Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận KHLDQL cơ chế đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.65 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Cơ chế là sự vận hành tổng hợp của các yếu tố trong một sự vật theo một
nguyên tắc nhất định, để sự vật đó tồn tại và phát triển đúng như bản chất vốn có
của nó. Đối với đất nước ta sự vận hành cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ” là bảo đảm mở rộng và thực thi có hiệu quả nền dân chủ
XHCN, làm cho mọi quyền lực xã hội đều thuộc về nhân dân. Trong suốt tiến
trình cách mạng, Đảng đã rất quan tâm giải quyết, xử lý mối quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước và Nhân dân. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng đã coi mối quan hệ
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ là cơ chế vận hành của thể
chế chính trị - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, quá trình phát huy vai trị của
những nhân tố đó đã và đang nảy sinh những vấn đề phức tạp đòi hỏi phải tiếp
tục nghiên cứu, giải quyết cả về phương diện lý luận lẫn trong thực tiễn.
Trên góc độ khoa học lãnh đạo, quản lý em xin được trình bày nhận thức
của mình về cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu bản thân em khơng tránh khỏi những
khuyết điểm, sai sót, em mong được thầy cơ đóng góp ý kiến và chỉnh sửa.
Em xin trân thành cảm ơn!


Phần thứ 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN LÃNH ĐẠO, LÀ QUẢN LÝ

I. QUAN ĐIỂM VỀ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
1. Khái niệm về lãnh đạo
Có nhiều quan niệm khác nhau về lãnh đạo.
- Theo James Gibson: Lã nh đ ạ o l à m ộ t ph ầ n c ô n g v i ệ c c ủ a
q u ả n l ý n h ư n g không phải tồn bộ cơng việc quản lý. Lãnh đạo là
năng lực thuyết phục ngườikhác hăng hái phấn đấu cho những mục tiêu đã
xác định.
- George Tery: Lãnh đạo là hoạt động gây ảnh hưởng đến con người
để họ phấn đấu tự nguyện cho các mục tiêu của tổ chức.


- R. Tannenbaum, R. Weschler và F. Massarik: Lãnh đạo là ảnh hưởng
liênnhân cách được thực hiện trong tình huống và được định hướng
thơng qua qtrình giao tiếp nhằm đạt được mục đích chung hoặc những mục
đích chuyên biệt.
- H. Koontz và các tác giả: Lãnh đạo là quá trình tác động đến con người
saoch o h ọ c ố g ắ n g m ộ t c á ch t ự g i á c v à h ă n g h á i t h ự c h i ệ n m ụ c
t i ê u c h u n g c ủ a t ổ chức.

2

2


- P. Hersey và Ken Blanc Hard: Lãnh đạo là một quá trình gây
ảnh hưởng đến các hoạt động của một cá nhân hay một nhóm nhằm đạt được
mục đích trong tình huống nhất định.
- Lãnh đạo là một dạng quản lý đặc thù (quản lý con người – xã hội) –
lãnh đạo được hiểu là phương thức ứng xử của một hay một tập thể đứng đầu có
ảnh hưởng tích cực đến mọi người xung quanh trong q trình thực hiện nhiệm
vụ và xác định mục tiêu.
- Theo quan điểm của khoa học lãnh đạo: là một hoạt động với nghĩa như
một quá trình khai mở tiềm năng, nhằm đem lại phúc lợi chung, thơng qua sự
khích lệ và chia sẻ.
Lãnh: là nhận về (nhận lấy sự dìu dắt): giáo dục, thuyết phục, động viên
(ảnh hưởng bằng quyền lực mềm).
Đạo: con đường (dẫn đường) được xác định mục tiêu.
Lãnh đạo được quan niệm như một "phương thức ứng xử" của một tổ
chức mang quyền lực chính trị có vị thế đứng đầu... Nên, đòi hỏi chủ thể lãnh
đạo cần có "tầm nhìn xa, trơng rộng" với một thế giới quan khoa học để định
hướng chiến lược và hoạch định đường lối một cách đúng đắn. Với ý nghĩa đó Chức năng chủ yếu của lãnh đạo được xác định là định hướng, xây dựng các

mục tiêu chiến lược, hình thành chủ trương và đề ra đường lối.
Về cơ chế ảnh hưởng của lãnh đạo được tiến hành chủ yếu qua phương
pháp giáo dục, nêu gương kết hợp với thuyết phục và động viên, cảm hố mọi
người trong q trình thực hiện nhiệm vụ , xác định mục tiêu.
2. Khái niệm về quản lý
Theo quan điểm của khoa học lãnh đạo thì Quản lý là hoạt động như một
quá trình đạt các kết quả cụ thể một cách ổn định ngay cả trong điều kiện khơng
hồn tồn kiểm sốt và không chắc chắn.

