Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận cao học, môn quan hệ quốc tế , cải tổ LIÊN hợp QUỐC và sự THAM GIA của VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.51 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................1
PHẦN THỨ NHẤT.....................................................................................2
LIÊN HỢP QUỐC TRONG THẾ GIỚI ĐƯƠNG ĐẠI VÀ NHU CẦU
CẢI TỔ.........................................................................................................2
I. Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển của Liên họp quốc...........2
II. Nguyên nhân và nhu cầu cải tổ Liên hợp quốc...................................4
PHẦN THỨ HAI.........................................................................................7
ĐỊNH HƯỜNG VỀ CẢI TỔ LIÊN HỢP QUỐC.....................................7
I. Định hướng về cải tổ Liên hợp quốc......................................................7
II. Thách thức đối với nỗ lực cải tổ Liên hợp quốc................................11
PHẦN THỨ BA..........................................................................................16
THAM GIA CỦA VIỆT NAM TẠI LIÊN HỢP QUỐC VÀ MỘT SỐ
KHUYẾN NGHỊ........................................................................................16
I.Tham gia, đóng góp của Việt Nam tại Liên hợp quốc.........................16
II. Một số khuyến nghị để nâng tầm tham gia, đóng góp của Việt Nam
tại Liên hợp quốc.......................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................24


1
LỜI MỞ ĐẦU
Liên hợp quốc là tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh, với tôn chỉ ngăn
chặn chiến tranh và xung đột, giữ gìn hịa bình và an ninh trật tự thế giới là
một trong những thiết chế quốc tế quan trọng nhất của thế kỷ XX nói riêng
và của tồn nhân loại nói chung. Kể từ khi thành lập, Liên hợp quốc đã có
những đóng góp to lớn trong cơng cuộc gìn giữ hịa bình, cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, cứu trợ nhân đạo.Tuy nhiên do những biến động phức
tạp gần đây của tình hình thế giới, tổ chức này đang phải đối mặt với hàng
loạt vấn đề thuộc về lòn tin của các quốc gia về vai trị, vị trí duy trì hịa
bình và khả năng đối phó với những thách thức mới và cũ về an ninh, phát


triển như khủng bố, đói nghèo, dịch bệnh và mơi trường…thực trạng đó đã
và đang khiến cho Liên hopwj quốc phải nỗ lực tìm kiểm các biện pháp cải
tổ hệ thống Liên hợp quốc cho phù hợp với tình hình mới. Yêu cầu cải tổ
Liên hợp quốc xuất hiện như là một yêu cầu khách quan của thời đại.
Trong bài phát biểu nhậm chức hôm 12-12-2016, ông A. Guteưes (tân
Tổng thư ký Liên họp quốc) nói rằng: “Liên hợp quốc cần phải công nhận
những nhược điểm và cải tổ cách thức làm việc. Tổ chức này là nền tảng của
chủ nghĩa đa phương, và trong nhiều thập niên qua đã có những đóng góp
đáng kể cho hịa bình. Tuy nhiên, thách thức hiện đang vượt quá khả năng
đáp ứng của chứng ta. Liên hợp quốc cần phải sẵn sàng cho sự thay đổi”


2
PHẦN THỨ NHẤT
LIÊN HỢP QUỐC TRONG THẾ GIỚI ĐƯƠNG ĐẠI
VÀ NHU CẦU CẢI TỔ
I. Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển của Liên họp quốc
Ý tưởng thành lập Liên hợp quốc được hình thành trong thời kỳ Chiến
tranh thế giưới thứ hai. Danh từ “Liên hợp quốc” ( United Nations) lần đầu
tiên xuất hiện trong bản Tuyên bô các quốc gia liên hợp, được 26 nước
trong mặt trận Đồng minh chống phát xít trong đó có Liên xô, Mỹ, Anh,
Trung Quốc ký ngày 01-01-1942 tại Oasinhtơn.
Ngày 30-10-1943 Hội nghị Ngoại trưởng ba nước Liên xô, Mỹ, Anh
họp tại Mátxcơva ra tuyên bố thành lập tổ chức quốc tế thay thế Hội quốc
liên để duy trì hịa bình và phát triển quốc tế sau khi chiến tranh kết thúc.
Từ tháng 8 đến tháng 10-1944, các hội nghị giữa đại diện Liên Xô, Mỹ,
Anh và Trung Quốc diễn ra tại Đumbatơ ( ngoại ô Oasinhtơn) quyết định
thành lập một tổ chức quốc tế sau chiến tranh với tên gọi Liên hợp quốc.
các đại biểu cũng thảo luận về tôn chỉ, nguyên tắc và bộ máy của Liên hợp
quốc. Tháng 2-1945, nguyên thủ ba nước Liên Xô, Mỹ, Anh tại Hội nghị

