi thái độ chấp nhận
mệnh lệnh, dồn tất cả tài năng và trí tuệ sáng suốt để hồn thành hồi bão, lí
tưởng muốn điểm tơ cho đất nước. Chính việc làm ấy của Vũ Như Tô đã vô
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

tình đẩy dân đen vào cảnh lầm than cực khổ khi sưu thuế ngày càng tăng cao,
triều đình bắt thêm thợ giỏi, thẳng tay hạ chém những kẻ bỏ trốn, biết bao
nhiêu người chết vì tai nạn. Nhân dân căm phẫn nhà vua, oán giân Vũ Như Tô.
Để rồi Trịnh Duy Sản kẻ cầm đầu phe phái đối lập với triều đình lơi kéo dân
chúng đứng lên làm phản giết vua và bắt giết Vũ Như Tô cùng Đan Thiềm.
Mở đầu đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” là hình ảnh cung nữ Đan
Thiềm hớt hơ hớt hải chạy, mặt cắt khơng cịn hột máu vào báo tin tình thế
nguy kịch, thúc giục, cầu xin, van nài Vũ Như Tô chạy trốn với những lời lẽ
tha thiết, chân thành: “Ơng nghe tơi! Ơng trốn đi! Ơng nghe tơi! Ơng phải trốn
đi mới được”, nàng chắp tay van lạy Vũ Như Tơ hãy bỏ trốn gìn giữ tính mạng

chờ cơ hội khác vì đại sự đã hỏng. Từng chi tiết hành động và lời nói của Đan
Thiềm chứng tỏ cô là một người rất quý trọng người tài, hiểu biết lo trước lo
sau cho tài năng đất nước. Cơ khẳng định: “Ơng trốn đi. Tài kia khơng nên để
uổng. Ơng mà có mệnh hệ nào thì nước ta khơng cịn ai điểm tơ nữa”, con
người ấy sẵn sàng quỳ dưới chân giặc cầu xin tha mạng cho ông Vũ, sẵn sàng
xin chết thay ông nhưng Vũ Như Tô nhất quyết sống chết cùng đài cửu trùng
mà không chịu rời đi để rồi gây nên tấn bi kịch cho cuộc đời ông.
Vũ Như Tô coi Cửu trùng đài quý hơn sinh mạng của bản thân, nó là cả
phần xác lẫn phần hồn của ơng và Đan Thiềm. Chính vì vậy mà ơng mù qng,
u mê khơng thốt ra khỏi ảo vọng của mình được. Quân làm phản càng ngày
kéo đến càng gần nhưng con người ấy vẫn ngoan cố vẫn khơng hiểu vì lí do gì
họ lại muốn bắt mình, vẫn cố đấu lí với đời, với số phận: “Có lí gì để họ giết
tơi?”, đứng trước qn khởi loạn vẫn tự trấn an mình và mọi người “Đời ta
chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một tòa đài để tạ lòng tri kỉ”. Bị bọn
chúng bắt ông vẫn nuôi hi vọng có thể phân trần với chủ tướng về tấm lòng
nguyện vọng của bản thân mong sao để người đời hiểu cho nguyện ước ông
đang thực hiện là vì vẻ đẹp ngàn năm của đất nước. Ông vẫn say sưa giấc mộng
của riêng mình về Đài Cửu Trùng: “Vài năm nữa, Đài Cửu Trùng hoàn thành,
cao cả, huy hồng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai…” Vũ Như Tô
không thể tỉnh táo để nhận diện tình thế nguy kịch của hiện tại. Ơng vẫn nghĩ
mình bị hiểu nhầm, vẫn khơng tin rằng mình bị nhân dân ốn hận, bị mọi người
căm ghét, ơng không tin dân chúng muốn phá Cửu Trùng Đài bởi đó là cơng
trình, là tịa lâu đài điểm tơ cho đất nước. Đứng ở khía cạnh người hùng thì

