Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

LUẬN VĂN: Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam tăng trưởng bền vững và đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (694.82 KB, 47 trang )














LUẬN VĂN:

Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cà phê
Việt Nam tăng trưởng bền vững và đạt
hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế




























Lời nói đầu


Ngày nay, khi mà nền kinh tế của hầu hết các nước trên thế giới đang trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế có lẽ vấn đề nóng hổi nhất trên mọi phương tiện thông tin
đại chúng đó là chứng khoán. Bao giờ cũng vậy người ta luôn dồn mọi sự quan tâm
đến những cái mới mà ít ai để ý thấy rằng những thông tin về thị trường xuất nhập
khẩu mới là bản tin thường trực nhất trên các phương tiện thông tin ấy. Điều đó phần
nào cho thấy được tầm quan trọng vô cùng của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền
kinh tế của một quốc gia, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu. Song hành với sự ra đời và
lớn mạnh của những nền kinh tế theo cơ chế thị trường là từng ấy năm phát triển của
hoạt động ngoại thương mà chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của các
quốc gia. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động không thể thiếu được của một quốc gia, nó
góp một phần quan trọng trong GDP của một nước. Ở Việt Nam, hoạt động xuất khẩu
các sản phẩm nông sản đã đem lại nguồn thu nhập rất lớn phục vụ cho việc xây dựng

và phát triển đất nước. Trong đó không thể không nhắc tới những sản phẩm nổi tiếng
đã đem lại vị thế cho Việt Nam trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản như gạo, cà
phê, tiêu, điều đặc biệt là sản phẩm cà phê, là hàng nông sản xuất khẩu có giá trị
nhất của Việt Nam. Chúng ta đều nhận thấy những đóng góp to lớn mà ngành cà phê
đã mang lại cho đất nước thông qua họat động xuất khẩu, nhưng trong một vài niên vụ
gần đây, sản phẩm cà phê xuất khẩu của Việt Nam đã bị những đánh giá không tốt từ
phía các đối tác nước ngoài, đây là một tín hiệu cho thấy Việt Nam cần có sự quan tâm
hơn nữa đối với ngành này. Cùng với những đánh giá từ bên ngoài đó thì bản thân
chúng ta cũng nhận thấy những mặt hạn chế của mình trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế. Có một điều mà có lẽ nhiều người vẫn lầm tưởng khi cho rằng tăng trưởng
kinh tế luôn tỷ lệ thuận với tăng trưởng xuất khẩu, song thực tế ở Việt Nam đã cho thấy
hiện nay sự đóng góp của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế là chưa tương xứng.
Toàn bộ bức tranh về xuất khẩu của Việt Nam nói chung và với riêng ngành cà phê nói
riêng đã chưa thể hiện được hiệu quả hoạt động của mình một cách tương xứng với




tiềm năng của mình. Hơn nữa, mặc dù Việt Nam được đánh giá cao là đứng thứ hai
trên thế giới về hoạt động xuất khẩu sản phẩm cà phê nhưng vị thế này của Việt Nam
hiện nay không phải đã là một vị thế vững vàng vì khoảng cách của ta với Braxin
(nước đứng đầu) thì còn quá xa mà với các nước còn lại thì cũng không phải là một
khoảng cách an toàn. Từ hai luận điểm trên kết hợp với hoàn cảnh đất nước hội nhập
kinh tế quốc tế như hiện nay, ngày càng có nhiều khó khăn, ngày càng có nhiều sự
cạnh tranh khốc liệt thì việc tăng cường sức mạnh của ngành cà phê Việt Nam là một
việc làm hết sức cần thiết và cần nhanh chóng thực hiện thực hiện. Chính vì vậy mà em
đã chọn đề tài: “Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam tăng trưởng bền
vững và đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” để nghiên cứu.
Đề án nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu sản phẩm cà phê của Việt Nam mà cụ
thể là chỉ ra những mặt mạnh và mặt yếu của hoạt động này, cùng với việc xem xét

những khó khăn mà ngành có thể gặp phải trong điều kiện hội nhập để đưa ra những
giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy xuất khẩu diễn ra hiệu quả hơn. Kết cấu của đề án
bao gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu hàng hóa.
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam những năm gần đây.
Chương III: Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cà phê tăng trưởng bền vững và
đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.














Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA
1.1. Khái niệm xuất khẩu hàng hóa và vai trò của xuất khẩu hàng hóa trong nền
kinh tế thị trường.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu hàng hóa
1.1.1.1. Khái niệm
Trước tiên để hiểu về hoạt động xuất khẩu hàng hóa chúng ta cần hiểu thế nào là
“thương mại quốc tế” bởi xuất khẩu hàng hóa là một phần quan trọng trong hoạt động
thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các chủ thể kinh

tế có quốc tịch khác nhau (trong đó đối tượng trao đổi thường vượt ra ngoài phạm vi
điạ lý của một quốc gia) thông qua họat động mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới. Hoạt
động thương mại quốc tế ra đời sớm nhất trong các quan hệ kinh tế quốc tế và ngày
nay nó vẫn giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
Thương mại quốc tế bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Trên giác độ của một
quốc gia đó chính là hoạt động ngoại thương. Nội dung của thương mại quốc tế bao
gồm:
 Xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa hữu hình: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị,
lương thực thực phẩm, các loại hàng tiêu dùng Đây là bộ phận chủ yếu và giữ vai trò
quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
 Xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa vô hình (các bí quyết công nghệ, bằng sáng
chế phát minh, phần mềm máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các dịch vụ lắp ráp thiết
bị máy móc, dịch vụ du lịch và nhiều loại hình dịch vụ khác ) Đây là bộ phận có tỷ
trọng ngày gia tăng phù hợp với sự bùng nổ của cách mạng khoa học – công nghệ và
việc phát triển các ngành dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân.
 Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công: Đây là họat động
cần thiết trong điều kiện phát triển của phân công lao động quốc tế do sự khác bịêt về
điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia. Khi một nền kinh tế của một quốc gia ngày
càng phát triển thì sự chuyển hướng sẽ thay đổi từ việc gia công thuê cho nước ngoài
thành thuê nước ngoài gia công cho mình nhiều hơn.