3

3


Nói đến quản lý là một hoạt động có "tính tổ chức", "tính mục đích"...
nhằm giúp con người thực hiện hoạt động có hiệu quả trên các lĩnh vực đời sống
xã hội. Trong đời sống xã hội, quản lý không chỉ với nghĩa là quản lý con người,
quản lý xã hội mà cịn có nghĩa quản lý chung với tính cách là " công cụ", là
"phương tiện" cho con người trong quản lý các đối tượng. Ví dụ: Quản lý thông
tin, Quản lý hiện vật...Về quản lý xã hội - quản lý con người - khái niệm quản lý
được khái qt như một hoạt động có tính tổ chức nhằm duy trì và phát triển một
tập hợp người để cùng nhau thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ và mục tiêu
đã được đặt ra.
3. Mối quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý
Trong thực tiễn - Lãnh đạo và quản lý tạo thành một chỉnh thể thống nhất
trên cơ sở tính chất, chức năng và phương thức hoạt động của lãnh đạo và quản
lý, trong đó - Lãnh đạo là đề ra đường lối và lãnh đạo đường lối bằng phương
pháp giáo dục, thuyết phục, động viên mọi người trong q trình thực hiện
đường lối. Cịn quản lý là sự cụ thể hoá đường lối thành kế hoạch, thành nhiệm
vụ và tổ chức thực hiện nhiệm vụ bằng biện pháp hành chính và bằng pháp

luật... Giữa lãnh đạo, quản lý có quan hệ chặt chẽ với nhau, khơng thể tách rời
nhau – lãnh đạo không quản lý dễ dẫn tới chung chung, thiếu cụ thể, ngược lại
quản lý không lãnh đạo dễ dẫn đến mất phương hướng. Để lãnh đạo tốt nhất
thiết phải là nhà quản lý giỏi, đồng thời để quản lý giỏi cần phải hiểu biết về
người lãnh đạo.
Lãnh đạo và quản lý tuy khác nhau nhưng đều phục vụ chung một mục
đích cuối cùng. Dù là một tổ chức kinh tế, văn hóa, một quốc gia, mục tiêu dài
hạn hay ngắn hạn thì đều phục vụ một mục đích cuối cùng mà thơi. Các nhiệm
vụ, kế hoạch có đạt được thì các chủ trương, chiến lược mới có cơ sở để thực
hiện, sự chỉ đạo thường xun có chặt chẽ, có đúng pháp luật thì cơng việc mới
hồn thành, có hiệu suất thì cơng việc cuối cùng mới có hiệu quả.
4

4


II. SỰ KHÁC NHAU GIỮA LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ
1. Sự khác nhau của lãnh đạo và quản lý
Lãnh đạo là đề ra chủ trương và tổ chức động viên thực hiện, còn quản lý là
tổ chức và điều khiển các hoạt động theo các yêu cầu nhất định.
Như vậy, có thể hiểu: lãnh đạo là chỉ đường, vạch lối, nhìn xa trơng rộng,
hướng tới mục tiêu cuối cùng, cịn quản lý là tổ chức và điều khiển theo các hoạt
động đó. Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối, nguyên lý, sách lược, còn
quản lý là tổ chức thực hiện. Lãnh đạo quan tâm đến những vấn đề chiến lược,
những mục tiêu lâu dài, còn quản lý chú trọng những u cầu có tính chiến
thuật, mục tiêu cụ thể và thường ngắn hạn. Lãnh đạo có thể gắn vói những khía
cạnh trừu tượng của cuộc sống, cịn quản lý thường phải xử lý những vấn đề rất
thực tế. Lãnh đạo thuộc lĩnh vực chính trị, người lãnh đạo là nhà chính trị, cịn
quản lý thuộc lĩnh vực hành chính, người làm quản lý là những nhà hành chính.
Lãnh đạo dùng biện pháp động viên, thuyết phục, gây ảnh hưởng dựa vào

