MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chon đề tài
Trên thế giới có hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau về vị trí địa lý,
đặc điểm tự nhiên, thành phần dân cư,... nhưng tựu trung lại được chia làm hai
nhóm nước: phát triển và đang phát triển. Để có được sự phân chia này, chủ yếu
dựa vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Như chúng ta đã biết, cuộc
chạy đua về kinh tế giữa các nước trên thế giới luôn diễn ra sôi động, khốc liệt
và luôn được điều tiết, chi phối bởi các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật giá
trị. Có thể khẳng định quy luật giá trị là quy luật quan trọng nhất và nền kinh tế
Việt Nam cũng không ngoại lệ, cũng chịu tác động của quy luật giá trị.
Vậy vì sao lại như vậy, đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay chịu
ảnh hưởng của quy luật này như thế nào? Để trả lời được câu hỏi trên, em xin
nghiên cứu đề tài: “Quy luật giá trị và vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh
tế thị trường? Thưc trạng và giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở
Việt Nam?
22
B. NƠI DUNG
I. Quy luật giá trị
1. Vị trí của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa,
là quy luật quan trọng nhất. Ở đâu có trao đổi và sản xuất hàng hóa thì ở đó có sự
hoạt động của quy luật giá trị.
2. Nội dung của quy luật giá trị
Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở
của hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất, người sản xuất phải có mức hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn
hoặc bằng với mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì mới đạt được lợi thế
trong cạnh tranh. Vì trong nền sản xuất hàng hóa, vấn đề đặc biệt quan trọng là
hàng hóa sản xuất ra có bán được hay khơng? Để có thể bán được thì hao phí lao
động của các chủ thể kinh doanh để sản xuất ra hàng hóa phải phù hợp với mức
hao phí lao động có thể chấp nhận được. Cụ thể như sau: ta gọi K c là hao phí lao
động xã hội cần thiết, Kcb là hao phí lao động cá biệt, ta có:
- Nếu Kcb < Kc (bán hàng theo Kc) thì sản xuất lãi ( giá cả hàng hóa > giá trị cá biệt
của hàng hóa), người sản xuất sẽ thu nhiều lãi, có khả năng phát triển kinh
doanh;
- Nếu Kcb = Kc (bán hàng theo Kc) thì người sản xuất sẽ thu được lợi nhuận bình
quân;
- Nếu Kcb > Kc (bán hàng theo Kc) thì người sản xuất sẽ lỗ, có khả năng sẽ phá sản
nếu cứ tiếp tục bán hàng hóa như vậy, diều cần làm ngay lúc này là nhà sản xuất
cần phải giảm Kcb ở mức thấp nhất có thể.
Trong lưu thơng hàng hóa cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần
thiết, tức là việc trao đổi phải tuân theo nguyên tắc ngang giá: giá cả = giá trị.
Hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi ngang nhau khi lượng
33
giá trị của chúng ngang nhau. Ví dụ: 1m vải = 10 kg thóc, vải dùng để may mặc
và thóc gạo làm lương thực cho con người, hai hàng hóa này trao đổi được với
nhau vì có lượng hao phí lao động xã hội ngang bằng. Ở đây, chúng ta cần hiểu
thêm, giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người; giá trị của hàng hóa là hao phí lao động xã hội
của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa; cịn lượng giá trị là lượng hao phí lao
động xã hội kết tinh trong hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần
thiết ( thời gian lao động trong điều kiện bình thường của xã hội với trình độ
thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình). Giá cả là biểu hiện bằng
tiền của giá trị hàng hóa, giá trị là cơ sở của giá cả, giá cả cao hay thấp do giá trị
của hàng hóa trên thị trường quyết định.
Như vậy, quy luật giá trị buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải
tuân theo yêu cầu của nó thơng qua “ mệnh lệnh” giá cả của thị trường.
