Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận cao học, những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò, nguồn lực của cộng đồng người việt nam ở nước ngoài trong quá trình phát triển đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.96 KB, 25 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN QUAN HỆ QUỐC TẾ
-------------------------

TIỂU LUẬN CHUYÊN ĐỀ TỰ CHỌN

NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ, NGUỒN LỰC CỦA
CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGỒI
TRONG Q TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

Họ và tên học viên : Đinh Thị Anh Thư
Mã số học viên

: AF160461

Lớp

: CCLLCT K67 - A12


2
Hà Nội - tháng 4 năm 2017


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
PHẦN THỨ NHẤT.........................................................................................4
VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI
TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG ĐẨT NƯỚC.................4


1. Khái quát quá trình hình thành và những đóng góp nổi bật của cộng
đồng ngưịi Việt Nam ở nước ngoài...............................................................4
2. Thực trạng về cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi hiện nay.........6
3. Vai trị nổi bật của cộng đồng ngưòi Việt Nam ở nước ngoài..................8
PHẦN THỨ HAI...........................................................................................13
ĐỊNH HƯỚNG CHIỂN LƯỢC NHẰM PHÁT HUY VAI TRỊ CỦA
NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGỒI TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ
VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC...................................................................13
PHẦN THỨ BA.............................................................................................16
MỘT SỔ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐÊ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGỒI TRONG Q TRÌNH PHÁT
TRIỂN ĐẤT NƯỚC THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.....16
1. Nhóm giải pháp về tăng cường sự thống nhất nhận thức về công tác đối
với NVNONN.................................................................................................16
2. Nhóm giải pháp về tiếp tục quán triệt sâu rộng, thực hiện đầy đủ, hiệu
quả chủ trương đại đồn kết, hịa hợp dân tộc của Đảng, Nhà nước ta...17
3. Nhóm giải pháp về bồ sung, hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật
về NVNONN...................................................................................................18
4. Nhóm giải pháp về hồn thiện cơ chế chính sách, đổi mới cơng tác huy
động nguồn lực của trí thức, doanh nhân Việt Nam ở nước ngồi...........18
5. Nhóm giải pháp về ủng hộ và khuyến khích người Việt Nam ở nước
ngồi ổn định cuộc sống, hội nhập vào xã hội nước sở tại.........................19
6. Nhóm giải pháp về tiếp tục đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả các hình
thức tập hợp, vận động kiều bào..................................................................20
7. Nhóm giải pháp về tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác tiếng Việt, hỗ
trợ cộng đồng giữ gìn văn hóa Việt Nam.....................................................20
8. Nhóm giải pháp về đẩy mạnh cơng tác thơng tin tun truyền đối ngoại....21
9. Nhóm giải pháp về kiện toàn bộ máy tổ chức, nhân sự và ngân sách
làm công tác về NVNONN từ Trung ương đến địa phương và cơ quan đại
diện Việt Nam ở nước ngoài.........................................................................22

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................23


1
LỜI MỞ ĐẦU
Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng và Chiến lược tổng thể hội
nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã đưa ra những nhận
định sâu sắc, toàn diện về bối cảnh quốc tế và tình hình đất nước. Theo đó,
trên thế giới, hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song tiếp tục
xuất hiện những diễn biến mới, phức tạp, bất trắc và khó lường. Tồn cầu hố
và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy q trình
hình thành xã hội thơng tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới, khu vực tiếp
tục quá trình tái cơ cấu, phục hồi và tăng trưởng trở lại. Cạnh tranh về kinh tế
- thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công
nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước ngày càng
gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an
ninh lương thực, an ninh nguồn nước, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao,
thiên tai, dịch bệnh... tiếp tục là những thách thức lớn trong thế kỷ 21. Châu
Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đơng Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển
năng động và là động lực phục hồi và tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Tuy
nhiên, đây cũng là khu vực tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, trong đó
tranh chấp lãnh thổ, biển đảo được dự báo ngày càng gay gắt hơn.
Đối với Việt Nam, những thành tựu, kinh nghiệm của 30 năm đổi mới và
hội nhập quốc tế sâu rộng đã tạo thêm thế và lực mới cho đất nước, sức mạnh
tổng hợp của quốc gia lớn mạnh hơn nhiều so với trước. Năm năm tới là giai
đoạn kinh tế nước ta tiếp tục phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy
giảm; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá,
xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nước ta cũng đứng
trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động nhiều chiều và diễn biến
phức tạp, không thể coi nhẹ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế

so với nhiều nước ở khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về


2
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm giảm sút
niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Các thế lực thù địch tiếp tục thực
hiện âm mưu “diễn biến hồ bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài
“dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong
nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội (CNXH), “tự diễn
biến”, “tự chuyển hố” có những biểu hiện mới, phức tạp.
Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế hiện nay mang lại cho đất nước
ta với những thuận lợi và cơ hội to lớn, song cũng khơng ít những khó khăn,
thách thức. Nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Đại hội Đảng XII đã đề
ra, phù hợp với Chiến lược phát triển đất nước, cả nước đang huy động sức
mạnh của toàn dân tộc, trong đó có cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi.
Lịch sử đã chứng minh sự đóng góp to lớn của cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây cũng
như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Với sự biến đổi
nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước, cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài và mối quan hệ giữa cộng đồng với trong nước cũng đang trải qua
nhiều bước thăng trầm gắn với những diễn biến lịch sử của đất nước, công tác
vận động người Việt Nam ở nước ngoài cũng cần được điều chỉnh phù hợp với
xu thế phát triển của cộng đồng cũng như yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Với gần 5 triệu người sinh sống tại 103 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới,1 cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi khơng chỉ là một phần
máu thịt của dân tộc Việt Nam mà còn là nguồn lực q báu cho sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là cầu nối quan trọng góp phần tăng
cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa nước ta với các nước. Đây chính là lý

