Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội thời kỳ đổi mới và nguyên nhân căn bản dẫn tới tình trạng tái nghèo hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.37 KB, 40 trang )

Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỷ XXI, đói nghèo vẫn là vấn đề có tính toàn cầu. Một bức
tranh tổng thể là thế giới với gần một nửa số dân sống dưới 2USD*/ngày và cứ 8
trong số 100 trẻ em không sống được đến 5 tuổi. Vì vậy một phong trào sôi nổi và
rộng khắp trên thế giới là phải làm như thế nào để đẩy lùi nghèo đói. Còn Việt Nam
thì sao? Trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một trong những
nước có công tác xoá đói giảm nghèo tốt nhất theo tiêu chuẩn và phương pháp xác
định đường nghèo khổ của WB, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam giảm từ 58,1% năm 1993
xuống còn 37,4% năm 1998 và hiện nay còn khoảng 30%. Theo tiêu chuẩn quốc gia
tỷ lệ nghèo đói của nước ta giảm từ 30,01% năm 1992 xuống 11% năm 2000. Tuy
quy mô đói nghèo toàn quốc giảm nhanh. Nhưng thực trạng cho thấy, Việt Nam vẫn
là một nước nghèo. Con số các hộ bị tái nghèo là rất lớn bình quân hàng năm
khoảng 50.000 hộ (riêng năm 1996 và 1997 mỗi năm khoảng gần 100.000 hộ do
bão lụt. Nếu so sánh tình trạng đói nghèo của nước ta với các nước trên thế giới thì
tính bức xúc của nó là rất lớn, ngưỡng nghèo của Việt Nam vẫn xa với ngưỡng
nghèo của thế giới.
Vấn đề xóa đói giảm nghèo và tái nghèo đến nay vẫn là những vấn đề quan
trọng và nóng bỏng, chính vì vậy nhóm chúng em lựa chọn thực hiện đề tài: “Vấn
đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội thời kỳ đổi mới và nguyên nhân căn
bản dẫn tới tình trạng tái nghèo hiện nay”.
Hoàng Thị Nguyệt Minh
1
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
PHẦN II: NỘI DUNG
I. VẤN ĐỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TRONG CHÍNH SÁCH XÃ
HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI:
1. Đói nghèo và việc xóa đói giảm nghèo:
Cho đến hôm nay, đói nghèo vẫn là nỗi ám ảnh thường trực đối với cả loài
người. Thế giới đã chứng kiến những thảm họa của chiến tranh, thảm họa của thiên
tai, dịch bệnh với bao nỗi kinh hoàng. Thế nhưng hậu quả do những nạn đói gây ra


cũng vô cùng khủng khiếp. Điều đáng sợ hơn nữa là: Nếu như các cuộc chiến tranh
dù khốc liệt vô cùng nhưng rồi trước sau cũng được giải quyết, nếu như những thảm
họa do thiên tai, dịch bệnh gây ra từng bước cũng sẽ được khắc phục thì vấn đề
nghèo đói của nhân loại lại là một vấn đề vừa cấp bách, vừa phức tạp lại như một
căn bệnh kinh niên khó bề chạy chữa.
Đói nghèo là nỗi bất hạnh và là một phi lý lớn. Trong khi nền văn minh thế
giới đã đạt được những thành tựu hiển nhiên về tiến bộ khoa học - công nghệ, làm
tăng đáng kể của cải vật chất xã hội, tăng thêm vượt bậc sự giàu có cho con người,
thì thảm cảnh đeo đẳng mãi trên lưng con người lại vẫn là sự nghèo đói. Hàng tỷ
người, thực tế là một phần ba số dân thế giới vẫn khốn cùng và đói khát. Thiệt thòi
lớn nhất là trẻ em. Hằng ngày có gần 100 triệu trẻ em không có cái ăn, trên 100 triệu
trẻ em vô gia cư chỉ sống nhờ của bố thí hoặc sống dựa vào sự lao động quá sức, kể
cả bằng các nghề đặc biệt là móc túi, mại dâm; trên 50 triệu trẻ em làm việc trong
những ngành có hại; hàng trăm triệu trẻ em tuổi từ 6 - 11 không được cắp sách đến
trường.
Đói nghèo diễn ra trên tất cả các châu lục với những mức độ khác nhau. Đặc
biệt ở các nước đang phát triển, sự đói nghèo của dân cư đang là một vấn đề nhức
nhối rất cấp bách phải tháo gỡ nhưng cũng vô cùng khó khăn trong việc thực hiện
xóa đói giảm nghèo.
Hoàng Thị Nguyệt Minh
2
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Sự nghèo đói thì ai cũng thấy và không nước nào thiếu những chương trình
hoặc những chính sách để thực hiện việc xóa đói giảm nghèo. Có rất nhiều các tổ
chức của Liên Hợp Quốc và của cộng đồng quốc tế thực hiện sứ mệnh vẻ vang này
trên phạm vi hành tinh. Người ta đã tổ chức những chiến dịch lớn với hàng vạn tấn
lương thực, hàng triệu USD để cứu giúp những người hoạn nạn ở các nước châu
Phi, châu Á hoặc như ở Haiti vừa qua. Sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần là rất
đáng kể. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dù đây là công việc mà toàn cầu quan tâm
nhưng rồi các nước đói vẫn hoàn đói, sự trợ giúp của cộng đồng đối với một bộ

