Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Phân tích hệ thống pháp luật nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.62 KB, 19 trang )

Khái quát về hệ thống pháp luật Nhật Bản
Nhật bản là một quốc gia có lịch sử phát triển lâu đời, có truyền thống và văn hóa
rất đậm nét và phát triển ở trình độ cao trên thế giới. Trong sự phát triển của pháp
luật đã từng trải qua hai cuộc âu hóa, lần thứ nhất từ năm 1868 đến năm 1926 bởi
các nước thuộc dòng họ pháp luật Civil Law, lần thứ hai từ năm 1945 đến nay bởi
các nước thuộc dịng họ Common Law. Có lẽ vì thế mà có nhận định cho rằng “
Hệ thống pháp luật Nhật Bản là sản phẩm của sự pha trộn giữa dòng họ Civil
Law, dòng họ Common Law và pháp luật truyền thống”.
1. Hệ thống pháp luật Nhật bản có những đặc điểm của dòng họ Civil Law
Hệ thống pháp luật của các nước châu Âu lục địa đã trở thành hình mẫu cho hệ
thống pháp luật Nhật Bản trong giai đoạn âu hóa lần thứ nhất và ảnh hưởng đến
tận ngày nay.
- Về hệ thống tòa án: hệ thống tòa án của Nhật được xây dựng trên mơ hình
hệ thống tòa án của các nước thuộc hệ thống pháp luật Civil Law mà chủ
yếu là của Đức và Pháp và chịu sự giám sát của cơ quan hành pháp. Tuy
nhiên sau chiến tranh thế giới thứ II, hệ thống tòa án của Nhật khơng cịn
chịu sự can thiệp của Chính Phủ như trước mà đã có vị trí độc lập hiến định
trong bộ máy nhà nước. Hệ thống tòa án của Nhật ngày nay cũng phân ra
các cấp – tương tự như hệ thống pháp luật các nước châu Âu lục địa.
- Về nguồn luật: Tương tự như ở các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil
law, nguồn luật quan trọng nhất ở Nhật Bản là luật thành văn. Và giống như
nhiều nước thuộc dòng họ này, phán quyết của Tòa án (hay còn gọi với các
tên gọi khác là án lệ, tiền lệ pháp, thực tiễn xét xử) khơng chính thức được
coi là nguồn mặc dù trên thực tế, phán quyết của tịa cũng đóng vai trị
quan trọng với tư cách là nguồn luật bổ trợ. Có thể kể đến Bộ luật dân sự
Nhật Bản là Bộ luật chịu ảnh hưởng cả từ Bộ luật dân sự Đức và Bộ luật
dân sự Pháp. Nguồn luật quan trọng và được ưu tiên áp dụng thứ hai đó là
tập quán pháp. Phán quyết của Tịa án khơng chính thức được coi là nguồn
luật mặc dù trên thực tế, tương tự như ở các nước Châu Âu lục địa, phán
quyết của Tồ án cũng đóng vai trị quan trọng với tư cách là nguồn luật bổ
trợ, có giá trị ràng buộc với với toà án cấp dưới, làm sáng tỏ và lấp lỗ hổng


của pháp luật thành văn
- Về đào tạo luật: tương tự như đào tạo luật ở các nước có hệ thống pháp luật
thuộc dịng họ Civil Law, đặc biệt gần gũi với mơ hình đào tạo của Pháp và
Đức. Phương pháp giảng dạy luật ở Nhật vẫn chủ yếu là phương pháp
thuyết trình tiến hành ở các lớp học có quy mơ lớn chứa tới hơn 500 sinh


viên, với bài giảng chỉ tập trung vào lý thuyết. sau khi tốt nghiệp khoa luật,
người có bằng cử nhân có thể học tiếp chương trình đào tạo sau đại học để
trở thành thạc sĩ hoặc tiến sĩ luật , hay học nghề tại các tổ chức chuyên biệt
để trở thành luật sư.
2. Hệ thống pháp luật Nhật Bản mang đặc điểm của dòng họ Common
Law
Sau chiến tranh thế giới thứ II, pháp luật Nhật Bản đã có những thay đổi đáng kể,
cả Civil Law và Common Law đều mang đến những tác động không nhỏ lên hệ
thống pháp luật nước này. Mà nguyên nhân của sự tác động này là do những thay
đổi của các yếu tố chính trị, lịch sử mang lại. Sự đầu hàng quân đồng minh của
Nhật Bản trong chiến tranh thế giới II, sự chiếm đóng Nhật Bản của Mĩ trong vịng
bảy năm đã tạo điều kiện cho dòng họ pháp luật Common Law ( mà về cơ bản là
hệ thống pháp luật Mỹ) có ảnh hưởng mang tính quyết định đối với sự phát triển
của pháp luật Nhật Bản. Những ảnh hưởng của dòng họ Common Law đối với
pháp luật Nhật Bản được thể hiện rõ ràng nhất trong các chế định pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của công dân, pháp luật về tố tụng và tổ chức của hệ thống tòa
án.
- Về tố tụng: Sự tác động của dòng họ pháp luật Common Law trong chế định
tố tụng được thể hiện rõ nét nhất trong pháp luật về tố tụng hình sự. Ngoại
trừ chế độ bồi thẩm mà Nhật Bản không tiếp thu của pháp luật Mĩ thì có thể
thấy Bộ luật tố tụng hình sự 1948 của Nhật Bản được soạn thảo theo khn
mẫu bộ luật tố tụng hình sự của Mĩ. Trong quá trình tố tụng, nguyên tắc
tranh tụng được đề cao, thẩm phán chỉ đóng vai trị trọng tài, vai trị chính

trong q trình tố tụng được dành cho đại diện của bên buộc tội và bên bào
chữa.
Bên cạnh bộ luật tố tụng hình sự, Nhật Bản cịn ban hành đạo luật về viện
kiểm sát ( Viện công tố) năm 1947, đạo luật 2 3 / 3 về luật sư năm 1949. Tất
cả các đạo luật này đều chịu ảnh hưởng của dòng họ pháp luật Common
Law và còn hiệu lực đến ngày nay mặc dù đã có sửa đổi, bổ sung.
- Về hệ thống tòa án: Những ảnh hưởng của dòng họ pháp luật Common Law
tới pháp luật Nhật Bản còn được thể hiện đậm nét trong các chế định pháp
luật về tổ chức hệ thống Tòa án. Bản hiến pháp năm 1946, đạo luật về Tòa
án, đạo luật về các viện công tố được ban hành năm 1947 đều chịu ảnh
hưởng sâu sắc của hệ thống pháp luật Mĩ. Cụ thể, quyền kiểm tra tính hợp
hiến của các văn bản pháp luật được giao cho tòa án tối cao; hệ thống tòa án
được tổ chức theo một ngach duy nhất. Nhật Bản khơng tổ chức hệ thống
Tịa án theo cấp hành chính mà theo ba cấp xét xử, một bản án có thể được


