Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm, SKKN Một Số biện pháp rèn trẻ 4 5 tuổi kĩ năng tự phục vụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 27 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHĨA HƯNG
TRƯỜNG MẦM NON NGHĨA LÂM

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN TRẺ 4-5 TUỔI KỸ
NĂNG TỰ PHỤC VỤ”
Lĩnh vực/cấp học: Phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội/GDMN

Tác giả: Lê Thị Thục
Trình độ chun mơn: Đại học sư phạm mầm non
Chức vụ: Giáo viên
Nơi công tác: Trường Mầm non xã Nghĩa Lâm

Nghĩa Lâm, ngày 09 tháng 6 năm 2020


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “ Một Số biện pháp rèn trẻ 4-5 tuổi kĩ năng tự phục vụ”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
( Từ ngày 16 tháng 8 năm 2019 đến 10 tháng 6 năm 2020)
4. Tác giả:
Họ và tên: Lê Thị Thục
Năm sinh: 1985
Trình độ chun mơn: Đại học SPMN
Chức vụ: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường Mầm non Nghĩa Lâm
Địa chỉ liên hệ: Trường Mầm non Nghĩa Lâm
Điện thoại : 0986310987
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường mầm non xã Nghĩa Lâm


Địa chỉ: Xã Nghĩa Lâm – Nghĩa Hưng – Nam Định.
Điện thoại: 02283723673.


BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Kĩ năng sống là kĩ năng cần thiết cho tất cả mọi người, mọi lứa tuổi và phải
được hình thành từ khi cịn nhỏ. Con người ln cần những kĩ năng cơ bản từ kĩ
năng tự phục vụ bản thân đến những kĩ năng giúp ích cho cơng việc. Giáo dục kĩ
năng sống có tác dụng tích cực trong việc ngăn ngừa các hành vi lệch lạc của trẻ.
Các kĩ năng sống nhất là kĩ năng tự phục vụ bản thân chủ yếu hình thành trong
mơi trường gia đình và hình thành ngay từ khi cịn nhỏ sẽ giúp hình thành nhân
cách tốt sau này ở trẻ.
Thực tế cho thấy xã hội hiện đại ngày nay trẻ em thường được bao bọc và
làm hộ cho rất nhiều việc, những cơng việc hết sức bình thường đơn giản tự phục
vụ như tự rửa mặt, đánh răng, tự xỏ giầy, tự xúc cơm ăn rất ít trẻ tự tin làm được
và trẻ cũng không được cho cơ hội để tự làm điều đó. Tơi thiết nghĩ ngun nhân
tình trạng này đến từ đâu? Từ trẻ hay từ chính tư duy của người lớn chúng ta?
Bản thân tôi cũng là một bà mẹ, có hai người con trai. Sai lầm tơi nhận ra
khi ni và chăm sóc bé đầu lịng đó là quá cưng chiều con, tôi làm giúp cho con
mọi việc, con có nhu cầu muốn tự xỏ giày, tự lựa chọn quần áo để mặc theo ý
thích, tự đánh răng, giúp mẹ quét nhà,.. vì nhu cầu khẳng định bản thân và mong
muốn bắt chước hành vi của người lớn khi ở độ tuổi 4-5 tuổi rất cao. Nhưng
chính vì sai lầm muốn bao bọc, chiều chuộng con và không tin vào khả năng của
con nên đến bây giờ con trai tơi đã 13 tuổi nhưng cháu khơng có suy nghĩ tự làm
nhiều việc, ích kỉ, vụng về, lười biếng, thiếu tự tin và có thói quen ỉ lại vào sự
giúp đỡ của người lớn.
Là giáo viên mầm non phụ trách lớp 4-5 tuổi và từ sai lầm khi nuôi con của
mình tơi nhận ra rằng trẻ biết tự phục vụ sẽ dễ dàng giúp trẻ hịa nhập với mơi
trường mới, trẻ tích cực, chủ động, sáng tạo và tự tin khi bước ra cuộc sống sau

này. Chính những trăn trở đó nên tơi quyết định nghiên cứu và áp dụng đề tài: “
Một số biện pháp rèn trẻ 4-5 tuổi kĩ năng tự phục vụ” vào nhóm lớp của mình
trong suốt năm học 2019- 2020.
II. MƠ TẢ GIẢI PHÁP


1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
1.1. Hiện trạng:
- Đầu năm học 2019- 2020 tôi được phân công là giáo viên phụ trách lớp 45 tuổi, tôi luôn nhận được sự chỉ đạo quan tâm sát sao từ các đồng chí trong Ban
giám hiệu nhà trường.
- Lớp tơi có 26 trẻ, đa số trẻ đều ngoan ngỗn, thích hoạt động, vui chơi,
nhanh nhẹn, đặc biệt trẻ được thay đổi môi trường lớp học khi từ lớp mẫu giáo 3
tuổi lên lớp mẫu giáo 4 tuổi , được làm quen với cô giáo mới, bạn mới nên đa số
trẻ thích giao lưu, tìm hiểu những người xung quanh mình và tị mị về mơi trường
xung quanh lớp học.
1.2 Ưu điểm :
- Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu về chuyên môn, hướng dẫn
và cung cấp cho tôi nhiều tài liệu chuyên môn, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên,
các văn bản chỉ đạo về các kĩ năng chăm sóc giáo dục trẻ theo độ tuổi
- Là một giáo viên có trình độ đại học sư phạm mầm non, có kinhnghiệm
lâu năm trong nghề, cũng như có tinh thần học hỏi, đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng lấy trẻ làm trung tâm rất cao.
- Tôi có khả năng ứng dụng cơng nghệ thơng tin, ln có tinh thần học hỏi
đồng nghiệp và tìm hiểu trên các trang mạng, các tạp trí giáo dục mầm non về
cách chăm sóc và giáo dục trẻ
- Các bậc phụ huynh rất quan tâm đến con em mình, nhiệt tình ủng hộ các
chương trình và phong trào nhà trường tổ chức. u q giáo viên.Số lượng trẻ
nhóm lớp tơi khơng q đơng, ngoan và lễ phép nên q trình trị chuyện và giao
lưu với trẻ thực hiện dễ dàng.
- Trẻ đã có nền tảng trong kĩ năng tự phục vụ từ lớp 3 tuổi, đã khá quen với

chế độ sinh hoạt ở trường nên việc uốn nắn và hình thành thói quen tự phục vụ
cho trẻ trở nên dễ dàng hơn.
1.3. Nhược điểm:
- Do trường thiếu giáo viên nên một mình đứng lớp.