đạo lý là chính, trái lại quản lý phải sử dụng các biện pháp chặt chẽ, dựa vào
ràng buộc của pháp chế, thể chế. Lãnh đạo tác động đến ý thức của con người,
còn quản lý sử dụng con người như một nguồn lực, nguồn nhân lưc bên cạnh
nguồn tài lực và vật lực. Lãnh đạo thuộc về phạm trù tư tưởng, lý luận và đạo
đức, khơng có tính cưỡng chế, cịn quản lý lại thuộc phạm trù luật pháp, pháp
quy, có ý nghĩa cưỡng chế rõ rệt.
2. Sự khác nhau về công việc của lãnh đạo và quản lý
Nói về chức năng cơng việc, thì lãnh đạo và quản lý là hai công việc khác
nhau.
Những công việc chủ yếu của lãnh đạo là:
Phân tích tình hình, định hướng, vạch chiến lược.
Đưa ra các quyết định quan trọng.

5

5


Làm điểm tựa về uy tín cho tổ chức, đối với cả người bên trong lẫn người
bên ngồi.
Những cơng việc chủ yếu của quản lý là:
Thực hiện các quyết định của lãnh đạo.
Xử lý các công việc ngày này sang ngày khác.
Đảm bảo cho bộ máy hoạt động trơn tru.
Ở các tổ chức nhỏ, các việc lãnh đạo và quản lý hay được qui làm một, do
cùng một người (ví dụ như chủ một doanh nghiệp nhỏ) đảm nhiệm. Tuy nhiên,
đối với các tổ chức lớn, thì sự phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý là cần thiết. Có
những người có khả năng làm cả hai cơng việc lãnh đạo và quản lý, và trong các
tổ chức lớn cũng có những vị trí địi hỏi phải làm cả hai việc. Tuy nhiên, hai
cơng việc này địi hỏi những loại kỹ năng khác nhau.

Những điều mà một người lãnh đạo cần có (ngồi việc là một con người có
tư cách tốt nói chung) là:
Uy tín cá nhân cao (nếu người bên trong khơng phục thì khó lãnh đạo, nếu
mất uy tín với bên ngồi thì tồn bộ tổ chức mất uy tín theo).
Có trình độ cao, tầm nhìn xa trơng rộng, để có thể đưa ra những định hướng
và quyết định đúng đắn.
Biết phối hợp hài hòa với bộ phận quản lý.
Người quản lý thì khơng nhất thiết cần có trình độ cao, uy tín cao hay tầm
nhìn xa trơng rộng như người lãnh đạo, nhưng ngược lại cần những đức tính
như:
Hiểu được và tuân theo các quyết định của lãnh đạo
Có tính kỷ luật, cẩn thận, tỉ mỉ, nắm sát các chi tiết (người lãnh đạo có thể
khơng mạnh những điểm này).
Tùy lĩnh vực quản lý mà cần có trình độ chun mơn tương ứng nhất định.
Chúng ta có thể làm rõ sự khác biệt giữa hai khái niệm này qua bảng sau:
6

6


Phần thứ 2
LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ VỚI CƠ CHẾ “ĐẢNG LÃNH ĐẠO,
NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ” Ở VIỆT NAM

I. THỰC TIỄN LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ VỚI THỂ CHẾ ĐẢNG LÃNH
ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ Ở NƯỚC TA.
1. Cơ Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ ở Việt Nam
Cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” chứa đựng
nhiều nội dung cần làm rõ để có biện pháp thực hiện hiệu quả nhất. Đến Đại hội
X, Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn, rõ ràng hơn, sâu sắc hơn, khi khẳng định:

“Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân”. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) một lần nữa
7

7


khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. Đồng thời đã xác định xã hội
chúng ta đang xây dựng là “do nhân dân làm chủ” chứ không chỉ là “nhân dân
lao động làm chủ”.
Đại hội X có bước tiến mới về nhận thức quyền làm chủ của nhân dân: xây dựng
một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thật sự là
công bộc của nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng
thời là người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có
sự tham gia ý kiến của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đại hội X cũng đã chỉ rõ các hình thức để nhân dân làm chủ: thực hiện
các cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước; dân
chủ trong quá trình chuẩn bị ra các quyết định và tổ chức thực hiện các quyết
định; làm chủ thông qua các cơ quan dân cử, các tổ chức, đồn thể chính trị, xã
hội, nghề nghiệp; làm chủ trực tiếp ở cơ sở, bằng các hình thức nhân dân tự
quản, bằng các quy ước, hương ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp của Nhà
nước, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định
những vấn đề quan trọng; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Chăm lo
cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, tơn trọng và
thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc

tham gia.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Nhà nước tôn
trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự
8