 Tái xuất khẩu và chuyển khẩu: Tái xuất khẩu là hoạt động một quốc gia nhập
khẩu tạm thời hàng hóa từ bên ngoài vào, sau đó tiến hành xuất khẩu sang nước thứ ba.
Còn chuyển khẩu thì không có hàng vi mua mà ở đây chỉ thực hiện các dịch vụ như
vận tải quá cảnh, lưu kho lưu bãi, bảo quản
 Xuất khẩu tại chỗ: Hàng hóa có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng
nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hóa

và dịch vụ cho du khách nước ngoài đang trong nước mình
Như vậy rõ ràng ta thấy sự đóng góp của họat động xuất khẩu hàng hóa trong
thương mại quốc tế là rất lớn, có thể nói đây là hoạt động chủ đạo của thương mại quốc
tế. Hoạt động xuất khẩu là họat động bán hàng hóa, dịch vụ của một quốc gia này cho
một hay nhiều quốc gia khác trên thế giới nhằm thu về ngoại tệ.
Về hình thức ta có thể thấy hoạt động xuất khẩu và hoạt động buôn bán trong
nước đều là hoạt động trao đổi hàng hóa (bán hàng). Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu có
phạm vi rộng hơn rất nhiều và hơn nữa nó làm tăng thu nhập quốc dân. Vì vậy có thể
nói, một quốc gia muốn giàu có thì cần phải tích cực đẩy mạnh họat động xuất khẩu
hàng hóa và dịch vụ nói riêng và đẩy mạnh các quan hệ quốc tế nói chung.
1.1.1.2. Đặc điểm của họat động xuất khẩu hàng hóa.
Dựa vào khái niệm của hoạt động xuất khẩu, ta có thể rút ra những đặc điểm của
họat động này như sau:
Thứ nhất, về người tiêu dùng, khách hàng trong họat động xuất khẩu là các cá
nhân, tổ chức, hay các quốc gia nước ngoài. Do đó quốc gia xuất khẩu muốn hoạt động
này được đẩy mạnh và thuận lợi thì cần phải tìm hiểu sâu về thị trường mà mình hướng
tới, về nhu cầu, thị hiếu, về những rào cản mà thị trường đó đặt ra. Cần phải có những
mặt hàng phù hợp để có thể giữ được mối quan hệ lâu dài.
Thứ hai, thị trường trong trong xuất khẩu rộng lớn và phức tạp hơn nhiều, nó
chứa đựng nhiều rủi ro. Vì vậy trước khi lựa chọn một thị trường để xuất khẩu hàng
hóa cần phải có tính chiến lược, phải xét đến tính kinh tế khi trong hoạt động xuất khẩu
này, bởi không phải cứ xuất khẩu là luôn mang lại lợi nhuận cho người xuất, và thực tế
trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam cũng đã có những bài học về vấn đề này.




Thứ ba, hình thức mua bán trong hoạt động xuất nhập khẩu thường là mua bán
qua hợp đồng xuất khẩu với khối lượng mua lớn mới có hiệu quả.
Thứ tư, các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động này đều phức tạp và chứa đựng

nhiều rủi ro cho cả bên mua và bên bán như: thanh toán, vận chuyển, ký kết hợp
đồng Do đó cần phải có trình độ về nghiệp vụ và sự chính xác trong các bước thực
hiện hoạt động này.
Tóm lại, hoạt động xuất khẩu là một hoạt động mang lại nhiều lợi ích cho bên
xuất khẩu nói riêng và cả toàn thế giới nói chung nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro.
Để họat động này được đẩy mạnh thì cấn có sự hợp tác của tất cả các bên.
1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường.
Trong thời đại mà hầu như tất cả nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới đều
vận hành theo cơ chế thị trường thị hoạt động xuất khẩu càng đóng một vai trò quan
trọng và không thể thiếu được đối với nền kinh tế của mỗi nước. Hoạt động xuất khẩu
của mỗi quốc gia được thực hiện bởi các đơn vị của quốc gia đó mà chủ yếu là các
doanh nghiệp ngoại thương. Chính vì vậy mà họat động này không những đem lại lợi
ích kinh tế cho cả nền kinh tế quốc dân mà còn đem lại lợi ích trực tiếp cho các doanh
nghiệp xuất khẩu đó.
Nói về vai trò của họat động xuất khẩu chúng ta xem xét trên 2 góc độ: đối với
toàn bộ nền kinh tế và với bản thân các doanh nghiệp.
1.1.2.1. Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Như đã trình bày ở trên, chúng ta đều thấy xuất khẩu là một phần tất yếu trong
các họat động của một nền kinh tế thị trường. Vì vậy đối với nền kinh tế quốc dân thì
xuất khẩu đóng một vai trò rất quan trọng:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hóa-
hiện đại hóa đất nước.
Các quốc gia dù là phát triển hay kém phát triển thì đều có nhu cầu nhập khẩu
những hàng hóa và dịch vụ mà quốc gia mình không có. Để nhập khẩu thì tất yếu phải
cần đến tiền, đặc biệt là ngoại tệ, song mỗi quốc gia không thể tự ý in tiền ra để nhập
khẩu được mà cần phải có họat động xuất khẩu để thu ngoại tệ từ ngoài vào. Vì thế mà





hoạt động xuất khẩu có vai trò tạo nguồn vốn cho nhập khẩu. Hơn nữa với các quốc gia
có khả năng xuất khẩu mạnh thì nguồn ngoại tệ thu được vào này còn là vốn để đầu tư
phục vụ cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển. Để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, các quốc gia buộc phải thay đổi cơ cấu
ngành và các doanh nghiệp cần phải có các biện pháp để tăng cường năng suất trong
họat động sản xuất hàng hóa xuất khẩu của mình, vì thế làm cho nền kinh tế ngày càng
phát triển mạnh mẽ hơn, hoạt động sản xuất chuyên môn hơn. Xu hướng chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế của các quốc gia hiện nay đã, đang và sẽ chuyển từ sản xuất nông
nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt ngành công nghiệp thì ngày càng
hướng tới sản xuất hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao.
Khi nhìn nhận một cách đúng đắn, coi thị trường là mục tiêu sản xuất và xuất khẩu sẽ
tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Phân
tích kỹ về tác động của quan điểm này ta thấy như sau:
 Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển, vì khi coi thị
trường là mục tiêu tức là cần mở rộng thị trường càng lớn càng tốt, khi đó tất cả các
ngành sẽ có cơ hội phát triển như nhau.
 Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản
xuất, tạo lợi thế nhờ qui mô.
 Xuất khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt động xuất khẩu
cho phép mỗi quốc gia có thể tiêu dùng hàng hóa nhiều hơn khả năng sản xuất của
quốc gia đó.
 Xuất khẩu giúp tạo vốn và thu hút khoa học công nghệ từ các nước phát triển
nhằm hiện đại hóa nền kinh tế trong nước.
 Xuất khẩu còn thúc đẩy việc chuyên môn hóa trong họat động sản xuất để tăng
năng suất lao động. Trong một quốc gia mỗi cơ sở không nhất thiết phải sản xuất hoàn
thiện một sản phẩm mà có thể chỉ chuyên sản xuất một phần nào đó của sản phẩm,
song hiệu quả công việc của toàn quốc gia vẫn cao hơn. Tương tự như vậy mỗi quốc
gia không nhất thiết phải sản xuất một sản phẩm hoàn thiện mà xu hướng trên thế giới