phận dân cư khốn khó cũng chỉ như muối bỏ biển, chưa đủ độ, chưa triệt để.
Vấn đề xóa đói giảm nghèo luôn gắn bó và chịu ảnh hưởng của quan hệ giai
cấp và các chế độ xã hội khác nhau. Hiện tượng bị tha hóa và tự tha hóa con người
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa luôn là một lực cản đối với công việc xóa đói giảm
nghèo. Chính xã hội, mà mục tiêu duy nhất và cuối cùng là lợi nhuận, là tiền bạc đã
làm phân hóa xã hội, đẩy nhiều người vào cảnh nghèo nàn khốn khó. Khoảng cách
chênh lệch mức sống giữa sự xa xỉ với sự bần hàn càng bị nặng nề hơn bởi chính sự
vô trách nhiệm của các nước phát triển phương Tây, của giai cấp những người giàu
có. Thái độ “sống chết mặc bay” vẫn phổ biến trong hành vi cư xử ở xã hội của
những kẻ say lợi nhuận. Vì vậy, quan điểm cũng như hành động của giới chức
phương Tây trong việc giải quyết nghèo đói trên thế giới hiện nay chỉ giới hạn trong
phạm vi hẹp, chỉ là để làm giảm cơn đau khốn khó, hoặc cùng lắm đó là việc làm
mang tính nhân đạo mà thôi.
Đảng ta coi cơ sở phương pháp luận quan trọng và cơ bản nhất để phân tích
vấn đề đói nghèo và xóa đói giảm nghèo là giải phóng con người khỏi mọi áp bức,
bất công, thực hiện công bằng xã hội. Chủ nghĩa xã hội là quá trình kiến tạo hạnh
phúc và cũng là quá trình đấu tranh vì sự công bằng, đấu tranh để thủ tiêu nguồn
gốc bất công xã hội.
Vấn đề công bằng xã hội - vấn đề có quan hệ trực tiếp và quyết định đối với
việc xóa đói giảm nghèo đã được Đảng ta luôn quan tâm chú ý. Những đại hội
Hoàng Thị Nguyệt Minh
3
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Đảng gần đây, từ Đại hội VI đến Đại hội XI, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, nhiều
văn bản đề cập tới vấn đề công bằng xã hội.
Chúng ta hiểu công bằng xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát
triển. Công bằng xã hội không bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà liên quan tới tất cả
các lĩnh vực kinh tế - chính trị - pháp luật - văn hóa - xã hội. Công bằng xã hội phải
được giải quyết và chỉ có thể được giải quyết gắn liền với sự phát triển sản xuất,
xây dựng xã hội thực sự dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,

xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Công bằng xã hội
đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực trong nhân dân, xã hội hóa nhiệm vụ đền ơn
đáp nghĩa, xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở
vừa tăng nhanh tốc độ phát triển, vừa giảm dần sự mất cân đối giữa các vùng; giảm
dần khoảng cách về thu nhập, mức sống, hưởng thụ giáo dục, văn hóa, bảo vệ sức
khỏe của các tầng lớp dân cư ở các vùng khác nhau. Đặc biệt, công bằng xã hội đòi
hỏi phải thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội.
Trong các văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề xóa đói
giảm nghèo được nhiều lần đề cập tới. Để bảo đảm và hướng tới công bằng xã hội,
Đảng ta khẳng định “khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp đi
đôi với chăm lo xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát
triển, về mức sống giữa các vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, các gia đình
thuộc diện chính sách, làm cho mọi người, mọi nhà đều tiến tới cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, ai cũng có việc làm, có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và chữa
bệnh, từng bước thực hiện điều Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước”.
Trong quá trình thiết kế, chỉ đạo thi công việc xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nắm bắt những mặt mạnh và
mặt yếu của cơ chế thị trường, Đảng ta đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo: “Để
phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa
nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội,
nhưng phải luôn quan tâm, bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm
Hoàng Thị Nguyệt Minh
4
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói, giảm nghèo, từng
bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả”.
Chú trọng đúng mức đến vấn đề đói nghèo trong xã hội, với nhãn quan chính
trị nhạy bén và với trách nhiệm cao cả trước nhân dân, Đảng ta đã đưa ra những
chương trình rộng lớn để tập trung giải quyết là “Chương trình về xóa đói, giảm
nghèo”. Trên cơ sở đó, Nhà nước cũng đã có hàng chục chương trình cấp quốc gia

và dự án đang được thực thi có nội dung gắn với xóa đói giảm nghèo. Vấn đề xóa
đói giảm nghèo trong chính sách xã hội thời kỳ đổi mới được Đảng ta xuyên suốt từ
đại hội VI đến đại hội XI.
2. Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI:
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam VI họp từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12
năm 1986 tại Hà Nội (họp nội bộ từ ngày 5 đến ngày 14 tháng 12 năm 1986). Dự
đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên của cả nước, 32 đoàn
đại biểu của các Đảng và các tổ chức quốc tế.
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam VI diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt
tổng cải cách giá – lương – tiền cuối năm 1985 làm cho nền kinh tế Việt Nam càng
trở nên khó khăn. Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn
định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói
tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Trong tiến trình đổi mới đất nước, Đại hội VI là bước đột phá đầu tiên về đổi
mới tư duy của Đảng về phát triển kinh tế. Đó là việc xác lập, xây dựng cơ cấu kinh
tế phù hợp với sự vận động của quy luật khách quan và trình độ của nền kinh tế.
Đại hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, tạo ra sự ổn định
về chính trị, xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng. Cũng tại Đại hội, lần đầu tiên
Đảng ta nâng các vấn đề xã hội lên tầm chính sách xã hội, đặt rõ tầm quan trọng của
chính sách xã hội đối với chính sách kinh tế và chính sách ở các lĩnh vực khác. Đại
Hoàng Thị Nguyệt Minh
5
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
hội cho rằng trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách
xã hội nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế.
Đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng khởi xướng đã mở đầu cho thời
kỳ phát triển mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong quá
trình đổi mới, trước hết và chủ yếu là đổi mới kinh tế (gắn với từng bước đổi mới
chính trị), Đảng ta rất quan tâm tới vấn đề xác lập một cơ cấu kinh tế phù hợp với
đặc điểm, trình độ phát triển của nền kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ

quá độ.
Đại hội chỉ ra đổi mới cơ cấu kinh tế cuối cùng cũng là nhằm xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tiến tới hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, bảo đảm vững chắc nền an ninh quốc phòng, sử dụng và phát huy hiệu
quả sức mạnh tổng hợp của đất nước vào mục tiêu phát triển.
Đại hội VI chỉ rõ phải nhận thức cho đúng về CNXH, về bố trí cơ cấu kinh
tế, phải căn cứ vào điều kiện lịch sử mới của đất nước và xu thế phát triển để đổi
mới tư duy, đổi mới nhận thức về cơ cấu kinh tế. So với trước năm 1986, trong bố
trí cơ cấu kinh tế, vấn đề mới được Đại hội VI đặc biệt chú ý là tính “phù hợp điều
kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định”.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có sự quan tâm đặc biệt đến
việc xóa đói, giảm nghèo, coi đó là một nội dung của nhiệm vụ cách mạng, một nhu
cầu bức thiết của nhân dân, nhất là khi đất nước ở trong tình trạng nghèo nàn và trải
qua chiến tranh.
Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, một trong những chủ trương
hàng đầu của Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là “diệt giặc
đói”. Sau khi lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước. Đảng ta lãnh đạo nhân dân cả nước
thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
Hoàng Thị Nguyệt Minh
6
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
mới. Để thực hiện thành công nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo, Đại hội VI của Đảng
đã đề ra mục tiêu là “bảo đảm nhu cầu ăn của toàn xã hội và bước đầu có dự trữ.
Vấn đề lương thực phải được giải quyết một cách toàn diện”
Đại hội VI đã đề ra mục tiêu phải thực hiện trong 5 năm (1986-1990):
“Về lương thực, thực phẩm: Bảo đảm lương thực đủ ăn cho toàn xã hội và có
dự trữ. Đáp ứng một cách ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng
lương thực, thực phẩm phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động

Về hàng tiêu dùng: sản xuất đáp ứng được nhu cầu bình thường của nhân
dân thành thị và nông thôn về những sản phẩm công nghiệp thiết yếu;
Về hàng xuất khẩu: tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đạt kim
ngạch xuất khẩu đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ
tùng và những hàng hóa cần thiết”
Ổn định tình hình kinh tế - xã hội bao gồm ổn định sản xuất, ổn định phân
phối, lưu thông, ổn định đời sống vật chất và văn hóa, tăng cường hiệu lực của tổ
chức quản lí, lập lại trật tự, kỉ cương và thực hiện công bằng xã hội.
Ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình vận động tiến lên, ổn
định để phát triển và có phát triển mới ổn định được.
Muốn thực hiện những "nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát “của chặng
đường đầu tiên (phải trong nhiều kế hoạch 5 năm nữa) thì trong 5 năm trước mắt
(1986-1990) cần tập trung sức người, sức của thực hiện bằng được nhiệm vụ, mục
tiêu của ba chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu.
Những mục tiêu cụ thể đó là:
- Bảo đảm nhu cầu lương thực của xã hội và có dự trữ; đáp ứng một cách ổn
định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm đủ tái
sản xuất sức lao động.
Hoàng Thị Nguyệt Minh
7
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
- Đáp ứng nhu cầu của nhân dân về những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.
- Tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; tăng nhanh kim ngạch xuất
khẩu để đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng và
những hàng hóa cần thiết.
Muốn thực hiện những mục tiêu của Ba chương trình kinh tế, thì nông
nghiệp, kể cả lâm nghiệp, ngư nghiệp phải được đặt đúng vị trí là mặt trận hàng đầu
và được ưu tiên đáp ứng nhu cẩu về vốn đấu tư, về năng lực, vật tư, lao động, kĩ
thuật.