kháng án hai lần(sơ thẩm, phúc thẩm và thượng thẩm). Những đặc điểm của
dòng họ pháp luật Common Law được thể hiện rõ nét trong dòng họ pháp
luật Nhật Bản thông qua các chế định về quyền và nghĩa vụ của cơng dân,
pháp luật về tố tụng hình sự và hệ thống tịa án. Tuy nhiên, những phân tích
trên cũng cho thấy sự ảnh hưởng của dòng họ Common Law đến hệ thống
pháp luật Nhật Bản không đủ mạnh để “ kéo” pháp luật Nhật Bản hồn tồn
vào dịng họ pháp luật này, những tác động vẫn còn hạn chế và mang tính
khơng liên tục.
3. Hệ thống pháp luật Nhật Bản vẫn kế thừa các yếu tố của pháp luật
truyền thống
Tiếp thu rất nhiều từ pháp luật hiện đại tuy nhiên hệ thống pháp luật nhật bản vẫn
giữ được các yếu tố của pháp luật truyền thống điều đó được thể hiện trong các
chế định về hôn nhân và gia đình, chế định thừa kế, trong phương thức giải quyết
tranh chấp và sử dụng nguồn luật.

- Về phương thức giải quyết tranh chấp: Mặc dù tính dân chủ đã được đề cao
ở Nhật Bản, nhưng người dân vẫn khơng thích tham gia vào những lĩnh vực
hoạt động công quyền và có xu hướng thích giao phó những cơng việc đó
cho thiểu số người có quyền lực trong xã hội. Khơng những thế, người dân
Nhật cịn có tâm lý “ngại” kiện tụng, có xu hướng tránh xa pháp luật. do đó,
các phương thức giải quyết tranh chấp không qua hệ thống tòa án vẫn khá
phổ biến ở Nhật.
- Về sử dụng nguồn luật: Cũng như ở hầu hết các nước châu Âu khác, ở Nhật
Bản luật thành văn là nguồn luật quan trọng nhất. Tuy nhiên, trên thực tiễn
điều này không phải bao giờ cũng đúng. Trong một số trường hợp, thẩm
phán có thể dựa vào những tập qn khơng phù hợp với luật thực định nhằm
đạt tới giải pháp thỏa đáng. Hay trong luật dân sự khi việc áp dụng văn bản
pháp luật khơng quy định về chính sách cơng thì có thể bị các bên đương sự
loại trừ và thay thế vào đó áp dụng tập quán pháp có nghĩa tương phản. Sự
kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, kết hợp giữa pháp luật truyền thống
với dòng họ pháp luật Civil Law và Common Law đã tạo nên hệ thống pháp
luật của Nhật Bản. Sự kết hợp này cũng đã tạo nên một dòng họ pháp luật dòng họ pháp luật hỗn hợp và Nhật Bản là một đại diện.

Hệ thống Tòa án Nhật Bản


- Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án, hệ thống tổ chức Tòa án Nhật Bản
hiện nay bao gồm 4 cấp tòa án là: Tòa án cấp cao, tịa phúc thẩm, tịa án
quận và tịa án gia đình (là hai tòa đồng cấp) và tòa án rút gọn.
❖ Tịa án tối cao
- Có trụ sở tại Tokyo, là tịa án cao nhất có thẩm quyền xét xử trên
phạm vi cả nước và là cấp xét xử phúc thẩm cuối cùng đối với những
bản án đã được xét xử bởi tòa án phúc thẩm (tòa án cấp cao)
- Cơ cấu tổ chức: 1 chánh án và 14 thẩm phán, bên cạnh đó có các tịa
chun trách gồm thượng tịa chuyên trách và ba hạ tòa chuyên trách.

- Chánh án tịa tối cao do Nhật Hồng bổ nhiệm theo sự tư vấn của Chính
phủ (có vị trí như Thủ tướng Chính phủ)
- Các thẩm phán Tịa án tối cao do Chính phủ bổ nhiệm dưới sự phê chuẩn
của Nhật Hồng (có vị trí tương đương các Bộ trưởng)
- Việc bổ nhiệm này cần được sự tín nhiệm của nhân dân qua các cuộc
trưng cầu ý dân hoặc bầu cử Hạ nghị viện.
- Thẩm phán Tòa án tối cao nghỉ hưu ở tuổi 70.
❖ Tòa án phúc thẩm
- Tòa án phúc thẩm đặt ở 8 thành phố lớn của Nhật Bản là Tokyo, Osaka,
Nagoya; Hiroshima; Fukuoka; Sendai; Sapporo và Takamatsu.
- Các tịa này có phạm vi xét xử trong tồn thành phố mình
- Thẩm quyền xét xử:
+ Xét xử phúc thẩm những vụ việc đã được xét xử bởi tòa án cấp
dưới (tịa án quận, tịa án gia đình và tịa án rút gọn)
+ Xét xử sơ thẩm các vụ việc hành chính về bầu cử và vụ việc liên
quan đến biểu tình.
- Cơ cấu tổ chức:
+ 1 Chánh án do Chính phủ chỉ định và Nhật Hồng phê chuẩn
+ Các thẩm phán do Tòa án tối cao giới thiệu và Chính phủ bổ nhiệm
(cơ chế bổ nhiệm này được thực hiện với các tòa án cấp dưới tòa án
tối cao)
❖ Tịa án gia đình
- Tịa án gia đình được thành lập để giải quyết và hòa giải các vụ việc về
gia đình kể cả liên quan đến vị thành niên.
- Tịa này được bố trí cùng đại bàn với các tịa án cấp quận
- Ngồi ra có những chi nhánh đại diện của tịa gia đình ở những nơi có
nhu cầu (cả nước hiện nay có 50 tịa gia đình và 203 chi nhánh như thế)
❖ Toà án cấp quận



- Tịa án cấp quận có thẩm quyền xét xử sơ thẩm tất cả các vụ việc dân sự,
hình sự, hành chính khơng thuộc thẩm quyền của 2 tịa gia đình và tịa
rút gọn.
- Tịa án cấp quận có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các vụ việc đã được
tòa án rút gọn xét xử sơ thẩm
- Hiện nay cả nước Nhật Bản có 50 tịa án quận và 203 chi nhánh ở các
địa phương
❖ Tòa án rút gọn
- Tòa án rút gọn về các nguyên tắc chỉ giải quyết những vụ việc có giá trị
tranh chấp khơng q 900.000 yên, những vụ hình sự và dân sự nhỏ lẻ,
hình phạt nhẹ hay những tranh chấp hằng ngày của công dân,... Ví dụ:
những bị cáo bị phạt tiền giá trị ít hoặc bị phạt tù không quá 15 ngày.
- Hiện nay nhà nước Nhật Bản có khoảng 438 tịa án rút gọn tại các địa
phương.