hiện nay là người ta tiến hành xuất khẩu linh kiện từ quốc gia này sang quốc gia khác
để lắp ráp một sản phẩm hoàn thiện. Cách làm này giúp mỗi quốc gia phát huy được tối
đa khả năng sản xuất của mình, đồng thời tránh lãng phí tài nguyên mà vẫn đem lại lợi
ích chung cho toàn xã hội cao hơn phương thức sản xuất truyền thống.
Thứ ba, xuất khẩu giúp giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Tác động này thể hiện rõ nhất ở các quốc gia có nền kinh tế đang và còn kém phát
triển. Do điều kiện khoa học công nghệ còn chưa cao, để tăng năng suất trong sản xuất
phục vụ cho xuất khẩu các doanh nghiệp đều phải cần tuyển rất nhiều lao động. Vì vậy
họat động này đã góp phần giải quyết một phần rất lớn công ăn việc làm cho người
dân, đồng thời còn tạo thu nhập tương đối ổn định. Mặt khác xuất khẩu đem lại ngoại
tệ để phục vụ cho nhập khẩu cho nên chủng loại hàng hóa cũng ngày càng tăng đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú và đa dạng của người dân trong nước.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối
ngoại. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế
đối ngoại. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các hoạt động ngoại thương khác có cơ hội
phát triển như tín dụng quốc tế, bảo hiểm quốc tế, du lịch quốc tế Ngược lại, sự phát
triển của các hoạt động này là nền tảng đảm bảo cho họat động xuất khẩu được diễn ra
ngày càng thuận lợi và nhanh gọn hơn.
1.1.2.2. Đối với doanh nghiệp.
Trực tiếp thực hiện họat động xuất khẩu, vì thế nên xuất khẩu có vai trò to lớn
đối với các doanh nghiệp ngoại thương.
Trước hết, xuất khẩu đem lại lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp này để lại
tiếp tục duy trì họat động của mình.
Thứ hai, nhờ xuất khẩu các doanh nghiệp có điều kiện tham gia vào các cuộc
cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng, chủng loại sản phẩm. Điều này
buộc các doanh nghiệp phải có chiến lược sản xuất và cơ cấu sản phẩm phù hợp với thị
trường và phải hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh của mình.





Thứ ba, quá trình sản xuất hàng hóa xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được
nhiều lao động giá rẻ, vừa tăng được qui mô sản xuất lại vừa giúp người lao động có
thu nhập.
Thứ tư, xuất khẩu lao đông khuyến khích phát triển mạng lưới kinh doanh của
doanh nghiệp, chẳng hạn như họat động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các hoạt động
sản xuất, marketing, phân phối và mở rộng kinh doanh, giúp các doanh nghiệp mở rộng
được thị trường và các mối quan hệ kinh doanh với các bạn hàng trong và ngoài nước
trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
Như vậy ta thấy hoạt động xuất khẩu rõ ràng đóng một vai trò quan trọng và tác
động tích cực đến sự tồn tại và phát triển của một quốc gia.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu.
1.2.1. Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái tác động tới nhiều mặt khác nhau của nền kinh tế, qua trọng nhất
là hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, tín dụng quốc tế.
Tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp tới hoạt động ngoại thương thông qua kênh
giá cả. Thông qua tỷ giá hối đoái ta có thể tính giá xuất nhập khẩu của một loại hàng
hóa của một nước theo tiền tệ của một nước khác. Do vậy tỷ giá thay đổi kéo theo sự
thay đổi của giá cả hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Chẳng hạn khi tỷ giá hối đoái tăng,
đồng nội tệ mất giá thì sẽ có lợi cho xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của quốc gia đó.
Chính vì vậy một số nước để làm tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu đã dùng cách
phá giá đồng tiền. Song đây không phải là một cách làm có thể thực hiện trong dài hạn
và không nên lạm dụng bởi nó có thể ảnh hưởng xấu đến các quan hệ kinh tế khác nữa.
1.2.2. Chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước
Chính sách thuế
Chính sách thuế của nhà nước tác động tới cả cung và cầu hàng hóa thông qua
tác động vào giá và các yếu tố đầu vào như thuế nhập khẩu phân bón, thuế nông

nghiệp, thuế nhập khẩu giống và các khoản chi phí khác như phí thủy lợi Các
khoản phí và thuế này tăng làm tăng giá thành và làm giảm cung cà phê. Ngược lại




việc giảm các loại thuế này có tác động kích thích làm tăng cung về mặt hàng cà phê,
qua đó các chính sách này tác động tới cung cà phê cho thị trường xuất khẩu.

