Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Tiền lương và các khoản phải trích theo lương của Công ty Cổ phần Quảng cáo Việt (2).DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.26 KB, 44 trang )

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Văn kiện đại hội Đảng VI
-Văn kiện đại hội Đảng IX
-Văn kiện đại hội Đảng X
-Tap chí cộng sản điện tử
-Báo điện tử Đảng cộng sản VIỆT NAM
-Báo nhân dân online
-Gíao trình triết học MÁC –LÊNIN
-Giáo trình kinh tế chính trị MáC LÊNIN
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1
A.GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực:chính trị ,kinh
tế,xã hội,khoa học … ,từ thế giới tự nhiên đến thế giới tư duy trừu tượng.Mâu
thuẫn là một phần tất yếu của sự vật ,hiện tượng và tồn tại khách quan.Theo
Lênin,quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là “ hạt nhân” của
phép biện chứng để giải thích thế giới khách quan.
Nước ta từ năm 1986,nước ta đã thực hiện đổi mới chính sách kinh tế từ
cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.theo đó đặc điểm nổi bật của nền kinh tế
thời kì quá độ nước ta là nền kinhtế nhiều thành phần.trong nền kinh tế nhiều
thành phần ở nước ta hiện nay cũng có rất nhiều mâu thuẫn như :mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản và tư sản,mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu tư liệu sản
xuất,mâu thuẫn giữa tư tưởng cũ và mới,...Yêu cầu hiện nay đối với con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là làm sao giảI quyết tốt các mâu
thuẫn.vậy các mâu thuẫn quá trình xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta hiện nay là gì? thực trạng các vấn đề đó ra sao? Hướng giảI quyết
như thế nào?...
Đó là lí do vì sao em chọn đề tài :”Mâu thuẫn biện chứng trong quá
trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần“ để làm đề tài tiểu
luận triết.


Website: Email : Tel : 0918.775.368
2
B.NỘI DUNG CHÍNH
I.CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI
1.CƠ SỞ LÍ LUẬN
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
*Mặt đối lập
Mỗi sự vật hiện tượng luôn chứa đựng những mặt tráI ngựơc
nhau.Những mặt tráI ngược nhau đó phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối
lập.
Vậy,mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm ,những thuộc tính,
những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau
Ví dụ:trong nguyên tử có điện tích dương và điện tích âm,trong sinh vật
có đồng hoá và dị hoá,trong kinh tế có quy luật cung và cầu,trong vật lí có
quá trình ngưng tụ và bay hơi….
Các mặt đối lập tồn tại độc lập, khách quan và phổ biến trong tất cả các
sự vật ,hiện tượng. Nhưng chỉ có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong
cùng một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược
chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau (Sự chuyển hoá này tạo
thành nguồn gốc động lực, đồng thời quy định bản chất, khuynh hướng phát
triển của sự vật) thì có hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập mâu
thuẫn. Trong một sự vật hiện tượng không phảI chỉ tồn tại hai mặt đối lập mà
có thể tồn tại nhiều mặt đối lập một lúc.Các mặt đối lập tạp nên mâu thuẫn
bên trong sự vật hiện tượng.Quan hệ giữa các mặt đối lập gồm hai mặt :thống
nhất và đấu tranh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3
*Sự thống nhất giữa các mặt đối lập
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau ,không tách
rời nhau giữa các mặt đối lập,sự tồn tại của mặt này phảI lấy sự tồn tại của