Nguồn luật
a. Luật thành văn (bao gồm Hiến pháp, ĐƯQT, các văn bản do Nghị viện và
Chính phủ ban hành)
- Tương tự như các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil law, đây cũng là
nguồn luật quan trọng nhất ở Nhật Bản.
- Luật thành văn bao gồm các văn bản pháp luật do Nghị viện, Chính phủ, cơ
quan tư pháp và chính quyền địa phương ban hành.
- Thẩm phán có bổn phận phải áp dụng luật thành văn trước các nguồn luật
khác để giải quyết các vụ việc đưa đến tòa.
- Tuy nhiên, luật thành văn không phải là nguồn duy nhất, khi luật thành văn
thiếu các quy định cần thiết để giải quyết các vụ việc hoặc khi các quy định
của luật thành văn tối nghĩa, khơng phù hợp -> người thẩm phán có thể việc
dẫn các nguồn luật khác.
Hiến pháp
- Trong nguồn luật thành văn, Hiến pháp được coi là văn bản pháp luật đặc

biệt, tối cao so với các văn bản pháp luật khác.
- Đối với người Nhật, Hiến pháp Nhật Bản có vị trí giống như vị trí của Bộ
luật Napoleon đối với người Pháp, là văn bản thiêng liêng, điều chỉnh toàn
bộ đất nước Nhật Bản ở giai đoạn hiện tại và cả trong tương lai.
- Hiến pháp đầu tiên năm 1889 ban hành đề cao xã hội với một người đứng
đầu là thiên hoàng.


- Hiến pháp hiện hành của Nhật Bản được thông qua năm 1946 ra đời dưới sự
cố vấn của Mỹ. Có 3 nguyên tắc cơ bản như sau:
+ Một là, chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân chứ không thuộc về Nhật
Hoàng (như quy định trong Hiến pháp năm 1889).
+ Hai là, ngun tắc chủ nghĩa hịa bình và hợp tác hịa bình với các nước
khác (Điều 9).
+ Ba là, nguyên tắc tôn trọng quyền con người cơ bản (Chương III) Chính
phủ và Tịa án tối cao giám sát việc thực hiện quyền này.
- Sửa đổi Hiến pháp ở Nhật Bản rất phức tạp, gồm 2 điều kiện:
+ Điều kiện cần: Đề xuất sửa đổi Hiến pháp phải được 2/3 tổng số Nghị sĩ mỗi
viện đồng ý.
+ Điều kiện đủ: Phải tiến hành trưng cầu ý kiến của nhân dân, phải được đa số
phiếu tán thành.
→Do đó, Hiến pháp năm 1946 từ khi ra đời chưa bị sửa đổi do thủ tục rất khó thực
hiện.
- Học thuyết tam quyền phân lập và kiềm chế đối trọng được áp dụng chịu
ảnh hưởng của Mỹ.
- Tam quyền phân lập: Lập pháp (Nghị viện), hành pháp (Chính phủ), tư pháp
(tịa án mà đứng đầu là tòa án tối cao).
- Kiềm chế đối trọng: Chính phủ – Tịa án – Nghị viện ở một mức độ nhất
định có sự can thiệp vào cơng việc của nhau.
Nghị viện đề cử Thủ tướng trong số các nghị sĩ của mình (Thượng viện và

Hạ viện đều có quyền đề cử ứng viên Thủ tướng).
Tịa án tối cao của Nhật Bản có quyền giám sát tối cao đối với các hoạt động
của Nghị viện và Chính phủ.
Điều ước quốc tế (ĐƯQT):
- Điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp mà khơng cần nội luật hóa.
- Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế với hiến pháp và các đạo luật khác: Về
nguyên tắc ĐƯQT có hiệu lực thấp hơn Hiến pháp (Hiến pháp là nơi tạo ra
cơ sở pháp lý để ĐƯQT có hiệu lực) và cao hơn các đạo luật.
.
Các văn bản pháp luật do Nghị viện và Chính phủ ban hành:
- Theo Hiến pháp năm 1946: Bộ Luật và luật là sản phẩm do Nghị viện ban
hành, Nhật hồng có vai trị trợ giúp chứ không ban hành luật như trước.
- Năm 1878 người Nhật đã xúc tiến soạn thảo bằng cách thành lập Ủy ban để
dịch Bộ luật dân sự của nước ngoài trong đó có Bộ luật dân sự Pháp (1804)
và cho ra đời Bộ luật dân sự đầu tiên 1890.


- Áp dụng máy móc nên Bộ luật dân sự đầu tiên 1890 của Nhật có nhiều
khiếm khuyết và hạn chế: Bộ luật dân sự soạn thảo chủ yếu phụ thuộc Pháp
mà bỏ qua kinh nghiệm của Đức và Anh. Phần quy định về gia đình và thừa
kế đã phá vỡ đạo đức truyền thống của người Nhật và xem nhẹ vai trò của
Nhà nước. Năm 1892 Bộ luật dân sự 1890 đã bị đình chỉ áp dụng.
- Chính phủ Nhật đã thành lập Ủy ban soạn thảo Bộ luật dân sự mới 1898 tiếp
thu kinh nghiệm của Đức (Đức ban hành Bộ luật dân sự năm 1896).
- Bên cạnh những quy định mới theo kinh nghiệm Đức thì cịn nhiều quy định
cũ và thêm cả những kinh nghiệm của Anh và đó là các học thuyết trong luật
tư.
b. Phán quyết của tòa án
- Hệ thống pháp luật Nhật Bản chủ yếu dựa trên luật pháp điển hóa tuy nhiên
điều đó khơng có nghĩa là phán quyết của tịa khơng quan trọng.

