Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận cao học, môn quan hệ quốc tế, vai trò địa chính trị của ấn độ trong khu vực châu á thái bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.55 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................23

MỞ ĐẦU

Cộng hoà Ấn Độ xuất hiện trên bản đồ thế giới vào ngày 15 tháng 8 năm
1947. Sự thiết lập nhà nước Ấn Độ là đỉnh cao của cuộc đấu tranh của những
người tại Nam Á để thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Anh. Ấn Độ có nền văn
minh sơng Ấn (Indus) phát triển rực rỡ cách đây 5 nghìn năm.Có lẽ hiếm thấy đất
nước nào có một vị thế địa lí đẹp như Ấn Độ - lưng dựa vào dãy Hy Mã Lạp Sơn
hùng vĩ nhất thế giới, mặt nhìn ra Ấn Độ Dương biển cả mênh mơng, lại cịn có 2
con sông lớn là Ấn Hà và Hằng Hà như hai dịng sữa tươi ni một bình ngun
bao la và cũng là cái nôi của nền văn minh nông nghiệp định cư vào thời cổ đại.



CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐẤT NƯỚC ẤN ĐỘ
1. Điều kiện tự nhiên

Cộng hòa Ấn Độ là một quốc gia ở khu vực Nam Á,có diện tích lớn thứ
bảy trên thế giới (3.287.590 km2). Địa lý Ấn Độ khá đa dạng, bao gồm nhiều miền
khí hậu khác biệt từ những dãy núi phủ tuyết cho đến các sa mạc, đồng bằng, rừng
mưa nhiệt đới, đồi, và cao nguyên. Ấn Độ bao gồm một phần lớn của tiểu lục địa Ấn
Độ nằm trên mảng kiến tạo Ấn Độ, phần phía Bắc của mảng Ấn-Úc. Ấn Độ có bờ
biển dài 7.516 km, phần lớn Ấn Độ nằm ở bán đảo Nam Á vươn ra Ấn Độ Dương.
Ấn Độ giáp Biển Ả Rập về phía Tây Nam và giáp Vịnh Bengal về phía Đơng và
Đơng Nam. Ấn Độ có diện tích 3.287.263 km², xếp thứ 7 trên thế giới về diện tích,
trong đó phần đất liền chiếm 90,44%, diện tích mặt nước chiếm 9,56%. Ấn Độ có
biên giới trên đất liền giáp với Bangladesh (4.053 km), Bhutan (605 km), Myanma
(1.463 km), Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (3.380 km), Nepal (1690 km) và


Pakistan (2.912 km). Đỉnh núi cao nhất có độ cao 8.598 m, điểm thấp nhất là
Kuttanad với độ cao -2,2 m. Các sông dài nhất là sông Brahmaputra, sông Hằng. Hồ
lớn nhất là hồ Chilka.
Vùng đồng bằng Ấn-Hằng phì nhiêu chiếm phần lớn ở phía Bắc, miền
Trung và Đơng Ấn Độ. Về phía Tây của quốc gia này là sa mạc Thar, một hoang
mạc hỗn hợp đá và cát. Biên giới phía Đơng và Đơng Bắc của quốc gia này là dãy
Himalayas. Đỉnh cao nhất ở Ấn Độ là lãnh thổ tranh chấp với Pakistan; theo tuyên
bố của Ấn Độ, đỉnh cao nhất (nằm ở khu vực Kashmir là K2, với độ cao 8.611 m.
Đỉnh cao nhất ở trong lãnh thổ không tranh chấp của Ấn Độ là Kangchenjunga, với
độ cao 8.598 m. Khí hậu Ấn Độ đa dạng từ khí hậu xích đạo ở cực Nam đến Alpine
ở khu vực đỉnh Himalayas.Khí hậu chia làm 3 mùa: mùa hè từ tháng 3 – tháng 6,
mùa mưa từ tháng 7 – tháng 10 và mùa đông từ tháng 11 – tháng 2 năm sau.
Lòng đất của đất nước này là một kho báu thực sự. Ấn Độ thuộc hàng thủ lĩnh
thế giới về khai thác quặng mangan, mica, quặng sắt và bơ xít, đồng, kẽm. Ngồi


ra ở đây còn những vỉa than đá, dầu mỏ, vàng phong phú nhất. Chính những điều
này là cở sở cho sự phát triển thịnh vượng của các ngành công nghiệp khai
khoáng,luyện kim.
Ấn Độ là một vùng đất của nền văn hóa đa dạng, nhiều phong cảnh, tơn giáo và
địa điểm du lịch phong phú. Đất nước này có nhiều thắng cảnh địa điểm khác nhau
từ Kashmir đến Kanyakumari, từ Gujarat đến Bengal.Nói đến Ấn Độ,sẽ là vơ cùng
thiếu sót nếu không nhắc đến cung điện Taj Mahal lộng lẫy hoa lệ,ẩn chứa trong
mình nó một câu chuyện về đức Vua chung thủy

Taj Mahal,biểu tượng của Ấn Độ
;ngôi làng nhỏ bé Khajuraho chỉ vỏn vẹn có 3000 dân nhưng nổi bật bởi những
ngơi đền đạt đến trình độ thượng thừa của nghệ thuật điêu khắc khơng khỏi khiến
người nhìn trầm trồ thán phục


Kiến trúc điêu khắc độc đáo ở Khajuraho
Hay sự độc đáo từ ý tưởng đến cấu trúc của những ngơi đền trong hang ở Ajanta
Ellora. Mỗi nơi có những nét riêng của mình và hợp lại tất cả chúng tạo thành vẻ
đẹp quyến rũ mê hồn của Ấn Độ


Cấu trúc đền trong hang độc đáo
.Nơi đây hội tụ cả cái mới và cái cũ,hiện đại và cổ kính,vừa sôi động mà trầm
mặc.Rõ ràng đây là một lợi thế rất lớn của Ấn Độ để phát triển ngành công nghiệp
khơng khói này.Và thực tế là chính quyền Ấn Độ đã có nhiều chính sách khuyến
khích phát triển du lịch,dịch vụ ,bảo tồn các di tích văn hóa thu hút khách tham
quan từ mọi nơi trên thế giới.Tuy nhiên những tồn tại trong xã hội đã cản trở sự
phát triên của nó,nạn hiếp dâm hồnh hành khơng chỉ là vấn nạn vơ cùng nghiêm
trọng,nó cản đẩy lùi sự phát triển xã hội và cũng gây khơng ít tiếng xấu cho ngành
du lịch trong nước.
2. Kinh tế - xã hội