mặt kia làm tiền đề.
Các mặt đối lập trong một sự vật hiện tượng mà không có sự thống nhất
thì không thể tạo thành sự vật.Sự thống nhất này là sự thống nhất từ bên
trong,do nhu cầu tồn tại ,nhu cầu vận động và phát triển của các mặt đối
lập,nếu bị phá huỷ thì sự vật không còn tồn tại nữa. Và nếu thiếu một trong
hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự
vật.
Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu
được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất trong phương thức sản
xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì cùng với nmó quan hệ sản xuất
cũng phát triển. Hai hình thức này chính là điều kiện tiền đề cho sự phát triển
của phương thức sản xuất. Nhưng trong quan hệ của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất phải thoả mãn một số yêu cầu sau:
- Thứ nhất: Đó phải là một khái niệm chung nhất được khai quát từ các
mặt phù hợp khác nhau phản ánh được banr chất của sự phù hợp của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Thứ hai: Đó phải là một khái niệm “động” phản ánh được trạng thái
biến đổi thường xuyên của sự vận động, phát triển trong quan hệ của quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất.
- Thứ ba: Đó phải là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ý nghĩa
nhận thức, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4
xuất được coi là thoả đáng phái có tác dụng định hướng, chỉ dẫn cho việc xây
dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp
cao nhất với lực lượng sản xuất.
Theo nghĩa hẹp sự thống nhất được hiểu là sự đồng nhất ,sự phù hợp,sự
tác động ngang nhau,hay nói cách khác là giữa các mặt đối lập có các điểm
giống nhau.Thống nhất trong trường hợp này được hiểu như là một trạng tháI

mà những yếu tố chung của hai mặt đối lập giữ vai trò chi phối.Đó là một
trạng tháI cân bằng của mâu thuẫn.Tuy nhiên , khái niệm thống nhất này
chỉ mang tính tương đối,tạm thời.
*Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ
phủ định lẫn nhau
Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế
giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau,tuỳ thuộc vào tính
chất ,vào mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể
diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng. Đấu tranh trongmỗi lĩnh vực ,mỗi thời kì
lịch sử,mỗi trình độ,và bản thân từng mâu thuẫn cũng khác nhau.
Qúa trình đấu tranh của các mặt đối lập được chia làm nhiều giai đoạn:lúc đầu
mới xuất hiện mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản ,nhưng thưo xu hướng
trái ngựoc nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được gọi
là mâu thuẫn. Chỉ có những khác nhau tồn tại trong một sự vật nhưng liên hệ
hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong
của sự phát triển thì hai mặt đối lập ây mới hình thành bước đầu cuả một mâu
thuẫn..Sự khác nhau đó ngày càng phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt
đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện ,mâu thuẫn nảy sinh và yêu cầu phải
giải quyết mâu thuẫn .
Website: Email : Tel : 0918.775.368
5
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai cấp có đối kháng
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuât lạc hậu kìm
hãm nó diễn ra rất quyết liệt và gay gắt. Chỉ thông qua các cuộc cách mạng
xã hội bằng rất nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới có thể giải quyết mâu
thuẫn một cách căn bản.Kết quả của quá trình đấu tranh là cả hai cùng mất
hoặc một mất một còn,hoặc cả hai cùng còn hoặc chúng chuyển hoá lẫn nhau
Sự đấu tranh mang tính tuyệt đối ,khi một mâu thuẫn được giải quyết thì mâu
thuẫn mới lại nảy sinh.Đấu tranh diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá

trình tồn tại của sự vật,kể cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng như khi
chuyển hoá nhảy vọt về chất
*Sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập
Sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập là tất yếu ,là kết quả của sự đấu tranh
giữa hai mặt đối lập khi mâu thuẫn được giải quyết. Hình thức chuyển hoá rất
đa dạng:chuyển hoá một phần hoặc toàn bộ
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự
chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phất triển đến
một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện càn thiết mới dẫn đến chuyển
hoá, bài trừ và phủ định nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt
đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hoá của các
mặt đối lập nhất thiết phải diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con
người.
Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự
hoán đổi vị trí một cách đơn giản, máy moc. Thông thường thì mâu thuẫn
chuyển hoá theo hai phương thức:
+ Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia
nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
6
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu
tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn.
+ Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để thành hai
mặt đối lập mới hoàn toàn.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nến kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
*Mâu thuẫn là nguồn gốc,động lực của sự vận động và phát triển
Có nhiều hình thức đấu tranh nhưng tính chất chung,cơ bản của mọi cuộc đấu