do để người viết quyết định lựa chọn Chuyên đề “Những giải pháp chủ yếu
1

Thống kê năm 2015 của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao


3
nhằm phát huy vai trò, nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngồi trong q trình phát triển đất nước".
Mục tiêu của Chuyên đề là nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, thế mạnh
của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi để từ đó đề xuất những biện pháp,
chính sách tạo thuận lợi cho cộng đồng phát triển ngày càng ổn định, hội nhập
vào xã hội sở tại, tiếp tục hướng về quê hương, chung sức với nhân dân cả nước
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu
nêu trên, người viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích định
tính, định lượng trong q trình xây dựng Chun đề, trong đó tập trung vào 03
phần chính. Phần thứ nhất đánh giá vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Phần này tóm tắt q
trình hình thành cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi kể từ giai đoạn chuẩn
bị thành lập nước, đồng thời đi sâu phân tích vai trị của cộng đồng trong những
thời điểm lịch sử khác nhau của dân tộc, từ giai đoạn đấu tranh chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ bảo vệ Tổ quốc và tái thiết đất nước đến giai đoạn đổi mới và
phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, Phần thứ hai tập
trung xây dựng định hướng chiến lược nhằm phát huy vai trị người Việt Nam ở
nước ngồi trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước, trong đó trình bày
những định hướng lớn hướng tới mục tiêu trên. Phần thứ ba trình bày kết quả
tìm tịi, nghiên cứu thơng qua những nhóm giải pháp lớn, kiến nghị cụ thể để
phát huy vai trò của người Việt Nam ở nước ngồi trong q trình phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong phạm vi giới hạn của một Chuyên đề, những phân tích, đánh giá

và số liệu sử dụng có thể cịn thiếu tồn diện và khó tránh khỏi những khiếm
khuyết. Vì vậy, người viết mong nhận được sự góp ý của độc giả để Chuyên
đề được hoàn thiện hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập mà Đảng,
Nhà nước đặt ra, cùng sự lớn mạnh không ngừng của cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài.


4
PHẦN THỨ NHẤT
VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI
TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG ĐẨT NƯỚC
1. Khái quát quá trình hình thành và những đóng góp nổi bật của cộng
đồng ngưịi Việt Nam ở nước ngồi
Trong q trình ra đi tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã chú trọng xây dựng các cơ sở Việt kiều yêu nước ở nhiều nơi.
Tại Pháp, năm 1919, Người đã thành lập Hội Ái hữu người An Nam yêu
nước, là hạt nhân của phong trào Việt kiều yêu nước và là tiền thân của
Hội người Việt Nam tại Pháp ngày nay. Tại Quảng Châu, Trung Quốc,
Người đã tổ chức “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” vào
năm 1924. Tại Phichit, Thái Lan, chi hội Việt kiều yêu nước đầu tiên
được thành lập vào năm 1926, sau mở rộng ra những nơi khác có đơng
người Việt sinh sống như Lào, Campuchia...
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của
các chi bộ Đảng Cộng sản hoạt động trong cộng đồng, kiều bào ta đã phát
huy tinh thần yêu nước, tham gia kháng chiến theo nhiều hình thức khác
nhau. Nhiều kiều bào tại Pháp đã tham gia phục vụ, bảo vệ phái đoàn Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa dự Hội nghị Fontainebleau năm 1946,
vận động dư luận nhân dân tiến bộ Pháp ủng hộ nền độc lập non trẻ của Việt
Nam. Nhiều trí thức kiều bào đã hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về nước tham gia kháng chiến như các giáo sư Trần Đại Nghĩa, Phạm

Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ... Tại Thái Lan, Lào, Campuchia, các Hội Việt
kiều cứu quốc được tổ chức từ trung ương đến các địa phương đã động viên
bà con góp sức người, sức của cho kháng chiến, giúp làm phiên dịch, quan hệ
với nhân dân sở tại, góp của cải, cho con em tham gia công tác, gia nhập lực
lượng vũ trang, tổ chức các đội tự vệ, đội quyết tử để bảo vệ cơ sở cách mạng
và đánh địch. Thời kỳ cách mạng tháng 8/1945 và kháng chiến chống thực


5
dân Pháp đã có hơn 1,5 vạn Việt kiều ở Campuchia về Sài Gịn và các tỉnh
tham gia cướp chính quyền. Kiều bào Thái Lan đã gửi 6.000 con em ra mặt
trận, trực tiếp tham gia chiến đấu, nhiều người đã hy sinh cho công cuộc
kháng chiến chống Pháp bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc Việt Nam.2
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva 1954 được ký kết,
tại Pháp và nhiều nước khác, kiều bào tích cực tham gia mít tinh, lấy chữ ký
vận động nhân dân và dư luận các nước sở tại đòi Mỹ - Diệm thi hành
nghiêm chỉnh Hiệp định, chống đàn đáp những người kháng chiến. Nhiều trí
thức kiều bào chuẩn bị hồi hương đem kiến thức và tài sản tích lũy được về
góp phần xây dựng đất nước thống nhất. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đi
vào cao trào, kiều bào ta ở Mỹ và các nước Tây Âu đã tích cực giúp đỡ và
phối hợp với các cơ quan đại diện ngoại giao tiến hành vận động nhân dân và
chính giới các nước hình thành mặt trận nhân dân tiến bộ thế giới ủng hộ Việt
Nam, đấu tranh đòi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc và rút quân đội khỏi
Việt Nam. Kiều bào ta ở Pháp trong nhiều năm liên tục đã tận tụy ngày đêm
phục vụ, giúp đỡ các phái đoàn ngoại giao Việt Nam đấu tranh trên bàn đàm
phán tại Hội nghị Paris về lập lại hịa bình ở Việt Nam. Trong hàng ngũ học
sinh, sinh viên du học ở các nước cũng dấy lên phong trào phản đối chiến
tranh, nhiều người trong số này đã trở thành nòng cốt trong các phong trào
Việt kiều yêu nước, nổi bật là sinh viên Nguyễn Thái Bình ở Mỹ. Tại các
nước láng giềng Thái Lan, Lào, Campuchia, kiều bào tiếp tục tích cực đóng

góp sức người, sức của cho kháng chiến. Kiều bào ở Thái Lan đã có nhiều
hình thức vận động phong phú như phát động phong trào “nở hoa diệt Mỹ”,
“hũ gạo ni qn”, “góp vàng cho kháng chiến”... để quyên góp tiền của gửi
về đóng góp hỗ trợ cho cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc. Hơn 3 vạn kiều
bào ở Campuchia đã trực tiếp tham gia chiến đấu trên các mặt trận. Sau khi
Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, hàng trăm ngàn Việt kiều tiếp tục về
2

Nguồn ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ờ nước ngoài, Bộ Ngoại giao.