- Trẻ ban đầu đến lớp còn nhút nhát, các kĩ năng tự phục vụ chưa thuần
thục và cô vẫn phải giúp đỡ nhiều.
- Nhiều trẻ vẫn còn được quá cưng chiều khi ở nhà nên những kĩ năng tự
phục vụ của trẻ cịn yếu, thích dựa dẫm vào người lớn, có tâm lí ích kỉ và ỉ lại.
- Do thói quen nng chiều khơng tốt ở nhà và đáp ứng mọi nhu cầu dù là
nhu cầu không tốt cho trẻ như: Cho xem điện thoại rồi mới ăn cơm, một số trẻ
không tự lấy và cất đồ dùng của mình nếu bố mẹ khơng mua bánh kẹo, Bim bim,
đồ chơi,...,thậm trí đầu năm học có trẻ cịn chưa tự cầm thìa xúc cơm ăn
- Người lớn thường khơng hoặc ít tạo cơ hội cho trẻ được khẳng định mình,
thể hiện nhu cầu và mong muốn của bản thân. Áp đặt suy nghĩ và quyết định của
trẻ theo ý mình.
- Một số phụ huynh, nhất là những cháu bố mẹ đi làm xa ở nhà với ơng bà
thường phó mặc chuyện giáo dục và chăm sóc trẻ cho cơ giáo.
- Giáo viên tuy đã ý thức được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng tự phục
vụ cho trẻ nhưng đa số giáo viên cịn ngại khó, sợ tốn nhiều thời gian và công sức
vào việc luyện tập cho trẻ. Bởi vì trẻ thực hiện cịn lóng ngóng, vụng về
- Giáo viên chưa có sự đầu tư đúng mực cho việc rèn luyện kĩ năng tự phục
vụ.
- Nhiều phụ huynh còn chưa hiểu được tầm quan trọng của việc rèn trẻ kĩ
năng tự phục vụ bản thân.
BẢNG I : TRẺ CÓ KĨ NĂNG TỰ PHỤC VỤ BẢN THÂN ĐẦU NĂM
ST
T
1

2
3
4
5
6
7
8
9

Tiêu chí khảo sát
Tự cầm ca cốc lấy nước uống
Tự xúc cơm ăn
Cất yếm, lau miệng sau khi ăn
Cùng cô kê sạp ngủ, kê bàn ăn
Tự cất và lấy giầy dép ở giá
Tự dán ảnh điểm danh và cất đồ dùng cá
nhân
Tự rửa mặt, rửa tay
Dọn cất bát thìa sau khi ăn
Cất dọn đồ chơi sau khi chơi

Kết quả
Số lượng
18/26
20/26
22/26
10/26
18/26

Tỉ lệ %

69
77
84
38
69

20/26

77

19/26
23/26
16/26

73
88
61


10

Khả năng trẻ tự làm mà giáo viên không
12/26
46
cần phải nhắc nhở
2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến
2.1. Xây dựng mục tiêu giáo dục rèn luyện kĩ năng tự phục vụ cho trẻ.
Trong kế hoạch giáo dục của mình tơi lựa chọn và xây dựng các mục tiêu

phù hợp theo chủ đề từ dễ đến khó phù hợp để thiết kế các nội dung hoạt động rèn

dạy trẻ theo độ tuổi.
Mục tiêu cũng là công cụ giúp tôi đánh giá kết quả giáo dục trên trẻ nhằm
thực hiện chế độ chăm sóc và giáo dục trẻ tốt hơn nữa.
Trong mỗi chủ đề tôi đều lựa chọn các mục tiêu phù hợp. Về kĩ năng tự
phục vụ bản thân, tôi đan cài lồng ghép trong các lĩnh vực giáo dục phát triển thể
chất, giáo dục phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội để giáo dục cho trẻ.
Ví dụ: Ví dụ: Ở chủ đề: Dinh dưỡng sức khỏe và an tồn, tơi đưa ra một số
mục tiêu ở các lĩnh vực phát triển để rèn dạy trẻ một số kỹ năng cần đạt được ở
cuối chủ đề.
Cụ thể:
Các lĩnh vực phát triển

Mục tiêu giáo dục
Nội dung giáo dục
MT 8.Tự cài, cởi cúc, - Trẻ biết tự cởi cúc áo và
kéo phéc mơ tuya cài cúc áo một cách

1. Lĩnh vực phát triển thể CS9).

nhanh nhẹn và đúng cách

chất

- Trẻ biết kéo phéc mơ
tuya một cách khéo léo

2. Lĩnh vực phát triển MT5.2 . Trẻ biết bỏ

và đúng cách.
. Trẻ biết giữ vệ sinh


tình cảm quan hệ xã hội

chung.

rác đúng nơi quy định

- Trẻ biết nhặt rác bỏ vào
3. Lĩnh vực phát triển MT 83. Có một số kĩ
thẩm mỹ

đúng nơi quy định
- Trẻ biết cầm bút màu

năng tạo hình đơn

vẽ các nét thẳng, xiên,

giản:Vẽ các nét thẳng,

ngang... và tô màu tạo ra

xiên, ngang,...tô màu,

sản phẩm đơn giản đẹp

xé,cắt theo đường

theo ý thích của trẻ



thẳng, cong tạo thành

- Trẻ biết dùng kéo để cắt

bức tranh đơn giản,

theo đường thẳng, cong

(CS34).

