& PHỔ BIẾN KIÊN THỨC BÁCH KHOA
DB.001723 11 >HỔ BIẾN KIẾN THỨC BÁCH KHOA
. . . JNG NGHIỆP & NÔNG THƠN
GS TS NGUYỄN THIỆN
CHĂN ni
DÊ SŨA & DÊ THỊT
ÕNG LÂM
NHÀ XUẤT BẢN NGHỆ AN
VIỆN NGHIÊN CỨU & PH ổ BIẾN KIẾN THỨC BÁCH KHOA
GS TS NGUYỄN THIỆN, PGS TS ĐỈNH VĂN BÌNH
CHẰN NI
DỂ sử n vft Dê THỊT
NHÀ XUẤT BẢN N G H Ệ AN
VIỆN NGHIÊN CỨU VÀ PHỔ BIẾN KIẾN THÚC BÁCH KHOA
INSTITUTE FOR RESEARCH AND U NIVERSALIZATION FOR
ENCYLOPAEDIC KNOWLEDGE (IRUEK)
Văn phòng liên hệ: B4, P411 (53) TT Giảng Võ - Đưừng Kim Mã
Quận Ba Đình - Hà Nội.
________________ ĐT (04) 8463456- FAX (04) 7260335________________
Viện Nghiên cứu và Phổ biến kiến thức bách khoa là một tổ chức khoa
học tự nguyện cùa một số trí thức cao tuổi ờ Thủ đơ Hà Nội, thành lập theo
Nghị định 35/HĐBT ngày 28.1.1992. Giấy phép hoạt động khoa học số 70/ĐK
- KHCNMT do Sở Khoa học Cơng nghiệp và Mơi trường cấp ngày 17.7.1996.
Mục đích: Hoạt động nghiên cứu, phổ biến và ứng dụng khoa học nhằm
mục dích phục vụ nâng cao dẳn trí và mục đích nhân đạo.
Lĩnh vạc hoạt động khoa học và cơng nghệ:
1. Nghiên cứu các vấn đề văn hoá khoa học.
2. Biẻa soạn sách phổ biến khoa học công nghệ.
3. Biên soạn các loại từ điển.
Nhiệm vụ cạ thể: Trong những năm tới (từ 2001 đến 2005): phát huy tiềm
năng sẵn có (hiện có hơn 200 giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ...cộng tác
viên), Viện tổ chức nghiên cíai một sô' vấn đê khoa học; biên soạn từ điển;
biên soạn sách phổ biến kiến thức bách khoa dưới dạng SÁCH HONG (sách
mỏng và chuyên luận) phục vụ độc giả rộng rãi theo các chủ đề như nông
nghiệp và nông thôn; phông bệnh và chữa bệnh; thanh thiếu nhi và học sinh,
phụ nữ và người cao tuổi, V.V..
Phương hưcmg hoạt động của Viện là dựa vào nhiệt tinh say mê khoa học,
tinh thần tự nguyện của mỗi thành viên; liên kết với các viện nghiên cứu, các
nhà xuất bản.
Hoạt động khoa học của Viện theo hướng “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã
hội hoá" (Nghị quyết Đại hội IX)
Vốn hoạt động của Viện là vốn tự có và liên doanh liên kết. Viện sẩn sàng
hợp tác với các cá nhân, tổ chức trong nước và ngoài nước hoặc nhận đơn đặt
hàng nghiên cứu các vấn đề nêu trên.
Rất mong được các nhà từ thiện, các doanh nghiệp các cơ quan đoàn thể
và Nhà nước dộng viên, giúp đỡ.
Viện Nghiên cứu & Phổ biến kiến thức bách khoa
4
LỜI GIỚI THIỆU
Dê là động vật chăn nuôi, ăn nhiều loại cây cỏ, ít bệnh tật. Dê
cịn cho nhiều sản phẩm quý: thịt dê là món ăn có giá trị dinh
dưỡng cao; sữa dê (mỗi ngày có thể vắt 1-3 lít) dùng rất thích hợp
trong từng gia đình; cao dê, rượu bổ huyết dê là thuốc bổ trong
dân gian; da dê có thể làm hàng may mặc có giá trị. Tuy vậy, dê
có tập tính hiếu động, thích lang thang phá phách nhiều cây cối,
hoa màu nên ở đồng bằng đất hẹp, nghề nuôi dê chậm phát triển.
Ngày nay nuôi dê thịt, dê sữa trong chuồng ở vườn nhà cho ta
thu hoạch đáng kể. Thức ăn của dê rất đa dạng, ngoài các loại cây
cỏ thường dùng, nếu trồng các cây họ Đậu như muồng, keo tai
tượng, chàm bông vàng cho ăn bổ sung thì dê càng phát triển tốt.
C hân nuôi dê sữa và dê th ịt do các giáo sư Nguyên Thiện và
Đinh Văn Bình biên soạn sau nhiều năm nghiên cứu về dê và chăn
nuôi dê. Các tác giả tổng hợp một sô' tri thức và kinh nghiệm chăn
nuôi dê sữa và dê thịt: chọn giống, kĩ thuật chăn ni, phịng và
chữa bệnh cho dê, chế biến các món ăn từ thịt và sữa dê.
Sách rất có ích cho các hộ nông dân và những ai quan tâm đến
nuôi dê. Xin giới thiệu cùng bạn đọc và mong độc giả góp ý kiến
nhận xét, phê bình để sách tái bản hoàn thiện hơn.
Viện nghiên cứu & p h ổ biến kiến thức bách khoa
5
LỜI NĨI ĐẦU
Ở nước ta nghề ni dê đã có từ lâu đời, nhưng “con Bò dành
cho người nghèo” vẫn chưa được phổ biến; trình độ thâm canh thì
hầu như chưa có, nhất là ni dê lấy sữa. Các khâu chọn giống,
nhân giống, giữ giống lại càng chưa mấy ai quan tâm. Dường như
nghề nuôi dê bị lãng quên, mặc dù hiện nay và sau này thịt dê,
sữa dê, sản phẩm từ dê vẫn là đặc sản tiêu dùng trong nước và
khách bốn phương khi tới Việt Nam trong thời kì đổi mói.