6
nước xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Những đóng góp to lớn đó của bà con đã
góp phần cùng đồng bào trong nước đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi
vẻ vang, đem lại nền độc lập và thống nhất cho Tổ quốc.
Khi đất nước hịa bình, thống nhất, người Việt Nam ở nước ngồi
(NVNONN) tiếp tục đóng góp sức người, sức của cho công cuộc xây dựng
Tổ quốc. Đồng bào hoan nghênh và ủng hộ chính sách hồ hợp, đại đoàn kết
toàn dân tộc, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai của Đảng và Nhà nước ta,
ủng hộ cơng cuộc Đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh”. Tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc của kiều bào ngày càng
được củng cố nhờ những thành tựu to lớn của sự nghiệp Đổi mới, sự ổn định
chính trị - xã hội và vị thế quốc tế ngày càng cao của đất nước. Xu hướng trở
về cội nguồn, gắn bó với gia đình, dịng tộc, đóng góp xây dựng q hương
của người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được thể hiện rõ nét, với nhiều
hình thức phong phú, đa dạng, thiết thực trong hầu hết các lĩnh vực, từ hoạt
động đầu tư, kinh doanh, hợp tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy, giao lưu
văn hóa, biểu diễn nghệ thuật, thi đấu thể thao, du lịch cho đến các hoạt động
từ thiện, nhân đạo... Vai trò quan trọng của kiều bào trong ngoại giao chính
trị, ngoại giao kinh tế và đặc biệt là ngoại giao văn hoá ngày càng được

khẳng định.
2. Thực trạng về cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiện nay
Việt Nam là nước có kiều dân thuộc loại cao nếu tính theo tỷ lệ giữa
số kiều dân so với tổng số dân trong nước. Hiện nay, ngày càng đơng
người Việt sang nước ngồi theo diện lao động, kinh doanh, nghiên cứu, du
học, hoặc định cư, đoàn tụ gia đình, du lịch, kết hơn... Địa bàn cư trú của
cộng đồng được mở rộng trên 103 nước và vùng lãnh thổ trên khắp thế
giới, kể cả những khu vực nghèo và đang phát triển ở các khu vực châu
Phi, Trung Đơng, Nam Mỹ hoặc các đảo nhỏ ở Thái Bình Dương. Tuy
nhiên, đại bộ phận (khoảng 98%) vẫn tập trung ở 21 nước thuộc năm khu


7
vực địa lý, gồm Bắc Mỹ, Tây Bắc Âu, Nga và Đông Âu, Đông Nam Á,
Đông Bắc Á và châu Úc, trong đó hơn 2/3 đã nhập quốc tịch nước sở tại.
Phần đơng bà con có cuộc sống ngày càng ổn định và hòa nhập vào xã hội
nơi cư trú, có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội ở
nước sở tại. Cuộc sống cũng như các hoạt động khác nhau của cộng đồng
Việt kiều sẽ có ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau tới mối quan hệ giữa
các nước sở tại với Việt Nam. Bên cạnh đó, trong những năm qua, hàng
trăm ngàn người Việt Nam đã ra nước ngoài lao động, học tập, tu nghiệp,
đồn tụ gia đình, hình thành các cộng đồng người Việt Nam đáng kể ở một
số địa bàn như: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia...
So với cộng đồng ngoại kiều khác, cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngồi là một cộng đồng trẻ, năng động, nhanh chóng hịa nhập vào xã hội
nước sở tại và có xu hướng định cư lâu dài ở những nước như Mỹ, Australia,
Canada và các nước Tây Âu. Trong khi phần lớn người Việt Nam ở Đông Âu
và Nga vẫn coi cuộc sống ở nước sở tại là tạm cư với mục đích làm ăn kinh tế
là chính, khi có điều kiện sẽ trở về nước sinh sống. Cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài là cộng đồng khá phức tạp về thành phần xã hội, phức tạp

về xu hướng chính trị và đa dạng về nghề nghiệp, tôn giáo... bị chi phối, phân
hóa bởi sự khác biệt về giai tầng xã hội, hoàn cảnh ra đi khỏi đất nước, địa
bàn nơi cư trú và đặc biệt là chính kiến rất khác nhau, đa dạng. Tính liên kết,
gắn bó ở một số cộng đồng không cao, do sinh sống phân tán, rất khó tập
trung liên kết. Ở một số nước, chính quyền có chủ trương bố trí cho cộng
đồng ngoại kiều sinh sống phân tán, nhỏ lẻ để dễ quản lý. Việc duy trì tiếng
mẹ đẻ và giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống đang là thách thức lớn đối với
những thế hệ tiếp sau của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi. Dù được
coi là hịa nhập thành đạt nhanh ở Mỹ và phương Tây, nhưng tiềm lực kinh tế
của cộng đồng người Việt còn hạn chế, thu nhập nhìn chung cịn thấp so với
mức bình qn của người bản xứ. Nhiều người Việt có cuộc sống ổn định