a. Dân cư – xã hội
Ấn Độ là quốc gia có dân số đông hàng thứ hai thế giới với 1.120,26 triệu người
và một mật độ dân số bình quân 328,5 người/km2 (tháng 7/2005). Khoảng 73%
dân số Ấn Độ sống trong vùng nông thôn. Trái với Trung Quốc đang áp dụng
những biện pháp chặt chẽ nhất để hạn chế sự gia tăng dân số, ở Ấn Độ, đà gia tăng
dân số vẫn diễn biến nhanh. Chỉ trong 10 năm, từ năm 1981 đến năm 1991, dân số
đã tăng gần 24%. Tỉ lệ tăng dân số là 1,4% (2005).
Tính đa dạng về phương diện sắc tộc và văn hóa của Ấn Độ thể hiện ở sự hiện
diện trên tiểu châu lục này nhiều tộc người khác nhau đến từ những vùng đất nay là
Pakistan, Bangladesh, Nepal, Bhutan, Sri Lanka..Nhóm người Ind-Aryan chiếm đa
số (72%), kế đến là nhóm Dravidian (25%), nhóm Mogoloid và các nhóm sắc tộc



khác chiếm 3% cịn lại. Ấn Độ có rất nhiều ngơn ngữ khác nhau, tựu trung chia
thành hai nhóm ngơn ngữ chính, đó là nhóm Indo-Aryan được sử dụng phần lớn ở
phía Bắc và nhóm Dravidian, hầu hết ở miền Nam. Ngồi ra, cịn có nhóm ngơn
ngữ Trung Quốc-Tây Tạng của những người sống dọc theo dãy Himalaya. Trong
nhóm ngơn ngữ Hindu-Aryan, phổ biến nhất hiện nay là tiếng Hindi và tiếngUrdu.
Tiếng Hindi sử dụng chủ yếu trong tộc người Hinhu, còn tiếng Urdu phần lớn do
người theo Hồi giáo sử dụng. Trong 4 ngơn ngữ chính của nhóm ngơn ngữ
Dravidian, tiếng Tamil là ngôn ngữ cổ xưa nhất, với một lịch sử văn học bắt đầu từ
thế kỷ thứ nhất.
Tơn giáo giữ một vai trị rất quan trọng ở Ấn Độ, chủ yếu là đạo Hindu và đạo
Phật.

Hindu là quốc giáo của Ấn Độ
Đạo Hindu thờ thần Khỉ


Ấn Độ là cái nôi của đạo Phật
b. Đời sống kinh tế
Kể từ ngày giành lại nền độc lập đến nay, Ấn Độ trải qua một quá trình phát
triển kinh tế chậm chạp, đơi lúc là những cơn thối trào kinh tế do khí hậu khắc
nghiệt và những rối loạn về chính trị gây nên. Các nhà hoạch định đã đưa Ấn Độ từ
một quốc gia nông nghiệp tiến dần sang một nền kinh tế dựa vào thương mại và
công nghiệp. Dưới chế độ thực dân Anh, nước này đã xuất khẩu các sản phẩm
nông nghiệp như bông vải, á phiện, trà..để đổi lấy sản phẩm chế biến của châu Âu.
Từ cuối thế kỷ 19, một khu vực công nghiệp hiện đại, một hạ tầng cơ sở đường sắt
và công trình thủy lợi đã được xây dựng bằng vốn đầu tư của Anh và Ấn. Tuy
nhiên trong 30 năm cuối cùng của chế độ thực dân Anh, nền kinh tế Ấn Độ vẫn trì
trệ, hậu quả là khi phục hồi nền độc lập vào năm 1947, đất nước này rơi vào tình
trạng nghèo đói với khu vực cơng nghiệp quan trọng duy nhất được tiêu biểu bằng
những chiếc máy dệt cổ lổ. Chính sách kinh tế thời tự chủ nhấn mạnh đến sự tự túc

nhằm củng cố và phát triển nền công nghiệp nội địa và hạn chế sự lệ thuộc vào
ngoại thương. Những nỗ lực này đẩy nền kinh tế phát triển được vào thập niên
1950, nhưng thiếu những hiệu quả tích cực trong hai thập niên sau đó.


Cuộc cách mạng xanh được tiến hành vào đầu năm 1963 băng việc cơ khí hóa
ngành nơng nghiệp,đưa vào sản xuất các giống lương thực mới,áp dụng khoa học
công nghệ vafoquas trình sản xuất… đã thu được những kết quả thần kỳ.Từ một
nước thiếu đói quanh năm,sản lượng lương thực không quá nổi 20 triệu tấn,đầu
thập iên 1970, Ấn Độ đã hoàn tất mục tiêu tự túc về lương thực, mặc dù số thực
phẩm không được phân phối đồng đều trong dân và thường thiếu hụt khi sắp đến
mùa thu hoạch. Đến cuối thập niên 1970, chính phủ bắt đầu giảm bớt sự kiểm soát
đối với nền kinh tế; tuy nhiên đến năm 1991, nhà nuớc vẫn còn điều tiết hay tự
điều hành nhiều ngành cơng nghiệp, trong đó có khoáng sản và mỏ đá, ngân hàng
và bảo hiểm; vận chuyển và lưu thông; sản xuất và xây dựng. Trong năm này, một
cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra buộc chính phủ phải đề ra những biện pháp cải
cách kinh tế quan trọng. Sau chiến tranh vùng vịnh (1990-1991), giá dầu hỏa gia
tăng, Ấn Độ đứng trước tình trạng mất thăng bằng của cán cân chi phó, phải trơng
nhờ vào tiền vay của những tổ chức kinh tế quốc tế và chấp nhận những cải tổ sâu
rộng nhằm tự do hóa nền kinh tế của mình. Những cải tổ này nhắm vào hai mục
tiêu chính là điều chỉnh chính sách đầu tư, trong đó có đầu tư nước ngồi, đồng
thời loại bỏ các hệ thống thuế khóa và hạn ngạch là nguyên nhân của những trì trệ
trong thương mại. Năm 1993, Ấn Độ bắt đầu chấp nhận một hệ thống ngân hàng tư
nhân do người Ấn làm chủ song song với một số ít ngân hàng nước ngồi.
Những cải cách kinh tế đem lại hiệu quả rõ rệt. Những năm 1996-1997, đầu tư
nước ngoài lên gần 6 tỉ USD, tăng rất nhanh so với con số 165 triệu USD trong hai
năm 1990-1991. Cũng trong thời kỳ này, lượng hàng xuất nhập khẩu tăng lên, đời
sống kinh tế khá hơn, thành phần trung lưu cũng nhờ thế mà đông hơn, chiếm
khoảng 20 đến 25% tổng dân số vào giữa thập niên 1990. Tỉ lệ tăng trưởng kinh tế
của Ấn Độ trong hơn một thập kỷ khoảng trên 6%/năm. Năm 2004, GDP của Ấn

