Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự nghiên cứu so sánh với pháp luật tố tụng hình sự cộng hòa croatia và kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN TRƯƠNG THANH THẢO

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
Học viên
: Nguyễn Trương Thanh Thảo
Lớp
: Cao học Luật Khóa 34

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới
sự hướng dẫn và giúp đỡ của Tiến sĩ Lê Huỳnh Tấn Duy. Các trích dẫn trong luận
văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những tài liệu tham khảo sử dụng


trong luận văn đều được liệt kê đầy đủ, cụ thể. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Trương Thanh Thảo


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Cụm từ đầy đủ

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

LDN

Luật Doanh nghiệp

THTT


Tiến hành tố tụng

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SO SÁNH LUẬT VÀ NGƯỜI
ĐẠI DIỆN CỦA PHÁP NHÂN BỊ TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ . 11
1.1. Một số vấn đề lý luận về so sánh luật ........................................................ 11
1.1.1. Lợi ích của việc so sánh luật .................................................................. 11
1.1.2. Lý do lựa chọn, đối tượng và phạm vi so sánh với pháp luật tố tụng hình
sự Cộng hòa Croatia......................................................................................... 14
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò người đại diện của pháp nhân bị truy
cứu trách nhiệm hình sự .................................................................................... 17
1.2.1. Khái niệm người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
.......................................................................................................................... 17
1.2.2. Đặc điểm của người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm
hình sự............................................................................................................... 20
1.2.3. Vai trị của người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình
sự ....................................................................................................................... 21
1.3. Cơ sở quy định về người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách
nhiệm hình sự ...................................................................................................... 22

1.3.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................... 22
1.3.2. Cơ sở pháp lý .......................................................................................... 25
1.3.3. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 26
Kết luận Chương 1 ................................................................................................. 27
CHƯƠNG 2. SO SÁNH QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA PHÁP
NHÂN BỊ TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ CỘNG HÒA CROATIA VÀ VIỆT NAM ............................. 28
2.1. Phạm vi người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
.............................................................................................................................. 28
2.1.1. Phạm vi người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo pháp luật tố tụng hình sự Cộng hịa Croatia ............................................ 28


2.1.2. Phạm vi người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo pháp luật Việt Nam ................................................................................... 29
2.1.3. So sánh quy định về phạm vi người đại diện của pháp nhân bị truy cứu
trách nhiệm hình sự giữa pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Cộng hòa
Croatia .............................................................................................................. 31
2.2. Vấn đề lựa chọn người đại diện và thời hạn cử người đại diện .............. 35
2.2.1. Vấn đề lựa chọn người đại diện và thời hạn cử người đại diện theo pháp
luật tố tụng hình sự Cộng hòa Croatia ............................................................. 35
2.2.2. Vấn đề lựa chọn người đại diện và thời hạn cử người đại diện theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam ........................................................................... 37
2.2.3. So sánh quy định về vấn đề lựa chọn người đại diện và thời hạn cử người
đại diện giữa pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Cộng hịa Croatia ......... 38
2.3. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách
nhiệm hình sự ...................................................................................................... 39
2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Cộng hịa Croatia .................... 39
2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách

nhiệm hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................. 40
2.3.3. So sánh quy định về quyền và nghĩa vụ của người đại diện của pháp
nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự giữa pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
và Cộng hòa Croatia ........................................................................................ 42
2.4. Thẩm quyền chỉ định và chi phí cho người đại diện của pháp nhân khi
tham gia tố tụng hình sự .................................................................................... 45
2.4.1. Thẩm quyền chỉ định và chi phí cho người đại diện của pháp nhân khi
tham gia tố tụng theo pháp luật tố tụng hình sự Cộng hịa Croatia................. 45
2.4.2. Thẩm quyền chỉ định và chi phí của người đại diện của pháp nhân khi
tham gia tố tụng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ............................... 47
2.4.3. So sánh quy định về thẩm quyền chỉ định và chi phí cho người đại diện
của pháp nhân tham gia tố tụng giữa pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và
Cộng hịa Croatia ............................................................................................. 48


Kết luận Chương 2 ................................................................................................. 49
CHƯƠNG 3. YÊU CẦU, KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA PHÁP
NHÂN BỊ TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRÊN CƠ SỞ HỌC TẬP
KINH NGHIỆM CỦA PHÁP LUẬT CỘNG HÒA CROATIA ........................ 50
3.1. Đánh giá quy định về người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Cộng hịa Croatia ................. 50
3.1.1. Ưu điểm của pháp luật tố tụng hình sự Cộng hịa Croatia về người đại
diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự ....................................... 50
3.1.2. Hạn chế của pháp luật tố tụng hình sự Cộng hịa Croatia về người đại
diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự ....................................... 54
3.2. Yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự ................... 54
3.2.1. Lý do cần hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
người đại diện của pháp nhân .......................................................................... 54

3.2.2. Yêu cầu của cải cách tư pháp ................................................................. 55
3.2.3. Nguyên tắc học tập kinh nghiệm pháp luật nước ngoài ......................... 57
3.3. Kiến nghị hồn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
về người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự............... 58
Kết luận Chương 3 ................................................................................................. 66
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, việc thành lập và điều
hành pháp nhân là những hoạt động phổ biến, mang lại nhiều lợi ích cho xã hội như:
Thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp, mang lại
nhiều cơ hội việc làm cho người lao động,... Tuy nhiên, trên thực tế một số pháp
nhân có những hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng đến đời sống
và xã hội. Nhưng trong khoa học hình sự cũng như quy định của Bộ luật Hình sự
trước đây khơng thừa nhận pháp nhân là chủ thể của tội phạm vì mặt chủ quan trong
cấu thành tội phạm chứa đựng yếu tố lỗi. Mà lỗi được hiểu là “thái độ chủ quan của
con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả của
hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý và vô ý”1. Về mặt xã hội, lỗi được hiểu là
“người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là
kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan và chủ
quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với địi hỏi của xã hội”2. Do đó,
lỗi là những gì diễn ra bên trong suy nghĩ của con người, không thể có lỗi của pháp
nhân nên khơng có căn cứ để xử lý hành vi phạm tội, dẫn đến hậu quả bỏ lọt tội
phạm. Để khắc phục hạn chế này, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), nhà làm luật đã bổ sung “pháp nhân thương mại” là chủ thể của tội phạm
cùng với những quy định mới để có thể truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương

mại phạm tội. Đây là một sự thay đổi quan trọng trong quá trình lập pháp ở nước ta,
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Pháp nhân là một chủ thể được hợp thành từ các cá nhân, nên mọi hoạt động
tố tụng của pháp nhân bị truy cứu TNHS đều phải được thực hiện thông qua một cá
nhân gọi là người đại diện. Điều này cho thấy việc xác định đúng người đại diện
của pháp nhân bị truy cứu TNHS giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết kịp
thời, nhanh chóng các vụ án hình sự; song song đó cũng giúp bảo đảm các quyền và
lợi ích hợp pháp của pháp nhân.
Trong luận văn của mình, tác giả tập trung nghiên cứu, so sánh pháp luật của
Cộng hòa Croatia, cụ thể là Luật về trách nhiệm của pháp nhân đối với tội phạm
1
2

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Hình Sự - Phần chung, NXB. Hồng Đức, tr. 153.
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tlđd (tlđd 1), tr. 153.


2
(Act on the Responsibility of Legal Persons for the Criminal Offences)3 và pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề “Người đại diện của pháp nhân bị truy cứu
trách nhiệm hình sự”. Kết quả nghiên cứu cho thấy một số quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015 về chế định này vẫn còn những điểm hạn chế. Điều này có
thể gây ra khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật.
Về quy định: Trong BLTTHS năm 2015, có một số quyền của chủ thể tội
phạm là cá nhân không được quy định cho chủ thể tội phạm là pháp nhân, cụ thể:
“Quyền được thông báo về hành vi bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố” không được quy
định cho người đại diện theo pháp luật của pháp nhân dẫn đến sự không công bằng
giữa hai chủ thể; hoặc khi so sánh với pháp luật của Cộng hịa Croatia, Việt Nam
chưa có hệ thống các quy định về những trường hợp từ chối người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân và điều này có thể dẫn đến khó khăn trong q trình giải

quyết vụ án;…
Về thực tiễn: Khi so sánh với pháp luật Cộng hịa Croatia, họ có quy định thời
hạn để pháp nhân cử người đại diện tham gia tố tụng là 8 ngày4. Tuy nhiên, trong
BLTTHS năm 2015 của Việt Nam lại không quy định về thời hạn để pháp nhân cử
người đại diện theo pháp luật của mình tham gia tố tụng, điều này có thể dẫn tới khó
khăn cho cơ quan có thẩm quyền THTT vì khơng thể tạm ngưng quá trình tố tụng
trong một thời gian dài để chờ người đại diện được cử5; hoặc pháp luật nước ta quy
định pháp nhân phải cử và bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham
gia đầy đủ các hoạt động từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu
của cơ quan có thẩm quyền. Do đó, có nhiều trường hợp người đại diện của pháp
nhân từ chối tham gia tố tụng vì có thể ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống cá nhân và
cơng việc, nên việc họ tìm lý do để từ chối tham gia tố tụng là điều dễ hiểu6.
Vì vậy, với hy vọng qua kết quả nghiên cứu, so sánh quy định giữa Bộ luật
Tố tụng hình sự Việt Nam và Luật về Trách nhiệm của pháp nhân đối với tội phạm
3

Ban hành ngày 11/09/2003. Republic of Croatia, The Act on the Responsibility of Legal Persons for the Criminal
Offences -CO.pdf,
truy cập ngày 4/1/2021.
4
Article 28.1 Republic of Croatia, The Act on the Responsibility of Legal Persons for the Criminal Offences
/>truy cập ngày 21/1/2021.
5
Lê Huỳnh Tấn Duy,“Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân theo pháp luật Việt Nam và một số
quốc gia”, Kỷ yếu Hội thảo “Trách nhiệm hình sự và hoạt động tố tụng hình sự đối với pháp nhân thương
mại”, Đại học Cảnh sát nhân dân, tr. 5.
6
Nguyễn Văn Quân (2018), “Xác định người đại diện của pháp nhân trong tố tụng hình sự Pháp và một vài
gợi ý trong tố tụng hình sự của Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 3+4, tr. 126.



3
của Cộng hịa Croatia, tác giả sẽ đóng góp được một phần vào tri thức khoa học liên
quan đến đề tài đã chọn, nhằm hoàn thiện hơn quy định liên quan đến Người đại
diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chính vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài Người đại diện của pháp nhân
bị truy cứu trách nhiệm hình sự: Nghiên cứu so sánh với pháp luật tố tụng hình sự
Cộng hịa Croatia và kinh nghiệm cho Việt Nam làm đề tài luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Trong những năm qua, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học liên quan
đến đề tài Người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở nhiều
góc độ khác nhau. Có thể chia làm 03 nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất: Hệ thống các sách chuyên khảo, tham khảo, giáo trình và
bình luận khoa học liên quan đến đề tài bao gồm:
Sách chuyên khảo “Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
thương mại và những vấn đề đặt ra khi thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự” (2019) do
PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí là chủ biên, NXB. Chính trị quốc gia sự thật.
Cuốn sách phân tích những nội dung căn bản trong thủ tục truy cứu trách
nhiệm hình sự pháp nhân như: Khái niệm, phạm vi áp dụng, thủ tục điều tra, truy tố,
xét xử, áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
Ngoài ra, sách cũng giới thiệu thêm các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp
nhân tại một số quốc gia và tổng hợp những bài viết của các tác giả khác có liên
quan đến thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân. Trong đó có người đại
diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó, đưa ra những đề
xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện BLTTHS Việt Nam cũng như góp phần đấu tranh
hiệu quả phịng, chống tội phạm.
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội;
Giáo trình Luật dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; Giáo

trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh của Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Các giáo trình này đề cập khái quát về các nội dung căn bản như: Khái niệm
về người đại diện theo pháp luật; các giai đoạn tố tụng khi giải quyết vụ án hình