3. Cơ chế hoạt động của quy luật giá trị
Trong thực tế, do sự tác động của nhiều quy luật kinh tế, nhất là quy luật cung
cầu làm cho giá cả hàng hóa thường xuyên tách rời giá trị, nhưng sự tách rời đó
chỉ xoay quanh trục giá trị, trong đó giá trị hàng hóa là trục, giá cả thị trường lên
xuống quanh trục đó. Nếu sức mua đồng tiền không đổi, không kể đến sự điều
tiết của nhà nước và độc quyền thì xảy ra ba trường hợp:
+ Khi cung = cầu thì giá cả = giá trị;
+ Khi cung > cầu thì giá cả < giá trị;
+ Khi cung < cầu thì giá cả > giá trị.
Tuy nhiên, xét tổng thể q trình thì tổng giá cả ln bằng tổng giá trị. Giá cả
thị trường tự phát lên xuống quanh trục giá trị là sự biểu hiện của quy luật giá trị.
4. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường
4.1. Điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hố
Về bản chất, sự điều tiết sản xuất của quy luật giá trị là sự điều chỉnh một
cách tự phát các yếu tố của sản xuất như tư liệu sản xuất, sức lao động và vốn từ
44
ngành này sang ngành khác, từ nơi này sang nơi khác để sản xuất hàng hoá trong
một ngành. , một nơi được mở rộng, một ngành khác bị thu hẹp, bởi sự biến
động của giá cả thị trường, do đó tạo ra mối quan hệ cân bằng tạm thời giữa các
ngành, các vùng của nền kinh tế hàng hoá nhất định. Quy luật cạnh tranh được
minh họa ở chỗ: cung và cầu thường mn hình vạn trạng, nhưng từ trước đến
nay chưa bao giờ bình đẳng mà thường tách biệt và chống đối nhau. Cung luôn
đi sau cầu. Nhưng cho đến nay vẫn chưa bao giờ chính xác là hài lòng. Đây là lý
do tại sao thị trường xảy ra các trường hợp sau: Khi cung bằng cầu, giá tương
đương với giá trị của hàng hóa, trường hợp này xảy ra một cách ngẫu nhiên và
rất hiếm khi xảy ra.
Khi cung ít hơn cầu, giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa
bán chạy, lợi nhuận cao thì người sản xuất ra hàng hóa này sẽ mở rộng quy mơ
sản xuất, sản xuất hết tốc lực; đối với những hàng hoá khác thì giảm quy mơ sản
xuất để chuyển sang dùng những hàng hố đó, như vậy tư liệu sản xuất, sức lao
động và vốn chuyển vào ngành đó tăng lên, lượng cung hàng hố đó tăng lên.
Khi cung vượt cầu, giá cả thấp hơn giá trị, hàng hoá dư thừa, bán khơng tốt, có
thể lỗ vốn Tình hình này buộc những người sản xuất loại hàng hoá này phải
giảm quy mơ sản xuất, chuyển sang sản xuất hàng hố có giá cả thị trường cao
hơn ;làm cho tư liệu sản xuất ,sức lao động và tiền vốn ở ngành hàng hoá này
giảm đi.
Về bản chất, sự điều tiết của quy luật giá trị bao gồm việc điều chỉnh một
cách tự phát lượng hàng hố từ nơi có giá thấp lên nơi có giá cao, tạo ra mặt
bằng giá cả xã hội, thì điều kiện để tổng lượng hàng hố được tiêu dùng cũng sẽ
biến đổi. Nếu giá trị thị trường giảm, thì nhu cầu xã hội nói chung sẽ tăng hơn
nữa và trong những giới hạn nhất định, sẽ thu thập và thu hút lượng hàng hóa
lớn hơn. Nếu giá trị thị trường tăng lên thì nhu cầu của xã hội đối với hàng hóa sẽ
giảm đi và lượng hàng hóa tiêu thụ cũng giảm theo. Vì vậy, nếu cung và cầu
điều chỉnh giá cả thị trường hay nói đúng hơn, nó điều chỉnh khoảng cách giữa
giá thị trường và giá trị thị trường, ngược lại, chính giá trị thị trường điều chỉnh
tỷ lệ cung và cầu, hoặc ai là trung tâm xung quanh trung tâm này, làm thay đổi
cung và cầu khiến giá thị trường giảm. Trong xã hội tư bản đương thời, mỗi nhà
tư bản công nghiệp tự ý sản xuất những gì mình muốn, như thế nào và với số
55
lượng như thế nào. Đối với họ, đại lượng mà xã hội cần là một ẩn số. Cái gì hơm
nay khơng cung cấp được thì ngày mai cũng có thể cung cấp. Tuy nhiên, người
dân do dự không đáp ứng đủ nhu cầu, sản xuất thường theo mặt hàng.