Độ tăng 6,2%, tỉ lệ lạm phát ở mức 4,2%. Hiện nay, Ấn Độ được xếp thứ 6 thế giới
về sức hấp dẫn FDI (sau Mỹ, Trung Quốc, Anh, Braxin và Mêhicô); xếp thứ 25 về
tổng FDI. Thu nhập đầu người trên 500 USD/năm. Chính phủ mới ra mục tiêu tăng


trưởng trung bình 7-8%. Mục tiêu của Ấn Độ là trở thành một nước phát triển vào
năm 2020.
c. Khoa học cơng nghệ
Để hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2020,chính phủ quốc
gia Nam Á này đang đẩy mạnh hợp tác phát triên khoa học và cơng nghệ như hai
bệ phóng làm động lực mạnh mẽ cho nền kinh tế phát triển. Ấn Độ đã tăng ngân
sách cho nghiên cứu khoa học và công nghệ hàng năm lên 16% với số vốn Nhà
Nước bỏ ra lên tới hơn 85%.Cụ thể Ấn Độ tập chung vào 5 lĩnh vực nghiên cứu
chủ yếu sau:
• Cơng nghệ thơng tin
Cơng nghệ thơng tin là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất của Ấn Độ,trung bình
hàng năm là 25-30%. Các lĩnh vực Ấn Độ tập trung làm tiền đề phát triển công
nghệ thông tin là tin học sinh học, vi điện tử, công nghệ nano và quang tử. Nguồn
lao động cơng nghệ thơng tin dồi dào, giá rẻ, trình độ cao, thành thạo tiếng Anh đã
thu hút giới đầu tư nước ngồi. Và đã có hàng loạt các tập đồn CNTT lớn trên thế
giới đặt trụ sở nghiên cứu ở quốc gia này.

cơng nghệ thơng tin được chú trọng
• Cơng nghệ sinh học


Với tốc độ tăng trưởng trung bình 30% trong 4 năm qua,tổng doanh thu trong
ngành là 5 tỉ $ và cung cấp 1 triệu việc làm,Ấn Độ đang nổi lên như một người
chơi quan trọng trên thị trường CNSH toàn cầu.


• Nghiên cứu khơng gian
Tổ chức nghiên cứu khơng gian Ấn Độ (ISRO) đang phát triển sứ mệnh không
gian hành tinh đầu tiên, tàu quỹ đạo mặt trăng Chandrayaan-1, sẽ được phóng tới
Mặt trăng vào đầu năm 2008. Theo kế hoạch, quốc gia này dự tính sẽ phóng tàu
khơng gian thám hiểm Mặt trăng thứ hai Chandrayaan-2 vào năm 2011, một sứ
mệnh thám hiểm tiểu hành tinh và sao chổi vào năm 2015 và một sứ mệnh ngoạn
mục khác bay tới sao Hỏa vào năm 2019. Ấn Độ hiện đang chạy đua với Trung
Quốc về lĩnh vực này. Quốc gia này đang có ý định phát triển thị trường dữ liệu
bán cho các nước. Với sự đầu tư vào phát triển công nghệ vũ trụ, Ấn Độ là quốc
gia thứ ba trên thế giới phát triển vệ tinh cảm biến tầm xa riêng của mình. Ngày
nay, các tiện ích của công nghệ vũ trụ của Ấn Độ đã được ứng dụng rộng rãi trong
nghiên cứu khoa học, thông tin liên lạc, giáo dục, y tế, môi trường, quân sự, quản
lý tài nguyên, dự báo thời tiết... và trở thành công cụ chủ đạo đưa quốc gia Nam Á
này phát triển và hội nhập.


• Năng lượng hạt nhân
Là quốc gia châu Á đầu tiên có điện nguyên tử và trở thành thành viên thứ sáu
trong Câu lạc bộ hạt nhân thế giới, Ấn Độ đang vững tin thực hiện tầm nhìn chiến
lược của mình. Mục tiêu cốt yếu của chương trình năng lượng hạt nhân của quốc
gia này là phát triển và sử dụng nguồn năng lượng này vì mục đích hịa bình. Ấn
Độ đã thực hiện tốt chương trình chiến lược sản xuất điện hạt nhân và coi nguồn
năng lượng này đóng một vai trò chủ đạo trong vấn đề an ninh năng lượng lâu dài.


Hạt nhân ứng dụng cho quân sự và dân sự
I.

Địa chính trị - Địa chiến lược và vai trị của nó trong việc hoạch định
chính sách phát triển của Ấn Độ


Địa-chính trị (Geo-politics) là thuật ngữ chỉ nghệ thuật, cách thức sử dụng quyền
lực hay ảnh hưởng chính trị trên một phạm vi lãnh thổ nhất định.Hay địa chính trị
là mối quan hệ nhân quả giữa quyền lực chính trị và khơng gian địa lý mà ở đó
khơng gian địa lí sẽ ảnh hưởng đến quyền lực chính trị của một quốc gia. Tuy
nhiên theo cá nhân tơi thì quyền lực chính trị cũng có thể tác động ngược trở lại
khơng gian địa lí. Cụ thể,khi một đất nước giáp ranh với nhiều nước thì cần phải
chú ý đến an ninh biên giới quốc gia,đảm bảo cho một sự hòa bình ổn định ở khu
vực này; tuy nhiên theo ý kiến chủ quan của óc nhân thì một khi quốc gia nào đã
có quyền lực chính trính trị thì có thể sử dụng nó để mở rộng biên giới quốc gia
hay tăng tính phụ thuộc của các nước khác vào quốc gia mình.Là một mơ nkhoa
học trẻ ,mới chỉ ra đời cách đây hơn 100 năm (trước đó hai bộ mơn địa lý và chính
trị đã tồn tại độc lập với nhau ). Bộ mơn Địa - Chính trị là một mơn khoa học liên
ngành,nó tập trung nghiên cứu các sự kiện chính trị, diễn biến chính trị theo các
khu vực từ không gian hẹp của một vùng,một địa phương,một quốc gia,một khu
vực đến châu lục và trên phạm vi tồn cầu.Mặc dù các diễn biến chính trị trong các