để tạo ra sản phẩm đơn

giản
Sau đó tơi sẽ theo dõi ghi chép lại những trẻ nào đã thực hiện tốt, trẻ nào
thực hiện chưa tốt để tơi có biện pháp rèn trẻ, tạo thói quen thường xuyên và tích
cực đến trẻ.
Với mục tiêu 8 tôi sẽ cho trẻ thực hiện tốt lên làm mẫu và tun dương, sau
đó cho trẻ là cịn vụng về làm theo, nếu chưa được tơi vẫn khuyến khích và hướng
dẫn trẻ làm “ con làm gần đúng rồi đó, mình làm lại lần nữa chắc sẽ được đấy”
Mục tiêu 5.2 tôi sẽ trao đổi với bạn mà tôi theo dõi có ý thức tự giác, thực
hiện tốt rủ bạn khơng có thói quen nhìn thấy rác hoặc hay vứt rác bừa bãi cùng
nhặt rác hoặc dẫn bạn tới nơi quy định để bở rác vào đó.
Cứ như thế với những mục tiêu của chủ đề khác tôi cũng kết hợp đưa vào các
hoạt động nhằm dần rèn thói quen tự phục vụ cho trẻ
2.2. Đánh gía kĩ năng thực tế của trẻ và điều chỉnh kế hoạch giáo dục.
Đánh giá sự phát triển của trẻ là quá trình thu thập thơng tin về trẻ một cách
có hệ thống và phân tích, đối chiếu với mục tiêu của Chương trình GDMN, nhận
định về sự phát triển của trẻ nhằm điều chỉnh kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ một
cách phù hợp. Nhằm xác định mức độ phát triển của trẻ so với mục tiêu của từng

độ tuổi để có biện pháp thích hợp giúp trẻ tiến bộ. Ðánh giá trẻ thường xun giúp
giáo viên có được các thơng tin về sự tiến bộ của trẻ trong một thời gian dài. Xác
định được những khó khăn, những nguyên nhân cụ thể trong sự phát triển của trẻ
làm cơ sở để giáo viên đưa ra các quyết định giáo dục tác động phù hợp đối với
trẻ;
Đánh giá trẻ là cơ sở để tôi xác định những nhu cầu giáo dục cá nhân đứa
trẻ, làm căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch tiếp theo. Và cũng là cơ sở để trao
đổi, đưa ra những quyết định phối hợp trong giáo dục trẻ với cha mẹ trẻ. Những
nội dung rèn dạy trẻ có đảm bảo đáp ứng nhu cầu hoàn thiện về kĩ năng cho trẻ 45 tuổi hay khơng để từ đó đưa ra những điều chỉnh phù hợp và sát với thực tế. Có


như vậy hiệu quả của việc tổ chức rèn dạy kĩ năng tự phục vụ hay bất kì kiến thức
kĩ năng nào khác mới đem lại hiệu quả thực sự.
Việc đánh giá kết quả trên trẻ giúp tôi nắm bắt số liệu thực tế tình hình của
trẻ. Nếu trẻ thực hiện đạt yêu cầu các tiêu chí về mục tiêu tơi đưa ra thì điều đó
đồng nghĩa với việc phương pháp giáo dục và rèn dạy trẻ kĩ năng tự phục vụ của
tôi đã thực sự đem lại hiệu quả. Và ngược lại nếu trẻ thực hiện không thuần thục
hay thực hiện khơng tự nguyện và vui vẻ thì đồng nghĩa với việc các phương pháp
tơi áp dụng trước đó đều khơng mang lại hiệu quả. Căn cứ vào tình hình thực tế
như vậy để tơi điều chỉnh kế hoạch sao cho phù hợp.
Q trình đánh giá của tơi diễn ra hàng ngày. Tơi tự chuẩn bị cho mình một
cuốn sổ tay ghi chép cá nhân và tôi luôn mang theo bên mình. Trong quá trình tổ
chức thực hiện các hoạt động trong ngày cùng trẻ tôi sẽ ghi chép thật nhanh
chóng, cụ thể các vấn đề trên trẻ mà tơi quan sát được. Sau 1 ngày tơi có chuỗi
những đánh giá xác thực để thực hiện đánh giá cuối ngày, đánh giá cuối chủ đề,
đánh giá theo giai đoạn đầu năm, giữa năm và cuối năm học.
Quan sát và ghi chép biểu hiện trong ngày của
trẻ để làm cơ sở đánh giá trẻ cuối ngày

Vào cuối mỗi ngày, tôi thực hiện

đánh giá trẻ và ghi chép trong nhật kí cuối
ngày trong kế hoạch giáo dục của mình theo
các nội dung: Tình trạng sức khỏe của trẻ,
trạng thái cảm xúc, thái độ và hành vi của
trẻ; Kiến thức, kĩ năng của trẻ. Và có kế
hoạch điều chỉnh cho ngày tiếp theo.
Ví dụ: Thứ 2, ngày ... tháng...năm
2020.
- Trẻ có sức khỏe hồn tồn bình thường. Khơng có trẻ nghỉ ốm.
- Cháu Gia Bảo ném đồ chơi, cháu Phương Thảo không muốn tham gia
hoạt động thể dục sáng.