- Ngược lại, phán quyết của tòa, đặc biệt của tịa án tối cao được tơn trọng và
tn theo như một nguồn luật chính yếu.
- Về mặt lý thuyết, thẩm phán Nhật Bản khơng có nghĩa vụ phải tn thủ tiền
lệ pháp và cũng khơng có điều khoản pháp luật cụ thể nào của Nhật Bản quy
định rằng các phán quyết trong quá khứ của tòa án là tiền lệ pháp, là nguồn
luật.
- Trên thực tế, phán quyết của tòa án tối cao thường được các tòa án cấp dưới
tôn trọng và tuân thủ như nguồn luật cơ bản (nguồn luật thực tế) và thuật
ngữ “tiền lệ pháp” thường được sử dụng khi nói về phán quyết của tịa án tối
cao.
- Mặc dù khơng chính thức thừa nhận học thuyết tiền lệ pháp nhưng Nhật Bản
có rất nhiều sách cơng bố các phán quyết của tịa án do cả Nhà nước và tư
nhân xuất bản Ví dụ tiêu biểu:
Các báo cáo về phán quyết của tòa do tòa án tối cao xuất bản từ năm
1947, thu thập các phán quyết của tịa án các cấp.
Các báo cáo chính thức khác về phán quyết của tòa được xuất bản từ
năm 1947 do bộ phận dịch vụ của tòa án xuất bản

c. Tập quán pháp luật
- Ở Nhật Bản, tập quán pháp được hiểu là những quy tắc xử sự được xã hội
tuân thủ mặc dù không được bất cứ cơ quan công quyền nào đặt ra. Tập
quán được coi là nguồn luật nếu: Tập quán đó liên quan tới những vấn đề


chưa được pháp luật quy định đồng thời không trái với trật tự công cộng
hoặc trái với quy phạm đạo đức. Không bị bãi bỏ bởi bất cứ quy định pháp
luật nào do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc được pháp
luật quy định cụ thể về việc áp dụng tập quán đó.
- Về nguyên tắc, tập quán chỉ là nguồn luật phụ trợ và thẩm phán chỉ áp dụng
tập qn pháp khi khơng có quy định trong luật thành văn. Tuy nhiên việc

áp dụng tập quán pháp cũng có những ngoại lệ: Có những trường hợp tập
quán có giá trị cao hơn luật (dân tộc thiểu số, vùng sâu...). Trong một số
trường hợp, trên thực tế, thẩm phán cịn có thể tham khảo những tập quán
không phù hợp với luật thực định nhằm đạt tới giải pháp thỏa đáng nhất.
d. Nguyên tắc chung của pháp luật
- Trong tất cả các vụ việc trừ những vụ việc hình sự, thẩm phán quyết định
theo nguyên tắc chung của pháp luật khi khơng có nguồn luật nào khác có
thể áp dụng.
- Tuy nhiên, hiếm khi các thẩm phán chỉ dựa vào nguyên tắc chung của pháp
luật vì ngày nay các vụ việc được đưa ra tòa thường là những vụ việc đã
được pháp luật quy định hoặc đã có tiền lệ xét xử của tịa án cấp trên.
e. Ý kiến pháp lý của các học giả
- Ở mức độ nhất định, ý kiến pháp lý của các học giả nổi tiếng cũng là một
nguồn luật trong pháp luật Nhật Bản.
- Giới thẩm phán ở Nhật Bản thừa nhận lý luận khoa học pháp lý có vai trị
quan trọng trong việc phát triển các quy phạm pháp luật, vì vậy họ thường
bám sát quan điểm của các giáo sư luật hơn là các quan chức chính phủ và
họ tự hào vì họ là những nhà lý luận khoa học pháp lý chứ không phải chỉ
thuần túy là những người hành nghề luật.

Đào tạo luật và hành nghề luật
1. Đào tạo luật:
- Tuyển sinh đầu vào thông qua thi tuyển.
- Chương trình đào tạo gồm 2 giai đoạn:


Giai đoạn 1: 2 năm đầu học các môn đại cương (có thể học tại trường luật
hoặc các trường khác)
Giai đoạn 2: 2 năm cuối học các môn chuyên ngành pháp lý.
- Kết thúc 2 giai đoạn này sẽ thi để được cấp bằng cử nhân luật.

- Sau khi có bằng, các cử nhân luật có thể học tiếp sau đại học theo các giai
đoạn:
2 năm đầu ở trình độ thạc sĩ luật (kết thúc bằng bảo vệ luận văn thạc sĩ)
3 năm tiếp theo ở trình độ tiến sĩ luật (kết thúc bằng bảo vệ luận án tiến sĩ)
- Phương pháp đào tạo là phương pháp thuyết giảng theo truyền thống các
trường đào tạo luật của dòng họ Civil law.
2. Hành nghề luật:
- Nhật Bản là nước áp dụng chế độ tam quyền phân lập, bao gồm quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quyền tư pháp ở Nhật Bản thuộc
về Tòa án tối cao và các tồ án địa phương. Ngồi ra, có hai tổ chức quan
trọng khác cũng có quyền tư pháp và viện kiểm sát và hội luật sư.
Do đó, các chức năng tư pháp ở Nhật Bản là thẩm phán, công tố viên và
luật sư.
- Để trở thành người có chức năng tư pháp ở Nhật Bản cần phải qua khóa đào
tạo tại Học viện tư pháp Nhật Bản. Kỳ thi tư pháp quốc gia được tổ chức
mỗi năm một lần, do Ủy ban quản lý kỳ thi tư pháp của Bộ Tư pháp thực
hiện.
- Thời gian đào tạo nghiệp vụ tư pháp kéo dài 24 tháng tại Viện nghiên cứu do
Tòa án tối cao Nhật Bản tổ chức:
4 tháng đầu và 4 tháng cuối học viên học tại Viện.
16 tháng giữa khóa, tất cả học viên sẽ đi thực tập: 8 tháng ở Tịa, 4 tháng ở
Viện cơng tố và 4 tháng ở văn phòng luật sư.
- Việc lựa chọn hành nghề nào sẽ được quyết định ở thời gian 4 tháng cuối
khóa và học viên sẽ phải tốt nghiệp để được cấp chứng chỉ hành nghề.
TỔNG KẾT
⇒Tổng kết lại, hệ thống pháp luật Nhật Bản từ khi thành lập cho đến nay đã chịu
sự ảnh hưởng bởi hai hệ thống pháp luật lớn nhất trên thế giới là hệ thống Civil
law và Common law. Sự ảnh hưởng đó vừa có yếu tố khách quan, nhưng phần lớn
là sự tiếp nhận một cách chủ động do nhu cầu tự thân và sự hấp dẫn bởi những giá
trị tiến bộ. Nhật Bản đã cẩn trọng, khôn khéo và nỗ lực trong việc tiếp nhận và

“Nhật hóa” những giá trị tiên tiến nhất về pháp luật ở khắp nơi trên thế giới để


chuyển hóa thành những thành những chuẩn mực của mình. Thành quả là Nhật
Bản đã xây dựng được hệ thống pháp luật tồn diện, tiến bộ, phù hợp, có vị trí trên
bản đồ pháp luật thế giới.