8
song vẫn phải nhờ vào trợ cấp xã hội.
Tuy nhiên, xét về tổng thể và qua nhiều cách tiếp cận khác nhau cho
thấy, tiềm lực chất xám, trí tuệ của cộng đồng người Việt ở nước ngoài là
đáng kể, nhất là ở Bắc Mỹ, Tây Âu, Nga, Đơng Âu. Có tài liệu ước tính
khoảng 400 ngàn người Việt Nam ở nước ngồi có trình độ đại học, trên đại
học và cơng nhân kỹ thuật bậc cao, có thơng tin kiến thức cập nhật về khoa
học và công nghệ, về kinh tế.
3. Vai trò nổi bật của cộng đồng ngưòi Việt Nam ở nước ngoài
Là nguồn lực quý báu cho sự phát triển đất nước, vai trò của người Việt
Nam ở nước ngoài thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là nguồn lực
kinh tế quý báu của đất nước, ở hầu hết các nước, vùng lãnh thổ, có hàng
chục trung tâm thương mại của người Việt, nhiều hội doanh nhân người Việt
Nam ở nước ngoài được thành lập là lực lượng nòng cốt kinh tế của cộng
đồng và hỗ trợ tích cực cho các hoạt động đầu tư, thương mại, có khả năng
tìm kiếm đối tác làm cầu nối với các doanh nghiệp, tổ chức trong nước. Với

tiềm lực kinh tế của mình, người Việt Nam ở nước ngồi có xu hướng đầu tư
về nước ngày một nhiều hơn. Hàng năm, lượng kiều hối về nước tăng trung
bình 10 - 15%/năm, năm 2009 là 6,283 tỷ USD, năm 2010 là 8,6 tỷ USD,
năm 2011 đạt trên 9 tỷ USD, năm 2014 tăng lên mức 12 tỷ USD và năm 2015
đạt 12,25 tỷ USD, đưa Việt Nam lên vị trí thứ 11 thế giới và thứ 3 ở khu vực
Đông Á - Thái Bình Dương, sau Trung Quốc và Philippines, về lượng kiều
hối nhận được, góp phần quan trọng vào việc ổn định cán cân thanh toán và
kinh tế của đất nước3. Trước đây, tiền gửi về chỉ để giúp đỡ thân nhân, nay
Việt kiều chuyển sang góp vốn kinh doanh quy mơ gia đình, góp phần xóa
đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, tham gia phát triển kinh tế - xã hội ở
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới về “Di cư và kiều hối năm 2016” (Migration and remittances factbook
2016).
3


9
địa phương. Đến nay, doanh nhân người Việt Nam ở nước ngồi có mặt ở
51/63 tỉnh, thành phố, với 3.546 doanh nghiệp, số vốn đăng ký kinh doanh và
vốn đóng góp của Việt kiều đạt khoảng 8,4 tỷ USD4.
Với sự quan tâm, vận động của Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương và
các cơ quan liên quan, sự ra đời của Hiệp hội Doanh nhân NVNONN vào
tháng 8/2009 là mốc quan trọng trong quá trình tập hợp, liên kết sức mạnh
của các doanh nghiệp Việt Nam trên toàn thế giới. Đến nay, tại nhiều địa bàn
đã có Hội, Chi hội Doanh nghiệp Việt Nam, một số nơi thành lập Trung tâm
thương mại Việt Nam, góp phần làm cầu nối xúc tiến đầu tư, thương mại giữa
Việt Nam với các nước, hình thành mạng lưới phân phối hàng Việt Nam.
Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều tấm lịng nhân ái của kiều bào hướng về
Tổ quốc thông qua các hoạt động từ thiện nhân đạo dưới nhiều hình thức như tổ
chức khám chữa bệnh, miễn phí cho người nghèo, mổ từ thiện miễn phí cho trẻ
em bị dị tật mơi miệng; cung cấp trang thiết bị y tế cho các bệnh viện, trạm xá,

đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa. Nhiều tổ chức phi chính phủ của kiều bào
đang hoạt động trong nước để giúp đỡ người nghèo, tài trợ cho trẻ em nghèo đi
học... Nhiều đợt vận động quyên góp từ các nguồn khác nhau đã được tổ chức
để ủng hộ đồng bào bị thiên tai, quyên góp xây dựng “Quỹ vì người nghèo”,
giúp đỡ thương bệnh binh và người tàn tật, nạn nhân chất độc da cam, trẻ em bị
bệnh tim bẩm sinh, đồng bào và chiến sỹ Trường Sa...
Thứ hai, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có tiềm lực tri
thức đáng kể, góp phần khơng nhỏ vào phát triển khoa học - công nghệ,
giáo dục - đào tạo của đất nước, Tuy đóng góp cho đất nước ở nhiều phương
diện, song vốn quý nhất của người Việt Nam ở nước ngoài là về nguồn lực
chất xám, tri thức. Theo ước tính, trong cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngồi có khoảng 400.000 người có trình độ đại học, trên đại học, công nhân
kỹ thuật bậc cao, được đào tạo chính quy trong mơi trường khoa học hiện đại,
4

Số liệu thống kê năm 2015 của ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao.


10
được tiếp cận và cập nhật với những tiến bộ mới nhất của khoa học kỹ thuật
thế giới và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong hầu hết các ngành, lĩnh vực
mũi nhọn, kỹ thuật công nghệ cao từ điện tử, tin học, viễn thông, vật liệu mới,
sinh học cho đến công nghệ hàng không, vũ trụ, sản xuất vũ khí.
Trong những năm gần đây, mỗi năm đã có khoảng 200 - 300 chuyên
gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, chủ yếu từ các nước phát triển
như Mỹ, Pháp, Đức, Nhật Bản... về nước tham gia có hiệu quả cho các công
việc giảng dạy, tư vấn và đầu tư, chuyển giao tri thức thông qua nhiều hoạt
động phong phú như tham gia trực tiếp giảng dạy tại các trường đại học, viện
nghiên cứu, biên soạn giáo trình; cung cấp thông tin, tài liệu, kinh nghiệm;
làm việc trong các dự án hợp tác với nước ngoài, phối hợp với các chuyên

gia, trí thức trong nước thực hiện các chương trình nghiên cứu, triển khai ứng
dụng; làm cầu nối, mở rộng hợp tác quốc tế giữa các trường đại học, các cơ
sở nghiên cứu của Việt Nam với nước sở tại; làm tư vấn cho các bộ, ngành,
các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạch định chính, sách, đặc biệt các
ngành, lĩnh vực phát triển mới.
Bên cạnh đó, do có điều kiện được tiếp cận với nền khoa học, công
nghệ tiên tiến hiện đại, nắm bắt xu hướng phát triển mới của thế giới, kiều
bào ta có thể đóng góp ý kiến, kiến thức về xây dựng pháp luật, thể chế,
hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế... Với ảnh
hưởng ngày càng gia tăng của cộng đồng đối với chính quyền sở tại, kiều bào
có thể vận dụng thúc đẩy quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại giữa Việt
Nam và các nước; tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với Việt Nam tại các diễn
đàn khu vực và quốc tế.
Thứ ba, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là cầu nối quan
trọng để chúng ta mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác với các quốc gia, vùng
lãnh thổ, khu vực và thế giới. Đây là nhân tố quan trọng trong thực hiện đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, góp phần thực hiện