4
sự (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử), quyền và nghĩa vụ của người đại diện của
pháp nhân,…
Nhóm thứ hai: Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài dưới dạng bài
viết, tạp chí khoa học gồm:
Bài viết “Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân ở một số
quốc gia và những gợi mở cho Việt Nam” của tác giả PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 21/2018.
Trong bài viết, tác giả so sánh thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân ở
hai mơ hình Common Law và Civil Law để làm rõ sự khác biệt. Từ đó, tác giả gợi
mở những điều hay có thể áp dụng vào Việt Nam vì hiện nay, thủ tục tại Việt Nam
có vẻ giống với cách tiếp cận của Châu Âu.
Bài viết “Xác định người đại diện của pháp nhân trong tố tụng hình sự Pháp
và một vài gợi ý trong tố tụng hình sự của Việt Nam” của TS. Nguyễn Văn Quân,
Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 3+4/2018.
Trong bài viết, tác giả phân tích các quy định về người đại diện của pháp nhân trong
Bộ luật Tố tụng hình sự Pháp. Đồng thời, so sánh, đánh giá những ưu, nhược điểm
của các quy định này. Từ đó, tác giả có một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 tại Điều 434 “Người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân khi tham gia tố tụng”.
Bài viết “Nghiên cứu một số quy định đặc thù về thủ tục tố tụng hình sự đối
với pháp nhân trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Trịnh Quốc
Toản, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội: Luật học, Tập 34, Số 3/2018, Tr.
21-35. Trong bài viết, tác giả đã chỉ ra các bất cập trong thủ tục truy cứu trách
nhiệm hình sự pháp nhân. Đồng thời, đề xuất một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn

thiện các quy định ấy. Trong đó, có chế định về người đại diện của pháp nhân bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bài viết “Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân theo pháp luật
Việt Nam và một số quốc gia” của tác giả Lê Huỳnh Tấn Duy, Trường Đại học Luật
TP. Hồ Chính Minh, Kỷ yếu Hội thảo “Trách nhiệm hình sự và hoạt động tố tụng
hình sự đối với pháp nhân thương mại”, Đại học Cảnh sát nhân dân. Trong bài
viết, tác giả phân tích và đánh giá một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân. Trong đó có


5
vấn đề về người đại diện của pháp nhân. Ngoài ra, tác giả cịn tìm hiểu quy định của
pháp luật tố tụng hình sự ba quốc gia là Hàn Quốc, Cộng hịa Croatia, Bosnia và
Herzegovina. Từ đó đưa ra các đề xuất hoàn thiện quy định của BLTTHS Việt Nam
về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân cũng như người đại diện
của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bài viết “Một số vấn đề đặt ra trong truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
pháp nhân thương mại phạm tội buôn lậu và giải pháp kiến nghị” của tác giả
Phạm Xuân Việt, Tạp chí Nghề Luật, số 3/2019, trang 63-67. Trong bài viết, tác
giả phân tích, làm rõ một số vấn đề đặt ra khi truy cứu trách nhiệm hình sự pháp
nhân thương mại phạm tội buôn lậu và kiến nghị giải pháp hồn thiện. Trong đó
có nêu ra những bất cập liên quan đến người đại diện của pháp nhân bị truy cứu về
tội buôn lậu.
Bài viết “Một số vấn đề đặt ra trong truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
pháp nhân thương mại phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả” của tác giả Hồng
Hải, Tạp chí Nghề Luật, số 5/2020, trang 33-38. Nội dung bài viết tác giả phân tích,
làm rõ một số vấn đề đặt ra trong truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân thương
mại phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả và kiến nghị giải pháp hồn thiện. Trong
đó có nêu ra những bất cập liên quan đến người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân bị truy cứu về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.

Nhóm thứ ba: Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, tiếp cận dưới
góc độ pháp luật doanh nghiệp thể hiện thông qua các đề tài luận văn thạc sĩ gồm:
Luận văn thạc sĩ “Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo pháp Luật
Doanh nghiệp Việt Nam” (2014) của tác giả Phạm Lâm Hải Nguyên, Luật kinh tế Khoa Luật, Đại học Luật TP. Hồ Chính Minh. Luận văn được nghiên cứu dưới góc
độ Luật Doanh nghiệp 2014. Tác giả tập trung phân tích những lý luận cơ bản về
quan hệ đại diện và người đại diện của doanh nghiệp, phân tích, đánh giá thực trạng
các quy định của pháp luật doanh nghiệp về chế định người đại diện của doanh
nghiệp. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
doanh nghiệp Việt Nam về chế định người đại diện của doanh nghiệp.
Luận văn thạc sĩ “Người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
năm 2020” (2021) của tác giả Vũ Thị Hoài Thương, Luật kinh tế, Học viện Khoa
học xã hội. Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ Luật Doanh nghiệp 2020. Tác


6
giả phân tích những lý luận cơ bản về quan hệ đại diện và người đại diện của
doanh nghiệp, so sánh và đánh giá với quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014.
Từ đó, đưa ra đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về người đại diện
của doanh nghiệp.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi
Sách “Corporate criminal liability - A review of law and practice across
the globe” của Công ty Luật đa quốc gia Linklaters, 9/2016. Cuốn sách có nội
dung xoay quanh việc đánh giá về luật và thực tiễn liên quan đến trách nhiệm
hình sự của pháp nhân tại 24 khu vực trên khắp Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ và
Châu Á - Thái Bình Dương. Cung cấp các quan điểm về khái niệm trách nhiệm
hình sự của pháp nhân trong các khu vực tài phán khác nhau, đây được xem như
là chìa khố để quản lý rủi ro doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp quốc
tế. Bên cạnh đó, cuốn sách cung cấp các thông tin liên quan đến người đại diện
của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự như: Tại South Africa, thời điểm
nào lời nhận tội của người đại diện được xem như lời nhận tội của pháp nhân.