Chăn ni dê là một nghề phát triển, nhiều trang trại ni dê
đã có lợi nhuận góp phần xố đói giảm nghèo: Một con dê cái cứ
sau 4 năm sản suất được 500kg thịt và 2500kg sữa, trong khi đó
một con bị cái chỉ sản xuất được 350kg thịt và 2000kg sữa. Dê
rất ít bệnh tật, lại sử dụng nguồn thức ăn từ cây cỏ là chủ yếu; sữa
dê được coi là loại thức ãn có giá trị dinh dưỡng cao. Có người
cho ni dê sẽ phá hoại mơi sinh, có lúc có -nơi coi diệt dê như
diệt giặc. Ở nước ta - một nước quanh năm bốn mùa hoa lá xanh
tươi, rất thuận lợi cho nghề nuôi dê sữa, dê thịt.
Hiện nay nước ta đã có những giống dê sữa quỷ : Saanen,
Alpine, Beetal, Jumnapari, Barbari; các giống dê thịt: dê Boer, dê
Bách thảo, vv. cần phát triển chăn nuôi để đáp ứng đa dạng sinh
học và góp phần tích cực vào cuộc cách mạng ưắng ở Việt Nam.
7
Để giúp các bạn có thêm hiểu biết về con dê và đáp ứng yêu
cầu của những người muốn nuôi dê, chúng tôi biên soạn tập sách
nhỏ này nhằm giúp các bạn một số giải pháp cần thiết khi phát
triển nghề ni dê.
Sách giới thiệu tư liệu trong và ngồi nước trên các lĩnh vực về
giống, thức ăn, kĩ thuật chăn nuôi, thú y, chế biến sản phẩm từ dê,
V.V.. Rất hi vọng giúp ích phần nào cho các bạn u thích ni dê.
Tuy vậy, tập sách nhỏ này chắc chắn cịn nhiều thiếu sót. Chúng
tơi rất trân trọng những ý kiến đóng góp của các bạn. Chúng tơi
rất cảm ơn nhũng tư liệu của các cán bộ khoa học, các tác giả
khác ở trong vạ ngoài nước mà chúng tôi đã sử dụng trong tập
sách nhỏ này.
Các tác giả
8
Chương I
NGUỔN GỐC VÀ Ý NGHĨA
CỦA NGHỀ NUÔI DÊ
I. N G U Ồ N G Ố C, S ự P H Â N B ố
V À PH Â N L O Ạ I Đ Ộ N G VẬT H Ọ C
Dê là gia súc nhai lại nhỏ thuộc loài Dê {Capra), họ phụ Dê
Cừu (Caprarovanae), họ Sừng rồng {Bovidae), bộ phụ Nhai lại
(,Ruminantia), bộ Guốc chẵn {Artiodactyta) lớp Có vú
{Manmalian).
Dê rừng (Capra aegagrus) trên thế giới được chia làm ba
nhóm: nhóm 1 là Bezoar (C.a. aegagrus), nhóm này có sừng hình
xoắn (Hình ỉ.a). Nhóm 2 là Ibex (C. a. ibex) và nhóm 3 là
Markhor (C. a. falconeri) nhóm này dê thường có sừng quặn về
phía sau (Hình 1. b) (Heưe và Rohrs, 1973). Dê rừng phân bố
rộng ở vùng núi và bán sơn địa, phạm vi phân bố tự nhiên của
H ình ỉ . Các kiểu sừng dê
1. a: Sừng xoắn; 1. b: Sùng quặn về phía sau
9
nhóm Bezoar là ở vùng Tây Á. Nhóm Ibex phân bố ở vùng Tây
Á, Đông Châu Phi và Châu Âu. Nhóm Markhor phân bố ở
Apganixtan và vùng Kasơmia - Karakorum (Harris, 1962).
Với những dẫn liệu đặc biệt tìm thấy được gần đây, người ta đã
cho là nơi thuần hoá các giống dê đầu tiên bắt nguồn từ Châu Á
(Devendrá và Nozawa, 1976). Vào thiên niên kỉ thứ 7-9 trước
công nguyên, tại vùng núi Tây Á lần đầu tiên người ta đã thuần
hoá được dê (Herre 1958, Harris 1962, Zenner 1963, Epsteiin
1971, Kamo 1973). Theo tài liệu của Herre và Robrs 1973 thì dê
là vật được thuần hố ni sớm nhất của lồi người và sau đó là
đến chó (Zeuner 1963). Giống như các vật ni khác, sau khi
thuần hố, đầu tiên dê được ni với mục đích lấy thịt; sau đó
ni dê để lấy sữa cũng được con người tiến hành sớm nhất, thậm
chí cịn sớm hơn cả bị lấy sữa, bởi lẽ vắt sữa dê đơn giản hơn
nhiều so với vắt sữa bị. Dê có 60 nhiễm sắc thể (cừu chỉ có 54).
Trung tâm ni dê cổ nhất là ở các nước Trung Đơng, sau đó
đến Ân Độ rồi đến Ai Cập, tiếp đến là các nước phương Tây, Châu
Á, Châu Phi, trung tâm mới nhất là ở Đông Nam Châu Á.
Dê là một trong những động vật được thuần dưỡng sớm, và
hiện nay dê được nuôi phổ biến khắp hành tinh của chúng ta. Điều
đó khơng chỉ nói lên lợi ích của con dê mà cịn nói lên tính thích
nghi kì diệu của nó.
II.
VAI TR Ị C H Ă N N U Ô I D Ê
Ở CÁC NUỔC Đ A N G PH Á T TR IEN
Mahatma Gandí, lãnh tụ nổi tiếng của Ân Độ đã nói về vai trò
của dê là “Dê sữa là con bò sữa của nhà nghèo". Dê sữa đã góp
10
phần đáng kể vào cuộc cách mạng trắng ở An Độ. Hơn thế nữa,
Peacok còn cho rằng: "Dê sữa là nhà hăng cho những người
nghèo (ngân hàng của người nghèo)”. R.M. Acharay, Chủ tịch
Hội ni dê Thế giới cịn bổ sung thêm là: “Dí5 sữa chính là cơ
quan bảo hiểm đáng tin cậy của người nghèo".