Ianta ( Crưm, Liên Xô) quyết định cùng với Trung Quốc thành lập Liên
Hợp Quốc.
Hội nghị Xan Phanxítxcơ khai mạc ngày 25-4-1945, với sự tham gia
địa diện của 51 nước, có nhiệm vụ chính là dự thảo và thơng qua hiến
chương Liên hợp quốc. Sau hơn 2 tháng tranh luận và thỏa hiệp, ngày 26-61945 Hiến chương Liên hợp quốc được thơng qua. Ngày 24-10-1945, sau
khi được chính phủ 51 nước tham gia Hội nghị Xan Phanxítxcơ phê chuẩn,
Hiến chương bắt đàu có hiệu lực, đánh dấu sự ra đời của Liên hợp
quốc( ngày 24-10 hằng năm được gọi là Ngày Liên hợp quốc).
Trong hơn 70 năm tồn tại, mặc dù Liên hợp quốc đã chưa làm được
bao nhiêu theo như tơn chỉ mục đích mà "Hiến chương" đã đề ra cũng như


3
sự kỳ vọng của nhân dân thế giới đối với tổ chức này, nhưng khơng ai cịn
nghi ngờ về vai ừị và đóng góp to lớn của Liên hợp quốc trên nhiều lĩnh
vực như bảo vệ hịa bình và an ninh thế giới, thúc đẩy quan hệ hợp tác, phát
triển kinh tế thế giới và hạnh phúc của nhân loại. Trong thời kỳ chiến tranh
lạnh, sự đối đầu giữa hai phe đã trói tay Liên hợp quốc thực hiện tốt nhiệm
vụ gìn giữ hịa bình thế giới. Mặc dầu vậy, Liên hợp quốc đã đóng góp vào
việc ngăn chặn những căng thẳng của chiến tranh lạnh leo thang thành một
cuộc đại chiến thế giới lần thứ ba trong thế kỷ XX; ngăn chặn những xung
đột nhỏ leo thang thành nhũng xung đột lớn. Liên hợp quốc cũng đã cống
hiến to lớn, góp phần vào việc làm tan rã hồn tồn hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc, thực dân trên toàn thế giới. Sau chiến tranh lạnh, Liên
hợp quốc tiếp tục đóng vai trị then chốt trong việc kiến tạo hịa bình cho
thế giới. Liên hợp quốc đã giải quyết và tổ chức thành cơng nhiều cuộc
đàm phán hịa bình các cuộc nội chiến và xung đột trên thể giới như ở
Namibia, Cơng gơ, Ảnggơla, E1 Salvađo, Mơzăm bích, Campuchia ..., góp
phần xóa bỏ chế độ Apacthai ở Nam Phi; Liên hợp quốc cũng góp phần
thúc đẩy độc lập và quyền tự' quyết dân tộc; ngăn chặn chiến tranh hạt nhân

và phổ biến vũ khí giết người hàng loạt; thúc đẩy giải quyết các vấn đề an
ninh phi truyền thống. Liên hợp quốc cũng đã cử lực lượng gìn giữ hịa
bình và quan sát viên đến bảo vệ hịa bình và an ninh cho những khu vực
xảy ra chiến Lanh. Trong giai đoạn 1990 - 2002, Liên hợp quốc đã tăng 6
lần số lượng các chiến dịch gìn giữ hịa bình để ngăn chặn chiến tranh và
tăng 4 lần các nỗ lực nhằm chấm dứt nhũng cuộc xung đột đang diễn ra.
Hiện nay có gần 120.000 lính mũ nồi xanh của Liên hợp quốc đang phục
vụ trong 17 chiến dịch gìn giữ hịa bình trên khắp thế giới với kinh phí
hàng tỷ USD. Với những cố gắng đó, hoạt động của Liên hợp quốc đã góp
phần làm giảm 40% những cuộc xung đột bạo lực, 80% những cuộc xung
đột gây nhiều đổ máu, 80% những cuộc diệt chủng và thanh lọc chính trị.