Chính sách tín dụng.
Các hợp đồng kinh doanh xuất khẩu thường có giá trị lớn và chịu các chi phí lớn
khác như: chi phí vận chuyển, chi phí kiểm định, chi phí thuê kho ngoại quan, thuế
nhập khẩu, chi phí cho thanh toán Do vậy các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt
động xuất khẩu thường cần một lượng vốn lớn. Trên thực tế hầu hết các doanh nghiệp
xuất khẩu đặc biệt là các nước đang phát triển thường gặp khó khăn về mặt tài chính.
Vì vậy các chính sách ưu đãi tín dụng sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động
tốt hơn, mở rộng thị trường xuất khẩu và làm tăng khả năng tiêu thụ hàng hóa.
Chính sách đầu tư.
Đầu tư cho cơ sở hạ tầng, đầu tư công nghệ chế biến sẽ có tác dụng phát huy
tối đa hiệu quả kinh tế trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông sản. Để có hiệu
quả kinh tế cao thì nên xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, tức đã
qua chế biến.
Ngoài ra còn có các khoản đầu tư cho hoạt động xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị
trường, hỗ trợ các doanh nghịêp tham gia vào hội chợ, triển lãm quốc tế , nhăm thúc
đẩy các hoạt động xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Các yếu tố chính trị.
Mỗi sự kiện chính trị đều có ảnh hưởng tới các hoạt động kinh tế. Sự thay đổi về
chính trị làm thay đổi chính sách kinh tế, chính vì vậy làm tăng mức độ rủi ro cho các
doanh nghiệp. Hơn nữa các đối tác thường quan tâm hơn tới các quốc gia có chính trị
ổn định, điều này tạo cho họ sự tin cậy và có nhưng hợp đồng lâu dài không chỉ trong

xuất nhập khẩu mà còn nhiều hoạt động kinh tế quốc tế khác nữa.
Yếu tố văn hóa – xã hội.
Các yếu tố văn hóa – xã hội như là: tín ngưỡng tôn giáo, thị hiếu tiêu dùng, tục
lệ có ảnh hưởng khá lớn tới các hoạt động kinh tế quốc tế nói chung và hoạt động
xuất nhập khẩu nói riêng. Khi xuất khẩu hàng hóa sang bất lý nước nào đều cần tìm




hiểu rõ về vẫn đề này để có những thiết kế hay chất cung cấp những mặt hàng có chất
lượng phù hợp. Ví dụ người dân châu Âu rất khắt khe về nhãn mác của hàng hóa, họ
không bận tâm nhiều đến vấn đề giá cả mà là độ an toàn của hàng hóa sử dụng, hay
người Mỹ thì dễ tính hơn nhưng những rào cản phi thuế quan của Mỹ lại là vấn đề khá
khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt Nam hay tập quán thương mại ở Nam Phi các
doanh nghiệp thường có thói quen nhìn thấy hàng mới ngã giá, số lượng mua mỗi lần
thường từ 500 đến 1000 tấn và thanh toán bằng đồng nội tệ Đặc biệt yếu tố này tác
động rất lớn đến quá trình đàm phán quốc tế.
Hệ thống pháp luật.
Hành lang pháp lý của một quốc gia càng thông thoáng, minh bạch và cụ thể,
phù hợp với thông lệ quốc tế thì càng tạo điều kiện thuận lợi và giảm thiểu chi phí
trung gian trong xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Hiện nay việc gia nhập tổ chức
thương mại thế giới (WTO) khiến các quốc gia phải từng bước thay đổi hệ thống pháp
luật trong kinh tế của mình sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế đã làm cho thương
mại quốc tế ngày càng thuận lợi hơn.
Phương thức giao thông vận tải, thông tin liên lạc.
Giao thông vận tải và thông tin liên lạc là một phần không thể thiếu trong xuất
nhập khẩu, nó ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí cho hoạt động này và sự đảm bảo chất
lượng cho hàng hóa. Giao thông vận tải đa dạng, nhanh, giá rẻ là yếu tố cần thiết nhằm
nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Hệ thống thông tin càng phát triển,
hoàn thiện và chính xác thì càng tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp mở rộng thị

trường.
Hệ thống tài chính, ngân hàng.
Yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh ngoại thương. Mọi thanh
toán trong kinh doanh quốc tế đều thông qua hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy hệ
thống tài chính và ngân hàng càng phát triển thì càng giúp giảm thiểu rủi ro trong việc
thanh toán của các doanh nghiệp kinh doanh ngoại thương, đồng thời giúp các doanh
nghiệp nhanh chóng nắm bắt được cơ hội kinh doanh.




Ngoài ra còn rất nhiều nhân tố khác nữa ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập
khẩu của một quốc gia. Song trên đây là những nhân tố có ảnh hưởng nhiều nhất tới
hoạt động này, một quốc gia muốn thúc đẩy họat động xuất nhập khẩu bền vững và
hiệu quả đều phải quan tâm đến tất cả những nhân tố trên.
1.3. Sự cần thiết của việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa bền vững và đạt hiệu quả
cao trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Với toàn bộ phần trình bày ở trên chúng ta đã hiểu thế nào là hoạt động xuất
khẩu hàng hóa và tầm quan trọng của nó đối với sự tăng trưởng kinh tế của một quốc
gia. Đặc biệt với một nền kinh tế mở cửa thì họat động này là một phần tất yếu không
thể thiếu được. Xuất khẩu mạnh không chỉ đem lại nguồn tiền lớn cho quốc gia xuất
khẩu mà nó còn khẳng định vị thế kinh tế của quốc gia đó trên toàn thế giới và khu
vực. Chính vì vậy mà mỗi quốc gia đều cần có nhưng giải pháp và chiến lược để thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hóa của mình.
Song ở đây chúng ta nói đến việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa “tăng trưởng bền
vững và đạt hiệu quả cao” trong điều kiện hội nhập. Vậy tại sao lại phải “thúc đẩy xuất
khẩu bền vững và đạt hiệu quả cao”? Trong điều kiện hội nhập, các quốc gia khi tham
gia vào tổ chức WTO đều được hưởng những lợi ích như nhau, không phân biệt nước
lớn nước nhỏ, nước giàu nước nghèo. Tuy nhiên cái gì cũng có hai mặt của nó, cùng
với những cơ hội mới đang mở rộng trước mắt còn có rất nhiều thách thức mới đặt ra

đối với mỗi nước, nhất là những nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Sự
công bằng bao giờ cũng đi kèm với cạnh tranh cao, chính vì vậy nếu một nền kinh tế
tăng trưởng nhanh nhưng không bền vững rất dễ bị đánh bật ra khỏi cuộc chơi này.
Trong hoạt động xuất nhập khẩu cũng vậy, nếu một quốc gia có sản lượng xuất khẩu
lớn nhưng không ổn định thì có thể sẽ tụt thứ hạng và mất thị trường. Đó là nguyên do
vì sao cần thúc đẩy xuất khẩu bền vững trong điều kiện hội nhập WTO.
Thứ hai, tại sao lại là đạt hiệu quả cao? Điều này được lý giải như sau: Dường
như đang phổ biến quan điểm cho rằng tăng trưởng kinh tế tỷ lệ thuận với tăng trưởng
xuất khẩu. Tuy nhiên thực trạng xuất khẩu nước ta vẫn chưa đóng góp thật sự và có
chất lượng vào tăng trưởng kinh tế bền vững. Có hai lý do đó là:




- Thứ nhất, cơ cấu xuất khẩu nước ta vẫn chủ yếu dựa vào khoáng sản, hàng nông
nghiệp chưa chế biến và hàng công nghiệp chế biến có giá trị gia tăng thấp mặc dù có
một số chế biến nhưng không đáng kể.
- Thứ hai, mối liên hệ ngược trở lại giữa khu vực xuất khẩu với phần còn lại của nền
kinh tế nước ta còn rất yếu.
Do đó để tăng trưởng kinh tế bền vững thì phải tăng cường sự đóng góp thực sự
của xuất khẩu vào tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.
Từ hai luận điểm trên áp dụng vào hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt
Nam. Như chúng ta đều biết, cà phê Việt Nam xuất khẩu hiện đang đứng hàng thứ 2
trên thế giới chỉ sau Braxin, sản phẩm cà phê của Việt Nam cũng được đánh giá cao về
hương vị. Nhưng trong thời gian gần đây (niện vụ 2005 – 2006) cà phê Việt Nam xuất
khẩu đã bị chê là sản lượng và năng suất cao nhưng chất lượng kém xa chuẩn quốc tế,
một khối lượng lớn hàng đã bị trả lại sau khi đến cảng nước ngoài. Hơn nữa, mặc dù
đứng thứ 2 về xuất khẩu nhưng khoảng cách của nước ta với Braxin là rất lớn, trong
khi đó lại không cách xa các nước còn lại là mấy. Như vậy ta có thể thấy ngành xuất
khẩu cà phê của Việt Nam hiện nay còn khá nhiều yếu kém. Hơn nữa trong điều kiện

hội nhập, hoàn cảnh bên ngoài tác động rất nhiều, nếu không có nhưng điều chỉnh phù
hợp thì rất dễ bị bỏ xa và tụt hậu.
Từ tất cả những lý do trên ta rút ra kết luận cần phải có những giải pháp thúc
đẩy xuất khẩu hàng hóa nói chung và riêng mặt hàng cà phê nói riêng một cách bền
vững và đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập là yêu cầu hết sức cần thiết.



























Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT
NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY.
2.1. Tổng quan chung về ngành cà phê của Việt Nam.
2.1.1. Sự ra đời và phát triển của ngành cà phê Việt Nam.
Trước khi tìm hiểu sự lớn mạnh của hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam
lớn mạnh như thế nào, và có vị thế như thế nào trên thế giới chúng ta điểm qua về sự
xuất hiện của ngành này ở Việt Nam.
Năm 1870 là thời điểm cây cà phê đầu tiên được vào Việt Nam, tuy vậy mãi tới
những năm đầu thế kỷ 20, người Pháp mới gieo trồng phát triển giống cây có trái chín
đỏ này mà nhân của nó chế biến thành thức uống đặc biệt.
Từ đó mới có những đồn điền cà phê thu dụng nhiều nhân công nghèo ở vùng
cao nguyên trung phần. Theo ghi nhận từ các tài liệu chính thức, năm 1930 ở Việt Nam
có khoảng 6.000 ha cà phê.
Sau khi đất nước chia cắt năm 1945, miền bắc thất bại trong việc canh tác cà cây
cà phê, vào năm 1966 các công trường phải chặt bỏ toàn bộ. Từ đó đến năm 1975 ở




miền Bắc không có cây cà phê trong qui hoạch nông nghiệp. Còn ở miền Nam Việt
Nam, từ không đầy 20.000 ha cà phê mà đến năm 2000 cả nước có hơn nửa triệu ha cà
phê. Tức là tăng diện tích lên 26 lần, sản lượng năm đó là 900 ngàn tấn. Do qui hoạch
mà không thể kiểm soát, Việt Nam đã xuất khẩu quá nhiều cà phê làm cán cân cung
cầu trên thị trường bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Sau thời kỳ khủng hoảng năm 2001, giá
cà phê thế giới có nhích lên nhưng chưa bao giờ trở lại thời kỳ vàng son. Theo thống kê
chính thức trọn năm 2004 Việt Nam xuất khẩu tổng cộng 890 ngàn tấn cà phê nhân
sống, trị giá khoảng 580 triệu đô la Mỹ. Cà phê xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là cà
phê Robusta (hay còn gọi là cà phê vối) chiếm khoảng 90% tổng lượng cà phê xuất
khẩu.



Cà phê Việt Nam được trồng nhiều ở các tỉnh sau:
Tỉnh Diện tích (ha) Sản lượng (tấn)
Lâm Đồng 117.918 200.000
Gia Lai 79.126 100.000
Đồng Nai 28.875 25.000
Kon Tum 12.984 15.000
Bình Phước 13.693 15.000
ĐăkLăk 237.262 360.000
(theo số liệu thống kê năm 2005)
Diễn biến diện tích và sản lượng cà phê Việt Nam những niên vụ vừa qua:
Niên vụ Diện tích (ha) Sản lượng (tấn)
1992 – 1993 140.000 140.400
1993 -1994 150.000 181.200




1994 – 1995 215.000 211.920
1995 –1996 295.000 236.280
1996 – 1997 350.000 342.300
1997 –1998 410.000 413.580
1998 –1999 460.000 404.206
1999 – 2000 520.000 700.000
2000 – 2001 500.000 900.000
2001 – 2002 480.000 700.000
2002 - 2003 450.000 680.000
2003 – 2004 948.000
2004 - 2005 831.000

2005 - 2006 887.000

Hiện tại nước ta có gần 500.000 ha cà phê, trồng tập trung chủ yếu ở các tỉnh
Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Niên vụ cà phê 2006 – 2007 của Việt Nam dự báo sản
lượng có khả năng đạt 900.000 tấn. Trong năm qua, trước tình hình giá cà phê được cải
thiện và đang ở mức cao (hiện đang dao động trong khoảng 21.000 – 22.000 đồng/kg),
sau khi từ mọi khoản chi phí thì người trồng cà phê vẫn còn lãi gần 1.000 đồng/kg. Đây
chính là động lực để người dân tiếp tục phát triển diện tích cà phê ngoài quy hoạch.
Theo viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên thì trong niên vụ vừa qua, tính chung
trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên thì diện tích cà phê đã tăng thêm khoảng 20.000 ha.
Nhìn chung hoạt động sản xuất cà phê của Việt Nam hiện đang phát triển theo chiều
hướng khả quan.
2.1.2. Những thành tựu của hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam.