Khái quát về hệ thống pháp luật Nhật Bản
Nhật bản là một quốc gia có lịch sử phát triển lâu đời, có truyền thống và văn hóa
rất đậm nét và phát triển ở trình độ cao trên thế giới. Trong sự phát triển của pháp
luật đã từng trải qua hai cuộc âu hóa, lần thứ nhất từ năm 1868 đến năm 1926 bởi
các nước thuộc dòng họ pháp luật Civil Law, lần thứ hai từ năm 1945 đến nay bởi
các nước thuộc dòng họ Common Law. Có lẽ vì thế mà có nhận định cho rằng “
Hệ thống pháp luật Nhật Bản là sản phẩm của sự pha trộn giữa dòng họ Civil
Law, dòng họ Common Law và pháp luật truyền thống”.
4. Hệ thống pháp luật Nhật bản có những đặc điểm của dịng họ Civil Law
Hệ thống pháp luật của các nước châu Âu lục địa đã trở thành hình mẫu cho hệ
thống pháp luật Nhật Bản trong giai đoạn âu hóa lần thứ nhất và ảnh hưởng đến
tận ngày nay.
- Về hệ thống tòa án: hệ thống tòa án của Nhật được xây dựng trên mơ hình
hệ thống tịa án của các nước thuộc hệ thống pháp luật Civil Law mà chủ
yếu là của Đức và Pháp và chịu sự giám sát của cơ quan hành pháp. Tuy
nhiên sau chiến tranh thế giới thứ II, hệ thống tịa án của Nhật khơng cịn
chịu sự can thiệp của Chính Phủ như trước mà đã có vị trí độc lập hiến định
trong bộ máy nhà nước. Hệ thống tòa án của Nhật ngày nay cũng phân ra
các cấp – tương tự như hệ thống pháp luật các nước châu Âu lục địa.
- Về nguồn luật: Tương tự như ở các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil
law, nguồn luật quan trọng nhất ở Nhật Bản là luật thành văn. Và giống như
nhiều nước thuộc dòng họ này, phán quyết của Tòa án (hay còn gọi với các
tên gọi khác là án lệ, tiền lệ pháp, thực tiễn xét xử) khơng chính thức được

coi là nguồn mặc dù trên thực tế, phán quyết của tịa cũng đóng vai trị
quan trọng với tư cách là nguồn luật bổ trợ. Có thể kể đến Bộ luật dân sự
Nhật Bản là Bộ luật chịu ảnh hưởng cả từ Bộ luật dân sự Đức và Bộ luật
dân sự Pháp. Nguồn luật quan trọng và được ưu tiên áp dụng thứ hai đó là
tập quán pháp. Phán quyết của Tịa án khơng chính thức được coi là nguồn
luật mặc dù trên thực tế, tương tự như ở các nước Châu Âu lục địa, phán
quyết của Tồ án cũng đóng vai trò quan trọng với tư cách là nguồn luật bổ
trợ, có giá trị ràng buộc với với tồ án cấp dưới, làm sáng tỏ và lấp lỗ hổng
của pháp luật thành văn


- Về đào tạo luật: tương tự như đào tạo luật ở các nước có hệ thống pháp luật
thuộc dịng họ Civil Law, đặc biệt gần gũi với mơ hình đào tạo của Pháp và
Đức. Phương pháp giảng dạy luật ở Nhật vẫn chủ yếu là phương pháp
thuyết trình tiến hành ở các lớp học có quy mơ lớn chứa tới hơn 500 sinh
viên, với bài giảng chỉ tập trung vào lý thuyết. sau khi tốt nghiệp khoa luật,
người có bằng cử nhân có thể học tiếp chương trình đào tạo sau đại học để
trở thành thạc sĩ hoặc tiến sĩ luật , hay học nghề tại các tổ chức chuyên biệt
để trở thành luật sư.
5. Hệ thống pháp luật Nhật Bản mang đặc điểm của dòng họ Common
Law
Sau chiến tranh thế giới thứ II, pháp luật Nhật Bản đã có những thay đổi đáng kể,
cả Civil Law và Common Law đều mang đến những tác động không nhỏ lên hệ
thống pháp luật nước này. Mà nguyên nhân của sự tác động này là do những thay
đổi của các yếu tố chính trị, lịch sử mang lại. Sự đầu hàng quân đồng minh của
Nhật Bản trong chiến tranh thế giới II, sự chiếm đóng Nhật Bản của Mĩ trong vịng
bảy năm đã tạo điều kiện cho dòng họ pháp luật Common Law ( mà về cơ bản là
hệ thống pháp luật Mỹ) có ảnh hưởng mang tính quyết định đối với sự phát triển
của pháp luật Nhật Bản. Những ảnh hưởng của dòng họ Common Law đối với
pháp luật Nhật Bản được thể hiện rõ ràng nhất trong các chế định pháp luật về

quyền và nghĩa vụ của công dân, pháp luật về tố tụng và tổ chức của hệ thống tòa
án.
- Về tố tụng: Sự tác động của dòng họ pháp luật Common Law trong chế định
tố tụng được thể hiện rõ nét nhất trong pháp luật về tố tụng hình sự. Ngoại
trừ chế độ bồi thẩm mà Nhật Bản khơng tiếp thu của pháp luật Mĩ thì có thể
thấy Bộ luật tố tụng hình sự 1948 của Nhật Bản được soạn thảo theo khuôn
mẫu bộ luật tố tụng hình sự của Mĩ. Trong quá trình tố tụng, nguyên tắc
tranh tụng được đề cao, thẩm phán chỉ đóng vai trị trọng tài, vai trị chính
trong q trình tố tụng được dành cho đại diện của bên buộc tội và bên bào
chữa.
Bên cạnh bộ luật tố tụng hình sự, Nhật Bản còn ban hành đạo luật về viện
kiểm sát ( Viện công tố) năm 1947, đạo luật 2 3 / 3 về luật sư năm 1949. Tất
cả các đạo luật này đều chịu ảnh hưởng của dòng họ pháp luật Common
Law và còn hiệu lực đến ngày nay mặc dù đã có sửa đổi, bổ sung.
- Về hệ thống tịa án: Những ảnh hưởng của dòng họ pháp luật Common Law
tới pháp luật Nhật Bản còn được thể hiện đậm nét trong các chế định pháp
luật về tổ chức hệ thống Tòa án. Bản hiến pháp năm 1946, đạo luật về Tịa
án, đạo luật về các viện cơng tố được ban hành năm 1947 đều chịu ảnh