4
Ngồi lĩnh vực chính yếu là gìn giữ hịa bình và an ninh quốc tế, Liên
hợp quốc và các tổ chức trực thuộc cũng đã thực hiện các hoạt động viện
trợ phát triển với số lượng lớn cho nhiều quốc gia trên thế giói, nhất là các
nước đang phát triển; thúc đẩy tiến bộ xã hội, xóa bỏ đói nghèo; đối phó
với thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ mơi trường tồn cầu; viện trợ nhân đạo cho
đơng đảo những nạn nhân của các cuộc xung đột; thúc đẩy sự tiến bộ về
dân chủ và nhân quyền trên thế giới. Liên hợp quốc không chỉ cống hiến to
lớn trong việc giải quyết những vấn đề bức thiết của thế giới mà cịn thúc
đẩy việc cơ cấu hóa và trật tự hóa cộng đồng quốc tế, khắc phục tình trạng
vơ chính phủ trong hệ thống quốc tế, góp phần tạo nên nền tảng của các
mối quan hệ quốc tế đương đại. Từ 51 thành viên ban đầu, đến nay Liên
hợp quốc đã quy tụ 193 quốc gia tham gia. Điều đó chứng tỏ sức hút và vai
trị to lớn của nó trong thế giới ngày nay.
II. Nguyên nhân và nhu cầu cải tổ Liên hợp quốc
Tuy nhiên trong hơn 70 năm qua, Tổ chức này cũng gặp nhiều hạn ché
và thất bại trong việc thực hiện sứ mạng của mình. Trong suốt thời kỳ chiến

tranh lạnh Liên hợp quốc đã gần như tê liệt trong việc kiến tạo hịa bình
cho thế giới trước sự đối địch gay gắt của 2 phe, quyền phủ quyết trong Hội
đồng Bảo an đã trở thành một phương tiện để bác bỏ mọi sáng kiến và hành
động hịa bình của Liên hợp quốc trước những cuộc khủng hoảng lớn khi
đó. Từ thập kỷ 90 trở đi, Liên hợp quốc cũng đã gặp phải những khó khăn
và thất bại trong các chiến dịch vãn hồi hịa bình và ngăn chặn các cuộc
thảm sát tại Xômali, Ruanda, Burundi, vùng Ban căng, Công gô, giải quyết
vấn đề Trung Đông... Đặc biệt, Liên hợp quốc đã hoàn toàn bất lực trong
việc ngăn chặn hành động sử dụng vũ lực đơn phương của Mỹ tại Irắc.
Liên hợp quốc cũng chỉ đạt được những thành công khá khiêm tốn trong
việc ngăn chặn chạy đua vũ trang, phổ biến vũ khí hủy diệt, đối phó với
những mối đe dọa an ninh mới, thúc đẩy sự bình đẳng, quyền tự quyết của
các dân tộc và giải quyết những vấn đề toàn cầu bức xúc hiện nay.


5
Mặc dù cịn có những hạn chế và khơng phải lúc nào cũng thành công
và thực sự công bằng trong việc thực hiện sứ mạng của mình, nhưng thực
tiễn cho thấy bất cứ vấn đề lớn nào của nhân loại ngày nay đều cần đến sự
lãnh đạo và điều phối của Liên hợp quốc. Tuy vậy, bước vào thiên niên kỷ
thứ ba, trước sự biến động phức tạp của tình hình quốc tế, Liên hợp quốc
đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức mới:
Thách thức đầu tiên phải nói tới đó chính là thách thức đổi với uy tín,
vai trị và chính sự tồn tại của Tổ chức này. Sự phân chia thế giới thành hai
phe thù địch trong thời kỳ chiến tranh lạnh đã dưới tay Liên hợp quốc thực
hiện có hiệu quả vai trị kiến tạo hịa bình thế giới. Sự tan vỡ của trật tự hai
cực tưởng rằng sẽ làm cho Liên hợp quốc có thể tự do hành động hơn,
nhưng việc Hoa Kỳ có được địa vị siêu cường duy nhất thống trị tồn cầu
hóa ra lại tạo ra những thách thức mới cho Liên hợp quốc. Cuộc chiến ở
Nam Tư năm 1999 và cuộc chiến Irắc năm 2003 đã phơi bày sự bất lực của