Hơn 90% tổng số dê trên thế giới được chăn nuôi ở các nước
đang phát triển và đã mang lại thu nhập có ý nghĩa cho người dân.
Tuy nhiên, cũng có những ý kiến khác nhau về phát triển chăn
ni dê, do đó ở Việt Nam nghề ni dê chậm phát triển.
1. Những điều có lọi của nghề chăn nuôi dê
Chăn nuôi dê yêu cầu vốn đầu tư ban đầu ít hơn so với ni bò,
nhất là bò sữa. Hiện nay ở Việt Nam giá một con bị sữa trung
bình là 10-12 triệu đồng, số tiền này có thể mua được 15-20 con
dê sữa và khoảng 30 con dê thịt giống nội.
Dê sinh sản nhanh hơn bò và trâu: So sánh một con dê cái mói
sinh cùng với một con bê cái sau 4 nãm thì dê đẻ ra được 23 con
với tổng khối lượng là 500kg và 2500kg sữa; trong khi đó một con
bị chỉ đẻ ra được một con với khối lượng khoảng 350kg và 2000kg
sữa.Nếu là dê thịt thì đạt 690kg (dê Boer) trong vòng 6 tháng kể
từ lúc đẻ.
Mặc dù dê nhỏ nhưng nếu giống tốt thì có thể sản xuất ra 33,5 lít sữa/ngày khi được cung cấp thoả mãn nhu cầu dinh dưỡng.
Dê yêu cầu ít thức ãn hơn so với bò và trâu: Nhu cầu thức ăn
10 con dê tương đương như một con bò, 7-8 con dê tương đương
như một con bò sữa.
Dê nhỏ bé, hiền lành nên ai cũng có thể ni được nó, nhưng đối
với bị sữa thì người già, phụ nữ và trẻ nhỏ nuôi chúng rất vất vả.
11
Dê cần ít diện tích đồng cỏ. Có thể ni dê với lượng nhiều hơn
so với ni bị. Nếu ni ít dê có thể chăn thả quanh vườn nhà,
dọc theo bờ đê, bờ ruộng; có thể ni nhốt dê trong chuồng, trong
sân bãi rồi cắt cỏ, lá về cho ăn hoặc có thể kết hợp chăn thả dê
dưới vưịn cây ăn quả, dưới rừng cây nông nghiệp.
Dê cung cấp nguồn phân bón cho cây trồng vă làm nguồn thức
ăn cho cá, ni giun đất có giá trị.
Chăn ni dê sữa ở gia đình sẽ cung cấp nguồn thực phẩm sữa
dê có giá trị dinh dưỡng cao phục vụ trực tiếp cho con người một
cách dễ dàng thuận tiện và là nguồn thu nhập hàng ngày cho
người dân.
So sánh hiệu quả kinh tế chăn ni dê với các lồi gia súc
khác: Tilonia (Cafasthan - India, 1987) so sánh nuôi một con trâu
và 5 con dê sữa trong 4 năm thu được lợi nhuận hàng năm từ chãn
nuôi trâu là 1.750 Rs, từ chăn nuôi dê là 1.945 Rs. Abidi và
Wahid (Pakixtan, 1975) cho biết chăn nuôi dê cho thu nhập cao
hơn 40-60% so với chân nuôi cừu. Devendrá (Malaixia, 1976)
cho biết chi phí để sản xuất ra lkg sữa dê chỉ bằng 1/2 so vói sản
xuất ra lkg sữa bị, trâu.
So sánh chăn ni dê với trâu bị ở vùng khơ cằn Ấn Độ thì thấy
biểu lộ rõ tính ưu việt của dê, hơn hẳn trâu bị trong cùng một thời
kì sản xuất. Một con trâu giá giống cao hơn 20% so với 5 con dê;
chi phí về thức ăn, lao động cho trâu cao hơn 70% so với nuôi dê.
Trong cùng một chu kì sản xuất 4 năm, trâu chỉ có thể cho 2 chu kì
tiết sữa với 2500 lít, trong khi đó một con dê sữa có thể cho 6 chu
kì vói tổng số 6000 lít sữa. Giá bán sữa trâu tuy cao hơn sữa dê
nhưng tổng thu nhập từ bán sữa dê vẫn cao hơn 60% so với sữa trâu.
12
2. Những hạn chế của nghề chăn nuôi dê
Dê phàm ãn, ăn được hầu hết các loại lá cây cỏ tự nhiên và cây
trồng nên dê có thể ăn trụi cây cối, phá phách hoa màu trong vườn
nhà và vườn hàng xóm, cho nên khi ni dê ở vùng trồng cây cần
phải khoanh vùng hoặc nuôi nhốt.
Con dê đực thường có mùi hơi đặc biệt làm con người khó chịu
khi ni nó gần chỗ ở của người.
Chưa có chợ mua bán giống dê, kĩ thuật chăn nuôi dê, đặc biệt
là dê sữa chưa được phổ biến rộng rãi.
Mặc dù sữa dê thơm ngon, nhưng hiện nay chưa được người
tiêu dùng sử dụng rộng rãi vì chưa quen.
III. TÌN H H ÌN H C H Ă N N U Ô I DÊ TR Ê N T H Ế G IỚ I
V À Ở V IỆT N A M
1. T ình hình chăn nuôi dê trê n th ế giới
Theo TAC (1992), dê được nuôi ở hầu hết các châu lục từ phía
bắc (Scanđinavơ) cho tới phía nam (Nam Mĩ). Dê có mặt ở mọi
Bảng I. Phân bố dê trên thế giới
Châu lục
Số lượng dê (triệu con)
% tổng số
Châu Á
Châu Phi
434
64,01
204
Châu Mĩ
Châu Âu
30,09
3,39
2,36
Châu Úc
23
16
1
Tổng sô
678
0,15
100
13
vĩ tuyến, giống dê lơng dài Cashmere có thể sống ở đỉnh núi
Hymalaya và những giống dê đầm lầy sống thích nghi trong
những khu rừng ẩm ướt ở Tây Châu Phi. Theo tài liệu của FAO
(1997) được Morand-Fehr (2000) trình bày trong Hội nghị chăn
nuôi dê thế giới lần thứ 7 (5/2000) tại Pháp cho biết sự phân bố
dê trên th ế giới thể hiện ở bảng 1.