- Các cháu nhận biết được hình vng, hình trịn. Biết nhận dạng một số đồ
vật có hình dạng tương ứng. Thiên, Lan Anh, Khoa chưa tập trung chú ý trong giờ
học. ( thời gian tập trung 15p).
- Đa số trẻ nhận biết được ca cốc, yếm, gối, tủ của mình và tự lấy cất đồ
dùng. Duy Linh chưa có thói quen tự lấy, cất dép và balo của mình.
Căn cứ vào các ghi chép trong ngày tôi thực hiện đưa ra phương án giải
quyết cho các cháu vào ngày hôm sau. Như nhắc nhở Gia Bảo nhẹ nhàng trong
các hoạt động chơi. Thực hiện chuyển góc chơi sang các góc tĩnh nếu Gia Bảo
mắc lỗi nhiều lần hoặc có thể giáo dục cháu qua những mẩu chuyện nhỏ. Các
cháu cần rèn dạy kĩ năng dài hạn xuyên suốt chủ đề mới có thể hồn thiện kĩ năng
tơi sẽ chú ý lồng ghép vào tất cả các hoạt động trong ngày khác. Như trường hợp
cháu Duy Linh, hàng ngày tôi sẽ nhắc nhở cháu nhiều lần khi đón trả trẻ, khi cháu
tham gia các hoạt động có thể lồng ghép đổi dép tôi cũng sẽ chú ý nhắc nhở cháu
lấy cất dép và balo thường xuyên liên tục hàng ngày để tạo thói quen cho cháu.
Cuối mỗi chủ đề tơi cũng thực hiện đánh giá trẻ các mục tiêu sau khi đóng
chủ đề. Sau khi thực hiện dánh giá trẻ tồn diện trên các lĩnh vực khác nhau tơi
cũng điều chỉnh kế hoạch giáo dục ở chủ đề sau sao cho phù hợp.

Ví dụ: Sau khi đóng chủ đề: “Lớp mẫu giáo của bé”. Mục tiêu trẻ có kĩ
năng tự rửa tay, rửa mặt thuần thục chỉ đạt ở mức 13/26 trẻ ( 50%) tôi lại tiếp tục
đưa mục tiêu đó vào tiếp tục thực hiện ở chủ đề: “ Dinh dưỡng sức khỏe và an
toàn- thời gian thực hiện 4 tuần”. Tôi thiết kế nội dung hoạt động và tích cực lồng
ghép rèn dạy trẻ mục tiêu đó mọi lúc mọi nơi trong tất cả các hoạt động ở chủ đề
tiếp theo sao cho mục tiêu đó đạt yêu cầu. Nếu mục tiêu đó đã đạt yêu cầu 100%
trẻ thực hiện thuần thục sau 2 tuần đầu ở chủ đề: “ Dinh dưỡng sức khỏe và an
tồn” tơi lại tiếp tục áp dụng mục tiêu mới vào rèn dạy trẻ trong 2 tuần tiếp theo.
Việc làm này tương tự đối với việc điều chỉnh kế hoạch giáo dục, xây dựng
mục tiêu giáo dục sau khi đánh giá trẻ theo các giai đoạn đầu năm, giữa năm và
cuối năm học.
2.3. Trau dồi kinh nghiệm bản thân thơng qua hình thức học tập bồi
dưỡng thường xuyên theo tổ chuyên môn và tự học.


Tơi tích cực tham gia và thảo luận đưa ra các ý kiến vào các buổi sinh hoạt
chuyên môn tổ, dạy dự giờ, tham gia hội giảng, trao đổi chuyên mơn với bạn bè
đồng nghiệp để nâng cao trình độ chun mơn.
Trẻ rất thích được gần gũi, mọi hoạt động của cô trẻ luôn ghi nhớ, bắt chước
làm theo nếu trẻ u q cơ. Vì vậy tơi ln phải chuẩn mực trong mọi lĩnh vực,
là tấm gương cho trẻ. Tôi xây dựng cho mình phong cách nhẹ nhàng, tự tin giải
quyết từng tình huống cụ thể. Trong khi giao tiếp với trẻ tôi luôn nhẹ nhàng, sử
dụng danh từ xưng hô gần gũi: “Cô” và “con” để trao đổi với trẻ tạo cảm giác
thân quen gần gũi và trẻ sẽ cảm thấy mình được u q. Khi trẻ thấy tơi giặt
khan, nhặt rác, cất đồ dùng hàng ngày và trẻ sẽ bắt chước theo hành vi đó khi gặp
tình huống tương tự xảy ra.
Tôi cũng không ngừng học tập, tự bồi dưỡng, đọc các tài liệu về giáo dục
mầm non để có biện pháp, kĩ năng tốt, có hiểu biết cần thiết để rèn trẻ kĩ năng tự
phục vụ, thường xuyên đọc các tạp chí chuyên sâu về giáo dục tâm lý của trẻ, mục
tiêu, phương pháp của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non

2.4. Xây dựng chế độ sinh hoạt của nhóm lớp và nghiêm túc thực hiện
đúng, đủ đều để rèn thói quen thường xuyên liên tục của trẻ.
- Để hình thành thói quen nề nếp tốt cho trẻ tơi đã thực hiện:
+ Giờ đón trẻ: Tôi nhắc trẻ đổi, cất dép vào giá, lấy ảnh điểm danh và cất
đồ dùng cá nhân để vào lớp


Hình ảnh: Trẻ tự lấy và cất đồ dung cá nhân khi đến lớp
+ Giờ hoạt động học tôi yêu cầu trẻ lấy, cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi
quy định sau khi trẻ chơi xong, đồng thời tôi cũng đưa ra quy định với những bạn
cố ý ỉ lại khơng tham gia cất dọn đồ chơi thì lần sau sẽ khơng cho bạn đó chơi ở
nhóm đó.

Hình ảnh: Trẻ tự lấy, cất đồ dùng đồ chơi khi tham gia các hoạt động


Tơi đưa ra một số trị chơi khi muốn trẻ cất đồ dùng, đồ chơi gọn gàng như “
thi xem ai nhanh” vừa hát, vừa cất thi xem ai cất nhanh và gọn gàng trẻ sẽ thích
thú hơn là ta quát mắng hay ra lệnh cho trẻ như “ hãy cất đồ chơi này cho cơ
ngay”.
+ Giờ chơi ngồi trời tôi rèn trẻ khả năng tự phục vụ phù hợp với trẻ như
nhìn thấy rá, lá cây trẻ tự nhặt bỏ vào thùng, cùng cô nhặt cỏ, tưới cây, chăm sóc
cây ngời vườn ươm, góc thiên nhiên.
+ Đến giờ ăn tôi chỉ cần gợi ý hỏi trẻ chuẩn bị tới giờ gì là trẻ sẽ tự giác đi
rửa tay, rửa mặt, lấy yếm, kê ghế vào bàn ăn.