Tại Hồng Kơng, khi nào người đại diện của pháp nhân có nghĩa vụ hợp tác với
cơ quan tố tụng,…
Sách“Prosecuting corporate corruption in Europe: An analysis of legal
frameworks and their implementation across selected jurisdictions” của Jennifer
Schöberlein và Roberto Martinez B. Kukutschka Transparency International (2019).
Cuốn sách nói về việc truy tố các pháp nhân phạm tội hối lộ tại các nước thuộc
Châu Âu gồm: Đức, Anh, Pháp,…Trong đó, có các nội dung liên quan đến người
đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự như: Ở Pháp, người đại diện
có thể được hiểu theo nghĩa rộng khi áp dụng không chỉ cho nhân viên, mà còn cho
những người đã được giao quyền hạn. Tại Vương Quốc Anh, pháp nhân sẽ bị kết tội
tham nhũng nếu người đại diện của pháp nhân nhận hối lộ (không phân biệt người
đại diện thuộc ngành cơng hay ngành tư),…
2.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu
Các cơng trình khoa học nêu trên đã nghiên cứu về chế định Người đại diện
của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở các góc độ khác nhau và đều đã có
những đóng góp nhất định. Kết quả của các cơng trình này được tác giả kế thừa và
tiếp thu. Cụ thể:


7
Đối với những sách chuyên khảo, tham khảo, giáo trình: Tác giả được cung
cấp những kiến thức từ căn bản đến chuyên sâu liên quan đến “Người đại diện của
pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự”, giúp tác giả hiểu rõ nội dung của chế
định này trong lý luận cũng như trong luật thực định.
Đối với những bài viết khoa học ở dạng tài liệu, tạp chí: Tác giả được tiếp cận
đề tài dưới nhiều góc độ, quan điểm khác nhau, từ đó nâng cao được lối tư duy pháp
lý liên quan đến “Người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Bài viết khoa học có sự so sánh với pháp luật nước ngồi hoặc sách tham
khảo nước ngồi: Tác giả có thể đánh giá được những quy định nào về “Người đại
diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự” tại pháp luật Việt Nam cịn

chưa hồn chỉnh và giúp tác giả có cái nhìn tồn diện cũng như những hướng gợi
mở mới để đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ liên quan đến đề tài tiếp cận dưới góc độ luật doanh
nghiệp: Tài liệu này cung cấp cho tác giả những kiến thức cơ bản về “Người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp”. Bởi lẽ, định nghĩa và nội hàm của chủ thể
này có thể được hiểu đầy đủ nhất thơng qua Luật doanh nghiệp. Từ đó, tác giả có
cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về chế định này.
Tuy nhiên, thông qua những tài liệu nghiên cứu trên, xét về hình thức luận
văn thạc sĩ, hiện tại vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn vẹn và
đầy đủ về “Người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự: Nghiên
cứu so sánh với pháp luật tố tụng hình sự Cộng hịa Croatia và kinh nghiệm cho
Việt Nam”. Do đó, đề tài luận văn của tác giả đảm bảo yêu cầu về tính mới trong
nghiên cứu khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và làm rõ vấn đề lí luận về “Người đại diện của pháp
nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự” nhằm đóng góp một phần tri thức khoa học
liên quan đến đề tài đã chọn. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên cứu, so sánh quy
định của BLTTHS Việt Nam với Luật về Trách nhiệm của pháp nhân đối với tội
phạm của Cộng hòa Croatia để học tập những kinh nghiệm tiến bộ. Từ đó, tác giả
kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn về chế định này.


8
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn cần hoàn thành những
mục tiêu nghiên cứu cụ thể sau:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về so sánh luật và người đại diện của
pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, so sánh một số quy định của BLTTHS Việt Nam và Luật về Trách

nhiệm của pháp nhân đối với tội phạm của Cộng hòa Croatia về người đại diện của
pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, chỉ ra được những bất cập, hạn chế của BLTTHS Việt Nam và
những quy định tiến bộ, phù hợp trong Luật về Trách nhiệm của pháp nhân đối với
tội phạm của Cộng hòa Croatia mà Việt Nam cần học tập về người đại diện của
pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ tư, đưa ra đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định của BLTTHS Việt Nam trên
cơ sở học tập những kinh nghiệm từ pháp luật của Cộng hòa Croatia.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số quy định của BLTTHS Việt
Nam năm 2015 và Luật về Trách nhiệm của pháp nhân đối với tội phạm của Cộng
hòa Croatia liên quan đến người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm
hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu và đánh giá những vấn đề xoay quanh về
người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự (bao gồm phạm vi,
quyền và nghĩa vụ của người đại diện của pháp nhân, thời hạn cử người đại diện của
pháp nhân, thẩm quyền chỉ định người đại diện của pháp nhân và triệu tập người đại
diện của pháp nhân) tại Cộng hòa Croatia và Việt Nam dưới góc độ các quy định
của pháp luật TTHS hai nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp nghiên cứu so sánh: Đây là phương pháp chủ đạo, được sử
dụng để so sánh quy định giữa Luật về Trách nhiệm của pháp nhân đối với tội phạm


9
của Cộng hòa Croatia và BLTTHS Việt Nam về người đại diện của pháp nhân bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.

Phương pháp nghiên cứu lý thuyết luật học: Phân tích, nghiên cứu quy phạm
pháp luật trong BLTTHS Việt Nam và Luật về Trách nhiệm của pháp nhân đối với
tội phạm của Cộng hịa Croatia để làm rõ vấn đề lí luận về người đại diện của pháp
nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về người đại diện của pháp nhân bị
truy cứu TNHS theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Cộng hịa Croatia và
Việt Nam như: khái niệm, đặc điểm, vai trò của người đại diện của pháp nhân bị
truy cứu TNHS.
- Luận văn đã nghiên cứu toàn diện và đầy đủ những quy định về người đại
diện của pháp nhân bị truy cứu TNHS trên các nội dung cụ thể được quy định tại
pháp luật tố tụng hình sự Cộng hịa Croatia và Việt Nam.
- Luận văn đã nêu ra những điểm giống và khác nhau về người đại diện của
pháp nhân bị truy cứu TNHS dựa trên cơ sở so sánh, phân tích các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự Cộng hịa Croatia và Việt Nam. Từ đó, đánh giá những ưu
điểm, hạn chế về người đại diện của pháp nhân bị truy cứu TNHS trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam.
- Bên cạnh đó, luận văn đã có những phát hiện và đánh giá về những quy
định tiến bộ, đáng học tập của Cộng hòa Croatia về người đại diện của pháp nhân
bị truy cứu TNHS. Từ đó, đề xuất những kiến nghị, giải pháp xây dựng các nội
dung cụ thể liên quan đến người đại diện của pháp nhân bị truy cứu TNHS, góp
phần hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự nói riêng, hệ thống pháp luật Việt Nam
nói chung.
Với những ý nghĩa như vậy, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm
tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập về pháp luật hình
sự và tố tụng hình sự; đồng thời cũng là tài liệu tham khảo bổ ích trong việc hồn
thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, góp phần giúp các cán bộ làm công tác
thực tiễn giải quyết những vướng mắc trong việc áp dụng quy định của BLTTHS về
người đại diện của pháp nhân bị truy cứu TNHS.