Thịt, sữa, da dê cũng là nguồn thu đáng kể do nghề nuôi dê
mang lại (bảng 2).
Bảng 2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ thịt, sữa dê trên thế giới
(FAO 10/1990)
Khu vực
Tổng sô'
Châu Á
Châu Phi
Châu MI
Châu Âu
Sản xuất thịt
(1000 tấn)
% tàng
so với
1990
năm
1980
2.506
43,94
1.631
64,75
624
17,57
73
23,73
106
19,1
Sản xuất sữa
(1000 tấn)
% tăng
so với
1990
năm
1980
8.780
17,44
4.165
21.43
1.958
13,17
171
1.748
27,61
11,05
Sản xuất da
(1000 tấn)
% tăng
so với
1990
năm
1980
487,8
37.7
327,5
51.3
109,1
16,3
14,2
15,3
21.7
19,5
Gần đây, theo thông báo của FAO (1999), tổng đàn dê của thế
giới là 705.228.405 con, trong đó hơn 95% số lượng dê được chăn
nuôi ở những nước đang phát triển.
Trên thế giới có 150 giống dê đã được mơ tả cụ thể, cịn lại
phần lớn ít được mơ tả và ít biết đến. Trong số được mơ tả có 63%
là dê hướng sữa, 27% là dê hướng thịt, 5% là dê nuôi lấy lông và
5% là dê kiêm dụng (Acharya và Bhattacharya, 1992). Trong
14
vòng 15 năm qua, số lượng dê trên thế giới tăng 50%, trong khi
đó cừu giảm 4% và trâu bị chỉ tăng 9% (Morand'Fehr,
Boyazoglu, 1999).
Tổng sản lượng thịt dê trên thế giới năm 1999 là 3.343,388
triệu tấn, tính từ năm 1989-1999 bình qn tăng 4,33%/năm.
Trong đó, các nước Nam và Đông Nam Châu Á chiếm 67,88%
(Pashaa và Saithanoo, 2000). Tổng sản lượng dê sữa của thế giới
nãm 1999 là 12 triệu tấn, tính từ năm 1980-1986 sản lượng sữa
dê ở những nước đã phát triển tăng 22%, những nước đang phát
triển tăng 38%. Sữa dê ngồi dùng trực tiếp cịn được chế biến
thành các sản phẩm phó mát, sữa bột có giá trị cao (Bandry và
cộng sự, 1999).
1.1. Tình hình chán nuôi dê ở Châu Á
Pashaa và Saithanoo (2000) cho biết số lượng dẽ ở Châu Á
chiếm tới 62,52% tổng số dê trên thế giới, trong đó hơn 84% dê
được nuôi ở các nước Nam và Đông Nam Châu Á. Những nước
có số lượng dê lớn nhất ớ châu A là Ân Độ, Pakixtan và Trung
Quốc. Khảo sát của Teufel và cộng sự (1998) cho thu nhập chăn
nuôi dê đã đóng góp quan trọng vào sự thu nhập của nhiều gia
đình nơng dân. Sự tăng dân số của các nước trong khu vực đã
kéo theo sự tiêu thụ th ịt dê tãng lên.
Khu vực Châu Á Thái Bình Dương có 146 giống dê chiếm 36%
số giống dê của thế giới, phần lớn được nuôi ở Trung Quốc và
Pakistan. Đây là những giống dê có nhiều đặc tính q và cần có
một chương trình tồn cầu để quản lí quỹ gen của các giống dê
(Barker, 1996). Tính từ năm 1987-1997, đàn dê có tốc độ tăng
bình qn là 4,2% năm, tăng gấp 2-3 lần so với đàn trâu bò. Trong
15
vòng 10 năm gần đây số lượng đàn dê trong khu vực và sản lượng
thịt dê tăng lên rất đáng kể. Song, để khai thác tiềm năng của con
dê hơn nữa, cần tập trung nghiên cứu về dinh dưỡng, cải tiến gen,
chãm sóc sức khoẻ cho dê và phải có sự phù hợp giữa hệ thống
sản xuất chăn nuôi dê với từng vùng sinh thái.
Bảng 3. Số lượng dê và sản lượng thịt dê ở một số nước Nam và
Đông Nam Châu Á (1989-1999)
Số lượng dẽ (con)
Tên nước
1989
1999
Tăng (%)
Sản lượng
thit tăng
■(%)
1989-1999
83,68
99,93
95,27
Bangladesh
Trung Quốc
Pakistan
Việt Nam
19.604.000
91.151.000
33.983.008
387.500
33.500.000
137.723.000
48.574.000
516.000
70,88
51,09
4294
Lào
Indonesia
Philippines
Toàn vùng
105.157
10.995000
5.100.000
200.000
15.197.832
6.500.000
90.19
38,22
27,45
35,13
202,43
279.821.731
371.751.000
32,85
67,321
33,16
60,31
63,34
Delgado (1999), Devendrá (2000), Ahmed (1995), Sanyal
(1996) và Devendrá (1996) cho biết Châu Á có tới hàng triệu
nông dân chăn nuôi dê ở những trang trại chăn ni gia đình,
95% dê được chăn ni do nơng dân và các tiểu chủ, tiền bán dê
và sản phẩm của dê đã đóng một vai trị quan trọng đối với thu
nhập của người ni dê. Sự đóng góp kinh tế của chăn nuôi dê
đối với thu nhập của người nông dân ở Pakixtan là 46,9%, Ấn Độ
là 13,4-30,0%, Inđônêxia là 16,7-20,3%.