Hình ảnh: Bé tự rửa tay, rửa mặt theo các bước




Hình ảnh: Bé giúp cơ xếp bát, lấy đĩa
và khăn ăn chuẩn bị ăn
+ Với giờ ngủ trẻ sẽ tự lấy gối vào sạp ngủ, ngủ dậy trẻ sẽ tự cất gối vào tủ
cá nhân, kê sạp cất đi.

Hình ảnh: Bé tự lấy, cất gối trước và sau khi ngủ dậy


Ngồi ra tơi cịn lên lịch phân cơng trực nhật cho từng nhóm, từng ngày,
giờ đón trẻ tơi u cầu nhóm ngày hơm đó trực nhật ra dán ảnh lựa chọn cơng
việc mình sẽ làm trong ngày hơm đó như: kê bàn ăn, dọn đồ chơi ở tủ giá, phơi
khăn, hỗ trợ cùng cơ xếp bát thìa...

Hình ảnh: Bé tự chọn công việc


Hình ảnh: Bé phơi khăn giúp cơ
2.5. Khích lệ, động viên trẻ kịp thời khi rèn trẻ kỹ năng tự phục vụ bản
thân.
* Cô cần là người quan sát, ghi nhận sự cố gắng nỗ lực của trẻ và kết
quả sau mỗi lần cố gắng nỗ lực đó của trẻ.
Trẻ em luôn cần được yêu thương và quan tâm, dù chỉ là những lời động
viên, ánh mắt khích lệ, và nụ cười trìu mến của cơ cũng đủ làm cho trẻ có động
lực cố gắng thay đổi tốt đẹp hơn và nhận ra sự đúng sai trong hành vi của mình.
Tơi thường sử dụng các hình thức khen ngợi và khích lệ động viên như
tuyên dương trước lớp, thưởng hoa bé ngoan, nêu gương bé ngoan cuối tuần và
khen ngợi hành vi tốt của trẻ trước mặt cha mẹ trẻ. Thông tin cho trẻ biết những
điều tôi suy nghĩ về hành động tốt hay chưa tốt ở trẻ để trẻ biết và biết được mình
cần phải điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp. Ví dụ: Hơm nay Duy Linh Tự lấy
cất balo của mình rồi! con giỏi q, cơ rất vui khi con làm như vậy!

Tùy vào từng trường hợp cụ thể, nếu trẻ làm lần 1 làm chưa tốt cô hỗ trợ
động viên, lần 2 trẻ làm tốt hơn cơ sẽ khen ngợi, khích lệ trẻ, lần 3 trẻ thực hiện


thành thạo cơ đưa trẻ đó ra làm gương trước lớp để trẻ khác hiểu ra tầm quan
trọng và ý nghĩa của việc làm tự phục vụ bản thân.
* Xây dựng mối quan hệ thân thiện và tích cực giữa giáo viên với trẻ.
Mối quan hệ thân thiện và gần gũi sẽ xóa đi những khoảng cách giữa cơ và
trẻ, sẽ làm cho trẻ tự tin thể hiện mong muốn của bản thân. Mối quan hệ qua lại
giữa cô và trẻ cần được bồi dưỡng tốt đẹp lên trong chính cách giao tiếp hàng
ngày thể hiện sự gần gũi, tôn trọng yêu thương trẻ.
Một đứa trẻ nếu cảm nhận được những việc làm của mình có ích và tích
cực thì đứa trẻ sẽ cảm thấy như mình được khích lệ và được đón nhận trẻ sẽ có
cảm giác được tơn trọng và tự hào. Và còn tự cảm nhận được trách nhiệm của
chính mình. Đây cũng là cách để tơi bồi dưỡng trẻ coi những hành vi tự phục vụ
bản thân là trách nhiệm của chính mình làm cho trẻ yêu thích hào hứng tham gia
các hoạt động, nhất là các cơng việc tự phục vụ bản thân.
Ví dụ: Khi tôi đang lau dọn lớp sau giờ ăn trưa của trẻ, bạn Thế Huynh có
đến cạnh tơi và nói: “ Cô ơi! Để con làm cho”. Tôi liền vui vẻ đưa cây lau nhà cho
Huynh và nói: “ Tốt quá! Con làm đi”, Bé cầm cây lau nhà đi khắp lớp, lau sau
một hồi bé nói với tơi: “ Cơ ơi! Con lau xong rồi”. Tôi liền khen: “ Con làm tốt
lắm!” Mặc dù bé chỉ lôi cây lau nhà và đi lịng vịng quanh lớp.
Sau lần đó tơi thấy Huynh mạnh dạn thể hiện mong muốn của bản thân
hơn, u thích cơng việc tự phục vụ và giúp đỡ cơ những cơng việc khác vừa sức.
Qua đó có thể thấy ý nghĩa của việc tôn trọng mong muốn được thể hiện bản thân
của trẻ và để trẻ được tham gia quan trọng hơn so với hiệu suất làm việc của
chúng ta. Tuy rằng có thể trẻ làm chưa tốt nhưng hành động của trẻ được khích lệ
thì trẻ sẽ cảm thấy mình là một người rất có gía trị, trẻ tự tin vì đã hồn thành
dược một cơng việc tốt cho mình hoặc giúp đỡ người người khác.
Đối với những trẻ chưa có ý thức trong việc tự phục vụ tôi sẽ cho những trẻ

thành thạo kĩ nang tự phục vụ giúp đỡ và hướng dẫn trẻ đó. Trong khi đó tơi sẽ
tun dương, khích lệ, khen ngợi để trẻ yếu đó cố gắng dù trẻ chỉ hồn thành ở
mức sơ sài, chưa chau chuốt ví dụ như : con khỏe quá đã cùng bạn bê dọn bàn ăn,