khu vực này có ảnh hưởng đến nhau nhưng trong q tình phân tích,các diễn biến
chính trị sẽ được phân tích,giải thích dưới góc nhìn địa lý.Ngày nay,khi mà các yếu
tố chính trị thay đổi một cách chóng mặt thì các yếu tố địa lý lại hầu như không đổi
( có tính chất ổn định )
Trong mơn học Địa – Chính trị, chúng ta nghiên cứu các vấn đề chính trị cụ thể
ở trong khu vực địal ý cụ thể.Cho nên có thể nói Địa –Chính trị là mơn khoa học
có vai trị cụ thể hóa các quan hệ chính trị quốc tế ở từng khu vực cụ thể.Từ đó
giúp ta hiểu hơn về một thế giới đang diễn biến nhanh với những yếu tố phức tạp
khó đốn trước.
Khá gần gũi với khái niệm Địa – chính trị là khái niệm Địa chiến lược.Địa chiến
lược dùng để chỉ việc nghiên cứu các giá trị chiến lược của các nhân tố địa lý trong
chính sách phát triển của một quốc gia,và có thể coi nó là một bộ phận thực hành

quan trọng của Địa – Chính trị.Nó được nghiên cứu và áp dụng để cụ thể hóa các
chính sách đối ngoại của một quốc gia.Hầu hết các định nghĩa trong Địa chiến lược
đều có ý nhấn mạnh đến việc liên kết những tính tốn chiến lược với các nhân tố
địa chính trị.
Trên cơ sở đó chúng ta sẽ tiến hành nghiên cứu trên đất nước Ấn Độ để làm rõ
những luận điểm trên
1. Những cơ sở Địa chính trị truyền thống của Ấn Độ
Ấn Độ là một quốc gia có vị trí địa lí rất đặc biệt. Nhìn vào bản đồ ta thấy Ấn Độ
nằm trên đoạn cuối của con đường trung chuyển tuyến lục địa Á-Âu.Với vị trí này
Ấn Độ có thể được coi là một chục trung chuyển giữa hai lục địa nói riêng và giữa
phương Tây và phương Đơng nói chung.


Bản đồ chính trị Ấn Độ
Phần mũi đất nhơ ra Ấn Độ Dương trơng giống như một bệ phóng hướng ra đại
dương và hai hướng Đông Tây,nhưng đồng thời khi cần nó cũng là tấm lá chắn cho
cả vùng Nam và Trung Á.Vì thế tring lịch sử nó đã trở thành mục tiêu chính cho
nhiều Đế Quốc : đế quốc Makêdonia-Hy Lạp của Alexander Đại đế thế kỷ 4 trước
Công nguyên,các đế quốc Hồi giáo ở Trung Á – trong đó có Đế quốc Hồi giáo
Sultan,đặc biệt là Đế quốc Hồi giáo Mogul – trị vì Ấn Độ từ thế kỷ 11 đến thế kỷ
18;và cuối cùng là Đế quốc Anh thế kỷ 19-20.Do bị mái nhà Himalaya che chắn ở
phía Bắc nên những cuộc chinh phục của các Đế quốc trên đều đi theo con đường
khác vào Ấn Độ.
Nhìn vào bản đồ ta cũng có thể thấy Ấn Độ là một đất nước có địa hình mở ra đại
dương,ngoại trừ phần đất kẹt phía sau Bangladesh thì Ấn Độ có tới 2/3 chiều dài


tiếp giáp với biển.Ở phía Bắc, Ấn Độ có một loạt dãy núi,trong đó có dãy Himalaya
cao nhất thế giới,áng ngữ như một mái nhà che chắn.Với bối cảnh như vậy,người ta
còn xem xét phải nghiên cứu Ấn Độ trong bối cảnh địa lí như một tiểu lục địa Ấn

Độ,tức là một tiểu lục địa có thể tự cung tự cấp,khơng phụ thuộc vào bên ngồi.Tiểu
lục địa này bao gồm các nước : Ấn Độ, Pakistan,Bangladesh và Butan.Xét về mặt vị
trí địa lí,với phía Tây-Bắc,Bắc và Đơng-Bắc được che chắn bởi núi non hiểm
trở,phía Đơng-Nam,Nam và Tây-Nam tiếp giáp với đại dương bao là,khu vực tiểu
lục địa Ấn Độ này được người ta ví như một hịn đảo.
Về mặt địa lí tự nhiên,George Friedman đã chia tiểu lục địa Ấn Độ thành bốn khu
vực sau :
o Vòng cung núi non trải dài từ bờ biển Arabia đến vịnh Bengal.
o Đồng bằng Bắc Ấn,trải rộng từ miền Đông Nam Delhi qua vùng châu thổ
sông Hằng đến biên giới Myanmar và từ chân núi Hymalaya đến chân
vùng đồi phía Nam.
o Khu vực bán đảo Ấn Độ,chạy nhô ra Ấn Độ Dương ở phía Nam,với địa
hình đất đai đa dạng nhưng chủ yếu là đồi núi.
o Khu vực sa mạc phía Tây,nằm giữa đồng bằng Bắc Ấn và vùng châu thổ
sông Indus của Pakistan.
Người ta cũng thường so sánh tiểu lục địa Ấn Độ với phần châu Âu,khơng kể nước
Nga,bởi vì cả hai đều có thể được coi là bán đảo nhơ ra khỏi lục địa Á-Âu.Tuy nhiên
diễn biến chính trị ở hai kkhu vực lại hoàn toàn khác nhau.
Ở châu Âu,nhiều quốc gia được hình thành nương theo các đường biên giới dựa trên
các dãy núi tự nhiên : dãy Carpathes, dãy Alpes và dãy Pyrenee ; cũng như dựa trên
các con sông và những rừng cây rậm rạp.Điều này làm cho các thực thể châu Âu
được xác định rõ ràng nhưng cũng đồng thời tạo ra cho nó một cách thường xuyên
các xung đột.
Trong khi đó ở tiểu lục địa Ấn Độ lại khơng có các ranh giới cố định như vậy.Có
lẽ cái ranh giới tự nhiên làm thành pháo đài kiên cố nhất là hoang mạc Thar nằm


giữa Ấn Độ và Pakistan.Ở tiểu lục địa này sự phân chia nội bộ được xác định bởi hệ
thống sông ngịi: sơng Hằng,sơng Brahmaputra,sơng Indus,sơng Narmada…Các
thành phố lớn của tiểu lục địa này đều nằm tập tring xung quanh lưu vực một trong