11
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nhiều năm trở lại đây, kiều bào tích cực tham gia và hưởng ứng hàng
loạt các hoạt động lớn dành cho người Việt Nam ở nước ngoài được tổ chức
thường xuyên ở trong và ngoài nước như chương trình Xn Q hương, Giỗ
Tổ Hùng Vương, Đồn kiều bào đi thăm Trường Sa, Lễ kỷ niệm các ngày lễ
lớn của đất nước, các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” nhằm tri ân các anh
hùng, liệt sỹ, Trại hè Việt Nam, phong trào “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”... Những năm gần đây, dòng họ Nhà Lý sống ở Hàn
Quốc gần 800 năm có nhiều hoạt động cụ thể hướng về đất nước và cộng
đồng công giáo người Thái gốc Việt sống tại Chanthaburi (Thái Lan) từ hơn

300 năm đã tìm lại được mối liên hệ với đất nước và đã cử đại điện về tham
dự các chương trình do Bộ Ngoại giao - Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam
ở nước ngoài tổ chức.
Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có nhiều lợi thế trong cơng
tác đối ngoại, bởi họ là lực lượng tuyên truyền, quảng bá nhanh nhất, hiệu
quả nhất về văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới thông
qua các hoạt động văn hóa cộng đồng và hỗ trợ, tham gia các triển lãm, hội
chợ quảng bá văn hóa, thương mại, du lịch của Việt Nam với thế giới, góp
phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, phát huy sức mạnh dân tộc, sức mạnh
thời đại trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc nói chung.
Thứ tư, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi là lực lương quan trọng,
mang tính tích cực, chủ động để chúng ta đấu tranh phịng chống và vơ hiệu hóa
chiến lược “Diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch
Tính đến nay có hơn 100 tổ chức chính trị phản động người Việt Nam ở
hải ngoại đang ni chí “phục thù” nhằm thực hiện ý đồ đen tối “phục quốc”,
cầm đầu các hội, nhóm trên phần lớn là những phần tử cực đoan, từng là ngụy
quân, ngụy quyền cũ, có nhiều nợ máu với cách mạng. Chúng đã, đang móc
nối, câu kết chặt chẽ với nhau và với bọn phản động trong nước để hoạt động


12
chống phá cách mạng nước ta, nhất là trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Chúng đẩy mạnh truyền đạo trái phép để “tơn giáo hố” các vùng dân tộc, lôi
kéo, tranh giành đồng bào dân tộc, gây đối trọng với Đảng, chính quyền.
Những năm gần đây, chúng tăng cường lợi dụng “dân chủ ”, “nhân quyền ”,
“tự do tôn giảo ”, tồ chức các cuộc hội thảo về quyền con người, cái gọi là
“Lễ mất đất ” (ngày 04/6 hàng năm ), “Ngày thành lập FULRO ” (ngày 20/9
hàng năm), thu thập, phát tán tài liệu (bản đồ, sách, tập san, tạp chí, băng, đĩa...
hay gửi kiến nghị thư liên quan đến vấn đề lãnh thồ để vu cáo Việt Nam...
Thực tế cho thấy, nếu chúng ta phát huy cao độ các lợi thế của các lực lượng

người Việt Nam ở nước ngồi để phân hóa, cơ lập các lực lượng phản động,
chúng ta có thể hạn chế một cách hiệu quả, thiết thực từ xa chiến lược “Diễn
biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ đối với cách mạng Việt Nam của các thế lực thù
địch, nhất là trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.


PHẦN THỨ HAI
ĐỊNH HƯỚNG CHIỂN LƯỢC NHẰM PHÁT HUY VAI TRỊ CỦA
NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGỒI TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ
VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Qua mỗi chặng đường cách mạng, xuất phát từ những yêu cầu, nhiệm
vụ cụ thể của từng giai đoạn, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ
trương, chính sách, nội dung và phương thức khác nhau trong công tác đối
với người Việt Nam ở nước ngồi. Tuy nhiên, quan điểm chính trị - tư tưởng
xuyên suốt, đồng thời cũng là tình cảm của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân
dân ở trong nước đối với đồng bào ta đã và đang sinh sống ở bên ngoài Tổ
quốc là nhất quán, bất biến. Từ Nghị quyết 08-NQ/TƯ của Bộ Chính trị năm
1993 (khơng cơng khai) đến Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày
26/3/2004 về công tác đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và
Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 19/5/2015 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về công
tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi trong tình hình mới ln xác định:
“Người Việt Nam ở nước ngồi là một bộ phận khơng tách rời và là một
nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam”5. Tinh thần và quan điểm đó
mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, là sự kế thừa truyền thống đại đoàn kết
và thống nhất toàn dân tộc đã được hun đúc qua hàng ngàn năm của tổ tiên
chúng ta, đồng thời phản ánh đúng sự thật lịch sử hình thành và phát triển của
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi - một bộ phận khơng tách rời, là
“máu thịt của dân tộc Việt Nam”6.
Hiện nay, với những thành quả quan trọng đạt được trong công cuộc

đổi mới và triển khai chiến lược phát huy sức mạnh đại đoàn kết tồn dân tộc,
Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 26/3/2004 về Công tác đối với cộng đồng người Việt Nam
ở nước ngồi.
6
Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại cuộc gặp mặt kiều bào Xuân Bính Thân 2016.
5