hưởng sâu sắc của hệ thống pháp luật Mĩ. Cụ thể, quyền kiểm tra tính hợp
hiến của các văn bản pháp luật được giao cho tòa án tối cao; hệ thống tòa án
được tổ chức theo một ngach duy nhất. Nhật Bản khơng tổ chức hệ thống
Tịa án theo cấp hành chính mà theo ba cấp xét xử, một bản án có thể được
kháng án hai lần(sơ thẩm, phúc thẩm và thượng thẩm). Những đặc điểm của
dòng họ pháp luật Common Law được thể hiện rõ nét trong dòng họ pháp
luật Nhật Bản thông qua các chế định về quyền và nghĩa vụ của công dân,
pháp luật về tố tụng hình sự và hệ thống tịa án. Tuy nhiên, những phân tích
trên cũng cho thấy sự ảnh hưởng của dịng họ Common Law đến hệ thống
pháp luật Nhật Bản không đủ mạnh để “ kéo” pháp luật Nhật Bản hoàn tồn

vào dịng họ pháp luật này, những tác động vẫn cịn hạn chế và mang tính
khơng liên tục.
6. Hệ thống pháp luật Nhật Bản vẫn kế thừa các yếu tố của pháp luật
truyền thống
Tiếp thu rất nhiều từ pháp luật hiện đại tuy nhiên hệ thống pháp luật nhật bản vẫn
giữ được các yếu tố của pháp luật truyền thống điều đó được thể hiện trong các
chế định về hơn nhân và gia đình, chế định thừa kế, trong phương thức giải quyết
tranh chấp và sử dụng nguồn luật.
- Về phương thức giải quyết tranh chấp: Mặc dù tính dân chủ đã được đề cao
ở Nhật Bản, nhưng người dân vẫn khơng thích tham gia vào những lĩnh vực
hoạt động cơng quyền và có xu hướng thích giao phó những cơng việc đó
cho thiểu số người có quyền lực trong xã hội. Khơng những thế, người dân
Nhật cịn có tâm lý “ngại” kiện tụng, có xu hướng tránh xa pháp luật. do đó,
các phương thức giải quyết tranh chấp khơng qua hệ thống tòa án vẫn khá
phổ biến ở Nhật.
- Về sử dụng nguồn luật: Cũng như ở hầu hết các nước châu Âu khác, ở Nhật
Bản luật thành văn là nguồn luật quan trọng nhất. Tuy nhiên, trên thực tiễn
điều này không phải bao giờ cũng đúng. Trong một số trường hợp, thẩm
phán có thể dựa vào những tập quán không phù hợp với luật thực định nhằm
đạt tới giải pháp thỏa đáng. Hay trong luật dân sự khi việc áp dụng văn bản
pháp luật không quy định về chính sách cơng thì có thể bị các bên đương sự
loại trừ và thay thế vào đó áp dụng tập quán pháp có nghĩa tương phản. Sự
kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, kết hợp giữa pháp luật truyền thống
với dòng họ pháp luật Civil Law và Common Law đã tạo nên hệ thống pháp
luật của Nhật Bản. Sự kết hợp này cũng đã tạo nên một dòng họ pháp luật dòng họ pháp luật hỗn hợp và Nhật Bản là một đại diện.


Hệ thống Tòa án Nhật Bản
- Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án, hệ thống tổ chức Tòa án Nhật Bản
hiện nay bao gồm 4 cấp tòa án là: Tòa án cấp cao, tòa phúc thẩm, tòa án

quận và tịa án gia đình (là hai tịa đồng cấp) và tịa án rút gọn.
❖ Tịa án tối cao
- Có trụ sở tại Tokyo, là tịa án cao nhất có thẩm quyền xét xử trên
phạm vi cả nước và là cấp xét xử phúc thẩm cuối cùng đối với những
bản án đã được xét xử bởi tòa án phúc thẩm (tòa án cấp cao)
- Cơ cấu tổ chức: 1 chánh án và 14 thẩm phán, bên cạnh đó có các tòa
chuyên trách gồm thượng tòa chuyên trách và ba hạ tòa chuyên trách.
- Chánh án tòa tối cao do Nhật Hồng bổ nhiệm theo sự tư vấn của Chính
phủ (có vị trí như Thủ tướng Chính phủ)
- Các thẩm phán Tịa án tối cao do Chính phủ bổ nhiệm dưới sự phê chuẩn
của Nhật Hồng (có vị trí tương đương các Bộ trưởng)
- Việc bổ nhiệm này cần được sự tín nhiệm của nhân dân qua các cuộc
trưng cầu ý dân hoặc bầu cử Hạ nghị viện.
- Thẩm phán Tòa án tối cao nghỉ hưu ở tuổi 70.
❖ Tòa án phúc thẩm
- Tòa án phúc thẩm đặt ở 8 thành phố lớn của Nhật Bản là Tokyo, Osaka,
Nagoya; Hiroshima; Fukuoka; Sendai; Sapporo và Takamatsu.
- Các tịa này có phạm vi xét xử trong tồn thành phố mình
- Thẩm quyền xét xử:
+ Xét xử phúc thẩm những vụ việc đã được xét xử bởi tòa án cấp
dưới (tòa án quận, tòa án gia đình và tịa án rút gọn)
+ Xét xử sơ thẩm các vụ việc hành chính về bầu cử và vụ việc liên
quan đến biểu tình.
- Cơ cấu tổ chức:
+ 1 Chánh án do Chính phủ chỉ định và Nhật Hồng phê chuẩn
+ Các thẩm phán do Tịa án tối cao giới thiệu và Chính phủ bổ nhiệm
(cơ chế bổ nhiệm này được thực hiện với các tòa án cấp dưới tịa án
tối cao)
❖ Tịa án gia đình
- Tịa án gia đình được thành lập để giải quyết và hịa giải các vụ việc về

gia đình kể cả liên quan đến vị thành niên.
- Tịa này được bố trí cùng đại bàn với các tòa án cấp quận


- Ngồi ra có những chi nhánh đại diện của tịa gia đình ở những nơi có
nhu cầu (cả nước hiện nay có 50 tịa gia đình và 203 chi nhánh như thế)
❖ Tồ án cấp quận
- Tịa án cấp quận có thẩm quyền xét xử sơ thẩm tất cả các vụ việc dân sự,
hình sự, hành chính khơng thuộc thẩm quyền của 2 tịa gia đình và tịa
rút gọn.
- Tịa án cấp quận có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các vụ việc đã được
tòa án rút gọn xét xử sơ thẩm
- Hiện nay cả nước Nhật Bản có 50 tòa án quận và 203 chi nhánh ở các
địa phương
❖ Tòa án rút gọn
- Tòa án rút gọn về các nguyên tắc chỉ giải quyết những vụ việc có giá trị
tranh chấp khơng q 900.000 n, những vụ hình sự và dân sự nhỏ lẻ,
hình phạt nhẹ hay những tranh chấp hằng ngày của cơng dân,... Ví dụ:
những bị cáo bị phạt tiền giá trị ít hoặc bị phạt tù không quá 15 ngày.
- Hiện nay nhà nước Nhật Bản có khoảng 438 tịa án rút gọn tại các địa
phương.