16
Ở Châu Á nhiều nước có số lượng đàn dê lớn: Ân Độ có 117
triệu con (Kumar và Deoghare, 2000). Theo Madan (1996), sản
phẩm thịt dê năm 1992 là 681.600 tấn, đạt giá trị kinh tế 40.901
triệu Rupi, sản phẩm sữa dê là 2.338.540 tấn, đạt giá trị kinh tế
11.692.70 triệu Rupi. Sau Ân Độ, Pakistan có 73 triệu dê cừu,
chúng được ni ở 4.864.000 trại chăn ni gia đình. Theo
Ghafar và cộng sự (1996), Khan và cộng sự (1996), tốc độ tăng
đàn dê bình quân hàng năm ở Pakistan là 4,7% trong khi đó ở
cừu là 1,60%; trâu bị là 0,78% và sản lượng thịt dê hàng năm
tăng 7%.
Trung Quốc cũng là quốc gia có chăn ni dê phát triển. Theo
Liu Xing Wu, Yuan Xi Fan (1993), nhiều thành tựu nghiên cứu
đã được áp dụng trong lĩnh vực truyền cấy phơi cho dê. Trong khu
vực Châu Á. ngồi Ẩn Độ, Pakistan và Trung Quốc cịn có một số
nước quanh khu vực cũng có số lượng đàn dê tương đối lón.
Inđơnêxia có 11,4 triệu dê và 4,8 triệu cừu được ni dưỡng do
581.000 nơng dân trong đó 92% được ni bởi các tiểu chủ, chỉ
có khoảng hơn 1% dê được nuôi ở các trang trại lớn. Tốc độ tăng
đàn dê từ năm 1988-1993 là 3,2% (Faisal Kasryno, 1996). Theo
thông báo của William và cộng sự (1996), đàn dê của Philipin có
2,63 triệu con, 99% số lượng dê được ni ở các trại chãn ni
gia đình, con dê được coi như “con bị của người nghèo".
1.2. Tình hình chăn ni dê ở Châu Phi
Theo Jeo và Lebbie (2000), dê ở Châu Phi được nuôi nhiều ở
vùng bán sa mạc Xahara (147 triệu con) với khoảng 80 giống dê
địa phương. Chăn nuôi dê có ý nghĩa quan trọng trong việc cung
cấp thực phẩm (thịt dê chiếm 30% trong các loại thịt đỏ) và là
nguồn thu nhập chủ )jõìtadâiợgnrBÃnggbi»gniậhèo. Nhũng nước
2 - CNDS
17
nuôi nhiều dê như: Nigiêria (24,5 triệu con), Etịopia (18 triệu
con) và Xuđăng (16 triệu con). Giống dê phổ biến là dê West
African Dwarf và được nuôi nhiều ở Nigiêria; dê Maradi ở Nigiê;
dê Mubende ở Uganda. Giống dê Boer nổi tiếng được ni khơng
những ở Nam Phi mà cịn được nhiều nước nhập nội để lai cải tiến
giống dê'thịt của địa phướng. Số lượng dế ở Châu Phi chiếm 30%
so với các gia súc nhai lại khác, sản xuất ra 17% sản lượng thịt,
12% sản lượng sữa (Lebbie, 2000).
1.3. Tình hình chăn ni dê ở Châu M ỹ
Theo số liệu của FAO (1999) tổng số dê ở phía Bắc và Trung
Mỹ là 13.413.269 con, ở Nam Mỹ là 25.752.000 con. Trong thập
kỉ vừa qua số dê ở Hoa Kỳ giảm 20% nhưng ở Haiti tăng 46% và
ở Vênêxuêla tăng tới 142% (Sahlu, 2000). ở Hoa Kỳ có khoảng
51 triệu người có nhu cầu dùng thịt dê, bình qn mỗi người tiêu
thụ lkg thịt dê/nãm; vì vậy, hàng năm phải nhập số lượng thịt dê
tương đối lớn từ Ôxtrâylia và Niu ZiLân: nãm 1995 hơn 2 nghìn
tấn; năm 1997 trên 3 nghìn tấn; 1998 gần 5 nghìn tấn.
Theo Gispon (1995) và Paape (2000), Hoa Kỳ có khoảng hơn
1 triệu con dê sữa, sản xuất 0,55 tỉ kg sữa trị giá 500 triệu USD,
nhưng hiện nay đang phải nhập phó mát dê từ Pháp, Tây Ban Nha,
Ixraen với tổng giá trị khoảng 15 triệu USD/năm. Hoa Kỳ là nước
có sự đầu tư phát triển chăn nuôi dê rất lớn, hàng năm Hoa Kỳ đã
chi 7.136.000 USD cho các chương trình phát triển chăn nuôi dê.
Nhiều trường đại học và các viện nghiên cứu đã tham giạ nghiên
cứu và chuyển giao tiến bộ kĩ thuật chăn nuôi dê như Trung tâm
nghiên cứu chăn nuôi dê sữa quốc gia, Trường Đại học Viginia,
Trường đại học Fort Valley Stale (Shelton, 1993).
18
1.4. Tình hình chân ni dê ở Châu  u
Theo số liệu của FAO (1997) ở Châu Âu có 16 triệu con dê,
chiếm 2% tổng số dê trên thế giới, đàn dé ở các nước vùng Địa
Trung Hải chiếm 70% tổng số dê của Châu Âu. Châu Âu có 35
giống dê, trong đó có nhiều giống dê sữa nổi tiếng như dê Saanen,
Alpine, dê Đức cải tiến (Alan, 1996).
Ở Châu Âu, chán nuôi dê chủ yếu để lấy sữa và chế biến thành
phó mát. Mặc dù đàn dê chỉ chiém 2% tổng số đàn dê của thế giới
nhưng số lượng dê sữa của Châu Âu chiếm 15% tổng sô' dê sữa
trên thế giới.