Nhìn từ góc độ quốc gia, kể từ khi ra đời cho đến nay, hoạt động xuất khẩu cà
phê của Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Xuất khẩu
cà phê không chỉ đem lại nguồn thu lớn vào thu nhập của quốc gia mà còn góp phần
nâng cao vị thế của Việt Nam trong hoạt động xuất khẩu các sản phẩm nông sản. Về
sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam chỉ đứng sau lúa gạo và là mặt hàng nông
sản xuất khẩu có giá trị nhất. Hàng năm kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này chiếm
khoảng 20 – 25% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nông sản của cả nước.
Xét trên phạm vi toàn thế giới, Việt Nam được biết đến là quốc gia có lượng
cà phê xuất khẩu lớn thứ 2; có diện tích và sản lượng cà phê Robusta (cà phê vối) xuất
khẩu lớn nhất thế giới, với gần 500.000 ha và sản lượng hàng năm từ 750.000 đến
800.000 tấn Tuy nhiên phần lớn lượng cà phê Việt Nam được xuất khẩu dưới dạng
thô, giá trị không cao. Trong khi giá cà phê thế giới liên tiếp tăng thì trong nước không
còn cà phê để bán.

Vế sản lượng và kim ngạch xuất khẩu :
Hiện nay mỗi năm Việt Nam xuất khẩu 800.000 – 900.000 tấn cà phê nhân, với
1% tạp chất, lượng cà phê bị thải ra vào khoảng 8.000 – 9.000 tấn. Cùng với sự tăng
lên của sản lượng thì số lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng lên
không ngừng, cách đây 10 năm (vụ 1992 – 1993) Việt Nam xuất khẩu 116.000 tấn đến
niên vụ 2002 – 2003 Việt Nam đã xuất khẩu 691.421 tấn, niên vụ xuất khẩu cao nhất là
niên vụ 2000 – 2001 là 847.670 tấn. Tính đến nay Việt Nam vẫn là nước xuất khẩu cà
phê lớn thứ 2 thế giới sau Braxin. Mặt hàng cà phê Việt Nam được đánh giá là một
trong 20 mặt hàng cạnh tranh của Việt Nam.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 10 niên vụ (1992 – 1993 đến 2002 – 2003) giá trị
xuất khẩu đạt 4.334 triệu USD, chiếm khoảng 3,4 % tổng kim ngạch xuất khẩu tất cả
các mặt hàng của Việt Nam. Niên vụ đạt giá trị cao nhất là niên vụ 1997 – 1998 với giá
trị là 601,4 triệu USD.
Niên vụ Xuất (tấn)
Kim ngạch (1.000
USD)
Đơn giá bình
quân (USD/MT)




1992 – 1993 116.000 92.000 793
1993 – 1994 165.000 226.000 1.369
1994 – 1995 212.038 558.296 2.633
1995 – 1996 221.496 402.000 1.815
1996 – 1997 336.242 402.800 1.198
1997 – 1998 395.418 601.400 1.521
1998 – 1999 404.206 554.970 1.373
1999 – 2000 653.678 537.970 823

2000 – 2001 670.381 381.907 436,8
2001 – 2002 713.753 263.269 368,8
2002 - 2003 691.421 428.633 619,9

Năm 2004 cả nước xuất khẩu được 889.705 tấn cà phê, đạt giá trị 576.087.360
USD, giá bình quân là 647,5 USD/tấn.
Trong 5 tháng đầu năm 2005 cả nước đã xuất khẩu 423.000 tấn, đạt giá trị 310
triệu USD. 7 tháng đầu năm xuất khẩu được 610.000 tấn, đạt kim ngạch 406 triệu
USD. Đến cuối năm 2005 cả nước xuất khẩu được hơn 892 nghìn tấn cà phê với trị giá
735,5 triệu USD. Với kim ngạch xuất khẩu niên vụ 2005 – 2006 đạt 1,1 tỷ USD, ngành
cà phê Việt Nam đã gia nhập câu lạc bộ những ngành hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD.
Hiện tại cà phê là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (gạo, dầu
thô, thủy sản, dệt may, giày dép, cà phê, cao su, gỗ, hạt tiêu, nhân điều)
Đặc biệt sau khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế
giới (WTO) hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn
về lượng và kim ngạch xuất khẩu. Các con số được thống kê và báo cáo của Trung tâm
tin học và Thống kê, Bộ Nông nghiệp và PTNT như sau:




Xuất khẩu tháng 3/2007 đạt khoảng 100 ngàn tấn, kim ngạch đạt 145 triệu USD,
so cùng kỳ năm trước, lượng giảm 8%, kim ngạch tăng 16,7%. Xuất khẩu quí I năm
2007 ước đạt 462 ngàn tấn, kim ngạch 668 triệu USD, so cùng kỳ năm trước, lượng
tăng hơn 1,7 lần, giá trị tăng 2,2 lần. Cà phê tiếp tục giữ vị trí số 1 về kim ngạch xuất
khẩu trong các mặt hàng nông sản. Hiện giá cà phê xuất khẩu bình quân của Việt Nam
đạt khoảng 1.456 USD/tấn, cao hơn cùng kỳ năm trước 26%, Việt Nam đã góp phần
chi phối thị trường cà phê thế giới trong thời gian qua.
Chỉ trong vòng 6 tháng đầu niên vụ 2006-2007 (từ 1-10-2006 đến 31-3-2007),
nước ta đã xuất khẩu được hơn 615 ngàn tấn cà phê, đạt kim ngạch 830 triệu USD,