8


phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và
pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”.
Qua các kỳ đại, mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ đã ngày càng được cụ thể hóa. Tuy nhiên, trong thực tế cịn khơng
ít vấn đề về phương thức lãnh đạo của Đảng, phương thức vận hành của bộ máy
nhà nước và quy định cụ thể về quyền làm chủ của nhân dân còn bất cập, cần
được tiếp tục làm rõ.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI Một số vấn đề cấp bách trong công tác
xây dựng Đảng đã được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm. Bởi
ai cũng hiểu, một Đảng cầm quyền, nếu không chú trọng củng cố và nâng cao
sức chiến đấu, xa rời dân, mất dân chủ thì Đảng sẽ tự đánh mất quyền lãnh đạo
mà nhân dân đã đặt niềm tin.
Một tổ chức Đảng không biết trọng dân, đánh mất niềm tin trong dân thì
sớm muộn gì cũng đánh mất quyền, càng khơng thể giữ được quyền lãnh đạo, vì
“đẩy thuyền, lật thuyền cũng là dân”.
Dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngay khi thành lập và được
nhân dân tin tưởng, hơn tám thập kỷ qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tận tâm
tận lực để lãnh đạo thành công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc, xây dựng Nhà nước cách mạng của dân, do dân và vì dân. Biết dựa vào
dân, gắn bó chặt chẽ với dân, nhân lên sức mạnh lớn lao của nhân dân nên Đảng

ta ngày càng vững mạnh.

9

9


Lịch sử đã chứng minh: Đảng cầm quyền vững mạnh, trước hết phải vững
từ nội lực của mình, từ niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Vì vậy, Nghị quyết
4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI thể hiện rõ tính cấp bách của
cơng tác xây dựng Đảng, chấn chỉnh tình trạng một số cán bộ đảng viên, tổ chức
Đảng có biểu hiện xa dân, lơ là việc thực thi dân chủ, không chú trọng tu dưỡng
phẩm chất đạo đức đảng viên, làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng, làm xói
mịn lịng tin của nhân dân.
Soi vào mình để tự chấn chỉnh, Đảng sẽ có cơ hội làm trong sạch đội ngũ.
Do đó, mỗi cán bộ đảng viên, tổ chức đảng phải thường xuyên đổi mới tư duy,
đổi mới công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước một cách khoa học, hiện
đại, vì lợi ích của dân, của nước và phù hợp với xu thế thời đại. Đây là yêu cầu
cấp thiết để Đảng khơng rơi vào tình trạng quan liêu, giáo điều, xa dân.
Khi Đảng cầm quyền thực sự trong sạch, vững mạnh, tồn tâm tồn ý vì
dân, lo cho dân, cho nước thì Đảng được dân tin tưởng. Đó mới chính là thực
chất ý nghĩa vinh quang của Đảng. Ngược lại, nếu Đảng cầm quyền xem nhẹ
việc thực thi dân chủ, không gắn bó với dân, khơng xây dựng được Đảng ngang
tầm thời đại, xứng đáng với niềm tin mà nhân dân đã trao thì Đảng tự đánh mất
quyền lãnh đạo, đánh mất vai trị lịch sử của mình. Bởi giành được quyền đã
khó, để mất quyền rồi lấy lại, càng khó gấp vạn lần.
Thực tiễn đã chứng minh rằng: Chỉ có nhân dân chứ khơng ai khác, là
người thẩm định chính xác nhất, và cũng chỉ có nhân dân mới là người lựa chọn
sáng suốt nhất đảng chính trị, nhà chính trị cầm quyền thay mặt mình lãnh đạo
đất nước. Ai thu phục được lịng dân, được dân ủng hộ thì người đó sẽ thành

cơng. Ai làm mất lịng dân thì dù tài giỏi, quyền hành đến mấy tất sẽ thất bại.