“… Khi thực hiện quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá trong xã hội gồm
những người sản xuất trao đổi hàng hoá cho nhau ,sự canh tranh lập ra bằng cách
đó và trong điều kiện nào đó một trật tự duy nhất và mộy tổ chức duy nhất có thể
có cuả nền sản xuất xã hội .Chỉ có do sự tăng hay giảm giá hàng mà những người
sản xuất hàng hoá riêng lẻ biết được rõ ràng là xã hội cần vật phẩm nào và với số
lượng bao nhiêu”(C.mác:sự khốn cùng của triết học ,nhà xuất bản Sự thật
{8,19_20})
4.2. Kích thích lực lượng sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động xã hội
Để tránh phá sản, giành được lợi thế cạnh tranh và thu được nhiều lợi
nhuận, mọi người sản xuất hàng hố đều tìm mọi cách cải tiến cơng nghệ, hợp lý
hố sản xuất, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật của những người mới vào
sản xuất để giảm hao phí lao động cá biệt và giảm giá trị cá biệt. của hàng hố do
mình sản xuất ra, làm cho cơng nghệ của tồn xã hội ngày càng phát triển lên
trình độ sản xuất ngày càng cao. Như vậy thấy rằng, phương thức sản xuất của tư
liệu sản xuất không ngừng thay đổi dẫn đến sự phân công lao động tỉ mỉ hơn sử
dụng nhiều máy móc hơn, quy mơ lớn dẫn đến quy mơ lớn hơn.
Đó là quy luật ln đẩy sản xuất về phương thức cũ và luôn thúc đẩy sản
xuất làm cho sức sản xuất của lao động càng trở nên bức thiết. Luật này khơng
có gì khác ngồi một quy tắc nhất định giữ cho giá cả hàng hóa ngang bằng với
chi phí sản xuất của chính chúng, trong giới hạn của những biến động theo chu
kỳ của thương mại. Nếu dược phẩm được sản xuất ít đắt hơn, thì nhiều tài sản có
thể được bán hơn và do đó bị chiếm dụng. Theo Mác, trong sự vận động bên
ngoài của tư bản, các quy luật bên trong của sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành
quy luật bắt buộc của cạnh tranh, mà ở hình thức này, đối với các nhà tư bản,
quy luật biểu hiện như động cơ hành động của họ. nghĩa là, để phân tích cạnh
tranh, cần phải t đầu tiên phân tích bản chất bên trong của vốn, cũng giống như
chỉ ai hiểu được chuyển động thực tế của các thiên thể - mặc dù không thể nhìn
66
thấy bằng giác quan, họ mới có thể hiểu được chuyển động biểu kiến của các
thiên thể.
4.3. Phân hoá những người sản xuất thành người giàu, người nghèo
Trong xã hội của những người sản xuất cá thể đã có mầm mống của một
phương thức sản xuất mới. Trong sự phân chia tự phát, khơng có kế hoạch thống
trị xã hội, phương thức sản xuất đã hình thành nên sự phân cơng sản xuất. Sản
xuất cơng cộng, có tổ chức theo kế hoạch, trong nhà máy; bên cạnh nền sản xuất
của những người sản xuất nhỏ lẻ, đã xuất hiện nền sản xuất xã hội. Các sản
phẩm của hai loại hình sản xuất này được bán trên cùng một thị trường. , vì vậy
giá ít nhất là xấp xỉ nhau. Nhưng so với sự phân chia tự phát, tổ chức có kế
hoạch đương nhiên mạnh hơn nhiều; sản phẩm của công xưởng lao động xã hội
rẻ hơn sản phẩm của những người sản xuất nhỏ lẻ phân tán. Sản xuất của những
người sản xuất riêng lẻ thất bại từ ngành này sang ngành khác.