Trong vòng 20 năm qua, số lượng dê ở Châu Âu đã tăng lên
20% và dê sữa tăng lên 25%. Tuy số lượng dê ở Châu Âu không
nhiều so với các châu lục khác nhưng việc nghiên cứu về chán
nuôi dè ở Châu Âu rất phát triển. Những tài liệu về chãn nuôi dê
đã đuợe xuất bản chiếm tới 37% tổng số tài liệu xuất bản về chăn
nuôi dê trên toàn thế giới (Morand-Fehr, Boyazoglu 1999), Đàn
dê của nhiều nước tăng lên nhanh chóng, Cộng hồ Slovakia năm
1989 có 9460 con dê, nhưng đến năm 1998 số lượng dê là 50.950
con (Dulbravska Gyramathy, 2000).
1.5. Tình hình chăn ni dê ở Châu úc
Ngành chan nuôi dê Châu ứ c rất phát triển, có rất nhiêu giống
dè đã được chọn lọc, lài tạo, nuôi dưỡng thành những giống dê
chuyên dụng hoặc kiêm dụng cho sản lượng sữa, thịt và lồng cao,
chăn ni dê theo hướng sản xuất hàng hố ro rệt. Hàng năm
lượng thịt dê xuất khẩu của ú c đã chiếm 23% số lượng thịt dê
xuất khẩu trên thế giới. Nãm 1997, ú c đã xuất khẩu 12.000 tấn
thịt đê, từ năm 1989-1993 tăng bình quân 14%/năm (M uưay và
cộng sự, 1997).
19
Để hội tụ các nhà khoa học và trao đổi học tập kinh nghiệm
giúp đỡ lẫn nhau nhằm đẩy mạnh phát triển chăn nuôi dê trên thế
giới, Hội Chăn nuôi dê thế giới đã được thành lập từ năm 1976
(tên quốc tế “International Goat Association”). Trụ sở của Hội đặt
tại 1015 Lousianna Street Little Rock, Arkansas 72202, Hoa Kỳ.
Cứ 4 năm, Hội Chăn nuôi dê thế giới tổ chức họp một lần. Hội
nghị thứ 7 vừa họp trong tháng 5.2000 tại Pháp với 60 nước tham
dự hội thảo và báo cáo khoa học trên tất cả các lĩnh vực về chăn ni
dê trên tồn thế giói.
Ở Châu Á có Tổ chức chăn nuôi gia súc nhai lại nhỏ (Small
Ruminant Production System Network for Asian) địa điểm đặt tại
Inđônêsia nhằm mục đích góp phần thúc đẩy chăn ni dê, cừu
trong khu vực.
2. Tình hình chăn ni dé ở Việt Nam
Theo Tổng cục Thống kê (2001), cả nước hiện nay có 560.600
con dê, trong đó 72,5% phân bố ở Miền Bắc, 27,5% ở Miền Nam
(Tây Nguyên chiếm 12,3%, duyên hải Miền Trung chiếm 8,9%,
Đông và Tây Nam Bộ chiếm 21,1 và 3%).
Năm 1993, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã quyết
định giao nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển chăn nuôi dê cho
Trung tâm Nghiên cứu dê thỏ Sơn Tây - Viện Chăn ni. Từ đó
đến nay đàn dê ở vùng núi phía bắc phát triển thuận lợi, chiếm
48% tổng đàn dê của cả nước. Một số tỉnh có số lượng đê lớn như:
Hà Giang có 83.332 con; Sơn La có 23.340 con; Lai Châu có
22.000 con; Yên Bái có 18.111 con; Lào Cai có 17.419 con;
Tuyên Quang có 14.640 con; Lạng Sơn 14.584 con; hai tỉnh Thái
Nguyên và Bắc Cạn có 18.304 con (Nguyễn Thiện và Đinh Văn
Hiến, 1999).
20
Giống dê chủ yếu ở nước ta là dê c ỏ (470 nghìn con) và dê
Bách thảo (75 nghìn con). Ngồi ra cịn có một số dê nhập từ An
Độ (giống dê Barbari, 219 con), giống dê Jamnapari (240 con)
và giống dê Beetal (50 con) được nuôi dưỡng tại Trung tâm
nghiên cứu dê thỏ Sơn Tây, giống dê Saanen (25 con) được nuôi
dưỡng tại Ninh Thuận, Anglo-Nubian (10 con) nuôi ở Thủ Đức,
thành phố Hồ Chí Minh (Binh và Douglas, 2000). Năm 2002
giống dê Boer chuyên thịt và giống dê sữa Saanen, Alpine từ
Hoa Kỳ đã được nhập về nước ta. hiện nay đang được nuôi tại
Trung tâm nghiên cứu dê thỏ Sơn Tây (Hà Tây).
Nghề chăn nuôi dê ở Việt Nam đã có từ lâu đời, nhưng chưa
phát huy hết tiềm năng thiên nhiên sẵn có. Dê chủ yếu được chăn
thả quảng canh, thiếu sự đầu tư, quan tâm thích đáng tới cơng tác
giống, thức ãn bổ sung cũng như vệ sinh phịng bệnh. Nhiều đàn
dê cỏ có biểu hiện thối hố giơng rõ rệt do giao phối cận huyết
kéo dài.
Thức ăn cua dê phụ thuộc vào điều kiện khu vực bãi chăn thả,
ở những tỉnh miền núi phía bắc, dê chủ yếu được chăn thả theo
phương pháp quảng canh. Ban ngày thườrig được chăn thả tự
nhiên trên các triền đồi núi hoặc trong các cánh rừng, ban đêm
thường được nhốt tại chuồng và bổ sung thêm muối ãn. Một số hộ
ở vùng trung du và khu vực ven đô nuôi dê theo phương thức chăn
thả kết hợp bổ sung thêm thức ãn, nước uống tại chuồng. Quy mô
đàn dê ở các tỉnh Miền Bắc trung bình 7-10 con. Riêng khu vực
miền núi, do diện tích chãn thả rộng nên nhiều hộ nuôi từ 30-50
con hoặc nhiều hơn.