10

10


Trong mối quan hệ giữa ba chủ thể, Đảng, nhà nước và nhân dân, cũng
như giữ ba chức năng, lãnh đạo, quản lý và làm chủ, dễ dàng nhận thấy vai trị
làm chủ của nhân dân giữ vị trí tiền đề cho cả ba chức năng, vì khơng có nhân
dân làm chủ thì sự lãnh đạo và quản lý cũng khơng cịn thuộc về chủ nghĩa xã
hội nữa. Nhà nước quản lý giữ vai trò làm phương tiện hay điều kiện để thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân trong cơng việc quản lý quốc gia và xã hội.
Cịn sự lãnh đạo của Đảng giữ vị trí then chốt trong việc phát huy quyền làm chủ
của nhân dân và dẫn dắt chính quyền nhà nước quản lý đất nước. Điều quan
trọng ở đây là bước vào giai đoạn mới, nhịp độ cơng nghiệp hóa và xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng khẩn trương, đồng
thời trình độ dân sinh và dân trí cũng ngày càng cao thì yêu cầu nâng cao chất
lượng cuar lãnh đạo và quản lý sẽ ngày càng cấp thiết và bức súc.
Trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, Đảng thực hiện sự lãnh đạo
về chính trị, nhưng khơng thể vì thế mà có thể đứng trên Nhà nước hay trên luật
pháp nhà nước, không chịu sự ràng buộc của luật pháp; cũng khơng thể hịa vào
trong nhà nước, quốc gia hóa, hành chính hóa làm thay hay hoạt động trùng lặp,
vì chức năng của Đảng và Nhà nước hồn tồn khác nhau, khơng thể nhầm lẫn.
Điểm mới của Đại hội XII khi bàn về cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ” được tập trung vào một số nội dung, phương hướng, nhiệm
vụ và giải pháp để phát huy chức năng, hiệu quả của từng thành tố trong cơ chế,
đó là:
Đối với Đảng, kế thừa những nhiệm vụ, giải pháp của Đại hội XI, Đại hội XII đã
nêu nhiệm vụ, giải pháp trên 10 vấn đề, trong đó vấn đề “đổi mới phương thức

lãnh đạo của Đảng” đã xác định nhiệm vụ, giải pháp mới là: “Tiếp tục cụ thể
hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây
11

11


dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Quy
định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân về những
quyết định của mình”.
Đối với Nhà nước, để tiếp tục hồn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, của dân, do dân và vì dân, Văn kiện Đại hội XII đưa ra một giải pháp
mới: “Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp
huyện”. Đây là giải pháp nhằm thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân.
Đối với nhân dân, nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, Văn kiện Đại hội XII đã bổ sung giải pháp mới
là: “Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội”. Đây là những điểm mới, những sự bổ sung, phát triển kịp thời,
phản ánh một cách khách quan, toàn diện những đòi hỏi bức thiết của thực tiễn
và thể hiện tầm nhìn, tư duy sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo, phát huy mọi
nhân tố, tiềm lực tạo ra động lực to lớn để phát triển đất nước trong tình hình mới.
2. Tình hình giải quyết, xử lý mối quan hệ Đảng – Nhà nước – Nhân dân
của nước ta trong thời gian qua
a. Những kết quả đạt được trong quan hệ giữa Đản, Nhà nước và nhân dân
Những thành tựu nổi bật trong mối quan hệ này được thể hiện trên các mặt sau:
- Đảng giữ vững được vai trị lãnh đạo đối với Nhà nước; thơng qua Nhà
nước, nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình tham gia quản lý
nhà nước, quản lý xã hội ngày càng tốt hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước ta đã phát huy tốt hơn vai trò quản lý của mình, có chính sách đúng, động

viên và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới. Trong
12
12


lãnh đạo xây dựng Nhà nước, đã quán triệt nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, thực hành dân chủ, phát huy tính sáng tạo của nhân dân,
tham khảo và vận dụng có chọn lọc lý luận xây dựng Nhà nước pháp quyền của
nhân loại vào điều kiện cụ thể của Việt Nam sao cho phù hợp với dân tộc, thời
đại và hoàn cảnh thực tiễn của đất nước. Cụ thể là:
+ Đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
+ Quyền làm chủ của nhân dân tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực.
+ Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, trước hết là của
cơ quan hành chính nhà nước, đã có một bước điều chỉnh theo u cầu của q
trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang quản lý
nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bước
đầu đã có đổi mới theo hướng vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước.
- Giải quyết ngày càng tốt hơn quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ
chức chính trị – xã hội trong hệ thống chính trị:
+ Tình trạng Đảng bao biện, làm thay Nhà nước đã giảm dần ở nhiều cấp;
đã từng bước nâng cao vai trò chủ động và phát huy hiệu lực quản lý của Nhà
nước, tính chủ động, sáng tạo của các tổ hcức chính trị – xã hội.
+ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội ngày càng phát huy
được vai trị của mình trong việc tập hợp, đoàn kết, động viên các tầng lớp nhân
13