Trong nền sản xuất hàng hoá, sự tác động của các quy luật kinh tế, đặc biệt
là quy luật giá trị tất yếu dẫn đến kết quả: người có điều kiện sản xuất thuận lợi,
có vốn lớn, có tri thức và trình độ hoạt động cao, trang bị kỹ thuật tốt sẽ phát
triển làm giàu và ngày càng giàu lên. Tôi không đáp ứng được các điều kiện trên,
hoặc tơi có nguy cơ mất vốn, phá sản Sự chọn lọc tự nhiên đó đã phân hóa giới
kinh doanh thành giàu nghèo. Người giàu trở thành ông chủ và người nghèo dần
trở thành công nhân. Lịch sử sản xuất hàng hố đã chỉ ra rằng, q trình phân
hố này dẫn đến sản xuất hàng hoá giản đơn trong xã hội phong kiến, dần dần
làm nảy sinh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
“ …Mỗi người đều sản xuất riêng biệt ,cho lợi ích riêng của mình ,khơng
phụ thuộc vào nhà sản xuất khác .Họ sản xuất cho thị trường ,nhưng dĩ nhiên
không một người nào trong số họ biết được dung lượng của thị trường .Mối quan
hệ như vậy giữa nhưng người sản xuất riêng rẽ ,sản xuất cho một thị trường
chung,thì gọi là cạnh tranh,Dĩ nhiên trong nhữnh điều kiện ấy,sự thăng bằng
giữa sản xuất và tiêu dùng chỉ có thể có được sau nhiều lần biến động.Những
người khéo léo hơn ,tháo vát hơn và có sức lực hơn sẽ ngày càng lớn mạnh nhờ
những sư biến động ấy;cịn những người yếu ớt ,vụng về thì sẽ bị sự biến động
77
đó đè bẹp .Một vài người trở nên giàu có,cịn quần chúng trở nên nghèo đói,đó
là kết quả khơng tránh khỏi của quy luật cạnh tranh .Kết cục là những người sản
xuất bị phá sản mất hết tính chất độc lập về kinh tế của họvà trở thành công nhân
làm thuê trong công xưởng đã mở rộng của đối thủ tốt số của họ” (V.Lenin:Bàn
về cái gọi là vấn đề thị trường{9,127}
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự bần cùng hóa của nhân dân là
những hiện tượng ngẫu nhiên. Hai hiện tượng này tất nhiên đi kèm với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường trên cơ sở phân công lao động xã hội. Vấn đề của
thị trường hồn tồn bị bỏ qua, bởi vì thị trường chỉ là biểu hiện của bộ phận này
và sản xuất hàng hóa. Chúng ta sẽ thấy rằng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
khơng chỉ có thể mà cịn có thể. Đó cũng là điều hiển nhiên, bởi vì một khi kinh
tế xã hội được xây dựng trên cơ sở phân chia và trên hình thái thị trường của sản
phẩm, tiến bộ công nghệ không thể không dẫn tới chỗ làm cho chủ nghĩa tư bản
tăng cường và mở rộng thêm.
II. Thưc trạng và giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị
ở Việt Nam
1. Thực trạng quy luật giá trị tác động lên nền kinh tế ở Việt Nam
Nền kinh tế nước ta dang từ sản xuất nhỏ đi lên san xuất lớn xã hội chủ
nghĩa ,từ sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa .Quy
luật giá trị gắn liền nền sản xuất hàng hố đó cịn hoạt động trên một phạm vi khá
rộng và trong một thời gian dài.Vai trị và phạm vi hoạt động của nó biển đổi
từng thời kì cùng với sự chuyển biến của quan hệ sản xuất ,của lực lượng sản
xuất với sự phát triển của phân cơng lao động xã hội.Vì vậy trong khi xác nhận
vai trò chủ đạo quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa,chúng ta cần nhận thức đúng
quy luật giá trị,tự giác vận dụng quy luật giá trị và những phạm trù kinh tế gắn
liền với qui luật đó như tiền tệ ,giá cả ,tín dụng ,tài chính ..để kích thích sản xuất
và lưu thơng hàng hố phát triển ,thúc đẩy nền kinh tế nước ta tiến nhanh trên
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
88
Theo văn kiện đại hội đảng IX”Đảngvà nhà nước tachủ trương thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường , có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”.