Kết quả bước đầu đạt được là:
Về lương thực, thực phẩm, từ chỗ thiếu ăn triền miên (năm 1988, năm ta
phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo), đến năm 1990, chúng ta đã vươn lên đáp ứng nhu
cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân
dân và thay đổi cán cân xuất - nhập khẩu. Đó là kết quả tổng hợp của việc phát triển
sản xuất, thực hiện chính sách khoán trong nông nghiệp, xóa bỏ chế độ bao cấp, tự
do lưu thông và điều hòa cung cầu lương thực thực phẩm trên phạm vi cả nước. Sản
lượng lương thực năm 1988 đạt 19,50 triệu tấn (vượt năm 1987 hơn 2 triệu tấn) và
năm 1989 đạt 21,40 triệu tấn.
3 . Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VII:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII họp từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 6
năm 1991 tại Hà nội. Tham dự đại hội có 1176 đại biểu, thay mặt cho hơn hai triệu
đảng viên của toàn đảng. Đại hội họp trong hoàn cảnh sau năm năm tiến hành đổi
mới, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là về mặt kinh tế.
Những nội dung cơ bản được nêu trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng: Thông qua "Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
Ương (khoá VI) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII", "Chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội":
Hoàng Thị Nguyệt Minh
8
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
- Kiểm điểm, tổng kết tình hình 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội đảng lần
thứ VI, đánh giá thành tựu, tồn tại, rút ra các bài học kinh nghiệm lớn.
- Về kiểm điểm đánh giá tình hình, đại hội khẳng định: công cuộc đổi mới đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực,
bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của nhà nước...Tình hình chính trị của đất nước giữ được
ổn định, sinh hoạt dân chủ trong xh ngày càng phát huy...
- Đại hội cũng nhận định là: thành tự đổi mới tuy đã đạt nhiều thành tựu

quan trọng nhưng còn nhiều hạn chế. Nước ta còn nhiều yếu kém, vẫn chưa ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội. Còn nhiều vấn đề kinh tế, xã hội nóng bỏng chưa
được giải quyết. Nước ta cũng còn đang đứng trước những khó khăn khách quan
như vẫn còn bị đế quốc mỹ và các thế lực thù địch bao vây, cấm vận. Hệ thống
XHCN thế giới đang khủng hoảng sâu sắc và đang đứng trước những thử thách
quyết liệt.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược đến năm 2000 là: ra khỏi khủng hoảng,
ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém
phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều
kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI.
Mục tiêu này bao gồm những nội dung dưới đây:
Một là, vượt qua những khó khăn gay gắt trước mắt, ra khỏi khủng hoảng, ổn
định tình hình kinh tế - xã hội. Đẩy lùi và khống chế lạm phát, ổn định và phát triển
sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân, thu hẹp chênh lệch trong thanh toán quốc
tế; chấm dứt tình trạng xuống cấp về giáo dục, văn hoá, y tế, đẩy lùi các tệ nạn xã
hội; tiếp tục đẩy mạnh cải cách kinh tế, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường; chỉnh
đốn và nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, chống tham nhũng, thiết lập
trật tự, kỷ cương trong kinh tế và xã hội. Nhiệm vụ này là trọng tâm của kế hoạch 5
năm 1991-1995.
Hoàng Thị Nguyệt Minh
9
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Hai là, phấn đấu xoá nạn đói, giảm số người nghèo khổ, giải quyết vấn đề
việc làm, bảo đảm các nhu cầu cơ bản, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá và tinh
thần của nhân dân, tăng dần tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, thu hút nhiều nguồn lực
bên ngoài; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, chuyển dịch rõ rệt cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá.
Ba là, củng cố và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển giáo
dục và đào tạo, nâng cao dân trí, năng lực khoa học và công nghệ đáp ứng nhu cầu
của những năm 90 và chuẩn bị cho tương lai.