13


dân tham gia các phong trào cách mạng, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước và nâng cao tính tự quản của các cộng đồng dân cư.
+ Nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vai trò và nội dung của dân chủ trong
đời sống xã hội, xác lập và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; từng bước
làm rõ mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng;
giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền, yêu cầu và tác động của
phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế với việc phát huy dân chủ
ở nước ta.
+ Đã có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh quá trình dân chủ háo
xã hội. Việc ban hành và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã góp phần tích cực vào quá trình phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhân dân trong xã hội có bước phát triển
tồn diện hơn.
+ Quyền ứng cử, lựa chọn trong bầu cử, giám sát đại biểu được thực hiện
có hiệu quả hơn. Quyền của công dân tham gia vào các công việc của Nhà nước
và xã hội, xây dựng các quyết định chính trị quan trọng của Đảng và Nhà nước
được mở rộng và thực chất hơn. Trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân
từng bước được nâng lên.
Những bước trên đây trong đổi mới từng bộ phận của hệ thống chính trị và quan
hệ qua lại giữa các bộ phận đó đã góp phần quan trọng làm cho dân chủ trong xã
hội có bước phát triển tồn diện.
II. NHỮNG BẤT CẬP, TỒN TẠI VÀ HẠN CHẾ
Trong mối quan hệ Đảng – Nhà nước – nhân dân còn những bất cập, hạn
chế sau:
14

14



Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi
mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước; cịn có tình trạng bao biện, chồng chéo và
bng lỏng nên chưa phát huy tốt vai trị lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều
hành của bộ máy nhà nước. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và xã hội còn chậm, chưa phát huy đầy đủ vai trò lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ hai, chưa phân định thật rõ chức năng, quyền hạn giữa Đảng lãnh đạo
với Nhà nước quản lý; càng xuống dưới càng khó phân biệt chức năng lãnh đạo
và chức năng quản lý. Hệ thống tổ chức đảng – nhà nước – đồn thể cịn cồng
kềnh, chồng chéo, kém hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, cơ chế Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – nhân dân làm chủ đã
được xác định từ lâu, nhưng chưa được nghiên cứu để cụ thể hóa đầy đủ.
Thứ tư, bộ máy hành chính cịn nhiều tầng, nấc làm cho việc quản lý quá
trình phát triển kinh tế – xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả. Tình trạng
quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước
chưa được khắc phục; kỷ cương, phép nước bị xem thường, thậm chí cịn có
những hành vi lợi dụng dân chủ để phá hoại kỷ cương, phép nước, trái với lợi
ích của nhân dân.
Thứ năm, phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đồn thể nhân dân khơng ít nơi vẫn chưa thốt khỏi tình trạng hành
chính hóa, xơ cứng, chậm đổi mới; một số cán bộ đồn thể bị “cơng chức hóa”,
chưa thật gần với quần chúng. Một số hoạt động khơng đúng chức năng, nhiệm
vụ, tính chất của Mặt trận. Có nơi, có lúc, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi
phạm một cách nghiêm trọng. Trong giao dịch với các cấp chính quyền người
15

15



dân chưa thật sự là người được thụ hưởng các dịch vụ từ các cơ quan nhà
nước…

Phần thứ 3
Giải pháp thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ” và liên hệ thực tiễn tại địa phương
I. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
Để tiếp tục thể chế hoá, cụ thể hoá mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ”, trước hết cần tiếp tục làm sáng rõ cơ chế:
* Đảng lãnh đạo: khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong tồn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Đảng lãnh đạo bằng cương
lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác
tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành
động gương mẫu của đảng viên; đặc biệt, “phương thức lãnh đạo của Đảng phải
chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước” để cùng Nhà nước và toàn dân
thực hiện mục tiêu của Đảng.
Nhà nước quản lý: là đề cập đến chức năng quản lý xã hội của bộ máy
quyền lực – Nhà nước. Nội dung quản lý bao gồm: xây dựng kế hoạch, sắp xếp
16