Với các đặc trưng của mơ hình này như đã nói ở trên, các quy luật kinh tế
được phép phát huy tác dụng của nó trong đó quy luật giá trị đóng vai trò là quy
luật kinh tế căn bản chi phối toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế .
2. Ảnh hưởng tích cực của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường của
nước ta ngày nay
2.1. Trong lĩnh vực sản xuất
a) Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mỗi doanh nghiệp
cần phải chủ động, tự hoạch toán các chi tiêu sản xuất, tự nghiên cứu để tìm ra
thị trường thích hợp với sản phẩm của mình, thực hiện sự phân đoạn thị trường
để xác định tấn công vào đâu, bằng những sản phẩm gì. Đặc biệt trong quá trình
hội nhập quốc tế, thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA, WTO..., mỗi doanh nghiệp
cần nêu cao sức cạnh tranh của mình cả trong nước và ngoài nước bằng cách huy
động được vốn đầu tư, áp dụng khoa học kĩ thuật vào trong sản xuất, khơng
ngừng nâng cao trình độ tay nghề người lao động, nắm bắt được nhu cầu người
tiêu dùng...
Chẳng hạn như tận dụng xu thế sử dụng gạo ở EU đang tăng đáng kể do sự
phổ biến của thức ăn châu Á tại đây, trong khi so với hạn ngạch EU cấp khi Hiệp
định Thương mại tự do Việt Nam-EU có hiệu lực, dư địa cho các doanh nghiệp
xuất khẩu gạo Việt Nam còn rất lớn, nhất là khi thuế chỉ còn 0%; vào tháng 8
năm 2020 Công ty cổ phần Nông nghiệp cao Trung An đã triển khai đóng lơ gạo
đầu tiên xuất khẩu vào EU với mức thuế suất 0%, đã ký hợp đồng bán gạo với ba
khách hàng của Cộng hòa Liên bang Đức với tổng khối lượng lên 30000 tấn 1.
1 />fbclid=IwAR3SofzgAG5wfSmWamnm6f8ehSYRPJ4_oYD2nskorHnqZGFCbtkq2TIsdA
99
Điều này đã giúp khẳng định thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường thế giới,
làm tăng sức cạnh tranh giữa xuất khẩu gạo ở Việt Nam với các nước khác như
Thái Lan, Ấn Độ, Myanmar....
b) Tạo ra sự năng động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
Cạnh tranh gay gắt sẽ đưa đến hệ quả tất yếu làm cho nền kinh tế năng động
lên, các doanh nghiệp sẽ tìm được cho mình con đường đi mới trong mỗi lĩnh vực
sản xuất, làm đa dạng hóa sản phẩm về cả mẫu mã, chất lượng và số lượng. Nhờ
có sự đào thải của quy luật giá trị sẽ làm cho sản phẩm ngày càng hoàn thiện;
phát triển được nhiều thành phần kinh tế với đa dạng các hình thức sở hữu, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; phát huy được nội lực để sản xuất ra
nhiều hàng hóa, thu nhiều lợi nhuận hơn.
c) Thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Trên cơ sở đường lối hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước, thời
gian qua, Việt Nam đã tiến hành hội nhập dưới nhiều góc độ:
Về hội nhập đa phương, Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức
tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới,
Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy
mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế,
thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương.
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi
quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007.3
Về hội nhập khu vực, Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN), Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), tham gia sáng lập
Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á
- Thái Bình Dương (APEC).