các con sơng trên.Chính vì vậy mà theo George Friedman thì chủ nghĩa dân tộc ở
Ấn Độ thể hiện rất mạnh mẽ,chống lại tư tưởng ly khai.Ở đây có sự cân bằng giữa
chính quyền Trung ương vững mạnh với quyền tự chủ của các khu vực
Điều cố định thường xuyên ở tiểu lục địa này là những dãy núi bao quanh và các
hoang mạc phía bên kia.Chúng ta có thể thấy rõ điều này nhất khi xem xét sự phân
bố dân cư ở các vùng bao quanh.Khu vực tiểu lục địa này có vị trí biệt lập với tư
cách là một trung tâm dân cư,được bao bọc bởi các khu vực tương đối vắng
người.Các khu vực này không chỉ vắng người mà chúng cịn khơng có đủ nguồn lực
để chu cấp cho một nền văn minh có quy mơ lớn và ít chu chuyển như Ấn Độ.Vì thế
nước Ấn Độ thuần túy hiếm có Ham muốn phiêu lưu vượt ra khỏi tiểu lục địa
này.Cùng lắm thì cũng chỉ tranh chấp biên giới với Pakistan và Bangladesh.Trên
thực tế Ấn Độ vẫn đang tranh chấp với Pakistan ở khu vực Jamu và Kashmir ở chóp
đỉnh phía bắc của đất nước.Hiện tại mỗi nước đang kiểm soát một nửa ở đây nhưng
cả hai đêì địi chủ quyền tồn bộ khu vực này.
Về điều đó chúng ta thấy Ấn Độ có phần giống Trung Quốc.Với vị trí cách biệt và
khả năng tự túc,cộng với dân số đông đúc vào loại hàng đầu trên thế giới làm cho cả
hai đều khó di chuyển.Hai nước này trong lịch sử đều khơng có khả năng mở rộng
lãnh thổ về mặt địa chính trị như các nước Đế quốc lớn khác,và cả hai cũng không
từng là kẻ thù trinh phục lẫn nhau.Ấn Độ và Trung Quốc chủ yếu muốn duy trì sự
ổn định trong nước để đảm bảo cho sự thống nhất của cộng đồng dân cư đơng
đúc.Đặc biệt thì trong trường hợp của Trung Quốc thì mới chỉ dừng lại ở việc tạo ra
các vùng đệm ở khu vực Trung Nguyên cho người Hán,chứ chưa có các chiến dịch
trinh phục mang tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Theo G.Friedman,để trở thành một quốc gia độc lập,ổn định và vững chắc thì Ấn Độ
cần phải đáp ứng được những yêu cầu sau đây :


• Thực hiện được quyền bá chủ tại khu vực sơng Hằng.Những đồng bằng bao la
ở đây thuộc loại phì nhiêu nhất trên thế giới và có khả năng đảm bảo cuộc
sống cho một lượng lớn dân cư.Ấn Độ cần phải trở thành một cường quốc

hàng đầu tại khu vực trung tâm này
• Mở rộng quyền kiểm sốt khu vự trung tâm cho đến khi chạm đến mọi hàng
rào tự nhiên.Ngồi rừng cây,đồi núi,sơng ngịi,ít có cái gì khác trong tiểu khu
vực này có thể hạn chế được địi hỏi của Ấn Độ.
• Vượt qua mảnh đất nhỏ ngăn cách lưu vực sông Hằng với sông Indus và áp
đảo khu vực Indus(pakistan).Đồng bằng sông Indus là bất động sản khác duy
nhất trong tầm với của Ấn Độ và cái hành lang dẫn đến nó là con đường xâm
nhập trên đất liền dành cho Ấn Độ.
• Sau khi đặt được tồn bộ tiểu khu vực này dưới tầm kiểm soát (hoặc ít nhất là
ảnh hưởng ) của một quyền lực trung ương,Ấn Độ phải xây dựng hải quân.Do
vị trí cách biệt của tiểu lục địa Ấn Độ,bất cứ một sự bành trướng nào của Ấn
Độ về phía Ấn Độ Dương đều phụ thuộc vào hải quân.Mặt khác một lực
lượng hải quân hùng mạnh sẽ đóng vai trị vật cản đối với bất cứ thế lực bên
ngoài nào muốn thâm nhập vào bên trong tiểu lục địa này từ phía biển.
Những yêu cầu nói trên sẽ định hình thái độ ứng xử của bất cứ chính quyền nào của
Ấn Độ ,chúng ta sẽ xác định Ấn Độ với tư cách là một quốc gia – một quốc gia được
định hình bởi điều kiện địa lí độc đáo của nó.Và đó cũng là ý nghĩa của Cộng hòa Ấn
Độ.
2. Ấn Độ và những mối quan hệ chính trị hiện đại
Giai đoạn hiện nay của Ấn Độ được tính từ khi đất nước giành lại được độc lập từ
tay Đế quốc Anh năm 1947.Để cho thấy tầm quan trọng của Ấn Độ trong hệ thống
thuộc địa của Anh,người ta cũng cho rằng việc để mất Ấn Độ cuối cùng cũng đã dẫn Đế
quốc Anh đi đến chỗ suy vong.Người ta đánh giá rằng trong một thời gian dài,Ấn Độ đã
đóng vai trị là vị trí trung tâm trong tồn bộ hệ thống thuộc địa của Anh.Các thuộc địa
của Anh từ kênh đạo Suez đến Gibraltar và Singapore đều có nhiệm vụ duy trì con


đường tiếp tế cho Ấn Độ.Nhiều thuộc địa và xứ bảo hộ của Anh có được từ TK 19 đã
được giao nhiệm vụ cung cấp trạm tiếp than cho những con tàu đi đến Ấn Độ và từ Ấn
Độ đi những nơi khác.Nói tóm lại,cơ cấu của Anh đã được xây dựng xung quanh Ấn

Độ.Chính Lê Nin cũng có lần từng cho rằng Ấn Độ là một kho tiếp nhiên liệu của thế
giới,điều này có thể là một tuyên bố phóng đại nhưng để cho thấy tầm quan trọng của
nó với Anh thì nó khơng hề phóng đại một chút nào.
Tuy nhiên ở đây chúng ta cần nhìn nhận từ hai phía.Khơng phải chỉ việc nước Anh
để mất Ấn Độ đã dẫn đến sự suy vong mà chính sự suy yếu của Đế Quốc Anh đã dẫn
đến việc mất Ấn Độ.Chính cơng cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Ấn Độ cộng
với cái giá phải trả cho việc kiểm soát thuộc địa ngày càng lớn hơn so với lợi ích mang
lại cho quốc gia mà thuộc địa này mang lại cho nước Anh,đã khiến nước Anh đi đến chỗ
phải công nhận nền độc lập của Ấn Độ trong khn khổ khối Thịnh Vượng chung.Điều
đó có nghĩa là khi địa kinh tế suy giảm thì địa chính trị cũng suy giảm theo.
Về mặt quan hệ địa chính trị nội bộ,khi Ấn Độ giành được độc lập thì hai cộng đồng
Hồi giáo ở miền Tây và miền Đông nước này cũng ly khai khỏi Ấn Độ,để từ đó thành
lập nên hai quốc gia độc lập : Pakistan ở phía Tây và Bangladesh ở phía Đơng.Pakistan
chiếm chọn cùng châu thổ sơng Indus cịn Bangladesh thì chiếm phần lưu vực sơng
Hằng.Việc này đã làm cho ba nước lâm vào cảnh chanh chấp,đực biệt là Ấn Độ và
Pakistan,mà cho đến nay hai nước này vẫn chưa giải quyết xong vấn đề Kashmir.Đây là
vấn đề vô cùng nan giải của cả hai nước,đặc biệt là với Ấn Độ,nó vừa là một vấn đề
chính trị nội bộ,vừa là vấn đề chính trị khu vực.Có lẽ đây là vấn đề vướng mắc nhất của
Ấn Độ và là vấn đề chi phối nhiều nhất đến các mối quan hệ quốc tế của Ấn Độ.
a. Quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc
Ấn Độ có chung hai đoạn biên giới với Trung Quốc ở đỉnh phía Bắc và ở đỉnh cuối
phía Đơng Bắc.Cả hai dãy núi này đều nằm trên dãy núi Himalaya cao ngất.Với việc hai
nước nằm ở trên hai bức tường thành thiên nhiên hiểm trở này,người ta có thể coi hai
nước như hai thuộc thể khác nhau,khó có sự xung đột hoặc tranh chấp đất đai.Cho nên
trong lịch sử Ấn Độ,Trung Quốc không phải là mối nguy hiểm của nước này.