con sắp xếp đồ chơi ở góc phân vai rất là đẹp đấy, hôm nay con tự xúc cơm ăn lại
cịn khơng rơi hạt cơm nào ra bàn ăn.
- Trong giờ đón trẻ tơi ân cần, gần gũi trẻ, trị chuyện với trẻ về những việc
làm của trẻ khi ở nhà và khi tới lớp như :
+ Hôm qua con ở nhà đã giúp được việc gì cho mẹ, cho ông bà?
+ Sáng nay con đã đánh răng chưa?
+ Sáng nay con nào tự mặc quần áo để đi học?
+ Bạn nào sáng nay tới lớp đã tự cất balo vào tủ của mình?
- Với những câu hỏi trên tơi muốn trẻ có một thói quen chủ động của bản
thân, không chờ nguười khác phải nhắc nhở
2.6. Xây dựng các tình huống về kĩ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ
thực hành và suy nghĩ để tự giải quyết tình huống cụ thể.
* Tình huống 1 : Khi chia xuất ăn đều ra các bát rồi cô gợi ý. Bây giờ cô
nhờ các bạn lên lấy bát về bàn ăn giúp cô được không?
Theo như sự phân công trưởng nhóm theo từng bàn ăn thì trẻ sẽ tự lên lấy
xuất ăn về cho bạn trong bàn mình
* Tình huống 2: Sau giờ chơi các góc tơi sẽ gợi ý là đã hết giờ chơi hoạt
động ở góc tới giờ gì tiếp theo hả các con?
Những trẻ tự chọn theo bảng phân công trực nhật ở cửa lớp trong giờ đón
trẻ sẽ tự động đi kê bàn ăn, sắp bát, gấp khăn lau vào đĩa, các bạn không trong
danh sách trực nhật sẽ xếp hàng đi rửa ta, rửa mặt trước
* Tình huống 3: Tơi sẽ gợi hỏi trẻ là khi ăn xong cơm các con sẽ phải làm
gì tiếp theo, trẻ sẽ trả lời con đi lau miệng, lấy cốc uống nước, mang gối vào sạp
để chuẩn bị ngủ.
- Trên đây là một số tình huống tơi đưa ra để rèn thói quen cho trẻ theo chế

độ sinh hoạt một ngày của trẻ. Ngồi ra tơi cịn tích hợp kĩ năng tự phục vụ bản
thân vào các hoạt động vui chơi, hoạt động học, hoạt động ngoài trời.... như nhặt
rác bỏ vào thùng, nhặt cỏ khu vườn ươm, lấy bút sáp, đất nặn chia về cho tổ( bàn),
tự thay áo khi bị giây bẩn, ướt khi chơi, uống sữa xong trẻ tự rửa cốc úp vào giá,
phụ cô phơi khăn mặt...


2.7. Rèn dạy trẻ kĩ năng tự phục vụ thông qua các bài hát, bài thơ, câu
chuyện.
Đối với trẻ đã quen với việc ỉ lại không muốn làm những công việc tự phục vụ
bản thân thì tơi giáo dục trẻ nhận ra bằng những bài thơ, câu chuyện có hình
tượng nhân vật thay thế để giáo dục trẻ một cách từ từ, khơng trì triết, khơng bêu
xấu, khơng sử dụng từ ngữ năng gây tổn thương trẻ.
Ví dụ: Trường hợp cháu Chí Bình lớp tơi được cả bố mẹ và ơng bà cưng
chiều, bé khơng có tính tự giác làm những công việc tự phục bản thân, đến cả cất
đồ dùng cá nhân khi vào lớp mẹ cũng phải mang vào tận tủ cá nhân để cất dùm,
giờ ăn trẻ cịn lười xúc cơm ăn mà phải chờ cơ khuyến khích nhắc nhở, thậm chí
có lần cơ phải bón cơm giúp trẻ. Từ khi tôi kể cho bé nghe câu chuyện “ Chú bé
lọ lem”của Ngọc Xuân kể, tôi đặt ra những câu hỏi giúp trẻ hiểu được tự phục vụ
bản thân có ích lợp như thế nào và tác hại của việc không biết tự phục vụ bản thân
sẽ ra sao như hỏi trẻ tại sao các bạn không chơi với cậu bé Tít, khi nhận ra mình
lười tắm gội thì cậu bé Tít đã quết tâm là gì?
Với bài thơ “ Đôi bàn tay nhỏ xinh” của Phạm Mai Chi- Hồng Dân sáng
tác trong tuyển tập trị chơi bài hát thơ truyện mẫu giáo 4-5 tuổi theo chủ đề tơi
cũng đưa ra những câu hỏi, phân tích nọi dung về tầm quan trọng của đôi bàn tay
biết làm những cơng việc gì để trẻ dễ dàng nhận ra. Từ đó tơi quan sát bé đã tự
giác vào lớp chào cô và cất đồ dùng cá nhân vào tủ, giờ ăn trẻ đã tự xúc cơm ăn
rất nhanh, từ đó tơi khuyến khích tun dương bé để bé có động lực và nhận ra
rằng khi mình tự xúc ăn nhanh sẽ khơng cịn những lời gọi vọng của các bạn cùng
bàn ăn “ Bình ơi ăn nhanh lên hoặc sẽ khơng có những lời nhắc nhở của những

bạn trực nhật ngày hơm đó sẽ giục Bình ơi xúc ăn đi cho bọn mình dọn bàn...”
2.7. Phối kết hợp với cha mẹ trẻ để cha mẹ hiểu được vai trò, ý nghĩa
của việc tự phục vụ để trẻ luôn tự tin vào bản thân sau này
Ví dụ: Tơi sẽ kể phụ huynh nghe câu chuyện nuôi dạy con và bài học rút ra
từ bản thân mình khi nng chiều con và làm mọi việc giúp con có hậu quả là trẻ
khơng hề có kĩ năng tự phục vụ bản thân khi khơng có bàn tay của bố mẹ, người
thân bên cạnh để phụ huynh hiểu và kết hợp với cô giáo để tạo cơ hội cho trẻ thể