1010
Về hội nhập song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn
160 nước và 70 vùng lãnh thổ, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá
tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ , ký kết trên 90 Hiệp định
thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54
Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song
phương với các nước và các tổ chức quốc tế. 4
Đặc biệt, trong những năm gần đây, Việt Nam đã tích cực tham gia đàm phán,
ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Việc hình thành các FTA với mức
độ tự do hoá sâu rộng đã và đang đem lại những cơ hội và cả thách thức không
nhỏ đối với những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Chính vì vậy, Việt
Nam cần phải chủ động nắm bắt xu thế FTA, tham gia có lựa chọn để tiếp cận thị
trường, mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với các đối tác quan trọng.
2.2. Đối với lĩnh vực lưu thông
Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, quy
luật giá trị ảnh hưởng đến việc hình thành giá cả và nguồn hàng hóa. Giá mua
cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, giá bán hạ sẽ thúc đẩy mạnh việc tiêu thụ và
ngược lại. Từ đó tạo sự cân đối về nguồn hàng giữa các vùng miền, giữa các
nước, ổn định giá cả thị trường. Do vậy, nhà nước ta đã vận dụng vào việc định
giá cả sát giá trị , xoay quanh trục giá trị để cải tiến kĩ thuật, tăng hiệu quả quản
lý. Nhà nước ta còn chủ động tách giá cả khỏi giá trị đối với từng mặt hàng trong
từng giai đoạn nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị để điều tiết
lưu thơng, sản xuất, điều chỉnh cung cầu. Ví dụ như là giá cả của sản phẩm công
nghiệp nặng lại đặt thấp hơn giá trị để khuyến khích sự đầu tư, áp dụng kĩ thuật
vào sản xuất.Tuy nhiên sự điều chỉnh này ở nước ta không phải bao giờ cũng khả
quan, nhiều khi làm cho giá cả bất ổn, tạo điều kiện cho hàng hóa nước ngồi
tràn vào một cách ồ ạt với giá cả hợp lý hơn.
Với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
nam hiện nay, dưới tác động của quy luật giá trị, nền kinh tế Việt Nam đã đạt
được những thành tựu nhất định. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với
90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ
1111
thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển dài hạn và
bền vững.
Trong đó, tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá cao trong khu vực và trên thế
giới. Năm 2017, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 6,81%, cao nhất trong 10
năm trở lại đây.Lạm phát được kiểm sốt tốt giúp kinh tế vĩ mơ phát triển ổn
định.Về cơ cấu GDP theo ngành đã có chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ
trọng của khu vực nông - lâm - ngư nghiệp và tăng tỷ trọng của khu vựccông
nghiệp xây dựng và dịch vụ. Đến nay, đóng góp vào tăng trưởng của 02 ngành
cơng nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 90% tăng trưởng toàn ngành kinh tế. Tuy
nhiên tốc độ chuyển dịch còn chậm.
3. Ảnh hưởng tiêu cực của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường của
nước tác hiện nay
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, quy luật giá trị cũng có những ảnh hưởng
tiêu cực đến nền kinh tế nước ta như sự phân hóa giàu nghèo; cạnh tranh khơng
lành mạnh giữa các chủ thể sản xuất, giữa các ngành kinh tế; tình trạng gian lận
trong bn bán, hành giả, hàng nhái kém chất lượng bán tràn lan trên thị
trường...