Thế nhưng giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã xảy ra chiến tranh biên giới.Đó là cuộc
xung đột khơng có hồi kết xảy ra vào năm 1962 ở hai khu vực biên giới nói trên.Hiện
tại,Ấn Độ vẫn đang địi chủ quyền đối với vùng đất ở phía Bắc giáp với bang Kashmir

do Trung Quốc đang kiểm soát.Nhưng cuộc xung đột này không phải là cuộc đụng độ
của hai đế quốc,mà là sự chanh chấp đất đai của hai nước láng giềng.Cũng chính vì
thế,mặc dù chưa có lý do nào để Ấn Độ phải lo ngại về một cuộc chiến tranh tổng lực
giữa hai nước,nhưng họ vẫn coi Trung Quốc là một đối thủ cần phải cảnh giác.
Thậm chí ngày nay,khi Trung Quốc đang có tham vọng mở rộng lợi ích ra tồn thế
giới thì nhiều học giả,sỹ quan qn đội và quan chức Ấn Độ cho rằng Trung Quốc là
vấn đề an ninh số một của Ấn Độ.Chính vì thế mà một học giả Ấn Độ cho rằng,việc hải
quân của họ năm 2002 đã có lần thâm nhập đến tận khu vực Biển Nam Trung Hoa (tức
là biển đông của Việt Nam ) “là một điều tốt nếu Trung Quốc cảm thấy bị đe dọa bởi
hành động này của chúng tơi.Chúng tơi có ý định gửi đi một thơng điệp và họ đã nhận
được thông điệp này của chúng tôi ”.Có thể nói là Ấn Độ đang rất muốn lìm chân Trung
Quốc ở bên kia Eo biển Malacca.
b. Quan hệ giữa Ấn Độ với nước Nga, Mỹ, Pakistan
Theo quan điểm của G.Friedman,sau khi giành được độc lập từ tay Đế quốc Anh,thì
mối quan hệ chiến lược nhất của Ấn Độ là mối quan hệ vơi Liên Xơ,bởi vì giữa hai
nước có một sự gần gũi nhất định về hệ tư tưởng.Tuy nhiên lợi ích quốc gia cơ bản nhất
của Ấn Độ không phải là chủ nghĩa Mác,mà việc tạo ra một nhà nước có khả năng
chống lại một thứ chủ nghĩa đế quốc mới.Khi đó đang là thời kỳ chiến tranh lạnh,Liên
Xô và Mỹ đang tham gia vào một cuộc cạnh tranh tổng lực toàn cầu,và trong cuộc cạnh
tranh của hai siêu cường ấy,Ấn Độ trở thành một chiến lợi phẩm rất đáng giá.Để tránh
nguy cơ rơi vào tình trạng bị thống trị một lần nữa,Ấn Độ buộc phải trọn một trong hai
siêu cường làm đối tác chiến lược cho mình để kiềm chế đối thủ kia.Và sau khi cân nhắc
các điều kiện địa chính trị,Ấn Độ quyết định chọn Liên Xơ.Đó là vì lúc bấy giờ Liên Xơ
khơng có đường bộ dẫn đến Ấn Độ,cũng khơng có lực lượng hải quân đủ mạnh để có
khả năng vươn tới nước này.Trong khi ấy Hoa Kỳ lại có một lực lượng hải quân mạnh


đủ vươn tới Ấn Độ và họ có đủ lý do để tin rằng Hoa Kỳ đang rất muốn thay thế Anh
với tư cách là cường quốc biển số một tồn cầu.Đó là một diễn biến có thể đặt Ấn Độ
vào tầm ngắm của Washington.Ấn Độ nhìn thấy Hoa Kỳ có đủ đặc điểm của đế quốc

Anh.Mặt khác,Ấn Độ thấy Hoa Kỳ đang muốn thúc đẩy cho sự tan rã của các đế quốc
châu Âu để tự mình lấp đầy chỗ trống cũ của chúng.Trong khi đó Ấn Độ khơng muốn
Hoa Kỳ thay chân đế quốc Anh trên đất nước mình.Dù thế nào thì khả năng đó của Hoa
Kỳ cũng tỏ ra rất hiện thực.Vì thế,ngay từ đầu Ấn Độ đã tìm cách ngăn chặn ảnh hưởng
của Hoa Kỳ ở khu vực này.Có thể nói đây là một bước đi khơng ngoan của Ấn Độ trong
tình thế nước này vừa mới dành được độc lập,cả thế và lực của mình đều đang yếu và
chưa được củng cố.Khi đó việc tìm một bến đỗ an tồn cho mình là vơ cùng cần
thiết.Và trong hai siêu cường thế giới lúc bấy giờ thì chỉ có Liên Xơ là tỏ ra thiện chí
với các nước bé hơn.Chính sách đại chiến lược đúng đắn của Ấn Độ trong thời kỳ này
đã giúp đất nước này chánh khỏi cảnh bị đô hộ lần hai như Việt Nam cùng thời.Cũng
phải nói thêm là do điều kiện lịch sử cụ thể củaViệt Nam và Ấn Độ là rất khác nhau nên
đường lối đối ngoại,địa chiến lược có khác nhau là chuyện dễ hiểu.
Đối với Liên Xô lúc bấy giờ,Ấn Độ mong muốn thiết lập mối quan hệ thân thiết,nếu
không hẳn là liên minh.Ấn Độ mong muốn Liên Xô sẽ cung cấp viện trợ về kinh tế và
thiết bị quân sự cũng như trợ giúp về vũ khí hạt nhân cho nước này.Đối với Ấn Độ,quan
hệ của họ với Liên Xơ sẽ là một mối quan hệ hồn hảo,bởi vì Ấn Độ khơng thấy khả
năng Liên Xơ có thể áp đăt địa vị vệ tinh cho họ.Chính vì vậy mà mối quan hệ giữa Ấn
Độ và Liên Xô nhìn chúng là một mối quan hệ tốt đẹp.Liên Xơ tuy là một nước rộng lớn
nhất thế giới,có đường bờ biển dài nhất thế giới nhưng nó vẫn khơng có cửa ngõ tiếp
xúc với Ấn Độ Dương,thậm chí ngay cả với Đại Tây Dương nó cũng khơng có đường
tiếp xúc trực tiếp.Và,tuy là nước có đường bờ biển dài nhất thế giới nhưng phần lớn là
trông ra Bắc Băng Dương.Phần trơng ra Thái Bình Dương thì có vẻ hẻo lánh và xa trung
tâm kinh tế-văn hóa-chính trị của Nga. Vì vậy có được một khu vực ảnh hưởng tiếp giáp
rộng lớn với Ấn Độ Dương như Ấn Độ quả là một thành quả khơng hề nhỏ trong chính
sách chiến lược địa chính trị của Liên Xơ.