14
đặc biệt là thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về cơng tác với người
Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời do đời sống của đồng bào ngày càng ổn
định và nâng cao, xu hướng trở về nguồn và gắn bó với quê hương, đất nước
của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được thể hiện rõ. Tuy
vậy, vẫn cịn một số ít người Việt Nam ở nước ngoài cư trú bất hợp pháp, đã
vi phạm pháp luật của nước sở tại, ít nhiều ảnh hưởng xấu đến hình ảnh đất
nước, con người Việt Nam và quan hệ hữu nghị giữa các nước với Việt Nam.
Điều nguy hại hơn là hiện nay vẫn còn một số ít người Việt Nam ở nước
ngồi do thiếu hiểu biết, mặc cảm, mắc mưu lợi dụng của các thế lực thù địch
đã đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, chống phá sự nghiệp cách mạng
Việt Nam. Trên tinh thần đó, các chủ trương, chính sách đối với người Việt
Nam ở nước ngoài cần được hoạch định trên cơ sở chiến lược, toàn diện, lâu
dài, khả thi và đạt hiệu quả cao, theo định hướng sau:
Một là, thúc đẩy và hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi
phát triển ổn định, có quy chế pháp lý rõ ràng về cư trú và hoạt động sản
xuất, kinh doanh, có cuộc sống ấm no và thành đạt về mọi mặt, hoà nhập
ngày càng sâu rộng vào xã hội nơi cư trú.
Hai là, khuyến khích và thúc đẩy tồn thể người Việt Nam ở nước
ngoài hướng tới xây đựng cộng đồng mạnh về chính trị, phồn thịnh về kinh
tế, phát triển về tri thức và văn hố, ln gắn bó đồn kết, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa, ngơn ngữ và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Ba là, tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngồi gắn bó
chặt chẽ với q hương, Tổ quốc, đóng góp tích cực vào cơng cuộc xây dựng,
bảo vệ và phát triển đất nước trong giai đoạn phát triển mới.
Bốn là, xây dựng cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi đóng vai trỏ
là cầu nối thúc đẩy quan hệ hồ bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển giữa
Việt Nam với các nước trên thế giới, đặc biệt với nước cư trú, đồng thời tham
gia đấu tranh, ngăn chặn và cô lập các hoạt động chống phá đất nước của bọn
phản động cực đoan.


15
Hiện nay, Việt Nam đã bước sang giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng
và toàn diện, việc tổ chức và tranh thủ mạng lưới người Việt trên toàn thế
giới với vai trò cầu nối quan trọng giữa Việt Nam với các nước là một trong
những trọng tâm của công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài thời gian
tới. Để đạt được mục tiêu đó, cần phải triển khai xây dựng và củng cố mạng
lưới kiều bào, hướng dẫn họ tham gia triển khai chiến lược hội nhập quốc tế,
đặc biệt là chiếm lĩnh thị trường, thu hút đầu tư, học tập kinh nghiệm quản lý
và tri thức tiên tiến, quảng bá nền văn hóa Việt Nam ra thế giới, đồng thời
góp phần đấu tranh, ngăn chặn, cơ lập và vơ hiệu hố các hoạt động chống
phá đất nước của lực lượng phản động trong cộng đồng.


16
PHẦN THỨ BA
MỘT SỔ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐÊ PHÁT HUY VAI TRỊ CỦA NGƯỜI
VIỆT NAM Ở NƯỚC NGỒI TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐẤT
NƯỚC THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Sự phát triển của cộng đồng và những yêu cầu, nhiệm vụ mới của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc địi hỏi cơng tác đối với người Việt Nam

ở nước ngoài cần được tiếp tục triển khai mạnh mẽ, hỗ trợ cho người Việt
Nam ở nước ngoài phát triến ổn định; tạo thành cộng đồng vững mạnh, có địa
vị và uy tín cao trong xã hội các nước; tham gia đóng góp vào việc phát huy
uy tín và ảnh hưởng của nền văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế; góp phần
tích cực vào phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy, những chủ trương lớn của Nghị quyết 36-NQ/TW của
Bộ Chính trị vẫn là định hướng cơ bản chỉ đạo công tác đối với người Việt Nam ở
nước ngoài và cần tiếp tục được quán triệt đầy đủ, sâu rộng và triển khai thực hiện
nghiêm túc. Trước yêu cầu của tình hình mới, phát huy những kết quả đã đạt được
và khắc phục những hạn chế, yếu kém sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 36NQ/TW, công tác đối với NVNONN trong thời gian tới cần được tiếp tục triển
khai toàn diện, mạnh mẽ hơn nữa theo 09 nhóm giải pháp trọng tâm sau đây:
1. Nhóm giải pháp về tăng cường sự thống nhất nhận thức về công
tác đối với NVNONN
Mục tiêu của nhóm giải pháp này là phải tạo ra sự chuyển biến mạnh
mẽ và căn bản hơn nữa tiến tới thống nhất trong nhận thức của các cơ quan,
đơn vị trong hệ thống chính trị về vị trí, vai trị, tầm quan trọng, mục tiêu,
những yêu cầu, nội dung, các nhiệm vụ chủ yếu của công tác đối với
NVNONN nhằm hỗ trợ, xây dựng cộng đồng NVNONN đoàn kết, vững
mạnh, hội nhập sở tại và hướng về đất nước. Muốn vậy, cần tập trung đẩy


17
mạnh công tác thông tin tuyên truyền về các nội dung, quan điểm của Đảng
và Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết số 36 và Chỉ thị số 45 của Bộ Chính trị
và Chương trình hành động của Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh công tác đối
với NVNONN giai đoạn 2016 - 2020 với những hình thức đa dạng, phù hợp.
Ủy ban Nhà nước về NVNONN cần tổ chức các hội nghị ở từng vùng miền
khác nhau để tăng cường quán triệt đến các cấp thực hiện, làm sao để tinh
thần quan điểm, chủ trương của đảng liên quan đến NVNONN thực sự thấm