Ở Miền Trung, Ninh Thuận là tỉnh có nghề chăn ni dê phát
triển do có diện tích chăn thả rộng và việc tiêu thụ sản phẩm
21
thuận lợi. Cùng với giống dê c ỏ , giống dê Bách thảo được nuôi
tương đối phổ biến. Dê và cừu chiếm vị trí thứ 3 sau lợn và bị,
nhiều hộ ni từ 100-300 con dê, hoặc cừu (Lê Đình Cường,
1997). Các tỉnh phía Nam như Thành phố Hồ C hí1Minh, Tiền
Giang, Long An, Bến Tre và Đồng Nai chăn ni dê với quy mơ
đàn nhỏ hơn, bình qn từ 10-20con/đàn (Hiến, 1996).
So sánh sự quan tâm chăn nuôi dê vói các vật ni khác, Đặng
Xn Biên (1993) cho biết: con dê cịn ít được quan tâm chú ý,
thiếu sự đầu tư và quản lí, số lượng dê ni ở nước ta cịn q ít
so với các vật ni khác.
Trong những năm gần đây, chăn nuôi dê ở nước ta có chiều
hướng phát triển tốt, tỉ lệ tãng đàn 10% (2001) so với năm 1990.
Để thúc đẩy ngành chăn nuôi dê phát triển. Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn đã đầu tư nhiều dự án như: dự án Cải thiện
đời sống nông dân nghèo bằng cách phát triển sản xuất sữa dê dựa
trên nguồn thức ăn sẵn có của địa phương (FAO/TCP/VIE6613);
dự án Phát triển chăn nuôi dê lai tại tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn,
V.V..
Nhiều cuộc hội thảo về phát triển chăn nuôi dê đã được tổ
chức nhằm đánh giá tinh hình, tiềm nãng phát triển và tìm ra
những giải pháp để thúc đẩy phát triển chăn nuôi dê ở nước ra
như: Hội thảo nghiên cứu phát triển ni dê ở Việt Nam tại thành
phố Hồ Chí Minh tháng 11.1992 của IDR và IAS; Hội thảo chăn
ni dê-bị sữa thịt ở Viện chán ni năm 1993.
Nhiều cơng trình nghiên cứu về con dê đã và đang được triển
khai, chẳng hạn như một số cơng trình nghiên cứu về giống và lai
tạo giống dê: Phương thức lấy tinh và đánh giá chất lượng tinh
dịch dê (Đào Đức Thà và cộng sự, 1997), Lai dê Bách thảo với dê
22
c ỏ (Nguyễn Đình Minh, 1996), Nghiên cứu lai ba giống dê An
Độ nhập nội với dê c ỏ (Đinh Văn Bình và cộng sự, 1997), Chọn
lọc và nhân thuần dê Bách thảo (Nguyễn Thị Mai, 1999); Khảo
sát sản xuất của hai nhóm dê lai Saanen và Alpine với Jamnapari
(Đậu Xuân Hải và Cao Xuân Thìn, 2000). Nhằm phân loại và xác
định nguồn gốc các giống dê có ở nước ta, Ken Noozawa và cộng
sự (1998) đã nghiên cứu xác định kết cấu gen của dê Việt Nam.
Một số công trình nghiên cứu về thức ăn cho dê: Kết quả sử
dụng cây lạc ủ chua cho dê sữa (Bùi Xuân An, Dương Thanh
Liêm, 1992), Sử dụng ngọn mía, nguồn thức ăn thô xanh nuôi
dưỡng dê con sau cai sữa trong mùa khô (Nguyễn Thị Mùi và
cộng sự, 1997), Sử dụng cây họ Đậu trong chăn nuôi dê (Nguyễn
Văn Thắng, 1998), Giá trị dinh dưỡng của một sô' cây họ Đậu làm
thức ãn cho dê (Nguyễn Thị Liên, 2000).
Với sự quan tâm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
sự nỗ lực của nhiều cơ quan nghiên cứu và cố gắng của các hộ
chăn nuôi dê cùng với xu thế tiêu thụ thịt và sữa dê ngày một tăng,
ngành chăn ni dê ở Việt Nam đang có những bước tiến rõ rệt.
Sản phẩm từ chart ni dê đã đóng góp một phần quan trọng nhằm
giải quyết nhu cầu thịt, sữa cho con người. Chăn nuôi dê đã đem
lại một nguồn thu đáng kể cho người nông dân. Việc phát triển
chăn ni dê đã khẳng định vị trí của nó trong sự phát triển của
ngành chăn nuôi Việt Nam.
23
Chương II
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA DÊ
I. Đ Ặ C Đ IỂ M V Ề SIN H TRƯ ỞNG V À PH Á T TR IEN
Cũng như các gia súc khác, sự sinh trưởng và phát triển của dê
tuân theo quy luật giai đoạn, nó phụ thuộc vào giống, tính biệt,
điều kiện nuối dưỡng chăm sóc quản lí và môi trường. Thông
thường khối lượng dê sơ sinh là l,6-3,5kg; 3 tháng đạt 6-12kg; 6
tháng 10-2 lkg; 12 tháng là 17-30kg; 18 tháng là 30-40kg. Dê đực
luôn tăng trọng nhanh hơn dê cái. Giai đoạn sơ sinh đến 3 tháng
tuổi cường độ sinh trưởng tuyệt đối và tương đối là cao nhất (90-
Bảng 4. Khối lượng của một số giống dê qua các tháng tuổi (kg)
Lứa tuổi
Sơ sinh: đực
cái
3 tháng: đực
cái
6 tháng: đực
cái
9 tháng: đực
cái
12 tháng: đực
cái
18 tháng: đực
cái
24 tháng: đực
cái
30 tháng: đực
cái
36 tháng: đực
cái
24
Dê c ỏ
2,30
1,6
6,1
5,3
9,7
8,2
14,3
13,7
19,8
17,2
25,0
20,7
28,0
22,8
32,8
25.7
36 6
27,6
Dé Bách Dê Barbarỵ Jumnapari
Thảo
2,3
2,7
3.4
3,0
2,3
2,1
9,4
11,6
12,4
10,1
11,7
9,1
14,8
17,9
18.5
12,5
15,8
14,6
19,4
25,5
24,0
15,3
22,1
20,6
31,4
23,3
30,2
18,3
26,8
29,3
41,7
31,1
39,3
21,8
27,1
33,5
34,7
46,2
47,5
23,7
35,3
29,1
39.6
54,3
54,4
25,8
38,6
32,1
44,9
57,3
59,5
27.9
40,6
36,2
Beetal
3,5
2.9
12,9
10,7
18,9
15,4
26,6
22,9
31,6
25,7
40,9
29,6
49,0
33.0
56.2
36,1
62,3
40,1
120g/con/ngày và 95-130%), rồi tiếp theo là giai đoạn 3-6 và 612 tháng (70-110g/ngày và 30-50%), giai đoạn 12-18 tháng
cường độ sinh trưởng giảm đi dần dần (20-45g/con/ngày và 1020%); giai đoạn 18-24 tháng cường độ sinh trưởng của dê thấp
xuống (20-30g/con/ngày), đến giai đoạn 24-30 và 30-36 tháng
tuổi, dê bước dần sang tuổi trưởng thành, cường độ sinh trưởng
thấp hẳn và thay đổi không rõ rệt. Thay đổi khối lượng của một
sô' giống dê qua các tháng tuổi được trình bày ở bảng 4.