Trong mắt Hoa Kỳ,mối quan hệ giữa Liên Xô-Ấn Độ quả thật là một mối nguy
hiểm.Mối quan hệ này sẽ cản trở sự hoạt động của hải quân Mỹ ở Ấn Độ Dương.Thế
là,để chống lại Ấn Độ,Mỹ ủng hộ Pakistan-đối thủ truyền kỳ của Ấn Độ.

Ngày nay,kể từ khi Liên Xô tan rã vào cuối năm 1991,nước Nga kế thừa vị trí quốc tế
của Liên Xơ,tuy nhiên cuộc khủng hoảng trầm trọng trong nước không cho phép nước
này mở rộng tầm ảnh hưởng ra bên ngồi như Liên Xơ thời trước mà phải lo củng cố
nội bộ trong nước.Hoa Kỳ khơng cịn đối thủ cạnh tranh mà trở thành siêu cường duy
nhất.Vì thế,Ấn Độ giờ đây khơng cịn là con bài quan trọng để tranh giành giữa Hoa Kỳ
và những siêu cường khác nữa.Trong tình hình đó,Ấn Độ quay sang tập trung giải quyết
vấn đề tranh chấp với Pakistan.Tuy nhiên việc giải quyết vấn đề nafycos vẻ như khơng
cịn đơn giản như trước nữa khi mà Ấn Độ khơng cịn nhận được sự ủng hộ từ phía Nga
cũng như là Liên Xơ,trong khi đó Hoa Kỳ vẫn tiếp tục ủng hộ Pakistan.
Tuy nhiên,sau vụ khủng bố ngày 11-9-2001,tình hình đã chuyển hướng một cách căn
bản.Chính quyền Taliban ở Afganistan trước đây được Hoa Kỳ ủng hộ hết mình thì giờ
đây lại là kẻ thù số một của Mỹ.Nhưng sự kiện có ý nghĩa quan trọng nhất với Ấn Độ là
mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Pakistan – nước vốn có mối quan hệ rất thân thiết với
Taliban – trở nên xấn đi hơn bao giờ hết,thậm chí nó cịn dẫn đến mức gần như tan
vỡ.Vậy là đột nhiên quyền lợi của Hoa Kỳ và Ấn Độ đi đến chỗ gặp gỡ.Cả hai đề muốn
Pakistan có hành động chấn áp mạnh tay hơn đố với các nhóm Hồi giáo cực đoan,cả hai
cũng đều khơng muốn Pakistan phát triển vũ khí hạt nhân.Các cuộc tiếp xúc giữa phái
đoàn,các nhà lãnh đạo cấp cao giữa hai bên có tần suất ngày càng nhiều;những bản ghi
nhớ hợp tác,cam kết hợp tác phát triển trên nhiều lĩnh vực giữa hai cường quốc này.


Mỹ-Ấn ngày càng xích lại gần nhau hơn
Tuy nhiên theo G.Friedman,việc lập lại mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Ấn Độ không
phải là một trong những sự thay đổi căn bản trong chiến lược địa chính trị của Ấn
Độ.Ấn Độ vẫn là một hòn đảo bị kiềm tỏa bởi những dãy núi bao quanh gần hết trên đất
liền.Mối quan tâm hàng đầu của nó vẫn là sự thống nhất đất nước của riêng nó.Nó có
mộ đối thủ là Pakistan,tuy nhiên đây không đến mức là đối thủ không thể chinh
phục,hiện tại chỉ có Hoa Kỳ là có thể xâm chiếm Ấn Độ,nhưng mối quan hệ giữa hai
nước đang dần trở nên tốt đẹp hơn.
C. Vị thế của Ấn Độ trong khu vực Ấn Độ Dương

Với vị trí nằm trên trục trung tuyến Á-ÂU,Ấn Độ Dương giữ một vị trí địa chiến lược
quan trọng trên con đường giao thương giữa Á-Âu-Phi nói riêng và thế giới phương Tây
và Phương Đơng nói chung.Theo thống kê thì khu vực Ấn Độ Dương (kể cả đại dương
và các quốc gia bao quanh Ấn Độ Dương) có số dân bằng 1/3 của thế giới,chiếm 1/4
diện tích thế giới và một điều đực biệt là nó chiếm hơn 40% trữ lượng dầu mỏ của thế
giới.Tạo khu vực này hiện nay cũng có hai quốc gia đang sở hữu vũ khí hạt nhân và một
số nước có khả năng chế tạo được vũ khí hạt nhân ( Iran )
Có một điều mà mọi người có thể thấy rõ nữa,Ấn Độ Dương là nơi có các tuyến
đường giao thương quốc tế quan trọng liên quan đến lợi ích của khơng chỉ trong khu
vực mà cịn của các nước trên thế giơi.Trong khu vực này,Ấn Độ nổi lên như một quốc
gia trung tâm và đang có xu hướng trở thành cường quốc.Từ thời xa xưa,cả phương
Đông và phương Tây đều trọn Ấn Độ là nơi giao thương,và ngày nay Ấn Độ vẫn là một
điểm đến hấp dẫn đối với nhiều nước.Ấn Độ cũng luôn tự hào khi tên nước mình được