sâu vào đời sống xã hội trong nước cũng như trong cộng đồng NVNONN.
Công tác đối với NVNONN được xác định là một trong bốn nhiệm vụ
trọng tâm của ngành. Ngoại giao, vì vậy các Cơ quan đại diện Việt Nam ở
nước ngoài cần tăng cường công tác này, đặc biệt là ở những địa bàn có đơng
người Việt Nam sinh sống, cần có chương trình công tác cụ thể, phân công
một tổ công tác và cán bộ chuyên trách. Các cán bộ sắp đi luân chuyển cần
được tập huấn kỹ về nội dung công tác này.
2. Nhóm giải pháp về tiếp tục quán triệt sâu rộng, thực hiện đầy
đủ, hiệu quả chủ trương đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc của Đảng, Nhà
nước ta
Để đạt được mục tiêu này, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu hiện nay và những năm tiếp theo vẫn là tiếp tục triển khai nhóm giải pháp
nhằm thực hiện một sự hịa hợp đại đồn kết dân tộc thực sự. Đây là công
việc không đơn giản, do trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi vẫn
cịn một bộ phận tiếp tục ni dưỡng thù hận, tìm cách chống phá đất nước,
tâm lý mặc cảm quá khứ chưa được xóa bỏ. Do đó:
- Cần kiên quyết xóa bỏ tư tưởng thành kiến, hẹp hòi đối với kiều bào
trong tất cả các cấp, các ngành; cần quán triệt trong toàn hệ thống chính trị
quan điểm coi kiều bào là bộ phận máu thịt của dân tộc, là đối tượng vận
động đặc biệt. Có xác định rõ quan điểm đó, mới có thể thống nhất hành động
trong tồn bộ hệ thống chính trị, từ đó tạo được lịng tin cho đồng bào yên


18
tâm hướng về Tổ quốc, được hưởng những lợi ích từ quê hương và cũng góp
phần cống hỉến sức lực, trí tuệ cho quê hương đất nước.
- Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phân hóa các phần tử cực đoan, cảm hóa
và lơi kéo những cá nhân có ảnh hưởng trong cộng đồng, các phương tiện
truyền thông, số cựu quân nhân, quan chức chính quyền Sài Gịn... thơng qua
những chương trình, sự kiện dành cho kiều bào, đặc biệt phát huy tác động

tích cực của các đồn kiều bào đi thăm Trường Sa để khơi dậy tinh thần yêu
nước của người Việt Nam ở nước ngồi.
- Quan tâm tìm kiếm, sớm giải quyết các vấn đề do lịch sử để lại trên
tinh thần cởi mở, chân thành, rộng lượng, khoan dung. Tạo điều kiện thuận
lợi hơn nữa cho kiều bào tìm kiếm, cải táng hài cốt người thân là bính lính
chế độ cũ chết trận, những người chết trong thời gian học tập cải tạo.
3. Nhóm giải pháp về bồ sung, hồn thiện hệ thống chính sách,
pháp luật về NVNONN
- Tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật
liên quan đến NVNONN; đẩy mạnh cải cách hành chính, khẩn trương rà sốt,
tháo gỡ những vướng mắc trong các lĩnh vực liên quan đến lợi ích thiết thân
của kiều bào như quốc tịch, mua nhà, xuất nhập cảnh, đầu tư... để tạo điều
kiện thuận lợi hơn nữa cho kiều bào khi về nước sinh sống, làm ăn,
- Đầu tư cho công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về tình hình cộng
đồng NVNONN. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về NVNONN; nghiên cứu
kinh nghiệm cơng tác kiều dân của các nước và chính sách, pháp luật của
nước sở tại liên quan đến kiều bào, trên cơ sở đó kiến nghị những chính sách
phù hợp.
4. Nhóm giải pháp về hồn thiện cơ chế chính sách, đổi mới cơng
tác huy động nguồn lực của trí thức, doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài.
- Khẩn trương rà sốt các văn bản pháp luật, đề án hiện có về cơng tác
vận động trí thức kiều bào; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan liên quan


19
nhằm xây dựng cơ chế đồng bộ với đầu mối thống nhất. Nghiên cứu nhân
rộng một số mơ hình thành cơng bước đầu trong việc tập hợp, thu hút trí thức
kiều bào trong thời gian qua.
- Nghiên cứu, đề xuất việc sử dụng rộng rãi hơn nữa người Việt Nam ở
nước ngồi trong các lĩnh vực mà đất nước có nhu cầu chuyên gia hoặc cán

bộ quản lý. Xây dựng cơ chế, mạng lưới tập hợp, giải quyết, phản hồi các ý
kiến đóng góp của chun gia, trí thức kiều bào.
- Tập trung khai thác thế mạnh của trí thức kiều bào thơng qua vai trị
làm cầu nối giới thiệu hợp tác, chuyển giao cơng nghệ của nước ngồi, hỗ trợ
du học sinh, cán bộ của ta sang học tập, nghiên cứu. Bên cạnh đó, cần quan
tâm đến cơng tác quản lý, hướng dẫn du học sinh Việt Nam ở nước ngồi;
khuyến khích trí thức trẻ trở về phục vụ đất nước.
- Tạo hành lang pháp lý thuận lợi, đáng tin cậy hơn cho các dự án đầu
tư của kiều bào; nhanh chóng giải quyết những vướng mắc trong giải phóng
mặt bằng, bảo đảm quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư kiều bào trong kiện
tụng, tranh chấp, thi hành án.
- Phát huy sức mạnh của lực lượng và mạng lưới doanh nhân người
Việt, xây dựng và củng cố các tổ chức, hội doanh nhân Việt Nam ờ nước
ngoài làm đầu tầu kết nối kinh tế Việt Nam với các nước, thu hút đầu tư,
chuyển giao công nghệ về nước; thúc đẩy xuất khẩu, hỗ trợ đầu tư của Việt
Nam ra nước ngồi.
5. Nhóm giải pháp về ủng hộ và khuyến khích người Việt Nam ở
nước ngồi ổn định cuộc sống, hội nhập vào xã hội nước sở tại
- Đẩy mạnh việc đàm phán, ký kết các Hiệp định và thỏa thuận song
phương, đa phương và tác động ở cấp cao trong quan hệ với các nước có
đơng người Việt nhằm hỗ trợ kiều bào ổn định cuộc sống nơi cư trú, đặc biệt
là vấn đề địa vị pháp lý. Tập trung quan tâm hỗ trợ các cộng đồng kiều bào
gặp nhiều khó khăn như Campuchia, một số nước Đơng Âu, châu Phi.


20
- Các Bộ, ngành liên quan phối hợp với các cơ quan chức năng của các
nước sở tại nghiên cứu, đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm chấn chỉnh công
tác quản lý lao động và du học sinh, nhận con ni và kết hơn với người nước
ngồi; trấn áp tội phạm, bảo đảm an ninh cộng đồng.