hiện mình ở bất kì mơi trường nào, găp bất kì tình huống nào khi khơng có người
lớn hỗ trợ.
Tư vấn hỗ trợ phụ huynh phương pháp giúp trẻ tự phục vụ bản thân với
những công việc đơn giản, vừa sức với lứa tuổi khi ở nhà( tự xúc cơm ăn, tự đánh
răng rửa mặt, tự thay quần áo khi bị giơ bẩn, tự chon trang phục phù hợp theo
mùa...).
Tôi lập nhóm zalo của lớp nhằm trao đổi với phụ huynh về tất cả những
hoạt động và những thông báo của lớp, qua đó tơi có thể hướng dẫn cho phụ
huynh cách tạo cơ hội để trẻ được tự làm những công việc tự phục vụ bản thân khi
ở nhà.
Đăng tải những hình ảnh mà trẻ đã tự phục vụ bản thân khi ở lớp để phụ
huynh nhìn thấy con mình có thể tự mình làm những việc khi khơng có bố mẹ bên
cạnh hỗ trợ. Từ đó giúp phụ huynh nhìn nhận ra tầm quan trọng của việc rèn kĩ
năng cho trẻ tự phục vụ bản thân giúp con em họ tự lập, tự tin hơn, sáng tạo hơn
trong cuộc sống.
Về phía nhà trường cũng đã kết hợp với phụ huynh tổ chức các hoạt động
trải nghiệm cho trẻ như tổ chức tết trung thu, tết thiếu nhi giúp trẻ tự tịn , tự phục
vụ bản thân.
Nhất là trong thời gian dịch bệnh covid – 19 vừa qua tôi đã thường xuyên
trao đổi với phụ huynh qua zalo trong những ngày nghỉ dịch để hướng dẫn phụ
huynh cũng như trẻ cách tự phòng chống dịch cũng như muốn phụ huynh hướng

dẫn tạo thói quen cho trẻ về cách tự phòng tránh dịch như thế nào. Sau khi trẻ tới
lớp tôi tiếp tục tuyên truyền hứng dẫn phụ huynh về phòng chống dịch bệnh cho
trẻ như đeo khẩu trang từ nhà tới trường, từ trường về nhà, khi tới trường trẻ được
sát khuẩn tay, đo nhiệt độ khi vào lớp. Từ đó tơi hướng dẫn tạo thói quen cho trẻ
về kĩ năng tự phục vụ, tự vệ sinh và giữ gìn cơ thể ( trẻ tự rử tay khi bẩn, sau khi
chơi đồ chơi, sau khi đi vệ sinh, trẻ tự đeo khẩu trang hay tự lấy giấy lau khi hắt
hơi..)
III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI
1. Hiệu quả về mặt kinh tế


Các giải pháp mà tôi đã áp dụng chủ yếu được thục hiện lồng ghép trong
các hoạt động theo chế độ sinh hoạt hàng ngày nên không tốn nhiều chi phí mua
đồ dùng và các phương tiện hoạt động.
Q trình bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ sư phạm của tôi được nâng cao
và chủ yếu diễn ra dưới hình thức tự học và bồi dưỡng qua sách báo và tạp chí
mầm non, các tài liệu nhà trường cung cấp và qua kinh nghiệm thực tế của đồng
nghiệp nên các chi phí đào tạo được cắt giảm tối đa.
2. Hiệu quả về mặt xã hội
* Đối với trẻ :
- Sau một năm học áp dụng đề tài tơi thấy trẻ có sự tiến bộ rõ rệt, trẻ không
chỉ được rèn kĩ năng tự phục vụ mà cịn hình thành lên nhân cách sống của trẻ sau
này giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
- Qua việc áp dụng đề tài sáng kiến vào lớp tôi , tôi thấy trẻ lớp tôi đã tự
lập, tự tin, sáng tạo hơn trong trong kĩ năng tự phục vụ bản thân, khơng những thế
trẻ cịn biết phục vụ cho mọi người xung quanh như giúp cơ, người thân, bạn bè...
Trẻ rất tích cực trong việc rèn kỹ năng tự phục vụ. Tỉ lệ trẻ thực hiện được
u cầu của cơ và có những kỹ năng cơ bản để phục vụ bản thân, làm vệ sinh cá
nhân và giúp đỡ người khác đạt cao. Tỉ lệ đạt khá giỏi tăng lên , trẻ tự cầm ca cốc
lấy nước uống đạt 100%, trẻ tự xúc cơm ăn đạt 100%, trẻ biết tự cất yếm, lau

miệng sau khi ăn đạt 100%...,trẻ có ý thức tự giác tự phục vụ bản thân mà không
cần cô giáo phải nhắc nhở đã đạt tỉ lệ cao rõ rệt.
* Đối với cô:
- Qua thời gian nghiên cứu, lỗ lực của bản thân và trẻ ở lớp, tôi rất lấy làm
phấn khởi hào hứng khi thấy kết quả trẻ có khả năng tự phục vụ bản thân và phối
hợp vận động tốt, trẻ thích tham gia các hoạt động, ln mạnh dạn, tự tin, có ý
thức tổ chức kỉ luật , tinh thần đoàn kết khi tham gia các hoạt động tập thể, biết
quan tâm giúp đỡ những người xung quanh.
- Bản thân là một giáo viên có thời gian giảng dậy lâu năm, có kinh nghiệm
giảng dậy chăm sóc giáo dục trẻ và tìm tịi học hỏi những kinh nghiệm của đồng