vượt tổng kim ngạch xuất khẩu cả niên vụ trước 4 triệu USD. Từ con số khả quan này,
Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam (Vicofa) đã khẳng định: Kim ngạch xuất khẩu cà
phê nước ta niên vụ này sẽ vượt ngưỡng 1 tỷ USD. Trước khi vào vụ thu hoạch cà phê,
Vicofa dự đoán rằng, lượng cà phê của niên vụ này đạt từ 13,5 đến 14,5 triệu bao, tức
là khoảng 810-870 ngàn tấn cà phê nhân. Nhưng đến cuối tháng 4 vừa qua, con số đã
vượt xa dự đoán mà theo giới chuyên môn, có được điều này là do nghịch lý "được
mùa – rớt giá" đã không lặp lại
Tổng sản lượng cà phê xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2007 đạt 832.000 tấn với
tổng kim ngạch trên 1,2 tỷ USD, chiếm gần 40% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu các
mặt hàng nông sản. So với cùng kỳ năm trước, sản lượng cà phê xuất khẩu tăng 64%,
kim ngạch tăng 2,1 lần. Theo Hiệp Hội cà phê Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu cà phê 6
tháng đầu năm 2007 đã cao hơn tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả năm 2006
(năm 2006, tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt trên 1,1 tỷ USD với sản lượng xuất
khẩu 897.000 tấn). Đây là kết quả của việc giá cà phê biến động theo xu thế tăng liên
tục với mức bình quân hiện nay khoảng 1.530 USD/tấn (tăng 28-29% so với cùng kỳ
năm trước)
Ước xuất khẩu cà phê tháng 8/2007 của Việt Nam đạt 55 ngàn tấn, kim ngạch
đạt 95 triệu USD, so cùng kỳ năm trước lượng giảm 1,5%, kim ngạch tăng 38%, đưa
lượng xuất khẩu cà phê 8 tháng đầu năm 2007 đạt 945 ngàn tấn, kim ngạch 1,42 tỉ
USD, so với cùng kỳ năm trước lượng tăng 51%, kim ngạch tăng gần 2 lần. Giá cà phê




XK bắt đầu có xu hướng giảm từ giữa tháng trước, hiện cà phê giá fob tại TP. Hồ Chí
Minh chỉ còn 1.600 USD/tấn, giảm khoảng 200 USD/tấn so với tháng trước, nhưng vẫn
cao hơn cùng kỳ năm trước 140 USD/tấn.
Ước xuất khẩu cà phê tháng 9/2007 đạt khoảng 40 ngàn tấn, kim ngạch đạt 67
triệu USD, so cùng kỳ năm trước lượng giảm khoảng 17%, kim ngạch tăng gần 9%.
Xuất khẩu cà phê 9 tháng đầu năm 2007 thuận lợi về giá cả và thị trường, giá cà phê

tuy có biến động ngắn hạn nhưng ở xu hướng chung là tăng về dài hạn. Năm 2007 là
năm đầu tiên kim ngạch XK cà phê vượt kim ngạch XK gạo với mức 13%. Ước lượng
cà phê XK 9 tháng đạt 975 ngàn tấn, kim ngạch 1,47 tỉ USD. So cùng kỳ năm trước
lượng tăng 45%, kim ngạch tăng 87%.

Về thị trường xuất khẩu
Ngành sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam không phải là mới nhưng
xuất hiện ở Việt Nam cũng chưa lâu năm như một số nước khác như Braxin (từ thế kỷ
17), Colombia, Mexico , nhưng Việt Nam đã phát huy được những lợi thế của mình
vươn lên đứng thứ 2 trong top các nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới.
Sản lượng cà phê (nghìn bao)

Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO)
Qu
ốc gia

Niên v


2002

2003

2004

2005

Brasil

(R/A) T.4

-
T.3

48.480

28.820

39.272

32.944

Vi
ệt Nam

(R/A) T.10
-
T.9

11.555

15.230

13.84
4

11.000

Colombia

(A) T.10

-
T.9

11.889

11.197

11.405

11.550

Indonesia

(R/A) T.4
-
T.3

6.785

6.571

7.386

6.750

Ấn
Đ


(A/R) T.10

-
T.9

4.683

4.495

3.844

4.630

Mexico

(A) T.10
-
T.9

4.000

4.550

3.407

4.200





Ethiopia


(A) T.10
-
T.9

3.693

3.874

5.000

4.500

Guatemala

(A/R) T.10
-
T.9

4.070

3.610

3.678

3.675

Peru

(A) T.4

-
T.3

2.900

2.616

3.355

2.750

Uganda

(R/A) T.10
-
T.9

2.900

2.510

2.750

2.750

Honduras

(A) T.10
-
T.9


2
.497

2.968

2.575

2.990

Côte d'Ivoire

(R) T.10
-
T.9

3.145

2.689

1.750

2.500

Costa Rica

(A) T.10
-
T.9


1.938

1.802

1.775

2.157

El Salvador

(A) T.10
-
T.9

1.438

1.457

1.447

1.372

Ecuador

(A/R) T.4
-
T.3

732


767

938

720

Venezuela

(A) T.10
-
T.9

869

786

701

820

Philippines

(R/A) T.7
-
T.6

721

433


373

500

T
ổng sản l
ư
ợng



121.808

103.8
01

112.552

106.851



 A (Arabica): Cà phê chè
 R (Robusta): Cà phê vối
 T. : Tháng
 A/R: Nước xuất khẩu cả hai loại cà phê, nhưng sản lượng Arabica là chủ yếu
 R/A: Nước xuất khẩu cả hai loại cà phê, nhưng sản lượng Robusta là chủ yếu
 1 bao = 60 kg
Niên vụ 2002 – 2003, cà phê Việt Nam đã xuất khẩu sang 59 nước và vùng lãnh
thổ, trong đó 10 nước dẫn đầu về nhập khẩu cà phê Việt Nam chủ yếu là các nước

trong khối EU và Mỹ so với những năm 1992, 1993 thị trường xuất khẩu cà phê Việt




Nam tập trung và các nước Singapore, HongKong, Nhật Bản chiếm 60% trong 10 nước
nhập khẩu lớn nhất.