10
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được kết cấu như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về so sánh luật và người đại diện của pháp
nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Chương 2. So sánh quy định về người đại diện của pháp nhân bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo pháp luật Cộng hòa Croatia và Việt Nam
Chương 3. Yêu cầu, kiến nghị hồn thiện quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
trên cơ sở học tập kinh nghiệm của pháp luật Cộng hòa Croatia


11
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SO SÁNH LUẬT VÀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN
CỦA PHÁP NHÂN BỊ TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1. Một số vấn đề lý luận về so sánh luật
Trong thời đại tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay, nâng cao hiểu
biết về pháp luật nước ngoài là một việc rất quan trọng để các quốc gia có thể trau
dồi kiến thức cũng như học tập kinh nghiệm lập pháp lẫn nhau. Do đó, trong nghiên
cứu khoa học pháp lý, phương pháp so sánh là phương pháp phổ biến, có ý nghĩa
lớn trong việc phân tích ưu và nhược điểm của các hệ thống pháp luật. Từ đó, có thể
lý giải sự tương đồng, khác biệt giữa các nền pháp luật với nhau và đưa ra những đề
xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật của các quốc gia.
Nghiên cứu so sánh pháp luật được hiểu là hoạt động nghiên cứu có tính hệ
thống về những quy định pháp luật và truyền thống pháp lý cụ thể trên nền tảng so
sánh hoặc làm sáng tỏ thông tin liên quan giữa hai hay nhiều hệ thống pháp luật, lý
giải sự khác biệt và tăng tính hiểu biết của người nghiên cứu về các mơ hình pháp

luật thuộc đối tượng nghiên cứu7. Hoạt động so sánh pháp luật và nghiên cứu pháp
luật nước ngồi có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ trợ cho nhau trong quá
trình nghiên cứu khoa học pháp lý.
Trong luận văn nghiên cứu so sánh với pháp luật nước ngồi, địi hỏi phải có
sự kết hợp của nhiều phương pháp nghiên cứu. Trong đó, phương pháp so sánh là
phương pháp chủ đạo. Việc nắm rõ lợi ích, cũng như lý do lựa chọn đối tượng và
phạm vi so sánh có vai trị rất quan trọng, nhằm giúp tác giả có cái nhìn đúng đắn
trong quá trình nghiên cứu đề tài luận văn.
1.1.1. Lợi ích của việc so sánh luật
So sánh luật là hoạt động nghiên cứu pháp luật giữa các quốc gia, bao gồm
các quy trình như phân tích quy định pháp luật và so sánh chúng dựa trên những cơ
sở khác nhau, nhấn mạnh vào các cơ chế pháp lý đang được các quốc gia áp dụng
và so sánh chúng8. Trong thời đại tồn cầu hóa và thương mại ngày càng phát triển
Đỗ Minh Khôi, Dương Hồng Thị Phi Phi, Phạm Thị Phương Thảo (2016), Phương pháp, quy trình và kỹ
thuật nghiên cứu cơ bản trong khoa học pháp lý, NXB Đại học quốc gia TP.HCM, tr. 54, 56.
8
Vishruti Chauhan, “Importance of comparative legal studies”, truy cập ngày 1/5/2022.
7


12
như hiện nay, việc so sánh luật ngày càng trở nên quan trọng, khơng chỉ vì mục đích
học tập kinh nghiệm lập pháp và củng cố mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia
trên thế giới mà còn một vài lợi ích như sau:
Thứ nhất, giúp người nghiên cứu nâng cao hiểu biết về pháp luật của các
quốc gia, tạo điều kiện hiểu rõ hơn về nội luật.
Mục đích của bất kì cơng trình nghiên cứu khoa học nào cũng đều hướng
đến việc mang lại giá trị tri thức cho xã hội. Việc nghiên cứu, so sánh pháp luật
nước ngồi cũng khơng ngoại lệ. Khi nghiên cứu pháp luật nước ngồi, đầu tiên
chúng ta phải tìm hiểu và phân tích về các mơ hình pháp luật trên thế giới để có

cái nhìn tồn diện về hệ thống pháp luật của các quốc gia (bao gồm hệ thống
pháp luật của quốc gia được so sánh). Thêm vào đó, ta phải nắm rõ cấu trúc của
hệ thống pháp luật giữa các quốc gia để có thể xác định chính xác phạm v i
nghiên cứu. Chẳng hạn, người đại diện của pháp nhân bị truy cứu TNHS trong
pháp luật Việt Nam được quy định tại BLTTHS 2015 nhưng trong pháp luật
Cộng hòa Croatia lại được quy định tại Luật về Trách nhiệm của pháp nhân đối
với tội phạm.
Ngoài ra, hoạt động nghiên cứu so sánh pháp luật nước ngoài tạo điều kiện
để các nhà nghiên cứu nhìn nhận, phân tích hệ thống nội luật theo nhiều khía cạnh
khác nhau mà trước đây chưa thực hiện. Từ đó, có thể hiểu vì sao quốc gia lại quy
định như vậy mà không quy định khác, giúp cho các nhà nghiên cứu có một cái
nhìn khách quan, đa chiều đối với hệ thống pháp luật quốc gia.
Mục đích của việc so sánh luật là tìm ra điểm giống và khác nhau, thường là
giữa các quy phạm pháp luật hoặc giữa các hệ thống pháp luật. Do đó, để đạt được
mục đích này, các nhà nghiên cứu cần phải chú ý đến các yếu tố có thể tác động
một cách gián tiếp hoặc trực tiếp đến sự hình thành và áp dụng các quy phạm pháp
luật như kinh tế, hệ thống chính trị, tư tưởng, tơn giáo, lịch sử, địa lý9,… không nên
chỉ so sánh suông các quy phạm pháp luật với nhau. Do đó, ngồi việc cung cấp tri
thức về pháp luật cho các nhà nghiên cứu, hoạt động nghiên cứu so sánh pháp luật
nước ngồi cịn tạo điều kiện cho các luật gia tiếp cận đa dạng tri thức ở những lĩnh
vực khác nhau.
Lê Xuân Tùng, “Vận dụng phương pháp so sánh trong nghiên cứu khoa học pháp lý - Một số vấn đề cần
suy ngẫm”, Tạp chí Giáo dục và Xã hội (tháng 6/2021), />Attachments/323426/CVv328S1232021070.pdf, truy cập ngày 10/5/2022.
9