Nguồn luật
b. Luật thành văn (bao gồm Hiến pháp, ĐƯQT, các văn bản do Nghị viện và
Chính phủ ban hành)
- Tương tự như các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil law, đây cũng là
nguồn luật quan trọng nhất ở Nhật Bản.
- Luật thành văn bao gồm các văn bản pháp luật do Nghị viện, Chính phủ, cơ
quan tư pháp và chính quyền địa phương ban hành.
- Thẩm phán có bổn phận phải áp dụng luật thành văn trước các nguồn luật

khác để giải quyết các vụ việc đưa đến tịa.
- Tuy nhiên, luật thành văn khơng phải là nguồn duy nhất, khi luật thành văn
thiếu các quy định cần thiết để giải quyết các vụ việc hoặc khi các quy định
của luật thành văn tối nghĩa, không phù hợp -> người thẩm phán có thể việc
dẫn các nguồn luật khác.
Hiến pháp
- Trong nguồn luật thành văn, Hiến pháp được coi là văn bản pháp luật đặc
biệt, tối cao so với các văn bản pháp luật khác.


- Đối với người Nhật, Hiến pháp Nhật Bản có vị trí giống như vị trí của Bộ
luật Napoleon đối với người Pháp, là văn bản thiêng liêng, điều chỉnh toàn
bộ đất nước Nhật Bản ở giai đoạn hiện tại và cả trong tương lai.
- Hiến pháp đầu tiên năm 1889 ban hành đề cao xã hội với một người đứng
đầu là thiên hoàng.
- Hiến pháp hiện hành của Nhật Bản được thông qua năm 1946 ra đời dưới sự
cố vấn của Mỹ. Có 3 nguyên tắc cơ bản như sau:
+ Một là, chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân chứ khơng thuộc về Nhật
Hồng (như quy định trong Hiến pháp năm 1889).
+ Hai là, nguyên tắc chủ nghĩa hịa bình và hợp tác hịa bình với các nước
khác (Điều 9).
+ Ba là, nguyên tắc tôn trọng quyền con người cơ bản (Chương III) Chính
phủ và Tịa án tối cao giám sát việc thực hiện quyền này.
- Sửa đổi Hiến pháp ở Nhật Bản rất phức tạp, gồm 2 điều kiện:
+ Điều kiện cần: Đề xuất sửa đổi Hiến pháp phải được 2/3 tổng số Nghị sĩ mỗi
viện đồng ý.
+ Điều kiện đủ: Phải tiến hành trưng cầu ý kiến của nhân dân, phải được đa số
phiếu tán thành.
→Do đó, Hiến pháp năm 1946 từ khi ra đời chưa bị sửa đổi do thủ tục rất khó thực
hiện.

- Học thuyết tam quyền phân lập và kiềm chế đối trọng được áp dụng chịu
ảnh hưởng của Mỹ.
- Tam quyền phân lập: Lập pháp (Nghị viện), hành pháp (Chính phủ), tư pháp
(tòa án mà đứng đầu là tòa án tối cao).
- Kiềm chế đối trọng: Chính phủ – Tịa án – Nghị viện ở một mức độ nhất
định có sự can thiệp vào công việc của nhau.
Nghị viện đề cử Thủ tướng trong số các nghị sĩ của mình (Thượng viện và
Hạ viện đều có quyền đề cử ứng viên Thủ tướng).
Tịa án tối cao của Nhật Bản có quyền giám sát tối cao đối với các hoạt động
của Nghị viện và Chính phủ.
Điều ước quốc tế (ĐƯQT):
- Điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp mà không cần nội luật hóa.
- Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế với hiến pháp và các đạo luật khác: Về
nguyên tắc ĐƯQT có hiệu lực thấp hơn Hiến pháp (Hiến pháp là nơi tạo ra
cơ sở pháp lý để ĐƯQT có hiệu lực) và cao hơn các đạo luật.
.
Các văn bản pháp luật do Nghị viện và Chính phủ ban hành:


- Theo Hiến pháp năm 1946: Bộ Luật và luật là sản phẩm do Nghị viện ban
hành, Nhật hồng có vai trị trợ giúp chứ khơng ban hành luật như trước.
- Năm 1878 người Nhật đã xúc tiến soạn thảo bằng cách thành lập Ủy ban để
dịch Bộ luật dân sự của nước ngồi trong đó có Bộ luật dân sự Pháp (1804)
và cho ra đời Bộ luật dân sự đầu tiên 1890.
- Áp dụng máy móc nên Bộ luật dân sự đầu tiên 1890 của Nhật có nhiều
khiếm khuyết và hạn chế: Bộ luật dân sự soạn thảo chủ yếu phụ thuộc Pháp
mà bỏ qua kinh nghiệm của Đức và Anh. Phần quy định về gia đình và thừa
kế đã phá vỡ đạo đức truyền thống của người Nhật và xem nhẹ vai trò của
Nhà nước. Năm 1892 Bộ luật dân sự 1890 đã bị đình chỉ áp dụng.
- Chính phủ Nhật đã thành lập Ủy ban soạn thảo Bộ luật dân sự mới 1898 tiếp

thu kinh nghiệm của Đức (Đức ban hành Bộ luật dân sự năm 1896).
- Bên cạnh những quy định mới theo kinh nghiệm Đức thì cịn nhiều quy định
cũ và thêm cả những kinh nghiệm của Anh và đó là các học thuyết trong luật
tư.
b. Phán quyết của tòa án
- Hệ thống pháp luật Nhật Bản chủ yếu dựa trên luật pháp điển hóa tuy nhiên
điều đó khơng có nghĩa là phán quyết của tịa khơng quan trọng.
- Ngược lại, phán quyết của tịa, đặc biệt của tịa án tối cao được tơn trọng và
tuân theo như một nguồn luật chính yếu.
- Về mặt lý thuyết, thẩm phán Nhật Bản khơng có nghĩa vụ phải tn thủ tiền
lệ pháp và cũng khơng có điều khoản pháp luật cụ thể nào của Nhật Bản quy
định rằng các phán quyết trong quá khứ của tòa án là tiền lệ pháp, là nguồn
luật.
- Trên thực tế, phán quyết của tòa án tối cao thường được các tòa án cấp dưới
tôn trọng và tuân thủ như nguồn luật cơ bản (nguồn luật thực tế) và thuật
ngữ “tiền lệ pháp” thường được sử dụng khi nói về phán quyết của tịa án tối
cao.
- Mặc dù khơng chính thức thừa nhận học thuyết tiền lệ pháp nhưng Nhật Bản
có rất nhiều sách cơng bố các phán quyết của tịa án do cả Nhà nước và tư
nhân xuất bản Ví dụ tiêu biểu:
Các báo cáo về phán quyết của tòa do tòa án tối cao xuất bản từ năm
1947, thu thập các phán quyết của tòa án các cấp.
Các báo cáo chính thức khác về phán quyết của tịa được xuất bản từ
năm 1947 do bộ phận dịch vụ của tòa án xuất bản