tranh là đi đến cái mới ,xoá bỏ cái cũ,cái không phù hợp. . Cứ như thế, đấu
tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên
cao.Vậy,đấu tranh là động lực của sự phát triển.Lênin khẳng định “sự phát
triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đôi lập”.
Vậy, Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
Trong một mâu thuẫn có sự thống nhất của các mặt không tách rời sự đấu
tranh của chúng, bất cứ một sự thống nhất nào của các mặt đối lập mang tính
chất tạm thời tương đối còn sự đấu tranh là tuyệt đối. Đấu tranh giữa các mặt
đối lập là nguồn gốc của sự phát triển.
2,CƠ SỞ THỰC TẾ
Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế hàng hoá nhiêù thành phần
Website: Email : Tel : 0918.775.368
7
Theo quan điểm của đại hội VI của Đảng đến nay, theo đường lối đổi mới,
đất nước ta đã từng bước chuyển sang nên kinh tế thị trường với định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Xét về thời gian, dưới góc độ kinh tế thị trường, tư duy của chúng ta cũng
được đổi mới qua nhiều bước.
Bước I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là
kinh tế thị trường. Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý chứ
không phải nói về toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội dung của nền kinh tế. Do
đó, trong khi phê phán nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao
cấp và đề ra chủ trương đổi mới quản lý kinh tế (một bộ phận của đường lối
đổi mới toàn diện), Đại hội VI khẳng định: “thực chất của cơ chế mới về quản
lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã
hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ
Phát triển thêm một bước, Đại hội VII (qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh
tế của ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Bước II: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư

bản, không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phầ
đang hình thành. Và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế. Có
nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, còn có chế vận hành của nền kinh tế đó là cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
8
Gần cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của Bộ Chính trị về công
tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị trường không phải là cái
riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại”.
Theo nhận định này, thị trường, kinh tế thị trường đã từng tồn tại và phát triển
qua những phương thức sản xuất khác nhau. Nó có trước chủ nghĩa tư bản,
trong chủ nghĩa tư bản và cả sau chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản
nó vận động và phát triển ở mức khởi phát, manh nha, còn ở trình độ thấp thì
trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nó đạt tới đỉnh cao đến mức chi phối toàn bộ
cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩa rằng nó
chính là chủ nghĩa tư bản. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường còn tồn tại là tất yếu. Vấn đề ở đây là
liệu kinh tế thị trường có đối lập với chủ nghĩa xã hội không, và liệu việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội có đi đến phủ định kinh tế thị trường để rồi tạo nên
một nền kinh tế hoàn toàn khác về chất là kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền kinh
tế vận động theo các quy luậtd dặc thù của chủ nghĩa xã hội hay không? Câu
trả lời là không. Quan điểm này cũng chính là quan điểm của Đại hội VIII
(1996) khi Đại hội chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý
của Nhà nước theo định hướng, xã hội chủ nghĩa”.
Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh
tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX của Đảng (2001) ghi

rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản
Website: Email : Tel : 0918.775.368
9
xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn
liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản
lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Theo Nghị
quyết của Đại hội IX, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là
bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Các thành phần đó bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Bước IV: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trương toàn
cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn. Đại hội X của
Đảng chủ trương: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Bốn nội dung quan trọng nhất là: nắm vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta, nâng cao vai trò và hoàn thiện quản
lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các
loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các
thành phần kinh tế và các loại hình sản xuất, kinh doanh.
II. THựC TRạNG VấN Đề PHáT TRIểN KINH Tế HàNG HOá NHIềU
THàNH PHầN ở VIệT NAM
1.TÍNH TẤT YẾU CỦA NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA NHIỀU THÀNH