13
Thứ hai, nâng cao ngoại ngữ pháp lý.
Ngoại ngữ là một điều kiện bắt buộc phải có khi thực hiện hoạt động so sánh
luật. Đây là một phương tiện quan trọng quyết định việc hiểu chính xác ý nghĩa của

các tài liệu liên quan đến pháp luật nước ngồi. Đơi khi sẽ khó khăn vì một từ có thể
giống nhau, nhưng cách dịch và hiểu từ đó sao cho chính xác lại phụ thuộc vào các
quốc gia và ngược lại. Vì vậy, khi dịch thuật ngữ liên quan đến pháp luật, ta phải
dựa trên quan điểm pháp luật của nước sở tại.
Bên cạnh đó, theo quan điểm của tác giả, hiện nay có 02 loại ngoại ngữ:
ngoại ngữ thơng thường và ngoại ngữ pháp lý. Hai loại này có tính chất hồn tồn
khác nhau. Trong pháp lý, có những thuật ngữ, từ vựng chuyên ngành mà nếu chỉ
dùng ngôn ngữ thông thường sẽ không diễn tả đúng bản chất hay ý nghĩa thật sự mà
thuật ngữ pháp lý hoặc điều luật đó truyền tải. Ví dụ: “Lawyer” trong tiếng anh
thơng thường là luật sư, nhưng trong pháp lý, luật sư được chia làm nhiều loại, mỗi
loại có một tên gọi riêng như luật sư bào chữa (Defence counsel), luật sư tranh tụng
(Barrister),… Do đó, thơng qua việc so sánh pháp luật nước ngồi, các nhà nghiên
cứu có thể nâng cao khả năng dịch thuật, cũng như hiểu rõ hơn về việc sử dụng
ngoại ngữ pháp lý.
Thứ ba, hội nhập và thống nhất quốc tế về mặt pháp lý.
Trong quá trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay, hoạt động
nhất thể hóa và hội nhập pháp luật của các nước có vai trị hết sức quan trọng. Khi
thực hiện hoạt động so sánh luật, tức là ta phải tìm ra những vấn đề cụ thể nào cần
thống nhất; những đặc điểm chung và khác nhau của các hệ thống pháp luật của các
nước; lý giải được sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật; và phải xây dựng các
giải pháp cho tiến trình nhất thể hóa và hội nhập pháp luật10.
Hài hịa hóa pháp luật (legal harmonization) và nhất thể hóa pháp luật (legal
unification) là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau và được sử dụng phổ biến trong khoa
học pháp lý11. Trong đó, hài hịa hóa pháp luật là q trình nhằm làm giảm đi những
khác biệt trong các lĩnh vực pháp luật, bằng cách xây dựng các luật mẫu và thực hiện
các biện pháp để khuyến khích các quốc gia tiếp nhận và áp dụng. Nhất thể hóa pháp
luật là q trình theo đó các quy phạm pháp luật mâu thuẫn của các hệ thống pháp luật
Ngô Huy Cương (2003), “Luật so sánh và việc dạy luật so sánh ở Việt Nam: Từ một quan điểm tới một
quan điểm”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN Kinh tế- Luật, số 2, tháng 9, tr. 38.
11

Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật so sánh, NXB. Công an nhân dân, tr. 76.
10


14
khác nhau được thay thế bởi các quy phạm pháp luật chung nhất12. Hay nói cách khác,
hài hịa hóa pháp luật làm giảm đi những sự khác biệt trong cùng lĩnh vực pháp luật,
cịn nhất thể hóa pháp luật có tính chất mạnh hơn khi các nước phải từ bỏ quy phạm
pháp luật của mình để thay thế bởi các quy phạm pháp luật chung.
Đây là hai quá trình hết sức khó khăn và phức tạp, đặc biệt là vấn đề liên
quan đến kĩ thuật pháp lý, cụ thể là sự khác biệt về quan điểm và thuật ngữ giữa các
hệ thống pháp luật khác nhau13. Bên cạnh đó, khi thực hiện hai q trình nhất thể
hóa pháp luật và hài hịa hóa pháp luật sẽ khó tránh khỏi các luồng ý kiến trái chiều
xoay quanh vấn đề tự tôn dân tộc. Do đó, các nhà nghiên cứu cần lưu ý khi xây
dựng hệ thống quy phạm pháp luật chung là phải dung hịa được lợi ích của các
quốc gia trong q trình đàm phán, từ đó mới có thể dễ dàng áp dụng cho các quốc
gia, ngay cả những quốc gia khơng cùng nền kinh tế, chính trị, xã hội,…nhằm tạo ra
một môi trường hội nhập và thống nhất pháp luật tốt nhất.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật.
Một trong những lợi ích quan trọng nhất của hoạt động so sánh luật là hỗ trợ
việc xây dựng và cải cách hệ thống pháp luật của chính quốc gia mình.
Khi thực hiện hoạt động so sánh luật, các nhà nghiên cứu sẽ có cái nhìn tổng
qt về những khó khăn và hạn chế của nội luật, thốt khỏi “vùng an tồn” để có
tầm nhìn rộng và khách quan hơn. Nếu được tiến hành so sánh ở nhiều quốc gia
khác nhau, nhà làm luật có thể thấy được sự hình thành của những vấn đề pháp lý
hiện đại xảy ra ở các nước (có thể những vấn đề này chưa xảy ra ở quốc gia mình);
tránh được những bất cập trong quá trình vận hành các quy phạm pháp luật cũng
như có được những giải pháp phù hợp trong việc xử lý một vấn đề pháp lý cụ thể.
Từ đó, có thể dự báo được xu hướng phát triển của pháp luật trên thế giới, góp phần
hồn thiện pháp luật quốc gia.