đặt cho tên cả một đại dương rộng lớn.Riêng điều đó cũng đã cho thấy Ấn Độ có một vị
trí quan trọng như thế nào trong khu vực này.
Vì thế ngày nay Ấn Độ đang có ý thức hơn bao giờ hết về vai trì của mình trong khu
vực và trên thế giới.Nhà nghiên cứu G.Friedman cho rằng,trong lịch sử truyền thống
của Ấn Độ,những mối quan tâm chiến lược chủ yếu của nước này hầu hết là về vấn đề
phạm vi nội bộ chứ khơng là năm ở bên ngồi.Và hiện tại vẫn theo Friedman thì mực dù
đã có chú ý đến dòng chảy của thế giới nhưng mối quan tâm cơ bản của Ấn Độ vẫn luôn
giới hạn trong tiểu lục địa Ấn Độ,nơi mà nhiều thành phần săc tộc có thể làm nên một
khu vực đa dạng ở miền Nam Á này.Tuy nhiên ở thời điểm hiện nay cho thấy Ấn Độ
khơng chỉ có quan điểm hướng nội.Hơn bao giờ hết,Ấn Độ đang quan tâm để ra sức
phát triển đất nước về kinh tế,quân sự và quan hệ quốc tế để vươn lên trở thành một
cường quốc ngang hàng với các cường quốc khác trên thế giới.Từ cuối thế kỷ 20 đến
nay,nền kinh tế Ấn Độ luôn tăng trưởng mạnh và đã đạt được nhiều thành tựu.Theo một
nguồn tin đáng tin cậy thì kể từ năm 1998,Ấn Độ đã tăng cường chi tiêu cho ngân sách
quốc phòng,cụ thể từ 13% lên 25% mỗi năm.Mặc dù chưa phải là nước phát triển

cao,nhưng xét về nhiều mặt,Ấn Độ đã được các cường quốc khác phải tính đến trong
ván bài khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên quan điểm hướng ngoại của Ấn Độ không giống với quan điểm của các
nước khác như Hoa Kỳ,Nga,Trung Quốc hay thậm chia là cả Nhật Bản.Quan điểm
hướng ngoại này chủ yếu vẫn chỉ giới hạn chủ yếu ở khu vực Ấn Độ Dương.Có lẽ vì thế
mà Friedman cho rằng mối quan tâm của Ấn Độ chỉ gói gọn trong tiểu lục đại Ấn
Độ.Nhưng chỉ tính riêng trong khu vực Ấn Độ Dương,Ấn Độ cũng đã gặp khơng ít
thách thức.Tại đây,Ấn Độ khơng chỉ phải cạnh tranh với các thế lực bên ngoài như
Trung Quốc,Mỹ,Nga … mà còn phải cạnh tranh với các quốc gia bao quanh Ấn Độ
Dương,trong đó có các quốc gia đáng phải chú ý như Pakistan,Myanmar – cả hai đều có
mối quan hệ rất thân thiết với Trung Quốc ( hiện nay xu thế ngoại giao của Myanmar
đã thay đổi theo hướng đa phương hóa hợp tác ) .Ngồi ra cịn có một số nước ở bờ Tây
và Tây-Bắc Ấn Độ Dương như Iran và một số nước ở châu Phi;các nước ở bờ Đông Ấn


Độ Dương như Thai Lan hay Malaysia cũng đang muốn có vai trị điều tiết trên Ấn Độ
Dương.Trong tình hình đó,với truyền thống là một quốc gia đa sắc tộc và đa tôn
giáo,luôn phải giải quyết các vấn đề nội bộ chứ khơng phải là một đế quốc có thành tích
bành trướng vượt ra khỏi tiểu lục địa Ấn Độ,thì nhiệm vụ khẳng định được vị trí trên
tồn bộ khu vực Ấn Độ Dương đã là một nhiệm vụ dường như đã đủ lớn đối với Ấn Độ.
Hiện tại,Ấn Độ đang hy vọng rằng bằng việc lập lại quan hệ với Hoa Kỳ,Ấn Độ sẽ
đóng một vai trị quan trọng trong việc cân bằng lại lược lượng trong mối tương quan
giữa Nga,Hoa Kỳ,Trung Quốc và Ấn Độ.Tuy nhiên,để có thể chủ động,Ấn Độ đang
tăng cường tiềm lực quân sự,trong đó có tiềm lực quân sự hạt nhân.Đồng thời Ấn Độ
cũng chú ý phát triển lực lượng hải quân để có thể đối trọng với lực lượng hải quân
Trung Quốc hiện đang nổi lên.Ấn Đooh hiểu rĩ rằng việc gia tăng lực lượng hải quân sẽ
giúp họ đảm bảo việc ngăn ngừa được các nguy cở xâm nhập từ bên ngoài vào bằng
đường biển Ấn Độ,đồng thời có khả năng tham gia cùng các nước lớn trong việc kiểm
soát các con đường giao thông quan trọng giữa Đông và Tây qua Ấn Độ Dương.Đặc
biệt chúng ta biết rằng việc chuyên trở dầu mỏ từ Trung Đông cho khu vực Đông Á –

nhất là Nhật Bản,quốc gia phụ thuộc rất lớn vào lượng dầu mỏ nhập khẩu từ Trung
Đông – đều phải đi qua Ấn Độ Dương.Đây là công việc mà trong q khứ Ấn Độ khơng
có khả năng tham gia.


KẾT LUẬN

Tất cả các yếu tố trên sẽ là điều giúp cho Ấn Độ trở thành một đại cường
quốc.Và đó cũng là ý nghĩa và vai trị của địa chính trị trong chính sách phát triển của
quốc gia này. Với tuổi đời chỉ hơn một thế kỷ của mình ( trong khi những mơn khoa
học cở bản khác có tuổi đời hàng ngàn năm trước ) ,Địa chính trị đã chứng tỏ là một bộ
mơn khoa học đặc biệt chính bởi ý nghĩa xã hội và nhân văn của nó.Với nhiều lý thuyết
nghiên cứu và nhiều trường phái thực hành khác nhau, Địa chính trị đã góp phần to lớn
vào sự phát triển của một quốc gia.Tuy nhiên nếu bị áp dụng một cách tiêu cực,Địa
chính trị sẽ là vật cản kìm hãm sự phát triển của một quốc gia,thậm chí đi đến chỗ diệt
vong như trường hợp của Đức Quốc Xã và Nhật Bản trước đây.Chính vì vậy nhiệm vụ
của các nhà khoa học là làm cho địa chính trị phát huy được hiệu quả xã hội tích cực
sao cho xứng đáng với một mộn khoa học chính thống.Và trong bước đường phát triển
của mình,chính phủ của mỗi quốc gia cũng nên chọn cho mình chính sách phát triển
khơn ngoan để đi lên một cách bền vững .


×