II. ĐẶC ĐIỂM SINH SẢN CỦA DÊ
Dê là gia súc có khả nãng sinh sản nhanh hơn nhiều so với bị
và trâu. Thơng thường tuổi động dục lần đầu của dê là 6-8 tháng
tuổi, tuổi phối giống lần đầu là 8-10 tháng tuổi và tuổi đẻ lứa đầu
là 360-420 ngày. Các giống dê khác nhau, điều kiện ni dưỡng
chàm sóc khác nhau thì tuổi đẻ lứa đầu của dê cũng khác nhau.
Một số chỉ tiêu về sinh sản của một số giống dê ớ Việt Nam được
thể hiện ở bảng 5.
Bảng 5. M ột số đặc điểm sinh sản của các giống dê nuôi ở Việt Nam
C h ỉ tié u
D c C ỏ B ách th ả o B a rb a ry J u m n a p a ri
B c e ta l
T u ồ i đ ộ n g đ ụ c lán d ầ u
D c c ái (n g à y )
185
191
213
406
374
D ê đ ự c (n g ày )
154
163
220
372
36 9
D é c á i (n g à y )
204
213
246
415
39 8
D é đ ự c (n g à y )
231
241
282
432
425
T u ố i d ế lứ a đ ầ u (n g à y )
334
■ 34 6
T u ố i ph ố i g iố n g lần d ầ u
399
567
551
22
27
26
28
27
T h ờ i g ian đ ộ n g d ụ c ( g iở )
53
35
38
37
40
TTiõri g ian ch ứ a
150
148
148
150
149
1.5
1,8
1,3
226
1,5
260
1,3
276
305
310
C hu
kì động d ụ c (n g à y )
S ố c o n đ ể ra/lứ a
K h o ả n g c á c h g iữ a 21ứa đ ê (n g à y )
25
III. B ộ MÁY TIẾT SỮA CỦA DÊ
1. C ấu tạo bầu vú dê (hình 2)
Bầu vú dê nằm ở dưới bụng giữa hai chân sau và với 2 núm vú.
Trơng bề ngồi bầu vú là một khối, nhưng thực ra nó có hai tuyến
sữa. Giũa hai tuyến sữa có một vách ngăn. Vì thế tuyến sữa bên
bầu vú này cạn hết thì tuyến sữa bên bầu vú kia vẫn cịn ngun.
Các tuyến tiết sữa của vú bố trí theo tuyến chùm, phân chia thành
nhiều thuỳ, mỗi thuỳ lại chia thành nhiều tuyến hình túi. Các
Vách (reo hai vú
26
tuyến này tập trung vào những ống dẫn sữa, các ống riày chảy dồn
cái nọ vào cái kia và cuối cùng đổ vào bể sữa. Trong vú cịn có
các mạch máu, dây thần kinh và bạch huyết. Hệ số trung bình để
tạo ra 1 lít sữa cần một lượng máu đi quá tĩnh mạch vú là khoảng
trên 300 lít.
2. Sản lượng sữa
Sản lượng sữa của dê là khối lượng sữa (kg hoặc lít) sản xuất
ra trong một chu kì cho sữa. Năng suất sữa là khối lượng sữa
tính theo ngày. Nãng suất sữa của các giống dê trung bình
300-3000 ml/con/ngày, tuỳ thuộc vào giống, lứa đẻ, thức ăn.
Ở nước ta dê c ỏ có sản lượng sữa trung bình là 350
ml/con/ngày và thời gian cho sữa là 90-100 ngày/chu kì cho
sữa. Dê Bách thảo cho 1,3 lít/con/ngày với chu kì cho sữa là 150
ngày và một năm có 1,7 chu kì sữa. Dê Barbari là giống dê có
sản lượng sữa cao nhất: cho 1,0-1,05 lít/con/ngày với 148-150
ngày cho sữa/chu kì, 3,8-3,9 lít/100kg thể trọng. Dê Jumnapari
cho 1,4-1,6 lít/con/ngày với 160-180 ngày cho sữa.
Người ta thường căn cứ vào các chỉ tiêu như năng suất sữa, thời
gian cho sữa/chu kì tiết sữa, số lứa đẻ/năm để tính ra sản lượng
sữa sản xuất ra của một con dê/năm. Bên cạnh đó người ta cịn
tính sản lượng sữa/lOOkg thể trọng, chi phí thức ăn để sản xuất ra
1 lít sữa để đánh giá khả năng cho sữa của từng con dê sữa.
3. Chất lượng dê sữa
Chất lượng dê sữa phụ thuộc vào giống, tháng cho sữa, thức ăn.
Thành phần dính dưỡng của sữa một số giống dê ở Việt Nam được
thể hiện ở bảng 6.
27