Dưới đây là thống kê 10 nước nhập khẩu hàng đầu của ngành cà phê Việt Nam
niên vụ 2002 – 2003:
Số TT Nước Số lượng (tấn)
Tr
ị giá
(USD)
% so v
ới tổng
xuất khẩu
1

Đ
ức

106.059

66.429.372

15.34

2


M


83.991

51.704.900

12,15

3

B


60.161

33.152.589

8,70

4

Tây
Ban Nha

59.794

36.819.818

8,65


5

Ba Lan

59.179

35.279.792

8,27

6

Italia

51.641

32.947.315

7,47

7

Pháp

38.754

24.008.977

5,60


8

Hàn Qu
ốc

35.310

22.138.266

5,11

9

Anh

28.890

14.670.583

3,46

10

Philippin

20.303

13.053.775


2,94



Thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam ngày càng được mở rộng, tính đến thời điểm
tháng 8 năm 2005 các nước dẫn đầu nhập khẩu cà phê Việt Nam là:

STT Quốc gia Lượng nhập khẩu (tấn)
1

M


84.000

2

Đ
ức

70.000

3

Italia

50.000

4


Tây Ban Nha

43.000 (gi
ảm 12.000tấn)





5

Anh

37.000 (
gi
ảm 45.000tấn)


Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam tháng 9 và 9 tháng đầu năm 2005

Thị trường Tháng 9 9 tháng
Lượng (tấn) Trị giá (ngàn
USD)
Lượng (tấn) Trị giá (ngàn
USD)
M


6.514


5.634

92.586

73.490

CHLB Đ
ức

4.150

3.645

74.963

59.424

Tây Ba
n Nha

3.593

3.315

47.852

39.042

Italia


2.448

2.342

52.812

45.250

Nh
ật Bản

2.402

2.186

23.784

20.558

Ốxtrâylia

1.921

1.837

12.151

10.368

Pháp


1.857

1.740

23.024

18.496

Hà Lan

1.324

1.201

14.099

12.078

Philippin

1.292

1.148

18.892

14.315

Ấn

Đ


949

88
7

16.169

11.802

Hàn Qu
ốc

925

828

18.429

13.98

Ba Lan

917

711

9.599


7.402

Anh

776

678

38.025

28.282

Malaysia

653

467

6.454

5.162

Singapore

557

505

6.880


5.228

Canada

496

388

11.952

9.675

B

Đào Nha

438

400

3.696

3.323

CH Nam Phi

420

448


7.046

5.937

Hungari

366

276

2.330

1.851

UAE

352

364

913

887

Th
ụy Sĩ

316


273

23.641

16.128





B


269

257

21.479

17.020

Trung Qu
ốc

247

158

6.950


5.319


Trong niên vụ 2005/2006, ngoài cà phê nhân sống, Việt Nam cũng đã xuất khẩu
được 869,7 tấn cà phê hòa tan, với trị giá hơn 2,77 triệu USD (bình quân đạt 3.190
USD/tấn). Số cà phê này được xuất sang 25 thị trường, trong đó Nhật Bản là 232 tấn,
Hoa Kỳ: 192 tấn, Đài Loan: 141,5 tấn, Đức: 104,6 tấn. Theo xu hướng mới, cà phê chè
(Arabica) tuy chưa nhiều nhưng cũng đã góp phần đáng kể vào việc nâng giá trị và
chủng loại sản phẩm của ngành hàng cà phê Việt Nam, nhờ giá xuất khẩu chênh đáng
kể so với cà phê vối (Robusta).
Đến nay, sản phẩm cà phê nhân của Việt Nam cũng đã xuất sang 71 quốc gia và
vùng lãnh thổ; trong đó, đặc biệt nhất là việc một số nước sản xuất cà phê tương đối
lớn ở Mỹ Latinh như Ecuador, Mexico, Peru, Nicaragua , cũng đã mua sản phẩm của
Việt Nam.
Thống kê báo cáo tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam trong Quý II năm 2007
cũng cho thấy, trong top 10 nước nhập khẩu lớn nhất, CHLB Đức đứng hàng đầu với
114.483 tấn, tiếp đến là Tây Ban Nha: 88.527 tấn, Hoa Kỳ: 87.932 tấn, Italia, Ba Lan,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh, Bỉ và Pháp. Thị trường truyền thống Nga và Đông Âu cũng
có dấu hiệu phục hồi, trong đó Nga nhập 14.175 tấn, Romania: 7.576 tấn và Bulgaria:
5.343 tấn, Slovenia: 3.417 tấn, Estonia: 3.199 tấn, Czech: 3.064 tấn.
Ngoài ra, các nước thuộc khối ASEAN cũng ngày càng tiêu thụ nhiều hơn sản
phẩm cà phê của Việt Nam. Bạn hàng trong khối ASEAN dần trở nên quen thuộc hơn
với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, khi Philippines nhập 16.547 tấn,
Malaysia nhập 12.367 tấn, Singapore nhập 5.690 tấn, Indonesia nhập 806 tấn.

Dưới đây là bảng thống kê thị trường xuất khẩu cà phê trong tháng 3 và 3 tháng
đầu năm 2007 (lấy theo nguồn tin của Vinanet):
Tên nư
ớc


ĐVT

Tháng 3/2007


3 tháng 2007






Lượng Trị giá (USD)

Lượng Trị giá (USD)

Ấn
Đ



T
ấn

852

1.083.272

1.161


1.400.935

Anh

T
ấn

4.470

6.448.636

21.729

30.742.361

Áo

T
ấn

206

344.976

262

434.832

Ba Lan


T
ấn

2.369

3
.438.455

8.942

12.849.838

B


T
ấn

4.795

7.149.106

18.501

27.167.482

B

Đào Nha


T
ấn

953

1.490.983

1.986

3.096.142

Ti
ểu VQ Arập TN

T
ấn

991

1.373.694

1.336

1.908.537

Canađa

T
ấn


909

1.353.871

1.865

2.745.036

Đài Loan

T
ấn

106

163.045

262

427.894

Đan M
ạch

T
ấn

376

532.644


886

1.274.308

CHLB Đ
ức

T
ấn

25.982

37.140.603

70.287

102.553.942

Extônia

T
ấn





384


525.971

Hà Lan

T
ấn

5.027

7.355.389

13.753

20.215.900

Hàn Qu
ốc

T
ấn

3.823

5.430.993

8.130

11.453.615

H

ồng Kông

T
ấn

73

114.048

217

328.789

Hungary

T
ấn

216

222.371

709

959.554

Hy L
ạp

T

ấn

484

728.082

1.378

2.055.205

Indonêsia

T
ấn

14.960

21.615.845

26.389

38.048.390

Italia

T
ấn

12.630


18.908.082

42.562

63.027.692

Malaysia

T
ấn

2.510

3.666.046

5.841

8.304.248

M


T
ấn

15.660

22.608.078

56.016


80.778.659

CH Na
m Phi

T
ấn

398

523.979

2.404

3.349.444

Niu Zi Lân

T
ấn

96

141.600

480

680.640


LB Nga

T
ấn

3.073

4.428.280

7.851

11.368.938

×