Bốn là, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh trong tình hình mới, bảo đảm
trật tự, an toàn và môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác cho sự nghiệp phát triển
kinh tế.
Từ giữa năm 1988 trở đi, các chủ trương, chính sách đổi mới bắt đầu mang
lại kết quả rõ rệt, tình hình kinh tế và đời sống nhân dân dần dần được cải thiện,
sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, lòng tin của nhân dân vào
công cuộc đổi mới tăng lên.
Tuy nhiên, những kết quả do đổi mới đem lại còn hạn chế và chưa vững
chắc. Do những thiếu sót chủ quan và tác động bất lợi của những yếu tố khách
quan, từ quý II-1990 đến nay, bên cạnh những nhân tố tích cực tiếp tục được phát
huy, tình hình kinh tế, xã hội có những diễn biến phức tạp mới. Nhiều cơ sở sản
xuất kinh doanh đình đốn kéo dài, lạm phát ở mức cao, tình trạng tham nhũng, tiêu
cực, bất công trong xã hội tiếp tục phát triển; đời sống của những người mà nguồn
thu nhập chính dựa vào tiền lương hoặc trợ cấp xã hội và một bộ phận nông dân tiếp
tục giảm sút; tâm trạng lo lắng trong một bộ phận nhân dân có chiều hướng tăng
lên.
Đại hội VII đã xác định xóa đói giảm nghèo là một trong những chương
trình kinh tế - xã hội vừa cấp bách trước mắt vừa cơ bản lâu dài. Đồng thời việc xóa
đói giảm nghèo đòi hỏi cũng phải có những chính sách thích hợp mới đạt được hiệu
Hoàng Thị Nguyệt Minh
10
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
quả. Một trong những chính sách giải quyết có hiệu quả nhất vấn đề xóa đói giảm
nghèo đó là chính sách chi tiêu công hợp lý của nhà nước cho công tác xóa đói giảm
nghèo. Chi tiêu công cho công tác xóa đói giảm nghèo là việc chi dùng vốn đầu tư
để đầu tư phát triển các ngành kinh tế, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và kết cấu hạ tầng
xã hội, từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người nghèo để giúp họ
thoát khỏi cảnh nghèo đói. Khi Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường định
hướng XHCN, chi tiêu công sẽ ngày càng trở thành một công cụ chính sách quan
trọng để đạt được các mục tiêu tăng trưởng và giảm nghèo. Và việc này đòi hỏi sự

kết hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cơ quan chức kế hoạch và ngân sách tại tất cả các
cấp chính quyền.
Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế,
đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài
hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi
phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện
tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Phương hướng giải quyết đời sống 5 năm tới là: đáp ứng tốt hơn các nhu
cầu thiết yếu và ngày càng đa dạng của các tầng lớp dân cư; bảo đảm vững chắc nhu
cầu lương thực, khắc phục tình trạng thiếu đói thường xuyên và nạn đói giáp hạt ở
một số vùng; nâng mức cung ứng và tiêu dùng thực phẩm, tăng thêm dinh dưỡng
bữa ăn của đông đảo nhân dân.
- Cải thiện điều kiện ở của nhân dân, chú trọng các thành phố lớn, một số
vùng nông thôn và các vùng hay gặp thiên tai. Từng bước cải thiện các điều kiện vệ
sinh công cộng, bảo vệ môi trường, xây dựng nếp sống văn minh. Phát triển và nâng
cao chất lượng hệ thống giao thông công cộng.
4 . Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII
Hoàng Thị Nguyệt Minh
11
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ
ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng
viên đại diện cho gần 2 triệu 130 nghìn đảng viên trong cả nước. Đại hội lần thứ
VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào thời điểm lịch sử có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng. Công cuộc đổi mới toàn diện mở đầu từ Đại hội VI đã trải qua gần 10
năm. Từ đó đến nay, nước ta đã có những thay đổi to lớn và sâu sắc. Đại hội VIII
có nhiệm vụ kiểm điểm kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tổng kết
10 năm đổi mới, đề ra những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của toàn Đảng và
toàn dân ta trong thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà nhiệm

vụ trung tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội VIII đã xác định giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan
trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua
thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu
được đề ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000:
tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những
vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân
dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát
triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau.
Trong các vấn đề bàn đến, vấn đề xóa đói giảm nghèo là một trong những
vấn đề được Đại hội quan tâm, chú ý, đặt mục tiêu phải làm tốt trong những năm
tiếp theo:
- Tạo việc làm nhiều hơn số lao động tăng thêm hằng năm, giảm đáng kể
thất nghiệp; xóa đói, tiếp tục giảm nghèo.
- Cải thiện điều kiện ăn, ở, học hành, chữa bệnh, đi lại, nâng cao mức hưởng
thụ văn hóa của nhân dân, đặc biệt các vùng nông thôn, miền núi.
Hoàng Thị Nguyệt Minh
12
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
- Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo.
Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các
dân tộc, các tầng lớp dân cư.
- Các vấn đề chính sách xã hội nói chung và xóa đói giảm nghèo nói riêng
đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời
động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân
và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội.
- Thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn

cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ xóa đói
giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư
đúng đối tượng và có hiệu quả.
- Tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu nhập
bình quân đầu người còn thấp vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho nhân dân.
Mở rộng diện các xã có điện, có đường, có trường học, có trạm y tế, có nước
sạch…
- Giảm tỷ lệ nghèo đói trong tổng số hộ của cả nước từ 20-25% hiện nay
xuống còn khoảng 10% vào năm 2000, bình quân giảm 3000 nghìn hộ/năm.
- Trong 2-3 năm đầu của kế hoạch 5 năm, tập trung xoá về cơ bản nạn đói
kinh niên.
Cơ chế chính sách đối với người nghèo và xã nghèo:
Hiện nay có 14 chương trình quốc gia và dự án được thực hiện có nội dung
gắn với xoá đói, giảm nghèo. Từ năm 1996 sẽ lồng ghép chương trình xoá đói, giảm
nghèo với các chương trình khác, trong đó lấy chương trình quốc gia về giải quyết
việc làm và về phủ xanh đất trống đồi núi trọc làm nòng cốt.
Bổ sung các chính sách giúp cho người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo tổ chức
sản xuất, bảo đảm cuộc sống và nâng lên khá giả, trước mắt tập trung vào các chính
sách sau đây:
Hoàng Thị Nguyệt Minh
13
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Uỷ ban nhân dân các cấp tỉnh, huyện rà soát lại toàn bộ diện tích đất đai trên
địa bàn lãnh thổ, thu hồi đất đai đã cấp không đúng đối tượng, không đúng chính
sách, thu hồi đất đã cấp cho các doanh nghiệp, các cơ quan sử dụng không đúng
mục đích, để giao cho các hộ nông dân nghèo chưa được giao đất hoặc giao chưa đủ
mức. Vận động và giúp đỡ hộ nông dân nghèo đến các vùng kinh tế mới mau chóng
ổn định sản xuất và đời sống.
Mở rộng các quỹ tín dụng cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất, với lãi suất ưu
đãi. Các hộ nghèo được Uỷ ban nhân dân xã, phường chứng nhận được vay vốn

không phải thế chấp. Thông qua ngân hàng phục vụ người nghèo và các quỹ hỗ trợ
của các tổ chức đoàn thể bảo đảm 90-95% số hộ nghèo được vay vốn sản xuất,
trong đó các hộ thuộc đối tượng chính sách, các hộ đói nghèo nhất được ưu tiên vay
trước. Nguồn vốn để thực hiện mục tiêu này bao gồm vốn tự có của ngân hàng, vốn
của các chương trình, vốn của quỹ xoá đói, giảm nghèo, vốn tài trợ quốc tế kể cả
vốn vay, vốn hỗ trợ của ngân sách Nhà nước...
Các cơ sở đào tạo và các trung tâm dạy nghề của Nhà nước thực hiện việc
đào tạo nghề miễn phí đối với con em các hộ nghèo; đồng thời hỗ trợ kinh phí cho
các doanh nghiệp nhận tuyển con em các hộ nghèo vào đào tạo và làm việc.
Xây dựng đội ngũ những người tình nguyện, bao gồm các cán bộ kỹ thuật,
sinh viên mới tốt nghiệp và những nông dân làm ăn giỏi trong vùng, để hướng dẫn
cách làm ăn và phổ biến các biện pháp kỹ thuật giúp đỡ người nghèo sản xuất kinh
doanh.
Đối với các vùng cao, vùng sâu, vùng xa sản phẩm tiêu thụ khó khăn, giá
thấp, Nhà nước thông qua các doanh nghiệp Nhà nước bao tiêu sản phẩm và trợ giá.
Xây dựng chính sách tài trợ đầu tư 6 loại công trình xã hội thiết yếu cho
1.300 xã nghèo nhất (đường ôtô và đường dây điện đến trung tâm xã; nước sạch cho
dân cư; phòng học cho học sinh cấp I, II, xoá lớp ca 3; trạm y tế; chợ tại xã hoặc
liên xã).
Hoàng Thị Nguyệt Minh
14
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Con em các hộ nghèo đi học các trường phổ thông đều được miễn học phí
(hoặc được cấp học bổng để đóng học phí); ở bậc tiểu học được mượn sách giáo
khoa, cấp không vở viết và được miễn mọi khoản đóng góp khác. Đối với các hộ
quá khó khăn có thể xét trợ cấp thêm học bổng. Tổ chức các lớp học tình thương
cho con em người nghèo do những giáo viên tình nguyện giảng dạy.
Các học sinh giỏi là con em các hộ nghèo, nhất là con em đồng bào các dân
tộc ít người, được ưu tiên xét chọn vào các trường dân tộc nội trú, các trường đại
học, cao đẳng và ưu tiên xét học bổng hằng năm.

Cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế cho các hộ nghèo theo số người trong gia
đình. Các tỉnh, thành phố có điều kiện, có thể thành lập cơ sở khám chữa bệnh nhân
đạo cho người nghèo.
Phối hợp các chương trình xã hội khác như: Dân số, kế hoạch hoá gia đình,
chống sốt rét, bướu cổ, tiêm chủng mở rộng, phòng chống tệ nạn xã hội và chương
trình hành động quốc gia vì trẻ em 1991 - 2000 để chăm sóc sức khoẻ cho người
nghèo.
Tổ chức điều tra xác định số hộ nghèo đói do mất khả năng lao động và xây
dựng tiêu chuẩn chính sách trợ cấp cụ thể theo chính sách cứu tế xã hội nhằm ổn
định đời sống lâu dài cho họ.
5 . Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam diên x ra từ ngày 19/4 đến ngày
22/4/2001 Tại Hà Nội
Nhiệm vụ của Đại hội là nhìn lại chặng đường 71 năm cách mạng Việt Nam;
tổng kết năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII; 15 năm đổi mới đất nước,
mười năm thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội; rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc,
từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước
trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 21; hoạch định phương hướng nhiệm vụ xây dựng
Hoàng Thị Nguyệt Minh
15
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Đảng ta ngang tầm đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới; sửa đổi, bổ sung Điều lệ
Đảng.
Mục tiêu của Đảng: Hoạch định Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm
(2001-2010), với mục tiêu tổng quát là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại... Đại hội đã thông qua Điều lệ Đảng bổ sung, sửa đổi.
Đại hội Đảng lần thứ IX (4-2001) và các Hội nghị Trung ương Khoá IX đã
cụ thể hoá và bổ sung các quan điểm về chính sách xã hội của Đại hội VIII, với

những nội dung cơ bản về vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội:
- Giải quyết chính sách xã hội phải gắn liền với quá trình xây dựng thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là “phát triển thị trường
lao động; người lao động được tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước; đẩy mạnh
xuất khẩu lao động với sự tham gia của các thành phần kinh tế”
- Trong giải quyết các chính sách xã hội, Nhà nước vừa là người điều tiết,
vừa là nhà đầu tư.
- Coi trọng công bằng trong hưởng thụ các dịch vụ xã hội, đặc biệt là công
bằng trong thụ hưởng dịch vụ giáo dục và chăm sóc y tế, với việc tạo cơ hội cho
những đối trọng, những vùng còn khó khăn có cơ hội được chăm sóc tốt hơn.
- Xã hội hoá việc giải quyết các vấn đề xã hội, động viên toàn xã hội tham
gia giải quyết các vấn đề xã hội.
- Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã
hội.
Đại hội xác định mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoàng Thị Nguyệt Minh
16

×