16


tổ chức, chỉ đạo điều hành và kiểm soát tiến trình hoạt động…dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Để có thể thực hiện chức năng quản lý của mình, Nhà nước phải được
tổ chức thành các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm quyền lực
được phân cơng và phối hợp thực hiện có hiệu quả.
Nhân dân làm chủ: là đề cập đến quyền lực của nhân dân. Quyền lực
thuộc về nhân dân thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tầm quan

trọng đặc biệt của yếu tố này biểu hiện ở chỗ: quyền lực của Đảng và Nhà nước
đều từ quyền lực của nhân dân. Mọi mục tiêu, quan điểm, đường lối của Đảng,
mọi cơ chế, chính sách của Nhà nước đều phải xuất phát từ nhân dân và vì lợi
ích của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình khơng chỉ thơng
qua bộ máy nhà nước, mà họ cịn tự mình thực hiện quyền ấy. Đại hội XI của
Đảng khẳng định:“Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của
Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ
đại diện”. Những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước có quan hệ trực tiếp đến đời sống của quần chúng nhân dân đều là nội
dung mà người dân cần biết, cần bàn, cần thực hiện và cần kiểm tra, giám sát
việc thực hiện, đặc biệt, trong công tác xây dựng, thực thi Hiến pháp và pháp
luật.
Để nâng cao chất lượng của hệ thống lãnh đạo – quản lý – làm chủ cần
phải làm tốt những công việc sau:
Một là, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển đất nước. Do vậy, mọi đường lối, chủ trương của Đảng,
17

17


chính sách, pháp luật của Nhà nước phải bảo đảm “do nhân dân làm chủ”, đều
gắn với lợi ích chính đáng của nhân dân.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân.
Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng gọn nhẹ,
trong sạch, vững mạnh, có năng lực. Trước hết cần đổi mới tổ chức hoạt động
của Quốc hội, bảo đảm cho Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực và là cơ quan

đại biểu cao nhất của nhân dân. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Chính phủ và
các bộ, ngành theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân cơng, phân cấp, bảo
đảm năng lực quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết
với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng
nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện
pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân, cửa
quyền, hách dịch dân.
Tích cực phịng ngừa và kiên quyết đấu tranh phịng, chống tham nhũng,
lãng phí, thực hành tiết kiệm. Bảo đảm chi tiêu cơng hợp lý, tránh thất thốt.
Kiên quyết xử lý các vụ án tham nhũng làm cho nhân dân tin tưởng vào hệ
thống pháp luật và bộ máy nhà nước. Đặc biệt, phát huy vai trò của nhân dân
trong phát hiện, tố cáo và giám sát xử lý các vụ án tham nhũng.
Ba là, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới, nâng cao chất lượng
công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới.
Trước hết, đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực sự trong
sạch vững mạnh; nâng cao trình độ, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, năng lực cầm
18

18


quyền của Đảng, bảo đảm Đảng thực sự là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Đảng cần phải làm tốt công tác quản lý tổ chức đảng và đảng viên; mọi
đảng viên, bất kể giữ chức vụ, cương vị gì trong bộ máy của hệ thống chính trị
đều phải thực hiện nghiêm pháp luật, có đạo đức trong sáng, chí cơng, vơ tư, là
tấm gương sáng để nhân dân học tập và làm theo.
Tiếp tục thể chế hố, cụ thể hố vai trị lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và các tổ chức chính trị – xã hội. Đặc biệt, trong quan hệ giữa Đảng và

Nhà nước, cần tránh hai khuynh hướng: làm thay và khốn trắng.
Tăng cường cơng tác tun truyền, vận động, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc,
bảo vệ quyền, lợi ích của người dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Cần
tạo ra nhiều “kênh” để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình,
như: góp ý vào các quyết sách của Đảng, vào cơng tác cán bộ… Cùng với đó,
Đảng cần tổ chức nhiều đợt lấy ý kiến của nhân dân; qua đó, làm cho nhân dân
ta giác ngộ hơn nữa về chính trị, phát huy quyền làm chủ về chính trị của mình
đối với các vấn đề trọng đại của đất nước.