Một ví dụ chứng minh về vấn nạn hàng giả, hàng kém chất lượng trôi nổi trên
thị trường qua hoạt động kinh doanh bán hàng trên mạng một cách vô tội vạ, tại
cơ sở có địa chỉ ở phường Tân Hợi, Thành phố Buôn Ma thuật, Cục Quản lý thị
trường đã thu giữ hơn 4300 sản phẩm thực phẩm chức năng như siro hỗ trợ ăn
cho trẻ, collagen... cùng các loại mỹ phẩm như kem dưỡng da , sữa tắm...Khi
làm việc thì chủ cơ sở khơng xuất trình được giấy tờ liên quan và thừa nhận toàn
bộ số hàng trên được mua trôi nổi trên thị trường để kinh doanh chủ yếu trên nền
tảng thương mại điện tử. Như vậy, đã có hàng nghìn người tiêu dùng mua phải
hàng kém chất lượng của thông qua chốt đơn “online”. 2 Điều này làm rấy lên lo
2 />fbclid=IwAR0MEQ8JGYdqyfA1UgH8Rjosi8zINCpgjzWFUglFXmHBk6sIp0fNXFMdllo
1212
ngại người tiêu dùng rất khó phân biệt đâu là hàng giả, đâu là hàng thật, dễ bị
những chiêu trò bán hàng thao túng bởi đánh trúng vào tâm lý khách hàng.
Ảnh hưởng của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường của Việt Nam
ngày nay là hiện thực khách quan. Để khắc phục những hạn chế của quy luật giá
trị đem lại cũng như phát huy được những ảnh hưởng tích cực của nó thì khơng
thể chỉ có hoạt động đơn phương của các chủ sản xuất, các doanh nghiệp...mà
còn phải nhờ vào vai trò quản lý của Nhà nước, các chính sách định hướng, áp
dụng quy luật giá trị một cách linh hoạt vào nền kinh tế quốc gia trong từng giai
đoạn cụ thể. Hơn nữa, qua ảnh hưởng của quy luật giá trị, em hiểu được nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những nét riêng: về
mục tiêu thì giải phóng sức sản xuất, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng cơ sở kinh tế - kĩ thuật chủ nghĩa xã hội; nền kinh tế gồm nhiều thành
phần nhưng kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; thực hiện đa dạng các hình
thức phân phối thu nhập theo cơ chế quản lý của nhà nước để giảm bớt chênh
lệch giàu nghèo; phát tiển nền kinh tế mở, hội nhập sâu rộng.
4. Các biện pháp đề xuất
Nắm bắt được những yêu cầu này, ta càng thấy rõ hơn sự hoạt động của
quy luật giá trị được biểu hiện thông qua cơ chế giá cả. Giá cả sẽ lên xuống xung
quanh trục giá trị nhưng xét tổng thể quá trình sản xuất, tổng giá cả vẫn bằng giá
trị. Cơ chế tác động của quy luật giá trị phát sinh khi tác dụng lên thị trường qua
cạnh tranh, cung - cầu, sức mua của đồng tiền. Điều này cũng lý giải tác động
của quy luật trong nền kinh tế hàng hóa, vừa có tác động tích cực vừa tiêu cực.
Trong điều tiết và lưu thơng hàng hóa, chủ sản xuất cần nắm bắt nhu cầu
xã hội để làm cho cung vượt cầu, giá cả luôn thấp hơn hoặc bằng giá trị hàng hóa
để mở rộng hoạt động sản xuất và người sản xuất cũng cần linh hoạt trong việc
phân phối nguồn hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao, phân phối sức mua, thu
nhập giữa các vùng miền ổn định, hợp lý nhất có thể. Tác động của quy luật đến
cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất thì để thu được nhiều lãi, có sức cạnh tranh
mạnh trên thị trường, người sản xuất phải ln nâng cao trình độ tay nghề người
lao động, sử dụng các thành tựu khoa học, kĩ thuật vào khâu sản xuất, đổi mới
phương thức quản lý...song hành với đó, người sản xuất hàng hóa cịn phải
thường xun cải tiến chất lượng mẫu mã hàng hóa phục vụ nhu cầu, phù hợp
1313
với thị hiếu của người tiêu dùng bằng cách nâng cao dịch vụ tư vấn khách hàng,
quảng cáo sản phẩm...