PHẦN Ở VIỆT NAM
Website: Email : Tel : 0918.775.368
10
Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trên là tất yếu khách quan ,được quyết
định bởi :
-Sự phát triển của lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp ,không đồng đều
,tương ứng với mỗi trình độ tất yếu có một kiểu quan hệ kinh tế .Do đó ,nền
kinh tế xét về phưong diện cơ cấu kinh tế xã hội ,phảI là kinh tế nhiều thành
phần.Vậy nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với trình độ lực lượng sản
xuất .Sự phù hợp này ,đến lượt nó lại thúc đẩy tăng năng suất lao động ,tăng
trưởng kinh tế ,tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần
và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế không tồn tại
biệt lập mà có quan hệ hữu cơ với nhau ,tạo thành cơ cấu kinh tế .
-Một số thành phần kinh tế mới xuất hiện trong quá trình cảI tạo và xây dựng
XHCN như kinh tế nhà nước ,kinh tế tập thể ,kinh tế tư bản nhà nước
Sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần không chỉ là tất yếu mà còn đem lại nhiều
lợi ích thiết thực như :giảI phóng sức lao động ,khai thác và phat huy nguồn
lực của đất nước qua việc khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng
hợp ,tạo việc làm,kích thích động lực cạnh tranh và phát triển kinh tế thị
trường ,thúc đẩy đổi mới kĩ thuật và công nghệ,tạo tiền đề khắc phục tình
trạng độc quyền,phát triển lực lượng sản xuất ,giảm sự căng thẳng về cung
cầu hàng hoá ,nâng cao đời sống của nhân dân
-Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế , nhà nước XHCN phảI tiến
hành hợp tác đầu tư với nước ngoài .Do đó ,tất yếu phảI cùng với nhà nước tư
bản,các công ty trong và ngoài nước tiến hành hợp tác kinh doanh ,tạo lập lực
lượng kinh tế dân tộc ,làm ra đời và phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài và kinh tế tư bản nhà nước
Khẳng định sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở VIệT NAM ,đảng ta
nêu quan điểm :”chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược
lâu dài ,có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đI lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện

Website: Email : Tel : 0918.775.368
11
tinh thn dõn ch v kinh t bo m cho mingi c t do lm n theo
phỏp lut .Nh nc cn cú chớnh sach phự hp vi tng thnh phn kinh t
nhm thỳc y lc lng sn xut phat trin v nõng cao hiu qu kinh t xó
hi
2,Đặc điểm nền kinh tế nhiều thành phần ở VIệT NAM
*Nn kinh t th trng nh hng xó hi ch ngha nc ta hin nay cú 5
thnh phn
-kinh t nh nc
-kinh t tp th
-kinh t t nhõn: bao gm kinh t cỏ th , tiu ch ,t bn t nhõn
-kinh t t bn nh nc
-kinh t cú vn u t nc ngoi
*Trong ú thnh phn kinh t nh nc gi vai trũ ch o ,l lc lng vt
cht quan trng v l cụng c nh nc nh hng v iu tit v mụ nn
kinh t. Ch cụng hu di hỡnh thc kinh t nh nc hin nay l tiờu
biu cho nhõn t xó hi ch ngha ca nn kinh t th trng nc ta. Tuy
nhiờn, nhõn t ú khụng tn ti bit lp, m an xen, xõm nhp vo cỏc thnh
phn kinh t khỏc, to nờn nhng mm mng xó hi ch ngha trong lũng cỏc
thnh phn kinh t t nhõn; thụng qua nhng hỡnh thc kinh t quỏ ca ch
ngha t bn nh nc.
*Cỏc thnh phn kinh t cựng phỏt trin lõu di hp tỏc v cnh tranh lnh
mnh .Phỏt trin kinh t hng hoỏ nhiu thnh phn I ụI vi tng cng
qun lớ ca nh nc v kinh t xó hi .
*Nn kinh t hng hoỏ nhiu thnh phn nc ta va vn ng theo c ch
th trng ,va theo nh hng xó hụI ch ngha
Website: Email : Tel : 0918.775.368
12
Trong cơ chế thị trường,cá chủ thể kinh tế có tính độc lập,có quyền tự chủ