II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI ĐƠN VỊ
1. Vai trò lãnh đạo của Cấp ủy
Là một cán bộ công chức đang công tác tại cơ quan Thành ủy thành phố
Thanh Hóa, theo nhận thức của cá nhân, trong q trình cơng tác tơi thấy rõ vai
trị lãnh đạo của cấp ủy đối với nhiệm vụ chính trị của địa phương. Thực hiện
19

19


Nghị quyết Đại hội của Đảng bộ thành phố, Ban Thường vụ Thành ủy đã xây
dựng các kế hoạch chỉ đạo chính quyền, các tổ chức đảng cơ sở xây dựng
chương trình hành động để thực hiện. Hàng năm, Ban Chấp hành Đảng bộ thành
phố đều ban hành các nghị quyết trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng –
an ninh để lãnh đạo thực hiện. Bên cạnh đó cấp ủy thành phố đã xây dựng nhiều
chủ trương lớn để lãnh đạo hệ thống chính trị thực hiện.
Trong q trình thực hiện, cấp ủy ln có những biện pháp để theo dõi,
kiểm tra, đôn đốc thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Bên cạnh đó cấp
ủy đảng đã phát huy vai trị lãnh đạo của người đứng đầu mỗi tổ chức, trao
quyền cũng như trách nhiệm cho cá nhân trong thực hiện các nhiệm vụ. Cấp ủy

thành phố thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng khơng làm thay chính quyền, giải
quyết hài hịa các mối quan hệ trong thực hiện nhiệm vụ.
2. Vai trò quản lý của chính quyền
Căn cứ nhiệm vụ chính trị của địa phương, các cấp chính quyền đã cụ thể
hóa các mục tiêu, chỉ tiêu, xây dựng các kế hoạch, chương trình hành động để
triển khai thực hiện. Trong quá trình triển khai thực hiện, chính quyền từ thành
phố đã thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về pháp luật. Ủy ban nhân dân
từ thành phố đến phường, xã điều hành các cơ quan chức năng thực hiện các
nhiệm vụ theo hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động của chính quyền từ
thành phố đến cơ sở đều chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy từ thành phố đến
cơ sở trên mọi lĩnh vực. Vì vậy, chính quyền từ thành phố đến cơ sở vừa phải
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về pháp luật, vừa phải chịu sự lãnh đạo
của cấp ủy Đảng.
3. Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân

20

20


Đây là một nhiệm vụ quan trọng của cấp ủy, chính quyền thành
phố. Thực hiện Pháp lệnh số 34/PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, cấp ủy, chính quyền từ thành phố đến cơ sở đã thự hiện tốt các
nội dung cần công khai để nhân dân được biết, những nội dung dân bàn, dân
quyết định, những nội dung dân giám sát đều đươc thực hiện tốt. Thành phố hiện
có 37 phường, xã (trong đó có 20 phường và 17 xã) nhờ thực hiện tốt dân chủ ở
cơ sở trong cơng tác xã hội hóa xây dựng các cơng trình phúc lợi trên địa bàn
được thực hiện tốt. Đến nay thành phố đã có 419/419 phố, thơn có nhà văn hóa
để nhân dân sinh hoạt; 04 xã đạt chuẩn nơng thơn mới, các xã cịn lại đã hồn
thành trung bình 16/19 tiêu chí nơng thơn mới.

Việc phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân đã góp phần quan trọng
trong việc xây dựng và phát triển thành phố, nhờ đó tình hình an ninh chính trị
trên địa bàn thành phố luôn được ổn định, kinh tế phát triển, đời sống của nhân
dân ngày được nâng cao, tiếp tục thực hiện mục tiêu xây dựng thành phố là
“Đơn vị anh hùng trong thời kỳ đổi mới”.

KẾT LUẬN

21

21


Nhấn mạnh vai trò ba nhân tố Đảng, Nhà nước, Nhân dân và đặt Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trong một cơ chế tổng thể là một
sự sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và chế độ dân chủ nói
riêng. Tuy nhiên, để phát huy vai trò các nhân tố, cũng như để mục tiêu cao nhất
của cơ chế tổng thể đó ngày càng tốt hơn, có hiệu quả hơn thì cần nâng cao nhận
thức và cụ thể hóa cơ chế đó bằng những hình thức cụ thể, dễ thực hiện, đa
dạng, linh hoạt hơn.

22

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, XI, XII NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. PGS, TS Nguyễn Hữu Đổng: Phân biệt hoạt động lãnh đạo và cầm
quyền của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, Số
1/2012.
4. Gaston Courtois, Lãnh đạo và quản lý - một nghệ thuật, NXB LĐXH,
Hà Nội, 2002.
5. Một số bài viết trên internet.
6. Giáo trình Khoa học lãnh đạo quản lý.

Sign Up

23

23



×