Bên cạnh đó, quy luật giá trị làm phát sinh sự phân hóa giàu nghèo, bất
bình đẳng xã hội nhưng đồng thời đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, lựa chọn yếu tố
tích cực, cải tiến trong hoạt động sản xuất hàng hóa. Từ những tác động trên đã
làm sáng tỏ hơn ảnh hưởng của quy luật giá trị đến nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đây là một ảnh hưởng tất yếu. Quy luật giá trị
kích thích tính cạnh tranh, tính năng động, hội nhập quốc tế của nền kinh tế nước
ta hiện nay nhưng cũng làm cho sự chênh lệch giàu nghèo thể hiện rõ hơn, rồi vì
lợi nhuận mà chạy theo số lượng, cạnh tranh không lành mạnh, gian thương bán
lậu với những thủ đoạn tinh vi hơn - một trong những vấn nạn gây nhức nhối dư
luận ngày nay. Chúng ta khơng thể phủ nhận những ảnh hưởng đó và càng khơng
thể phủ nhận vai trị của Nhà nước trong việc phát huy những ưu điểm, hạn chế
nhược điểm của quy luật giá trị đối với nền kinh tế đất nước.
Chính những chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đã cho thấy
được những đặc trưng rất riêng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam: lấy phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là trung
tâm, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước là
then chốt, tăng cường phân phối sản phẩm trong và ngoài nước theo cơ chế quản
lý của nhà nước, chủ động hội nhập quốc tế....
- Giải phóng lực lượng sản xuất, huy động mọi nguồn lực để thúc đẩy
nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao dân trí, trình độ sản xuất của
người lao động, cải thiện đời sống nhân dân bằng các chính sách an sinh xã hội
hợp với lòng dân.
- Nhà nước cần củng cố hơn vai trị quản lý kinh tế của mình bằng các cơng
cụ, chính sách kinh tế vĩ mộ để định hướng hoạt động sản xuất và phân phối
hàng hóa trên thị trường được ổn định, công bằng, dân chủ.
- Nhà nước cần đề ra phương án chiến lược để vực dậy một số thị trường
còn bỏ ngỏ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước thu hút vốn đầu tư
nước ngồi, tiếp cận chuyển giao cơng nghệ,...
- Việc vận dụng quy luật giá trị trong định giá cả phải có giới hạn, có căn cứ
kinh tế.
1414
- Nhà nước cần vận dụng quy luật giá trị phải xuất phát từ nhiều quy luật
kinh tế chủ nghĩa xã hội, khơng được tuyệt đối hóa nó mà cần acwn cứ vào
nhiệm vụ kinh tế, chính trị trong từng thời kì.
- Các cơng ty, doanh nghiệp cần chủ động xác định thị trường tiêu thụ hàng
hóa sản xuất, chủ động ứng dụng khoa học cơng nghệ hiện đại, kích cầu các hoạt
động giao thương, đàm phán để hợp tác cùng có lợi...
1515
C.KẾT LUÂN
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu
thơng hàng hóa, nó quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào
hao phí lao động xã hội cần thiết. Quy định ấy là khách quan, bảo đảm sự cơng
bằng, hợp lý, bình đẳng giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hóa. Quy
luật giá trị buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo
“mệnh lệnh” của giá cả thị trường. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường
sẽ thấy được sự hoạt động của qui luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống một
cách tự phát xoay quanh giá trị hàng hóa và biểu hiện sự tác động của quy luật
giá trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Quy luật này đang hoạt động và phát huy tác dụng trong nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Song, quy luật này cũng có những tác
động phức tạp, tác hại đến sản xuất hàng hóa và xã hội.
Vì vậy, chúng ta cần phát huy những tác dụng tích cực, hạn chế những tác
dụng tiêu cực của quy luật giá trị, nhằm phát triển nền kinh tế nước ta theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1616
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Ngô Tuấn Nghĩa (Chủ biên), Giáo trình Kinh tế Chính trị MácLênin
2. />3. />4. Nguyễn Thị Huyền : “ Vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam hiện nay “ ,
Luật Hoàng Phi
5. Hội đồng Trung Ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình kinh tế học chính
trị Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, Hà Nội,
2019
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, giáo trình kinh tế chính trị, Nxb. Chính trị quốc
gia
8. Đinh Thị Quỳnh Hà trường Đại học Ngoại thương Hà Nội, quy luật giá trị
và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam, 2016
1717