Tuy nhiên, việc học tập kinh nghiệm từ nước ngồi thơng qua hoạt động so
sánh luật cần lưu ý đến các yếu tố như: kinh tế, chính trị, xã hội,… để có thể đề xuất
những kiến nghị, giải pháp phù hợp với tình hình của quốc gia mình.
1.1.2. Lý do lựa chọn, đối tượng và phạm vi so sánh với pháp luật tố tụng
hình sự Cộng hịa Croatia
- Lý do lựa chọn pháp luật TTHS Cộng hòa Croatia để so sánh
12
13

Đại học Luật Hà Nội (2017), tlđd (11), tr. 77.
Đại học Luật Hà Nội (2017), tlđd (11), tr. 77.


15
Thứ nhất, nhu cầu hợp tác quốc tế giữa Việt Nam và Cộng hịa Croatia.
Trong bối cảnh tình hình tội phạm phức tạp như hiện nay, việc hợp tác quốc
tế về pháp luật với các quốc gia là điều rất cần thiết, mang nhiều ý nghĩa, chẳng hạn
trong việc cải cách pháp luật, dự đoán được xu hướng mới nhất của tội phạm, chuẩn
bị hoặc đề xuất những hướng xử lý phù hợp.
Cộng hòa Croatia và Việt Nam là hai quốc gia có mối quan hệ hữu nghị lâu
đời. Một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Croatia là
mở rộng quan hệ với châu Á, các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam14. Ngồi ra,
giữa Việt Nam và Croatia đã có sự hợp tác hiệu quả khơng chỉ tại Liên hợp quốc mà
cịn trong các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế. Chính vì vậy, quan hệ hợp tác
quốc tế giữa Việt Nam và Croatia là một mối quan hệ giàu tiềm năng, mang lại rất
nhiều lợi ích khơng chỉ về kinh tế-xã hội mà còn trên phương diện pháp luật.
Thứ hai, Cộng hịa Croatia có một đạo luật riêng khi quy định về thủ tục truy
cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân.
Mơ hình TTHS Việt Nam hiện hành đã mang lại những hiệu quả tốt trong
cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và từng

bước đáp ứng được yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân15. Chẳng hạn, BLTTHS 2015 đã bổ sung chương “Thủ tục truy cứu trách
nhiệm hình sự pháp nhân” bắt kịp với xu hướng tội phạm trên thế giới, nhằm không
bỏ lọt tội phạm đối với chủ thể là pháp nhân. Tuy nhiên, mơ hình nào cũng có
những ưu, nhược điểm. Trong q trình vận hành mơ hình này, đã xuất hiện một số
điểm hạn chế, bất cập, chẳng hạn như: có sự mâu thuẫn giữa các chức năng cơ bản
trong quá trình tố tụng, vai trị của tịa án q cao,… Đặc biệt, pháp nhân là một chủ
thể tội phạm mới được bổ sung vào pháp luật hình sự, do đó cịn nhiều quy phạm
thể hiện sự khơng cơng bằng giữa chủ thể cá nhân và pháp nhân.
Xét về mơ hình TTHS, Cộng hịa Croatia theo mơ hình tố tụng tranh tụng,
Việt Nam theo mơ hình tố tụng pha trộn thiên về thẩm vấn. Giữa Croatia và Việt
Nam có nhiều điểm tương đồng và khác biệt trong cách xây dựng pháp luật TTHS,
Chu An, “Thúc đẩy quan hệ hợp tác giàu tiềm năng giữa Việt Nam – Croatia”, truy cập 13/5/2022.
15
Nguyễn Thảo, “Mơ hình tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới và một số gợi mở cho Việt Nam
trong quá trình sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự”, />-to-tung-hinh-su-292909/, truy cập 16/5/2022.
14


16
chẳng hạn như trình tự, thủ tục trong hoạt động xử lý các vấn đề liên quan đến
người đại diện của pháp nhân bị truy cứu TNHS,… Do đó, việc tham khảo mơ hình
tố tụng tranh tụng của Croatia, từ đó đánh giá về thực trạng mơ hình TTHS ở Việt
Nam dựa cơ sở giữ nền tảng của mơ hình tố tụng pha trộn thiên về thẩm vấn là hoạt
động mang ý nghĩa quan trọng trong quá trình lập pháp.
Bên cạnh đó, vấn đề TNHS của pháp nhân đã được quy định trong pháp luật
hình sự của nhiều nước trên thế giới như Anh, Mỹ, Canada, Australia, Hà Lan, Bồ
Đào Nha, Phần Lan, Vương quốc Bỉ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha và gần đây, một loạt
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu như Slovakia, Hungari, Lavia, Estonia,
Croatia,....16. Tác giả lựa chọn pháp luật Croatia để nghiên cứu và học tập bởi vì đây