trong sản xuất kinh doanh.Gía cả do thị trường quyết định ,hệ thống thị
trường được phát triển đầy đủ và có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối
các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành và lĩnh vực .Nền kinh tế vận đọng
theo cơ chế thị trường khách quan
Tuy nhiên , Sự vận động của nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường
không thể nào giải quyết hết các vấn đề do chính cơ chế đó và bản than đời
sống kinh tế - xã hội đặt ra. Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức
độ khác nhau, trực tiếp hay giàn tiếp đều có sự tác động ngược lại làm cản trở
sự phát triển "bình thường" của một xã hội nói chung và nền kinh tế hàng hóa
nói riêng. Vì vậy sự tác động của Nhà nước – một chủ thể có khả năng nhận
thức và vận dụng các quy luật khác vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Thiếu sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để cho
nền kinh tế thị trường tự do hoạt động, thì việc điều hành nền kinh tế nước ta
sẽ không có hiệu quả
3.NHỮNG THÀNH CÔNG SAU HƠN 20 NĂM XÂY DỰNG NỀN
KINH TẾ HÀNG HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN
3.1- Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001 - 2005) tăng bình quân
7,5%/năm. Năm 2005, GDP theo giá hiện hành ước đạt 838 nghìn tỉ đồng,
bình quân đầu người trên 10,0 triệu đồng (tương đương khoảng 640 USD).
Nông nghiệp tiếp tục phát triển khá. Năng suất, sản lượng và hàm lượng công
nghệ trong sản phẩm nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản tăng đáng kể; an
ninh lương thực quốc gia được bảo đảm; một số sản phẩm xuất khẩu chiếm
được vị trí cao trên thị trường thế giới, bình quân lương thực đầu người
Website: Email : Tel : 0918.775.368
13
tǎng.Trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng đã có bước tiến.Kết cấu hạ tầng
tiếp tục được đầu tư nhiều hơn. Bộ mặt nông thôn, đời sống nông dân, kể cả
ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, có bước được cải thiện. Chương trình xây
dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vượt lũ ở đồng bằng sông Cửu Long đạt

được kết quả bước đầu.
Công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng cao. Công nghiệp có bước
chuyển biến tích cực về cơ cấu sản xuất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh
tranh. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2007 ước đạt 574 nghìn tỷ đồng,
tăng 17,1% so với năm 2006; trong đó, khu vực ngoài quốc doanh tăng
20,9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,2% và khu .vực doanh
nghiệp nhà nước tăng 10,3%.. Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh
được trên thị trường trong và ngoài nước. Ngành xây dựng có năng lực xây
dựng tăng khá nhanh và có bước tiến đáng kể theo hướng hiện đại; việc xây
dựng đô thị, xây dựng nhà ở đạt nhiều kết quả.
Dịch vụ có bước phát triển cả về quy mô, ngành nghề, thị trường và có tiến
bộ về hiệu quả với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Giá trị sản xuất
của các ngành dịch vụ tăng.
Dịch vụ vận tải tăng nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu. Bưu chính -
viễn thông phát triển nhanh theo hướng hiện ®¹i. Các ngành vận tải hàng
hóa, mạng lưới và dịch vụ bưu chính, viễn thông, internet trong nước và
quốc tế, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…đều phát triển khá .
3.2- Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá
Về cơ cấu ngành, tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng; tỉ trọng
nông, lâm nghiệp và thủy sản đã .Cho đến năm 2007, chất lượng tăng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
14
trưởng của nền kinh tế từng bước được nâng lên thể hiện trên các chỉ số tăng
trưởng cao, duy trì tốc độ ổn định trên mọi lĩnh vực kinh tế. Cơ cấu kinh tế
có bước chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, xây
dựng dịch vụ và giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp (khu vực nông nghiệp
chiếm 20%; công nghiệp và xây dựng chiếm 41,5%, dịchvụ38,1%.
Trong từng ngành kinh tế đã có những chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản
xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn sản xuất với thị