nghiệp và khơng ngừng nghiên cứu thêm tài liệu ngồi chương trình có nội dung
giáo dục rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ đẻ vận dụng vào thực tế của lớp.
- Tôi luôn lắng nghe ý kiến của trẻ, tơi chịu khó trị chuyện với trẻ, trả lời
những câu hỏi vụn vặt của trẻ, khuyến khích, khơng kla mắng, giải quyết hợp lý,
cơng bằng với các tình huống xảy ra giữa các trẻ, tạo sự gần gũi thân quen giữ cô
và trẻ
* Đối với phụ huynh :
- Phụ huynh đã tích cực tham gia phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc
dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ bản thân bằng nhiều hình thức như sổ liên lạc, trao đổi
trực tiếp với cơ giáo, bằng kênh zalo nhóm lớp. Tơi sẽ chia sẻ những hình ảnh trẻ
tự phục vụ và làm được ở lớp cho phụ huynh thấy, phụ huynh cũng chia sẻ những
hình ảnh trẻ thực hiện được ở nhà đăng tải lên hội nhóm zalo của lớp để cùng với
các phụ huynh khác học tập và tham khảo nhau tạo các tình huống cho trẻ tự thể
hiện bản thân. Từ đó tơi thấy các phụ huynh phản hồi lại là khi hướng dẫn con tự
phục vụ không la mắng trẻ, không là giúp trẻ mà nhẹ nhàng hơn, có những lời
khen thích đáng với việc trẻ làm mặc dù trẻ làm chưa được theo ý.
BẢNG II : TRẺ CÓ KĨ NĂNG TỰ PHỤC VỤ CUỐI NĂM HỌC
TT

Tiêu chí khảo sát
Kết quả
Số lượng
Tỉ lệ %
1 Tự cầm ca cốc lấy nước uống
26/26
100
2 Tự xúc cơm ăn
26/26
100
3 Cất yếm, lau miệng sau khi ăn
26/26
84
4 Cùng cô kê sạp ngủ, kê bàn ăn
18/26
69
5 Tự cất và lấy giầy dép ở giá
26/26
100
6 Tự dán ảnh điểm danh và cất đồ dùng cá nhân
26/26
100
7 Tự rửa mặt, rửa tay
26/26
100
8 Dọn bát thìa sau khi ăn
23/26
88
9 Cất dọn đồ chơi sau khi chơi
24/26

61
Khả năng trẻ tự làm mà giáo viên không cần
10
23/26
88
phải nhắc nhở
Qua quá trình thực hiện và áp dụng sáng kiến giảng dạy “ Một số biện
pháp rèn trẻ 4-5 tuổi kỹ năng tự phục vụ” tôi rút ra được bài học kinh nghiệm
là:


- Đã khắc phục tính bị động, tạo tính chủ đông, tự tin, sáng tạo cho trẻ, lắng
nghe và tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm, thể hiện bản thân
- Giáo viên cần tham mưu với nhà trường để kết hợp với phụ huynh học
sinh cùng các ban nghành xã hội hỗ trợ, tổ chức các hoạt đông trải nghiệm tạo cơ
hội cho trẻ được thể hiện bản thân.
- Trong thời kì đổi mới hiện nay đất nước phát triển khơng ngừng địi hỏi
phải có những con người tự lập, năng động, tự chủ và sáng tạo và có những khả
năng ứng phó tích cực với các tình huống của cuộc sống vì thế mỗi chúng ta càn
quan tâm và giáo dục trẻ có những kỹ năng cơ bản nhất ngay từ bây giờ để tạo
nền tảng vững chắc cho trẻ tự tin chủ động khi bước vào cuộc sống.
- Qua kiểm chứng “Một số biện pháp rèn trẻ 4-5 tuổi kĩ năng tự phục vụ”,
các giải pháp mà tơi đưa ra thấy phù hợp và có hiệu quả tích cực với trẻ 4-5 tuổi
của lớp tơi xong vẫn cịn nhiều thiếu xót mà tơi chưa nhận thức được. Rất mong
nhận được sự đánh giá, nhận xét của các cấp lãnh đạo và các đồng nghiệp góp ý
để sáng kiến kinh nghiệm của tôi ngày càng đầy đủ và hoàn thiện hơn.
3. Khả năng áp dụng và nhân rộng
- Bằng kinh nghiệm của mình, tơi đã chia sẻ cho đồng nghiệp trong tổ 4
tuổi và các bạn đồng nghiệp của tổ khác trong trường mầm non Nghĩa Lâm nhằm
rèn cho trẻ có thói quen tự phục vụ bản thân được nề nếp hơn.

- Qua kiểm chứng “Một số biện pháp rèn trẻ 4-5 tuổi kĩ năng tự phục vụ”, các
giải pháp mà tôi đưa ra từ đầu năm học đến nay thấy phù hợp và có hiệu quả tích
cực với trẻ 4-5 tuổi của lớp tôi , tôi thiết nghĩ các giải pháp mà tơi đã áp dụng có
thể áp dụng rộng rãi trong tất cả các nhóm trẻ trong trường mầm non và cho phụ
huynh áp dụng tại nhà để rèn dạy kĩ năng tự phục vụ cho trẻ. Rất mong nhận được
sự đánh giá, nhận xét của các cấp lãnh đạo và các đồng nghiệp góp ý để sáng kiến
kinh nghiệm của tôi ngày càng đầy đủ và hồn thiện hơn.
IV. Cam kết khơng sao chép hoặc vi phạm bản quyền
Tôi cam kết báo cáo sáng kiến “ Một số biện pháp rèn trẻ 4-5 tuổi kỹ năng
tự phục vụ ” Như tơi đã trình bày ở trên là hoàn toàn do ý tưởng xây dựng và việc


làm thực tế của bản thân tôi tại trường mầm non Nghĩa Lâm. Bản thân không vi
phạm bản quyền của ai, nếu sao chép tơi xịn chịu hồn tồn trách nhiệm.
Tác giả sáng kiến

Lê Thị Thục

CƠ QUAN, ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Sáng kiến kinh nghiệm “Sáng kiến kinh nghiệm “Sáng kiến kinh nghiệm “ Một
số biện pháp rèn trẻ 4-5 tuổi kỹ năng tự phục vụ” của giáo viên Lê Thị Thục có
phạm vi ảnh hưởng, hiệu quả áp dụng trong mầm non Nghĩa Lâm năm học 2019 2020.
( Ký tên, đóng dấu)


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
(Xác nhận, đánh giá, xếp loại)
...................................................................................................................................

..........................................................................................................................
...................................................................................................................................
........................................................................................................................
...................................................................................................................................
...........................................................................................................................
( Ký tên, đóng dấu)


×