là một trong số ít các quốc gia trên thế giới có một văn bản pháp luật riêng điều
chỉnh về thủ tục truy cứu TNHS của pháp nhân17, cụ thể là “Luật về Trách nhiệm
của pháp nhân đối với tội phạm”. Vì là luật riêng bên cạnh BLTTHS, nên luật này
sẽ quy định đầy đủ và cụ thể hơn các vấn đề về thủ tục truy cứu TNHS pháp nhân,
chẳng hạn như: Trình tự, thủ tục, thẩm quyền, đặc biệt là các quy phạm pháp luật
liên quan đến người đại diện của pháp nhân bị truy cứu TNHS. Điều này tạo sự
thuận lợi cho tác giả khi thực hiện hoạt động so sánh pháp luật của hai quốc gia và
đưa ra các kiến nghị phù hợp nhằm hồn thiện BLTTHS của Việt Nam.
Trong q trình nghiên cứu BLTTHS 2015, tác giả nhận thấy một số quy
định về thời hạn cử người đại diện, quyền và nghĩa vụ của người đại diện, phạm vi
những người có thể trở thành người đại diện của pháp nhân bị truy cứu TNHS ở
BLTTHS 2015 vẫn còn nhiều bất cập và thiếu sót, có thể dẫn đến sự chồng chéo
giữa các quy định với nhau và gây ra khó khăn cho các cơ quan THTT. Do đó, việc
nghiên cứu thêm chế định này ở Cộng hòa Croatia là cần thiết.
- Đối tượng và phạm vi so sánh với pháp luật TTHS Cộng hòa Croatia.
Một luận văn nghiên cứu so sánh với pháp luật nước ngồi ln có đối tượng
nghiên cứu là: các quy định pháp luật, nguyên tắc pháp luật,… Trong luận văn
nghiên cứu của tác giả, đối tượng được so sánh chính là các quy định pháp luật của
BLTTHS Việt Nam và Luật về Trách nhiệm của pháp nhân đối với tội phạm của
Cộng hòa Croatia về người đại diện của pháp nhân bị truy cứu TNHS.
Bộ Tư pháp, “Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự của pháp nhân” (02/10/2017) />qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2219, truy cập ngày 29/5/2022.
17
Lê Huỳnh Tấn Duy, Nguyễn Trương Thanh Thảo (2022), “Người đại diện của pháp nhân trong tố tụng
hình sự Croatia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học kiểm sát, số 04, tr. 61.
16


17
Mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân đều phải được thực hiện thông qua một
cá nhân gọi là người đại diện theo pháp luật. Người này có thể tham gia vào quá

trình TTHS với tư cách là người đại diện cho pháp nhân, bị hại trong vụ án hình sự,
người làm chứng,… Tuy nhiên, trong luận văn của mình, tác giả chỉ nghiên cứu so
sánh và đánh giá các quy phạm trong phạm vi liên quan đến người đại diện của
pháp nhân bị truy cứu TNHS, cụ thể gồm các vấn đề: phạm vi người đại diện của
pháp nhân bị truy cứu TNHS; vấn đề lựa chọn người đại diện và thời hạn cử người
đại diện của pháp nhân bị truy cứu TNHS; quyền và nghĩa vụ của người đại diện
của pháp nhân bị truy cứu TNHS; thẩm quyền chỉ định và chi phí của người đại
diện của pháp nhân khi tham gia TTHS. Sau đó, chọn lọc và đề xuất các kiến nghị
phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở Việt Nam.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò người đại diện của pháp nhân bị truy
cứu trách nhiệm hình sự
1.2.1. Khái niệm người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm
hình sự
Để hiểu rõ khái niệm “người đại diện của pháp nhân bị truy cứu TNHS” ta
cần làm rõ một số khái niệm liên quan như: đại diện, người đại diện của pháp nhân,
người đại diện của pháp nhân bị truy cứu TNHS.
- Khái niệm đại diện
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “đại diện là sự thay mặt cho cá nhân, tập thể”18.
Theo Từ điển Luật học thì “đại diện là việc một người, một cơ quan, tổ chức khác
xác lập, thực hiện hành vi pháp lý trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Người đại
diện là người nhân danh và vì các lợi ích của một người khác xác lập, thực hiện các
giao dịch trong phạm vi thẩm quyền đại diện”19. Từ đó, ta có thể hiểu, đại diện là
quan hệ gồm có người đại diện và người được đại diện, trong đó, người đại diện sẽ
thay mặt và vì lợi ích của người được đại diện thực hiện một giao dịch cụ thể.
Trên thực tế, quan hệ đại diện hay nói cách khác là quan hệ giữa người đại
diện và người được đại diện diễn ra chủ yếu ở lĩnh vực thương mại, cụ thể là quan
hệ giữa người đại diện với pháp nhân. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, BLDS
Viện Ngôn ngữ học (2018), Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên), Nxb Hồng Đức, tr. 351.
Bộ Tư Pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp,
Hà Nội, tr. 225.

18
19


18
2015, LDN 2020, BLHS 2015 và BLTTHS 2015 là các bộ luật điều chỉnh chủ yếu
về vấn đề liên quan đến pháp nhân nói chung và TNHS của pháp nhân nói riêng
(bao gồm người đại diện của pháp nhân bị truy cứu TNHS). Còn trong pháp luật
của Cộng hòa Croatia, Luật về trách nhiệm của pháp nhân đối với tội phạm là luật
riêng được thành lập để điều chỉnh về vấn đề thủ tục truy cứu TNHS với pháp nhân,
trong đó có quy định liên quan đến người đại diện của pháp nhân.
- Khái niệm về người đại diện của pháp nhân
Theo Điều 137 và Điều 138 BLDS 2015, người đại diện của pháp nhân có 2
loại: người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Trong đó,
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh
nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp,
đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự,
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa
án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật20. Người đại diện theo
ủy quyền là người đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và
người được đại diện. Người đại diện theo ủy quyền nhân danh người ủy quyền xác
lập và thực hiện các giao dịch trong phạm vi thẩm quyền đại diện được xác lập
theo văn bản ủy quyền”21.
Như vậy, từ sự phân tích những định nghĩa, quy phạm pháp luật nói trên,
người đại diện của pháp nhân là người thay mặt và vì lợi ích cho cá nhân, tập thể
làm một cơng việc cụ thể nào đó hoặc thực hiện các giao dịch trong phạm vi thẩm
quyền đại diện. Có hai loại người đại diện cho pháp nhân: đại diện theo pháp luật và
đại diện theo ủy quyền.
- Khái niệm người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Trong những năm vừa qua, việc phát triển nền kinh tế thị trường không chỉ

giúp nền kinh tế phát triển, mà cịn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân. Nhưng bên cạnh những lợi ích của nền kinh tế thị trường, cịn có những
bất lợi như nhiều tổ chức doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh
trái với quy định của pháp luật, gây ra nhiều hậu quả nghiệm trọng đối với đời sống
của người dân, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức. Tuy nhiên, chế tài
Điều 12 LDN 2020.
Lê Minh Trường, “Người đại diện là gì? Thời hạn đại diện theo quy định của luật dân sự”, https://luatminhkhue.
vn/nguoi-dai-dien-la-gi---khai-niem-nguoi-dai-dien-duoc-hieu-nhu-the-nao--.aspx, truy cập ngày 1/5/2022.
20
21


×