trường.
Cơ cấu kinh tế vùng đã có bước điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so
sánh của từng vùng; các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu kinh
tế và vùng sản xuất chuyên môn hoá cây trồng, vật nuôi đang phát triển khá
nhanh, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Tỉ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây dựng
ngành dịch vụ tăng, lao động trong các ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản
giảm.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm
năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực
kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới, chi phối nhiều ngành kinh tế
then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế. Kinh
tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực,
đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là giải quyết việc
làm và cải thiện đời sống nhân dân; trong đó, kinh tế hợp tác và hợp tác xã
phát triển khá đa dạng Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng
tương đối caolà cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ,
Website: Email : Tel : 0918.775.368
15
giao thương quốc tế. Kinh tế tư nhân phát triển không hạn chế về quy mô và
địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm
3.3- Vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh
Vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh. Vốn đầu tư của dân tăng nhanh.Đầu
tư đã tập trung hơn cho những mục tiêu quan trọng. Quy mô vốn đầu tư ở
các vùng đều tăng; vùng nghèo, xã nghèo được Nhà nước quan tâm đầu tư
nhiều hơn.
Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đã tập trung cho việc xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế, xã hội, phát triển nguồn nhân lực, xoá đói, giảm nghèo, hỗ trợ
các vùng khó khăn. Vốn đầu tư của doanh nghiệp tăng nhanh, không chỉ

phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ mà còn tham gia
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng đô thị. Vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục được duy
trì và tăng thêm, tạo nhiều công trình kết cấu hạ tầng và sản phẩm xuất khẩu.
Không chỉ có nguồn vốn ngân sách nhà nước tăng lên mà nguồn vốn huy
động từ xã hội cho đầu tư phát triển cũng rất khả quan .Năm 2007 khoảng
462,2 nghìn tỷ đồng, bằng 40,5% GDP, tăng 15,9% so với năm 2006; trong
đó nguồn vốn từ khu vực dân cư và tư nhân chiếm 34,4% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội, tăng 19,5% so với năm 2006.
Đầu tư đã làm tăng đáng kể năng lực sản xuất, kinh doanh, tạo nhiều sản
phẩm có sức cạnh tranh, hoàn thành và đưa vào sử dụng nhiều công trình kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, trong đó có nhiều công trình lớn, tăng cường tiềm
lực và cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế.
3.4- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng
bước đầu, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Website: Email : Tel : 0918.775.368
16
Hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ; hoạt động
của các loại hình doanh nghiệp và bộ máy quản lý nhà nước được đổi mới
một bước quan trọng. Một số loại thị trường mới hình thành; các loại thị
trường hàng hoá, dịch vụ, lao động, khoa học và công nghệ, tài chính, bất
động sản có bước phát triển phù hợp với cơ chế mới,giữ được các cân đối
kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tạo môi trường và điều kiện cần thiết cho sự
phát triển kinh tế.
Quỹ tiết kiệm tăng cao, nhờ đó đã có điều kiện vừa đẩy mạnh đầu tư phát
triển, vừa cải thiện đời sống nhân dân.Tiềm lực tài chính nhà nước ngày
càng được tăng cường.Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt hơn, giá
trị đồng tiền cơ bản ổn định; cán cân thanh toán quốc tế giữ được cân bằng,
dự trữ ngoại tệ tăng dần, giảm được tỉ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng;

nợ Chính phủ và nợ quốc gia vẫn trong giới hạn an toàn. Ngân hàng nhà
nước, hệ thống Ngân hàng thương mại, Quỹ hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu
tư, ngân hàng chính sách, thị trường chứng khoán, hệ thống tín dụng nhân
dân được chấn chỉnh, có bước phát triển, hiệu quả hoạt động tốt hơn.
3.5- Hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới rất quan
trọng
Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế được mở
rộng; việc thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, quá trình đàm phán gia
nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và thực hiện các hiệp định hợp tác
đa phương, song phương khác đã góp phần tạo ra một bước phát triển mới
rất quan trọng về kinh tế đối ngoại, nhất là xuất khẩu.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
17

×