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

đúng ơng là con người dám làm dám chịu, có khí phách hiên ngang nhưng dựa

trên hồn cảnh thực tại thì đó là bảo thủ, cố chấp.
Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài là biểu hiện cho tài năng của người nghệ
sĩ, hiện thân cho sự khao khát và say mê sáng tạo cái đẹp đó là đúng đắn, là
đáng trân trọng nhưng thực tế của đất nước dân cùng khốn khổ cái đẹp ấy lại
trở nên thật phù phiếm, xa xỉ bởi đã thấm đẫm máu, nước mắt và được xây trên
thây xác của nhân dân. Dù là ước muốn cao đẹp của Vũ Như Tô nhưng ơng đã
vơ tình gây ra tội ác, trở thành kẻ thù của dân chúng và thợ thuyền mà không
hề hay biết. Đến khi kinh thành bị phát hỏa, quân lính cho hay đó là lệnh của
An Hịa Hầu, tận mắt chứng kiến cảnh Đài Cửu Trùng bốc cháy như giàn thiêu
ông chỉ biết gào lên trong tuyệt vọng: “Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ơi đảng ác!
Ơi mn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ơi mộng lớn! Ơi
Đan Thiềm! Ơi Cửu Trùng Đài!”. Vũ Như Tô bị rơi từ đỉnh cao mộng tưởng
xuống hố sâu của tuyệt vọng. Nỗi đau và sự mất mát đã hòa vào nhau làm một
dội lên tiếng kêu của đau thương, tang tóc. Những câu cảm thán thốt ra từ đỉnh
điểm cảm xúc đau đớn vô cùng. Thật đáng tiếc với những câu hỏi lớn của Vũ
Như Tô đến khi chết ơng vẫn khơng hiểu tại vì sao lại ra nơng nỗi: “Ta tội gì?
Ta khơng có tội! Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu trùng đài! Tấn bi kịch
ấy là cái giá mà ông phải trả vì khơng nhận thức rõ vấn đề mn thuở và thực
tại.
Vũ Như Tô đã không hiểu được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.
Nghệ thuật được sáng tạo và xây dựng lên cuối cùng cũng phải vì phục vụ cho
đời sống nhân dân. Đó mới là nghệ thuật vị nghệ thuật. Cịn nghệ thuật khơng
thể chỉ để thỏa mãn tài năng, lí tưởng của người nghệ sĩ mà quên mất rằng cái
đẹp phải gắn với cái thiện, đẹp thiện không thể tách rời được nhau. Đứng trên
lập trường người nghệ sĩ Cửu trùng đài là cái đẹp tuyệt mĩ, đứng trên lập
trường của nhân dân nó là một bông hoa ác thấm đẫm máu. Cái giá mà Vũ Như
Tơ phải trả là ơng chỉ nghĩ mình là nghệ sĩ chân chính mà qn mất rằng mình
cũng là một cơng dân của đất nước.
Như vậy qua đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” nhà văn đã tái hiện lại
bi kịch của Vũ Như Tô và Đan Thiềm gặp phải phản ánh sâu sắc hai mâu thuẫn

của thời đại. Mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn của tập đoàn phong kiến Lê
Tương Dực ăn chơi, hưởng lạc với hoàn cảnh bị bần cùng hóa của nhân dân.
Mâu thuẫn thứ hai trong bản thân con người Vũ Như Tô và Đan Thiềm. Đó là
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

mâu thuẫn giữa người cơng dân và người nghệ sĩ và phản ánh mối quan hệ giữa
nghệ thuật và cuộc sống. Hai mâu thuẫn này tác động lẫn nhau. Đan Thiềm
thuyết phục Vũ Như Tô xây dựng Cửu trùng đài càng làm cho mâu thuẫn xã
hội tăng cao, người nghệ sĩ càng hăng hái sáng tạo cái đẹp nghệ thuật bao nhiêu
thì càng mâu thuẫn với lợi ích công dân bấy nhiêu. Thật đáng tiếc cho một
người tài năng lại bị đặt nhầm chỗ, không đúng thời thế để rồi con người ấy, tài
năng ấy bị hủy diệt bởi thực tại cuộc sống. Qua đó ta cũng nhận thức được bài
học cái đẹp nghệ thuật chỉ thực sự có nhu cầu và có ý nghĩa khi đời sống vật
chất được đáp ứng đầy đủ, lợi ích của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu.
Quan điểm đó đến ngày nay vẫn khơng hề lỗi thời mà nó ln đúng trong mọi
hồn cảnh. Đảng và nhà nước ta ln vận dụng nó vào để duy trì và phát triển
đất nước.
Đoạn trích đã giải quyết được mâu thuẫn xã hội nhưng mâu thuẫn cá nhân
với hai tư cách nghệ sĩ và công dân chưa được giải quyết điểm biểu hiện trong
lời nói cuối cùng của Vũ Như Tơ “Ta tội gì. Khơng ta chỉ có một hồi bão là tô
điểm đất nước, đem hết tài năng ra xây cho nịi giống một tịa đài hoa lệ có thể
thách thức với cơng trình trước sau, tranh tinh xảo với hóa công” và lời đề tựa
vở kịch của tác giả: “Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như
Tô phải, ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”.
Nguyễn Huy Tưởng trân trọng tài năng, say mê cái đẹp, cảm thông cho Vũ
Như Tô nhưng ơng cũng khơng đồng tình với nhân vật và những người nghệ sĩ
chỉ biết quan tâm đến cái đẹp mà khơng vì quyền lợi của nhân dân.

Mời bạn đọc cùng tham khảo />
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



×