6. Nhóm giải pháp về tiếp tục đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả
các hình thức tập hợp, vận động kiều bào
- Tổ chức các hoạt động nhằm gắn kết kiều bào với quê hương, bao
gồm những hoạt động lớn gắn với các sự kiện chính trị xã hội quan trọng của
đất nước, cũng như những hoạt động phù hợp với từng nhóm đối tượng kiều
bào; tổ chức lấy ý kiến của kiều bào đóng góp cho các chủ trương, chính sách
lớn và các vấn đề quan trọng của đất nước.
- Xây dựng chiến lược đồng bộ củng cố, hỗ trợ các hội đồn, tăng
cường tính liên kết của các tổ chức, hội đồn NVNONN. Chú trọng xây dựng
lực lượng nịng cốt trong cộng đồng; tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kỹ
năng, đề xuất chính sách ưu đãi đối với cán bộ hội đoàn; xem xét hỗ trợ xây
dựng trụ sở và hoạt động của một số hội thuộc địa bàn khó khăn.
- Quan tâm giải quyết các kiến nghị về khen thưởng của kiều bào, kịp
thời động viên các cá nhân và hội có nhiều đóng góp; tiếp tục thực hiện chính
sách khen thưởng, đãi ngộ đối với kiều bào có thành tích trong hai cuộc
kháng chiến (đặc biệt ở các địa bàn Thái Lan, Campuchia, Lào).
7. Nhóm giải pháp về tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác tiếng Việt,
hỗ trợ cộng đồng giữ gìn văn hóa Việt Nam
- Rà soát, đánh giá kết quả các đề án dạy tiếng Việt đã triển khai; bổ
sung, xây dựng các chương trình mới trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm dạy và
học tiếng Việt của các hội và cộng đồng phù hợp với đặc thù và điều kiện của
từng địa bàn; chú trọng việc tận dụng công nghệ thông tin để nhiều người,
đặc biệt là lớp trẻ, có thể dễ dàng tiếp cận.
- Tăng cường hỗ trợ kiều bào giữ gìn văn hóa, truyền thống dân tộc. Đa


21
dạng hóa các hình thức hoạt động giao lưu văn hoá, nghệ thuật, hội thảo, hội
chợ, triển lãm về Việt Nam...; đầu tư phát huy hiệu quả các “Trung tâm văn
hóa Việt Nam” ở các địa bàn có đơng người Việt. Đặc biệt, khuyến khích tạo

điều kiện cho các hình thức tổ chức sinh hoạt, tập hợp của lớp trẻ, nhất là lực
lượng thanh niên, sinh viên, như Hội Thanh niên Việt Nam tại Pháp, Việt
Unity tại Mỹ... củng cố và mở rộng hoạt động.
- Chú ý phối hợp giải quyết kịp thời các vấn đề liên quan đến nhu cầu
về tâm linh, tín ngưỡng, tơn giáo của cộng đồng trên cơ sở phù hợp luật pháp,
phong tục, tập quán của dân tộc và nước sở tại.
8. Nhóm giải pháp về đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền đối
ngoại
- Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại bằng nhiều hình
thức phù hợp; mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng các kênh thông tin
đối ngoại; tăng cường phổ biến kênh truyền hình đối ngoại (VTV4) hoặc
truyền hình qua mạng (IPTV) hoặc hệ thống truyền hình sở tại nhằm cung cấp
thơng tin kịp thời, chính xác cho kiều bào về tình hình đất nước, đặc biệt là
tình hình biên giới, lãnh thổ, dân chủ, nhân quyền, tự do tơn giáo, tín ngưỡng.
- Tiếp tục triển khai những biện pháp tích cực, khai thác hiệu quả các
cơ quan báo chí, truyền thơng người Việt ở nước ngồi để đáp ứng nhu cầu
của kiều bào và yêu cầu về công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại của ta,
từng bước chiếm lĩnh mặt trận truyền thông tiếng Việt ở ngoài nước.
- Tăng cường chất lượng các báo điện tử hiện có, hỗ trợ các báo này có
chuyên trang về người Việt Nam ở nước ngoài, dịch nội dung sang tiếng Anh,
Pháp để phục vụ độc giả người Việt và bạn bè quốc tế. Xuất bản hoặc phối
hợp với Việt kiều xuất bản tuần báo hoặc nhật báo tiếng Việt ở các nước, xây
dựng thư viện trên mạng.
- Tổ chức hoặc phối hợp tạo điều kiện giúp đỡ các tổ chức văn hóa


22
nghệ thuật, những cá nhân tổ chức các chương trình biểu diễn..., định kỳ đưa
các nghệ sỹ trong nước sang biểu diễn phục vụ cộng đồng và bạn bè quổc tế.
9. Nhóm giải pháp về kiện tồn bộ máy tổ chức, nhân sự và ngân

sách làm công tác về NVNONN từ Trung ương đến địa phương và cơ
quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài
- Củng cố, kiện toàn bộ máy của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam
ở nước ngoài để xứng tầm với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, thực
hiện tốt chức năng đầu mối tham mưu, chỉ đạo, phối hợp công tác về người
Việt Nam ở nước ngồi.
- Rà sốt, xây dựng và hồn thiện cơ chế phối hợp công tác đối với
NVNONN giữa các Bộ, ban, ngành; giữa trung ương với địa phương; giữa
trong nước và ngoài nước. Cần phát huy cao độ các cơ quan chuyên trách,
gồm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thơng tin - Truyền thơng, Mặt trận Tổ quốc
và các đồn thể xã hội liên quan.
- Nghiên cứu thành lập bộ phận chuyên trách, bố trí đủ nhân sự và kinh
phí cho hoạt động vận động NVNONN tại các địa phương, Bộ, ban, ngành.
- Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn công tác đối với
NVNONN cho cán bộ các cơ quan trung ương và địa phương. Tăng cường
cán bộ làm công tác cộng đồng tại các cơ quan đại diện ngoại giao cả về số
lượng và chất lượng.


×