c. Tập quán pháp luật
- Ở Nhật Bản, tập quán pháp được hiểu là những quy tắc xử sự được xã hội
tuân thủ mặc dù không được bất cứ cơ quan công quyền nào đặt ra. Tập
quán được coi là nguồn luật nếu: Tập quán đó liên quan tới những vấn đề

chưa được pháp luật quy định đồng thời không trái với trật tự công cộng
hoặc trái với quy phạm đạo đức. Không bị bãi bỏ bởi bất cứ quy định pháp
luật nào do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc được pháp
luật quy định cụ thể về việc áp dụng tập quán đó.
- Về nguyên tắc, tập quán chỉ là nguồn luật phụ trợ và thẩm phán chỉ áp dụng
tập qn pháp khi khơng có quy định trong luật thành văn. Tuy nhiên việc
áp dụng tập quán pháp cũng có những ngoại lệ: Có những trường hợp tập
quán có giá trị cao hơn luật (dân tộc thiểu số, vùng sâu...). Trong một số
trường hợp, trên thực tế, thẩm phán cịn có thể tham khảo những tập quán
không phù hợp với luật thực định nhằm đạt tới giải pháp thỏa đáng nhất.
d. Nguyên tắc chung của pháp luật
- Trong tất cả các vụ việc trừ những vụ việc hình sự, thẩm phán quyết định
theo nguyên tắc chung của pháp luật khi khơng có nguồn luật nào khác có
thể áp dụng.
- Tuy nhiên, hiếm khi các thẩm phán chỉ dựa vào nguyên tắc chung của pháp
luật vì ngày nay các vụ việc được đưa ra tòa thường là những vụ việc đã
được pháp luật quy định hoặc đã có tiền lệ xét xử của tịa án cấp trên.
e. Ý kiến pháp lý của các học giả
- Ở mức độ nhất định, ý kiến pháp lý của các học giả nổi tiếng cũng là một
nguồn luật trong pháp luật Nhật Bản.
- Giới thẩm phán ở Nhật Bản thừa nhận lý luận khoa học pháp lý có vai trị
quan trọng trong việc phát triển các quy phạm pháp luật, vì vậy họ thường
bám sát quan điểm của các giáo sư luật hơn là các quan chức chính phủ và
họ tự hào vì họ là những nhà lý luận khoa học pháp lý chứ không phải chỉ
thuần túy là những người hành nghề luật.

Đào tạo luật và hành nghề luật


3. Đào tạo luật:

- Tuyển sinh đầu vào thông qua thi tuyển.
- Chương trình đào tạo gồm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: 2 năm đầu học các môn đại cương (có thể học tại trường luật
hoặc các trường khác)
Giai đoạn 2: 2 năm cuối học các môn chuyên ngành pháp lý.
- Kết thúc 2 giai đoạn này sẽ thi để được cấp bằng cử nhân luật.
- Sau khi có bằng, các cử nhân luật có thể học tiếp sau đại học theo các giai
đoạn:
2 năm đầu ở trình độ thạc sĩ luật (kết thúc bằng bảo vệ luận văn thạc sĩ)
3 năm tiếp theo ở trình độ tiến sĩ luật (kết thúc bằng bảo vệ luận án tiến sĩ)
- Phương pháp đào tạo là phương pháp thuyết giảng theo truyền thống các
trường đào tạo luật của dòng họ Civil law.
4. Hành nghề luật:
- Nhật Bản là nước áp dụng chế độ tam quyền phân lập, bao gồm quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quyền tư pháp ở Nhật Bản thuộc
về Tịa án tối cao và các tồ án địa phương. Ngồi ra, có hai tổ chức quan
trọng khác cũng có quyền tư pháp và viện kiểm sát và hội luật sư.
Do đó, các chức năng tư pháp ở Nhật Bản là thẩm phán, công tố viên và
luật sư.
- Để trở thành người có chức năng tư pháp ở Nhật Bản cần phải qua khóa đào
tạo tại Học viện tư pháp Nhật Bản. Kỳ thi tư pháp quốc gia được tổ chức
mỗi năm một lần, do Ủy ban quản lý kỳ thi tư pháp của Bộ Tư pháp thực
hiện.
- Thời gian đào tạo nghiệp vụ tư pháp kéo dài 24 tháng tại Viện nghiên cứu do
Tòa án tối cao Nhật Bản tổ chức:
4 tháng đầu và 4 tháng cuối học viên học tại Viện.
16 tháng giữa khóa, tất cả học viên sẽ đi thực tập: 8 tháng ở Tịa, 4 tháng ở
Viện cơng tố và 4 tháng ở văn phòng luật sư.
- Việc lựa chọn hành nghề nào sẽ được quyết định ở thời gian 4 tháng cuối
khóa và học viên sẽ phải tốt nghiệp để được cấp chứng chỉ hành nghề.

TỔNG KẾT
⇒Tổng kết lại, hệ thống pháp luật Nhật Bản từ khi thành lập cho đến nay đã chịu
sự ảnh hưởng bởi hai hệ thống pháp luật lớn nhất trên thế giới là hệ thống Civil


law và Common law. Sự ảnh hưởng đó vừa có yếu tố khách quan, nhưng phần lớn
là sự tiếp nhận một cách chủ động do nhu cầu tự thân và sự hấp dẫn bởi những giá
trị tiến bộ. Nhật Bản đã cẩn trọng, khôn khéo và nỗ lực trong việc tiếp nhận và
“Nhật hóa” những giá trị tiên tiến nhất về pháp luật ở khắp nơi trên thế giới để
chuyển hóa thành những thành những chuẩn mực của mình. Thành quả là Nhật
Bản đã xây dựng được hệ thống pháp luật tồn diện, tiến bộ, phù hợp, có vị trí trên
bản đồ pháp luật thế giới.



×