Liên hợp quốc trong vai trị giữ gìn hịa bình và an ninh quốc tế. Ở đây,
với thái độ coi thường Liên hợp quốc , Oasinton đã tự cho mình có quyền
đơn phương hành động dùng vũ lực tấn công một thành viên khác của Liên
hợp quốc mà khơng có sự đồng ý của Hội đồng bảo an. Chủ nghĩa đơn
phương và sức mạnh vũ lực đã thách thức chủ nghĩa đa phương, ngun
tắc hịa bình và an ninh tập thể vốn được coi là nền tảng cơ bản cho sự ra
đời và lý do tồn tại của Liên hợp quốc. Với hành động đó, siêu cường duy
nhất của thế giới đã coi Liên hợp quốc chỉ là một cơng cụ mà người ta có
thể đem ra dùng khi cần thiết, nếu khơng, người ta chỉ coi nó như một gánh
nặng phải cưu mang. Việc một quốc gia có nhiệm vụ đi đầu trong việc gìn
giữ Hiến chương Liên hợp quốc như Hoa Kỳ lại ngang nhiên trà đạp lên
những nguyên tắc cơ bản của nó đã làm cho vai trị và uy tín của Liên hợp
quốc bị suy giảm nghiêm trọng nhất từ trước tới nay, tính họp hiến của
Liên hợp quốc đã mất đi sự tin cậy cần thiết trong con mắt cộng đồng quốc
tế. Trong tình thế đó, liệu Liên hợp quốc có cịn khả năng đảm bảo hòa


6
bình và an ninh trên hành tinh khơng khi mà hiện nay, nhiều quốc gia, nhất
là những nước nhỏ yếu đang ở vào thế, hoặc cảm thấy ở vào thế ít được
bảo vệ hơn nhiều.
Sau chiến tranh lạnh, nhiệm vụ gìn giữ hịa bình và an ninh quốc tể
của Liên hợp quốc cũng gặp nhiều thách thức mới. Môi trường quốc tế có
sự đan xen giữa mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống, phạm
vi và sự liên quan của các mối đe dọa cũng ngày càng rộng và khó tách
biệt. Đến nay, nhiều điểm nóng an ninh truyền thống trên thế giới vẫn tồn
tại mà chưa có thuốc đặc trị để giải quyết tận gốc.
Trong khi đó, vấn đề chạy đua vũ trang và phổ biến vũ khí giết người
hàng loạt, rồi những vấn đề an ninh phi truyền thống như chủ nghĩa khủng
bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, chủ nghĩa ly khai, cực

đoan... lại nổi lên rất bức xúc ở nhiều nơi, đe dọa nghiêm trọng hịa bình và
an ninh thế giới. Những hiểm họa đó là những thách thức nặng nề đối với
vai trò của Liên hợp quốc trong những năm sắp tới.
Thế giới ngày nay với sự xuất hiện hàng loạt các vấn đề toàn cầu nhức
nhối khác như vấn đề đói nghèo, nợ nần và sự chênh lệch phát triển Bắc Nam, sự suy thối mơi trường sống, bùng nổ dân số, các loại bệnh, dịch
nguy hiểm, hoạt động tội phạm xuyên quốc gia... đã trở thành những vấn đề
lớn ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển và sinh tồn của nhân loại.
Liên hợp quốc với tư cách là tổ chức đa phương lớn nhất thế giới cần phải
phát huy vai trị của mình trong việc giải quyết những thách thức đó nhằm
thúc đẩy hịa bình, ổn định và phát triển tiến bộ trên toàn cầu.


7
PHẦN THỨ HAI
ĐỊNH HƯỜNG VỀ CẢI TỔ LIÊN HỢP QUỐC
I. Định hướng về cải tổ Liên hợp quốc
Hơn 70 năm qua tình hình quốc tế đã có nhiều thay đổi. Bất cứ một
thiết chế hay cơ cấu quyền lực nào đều phải được đổi mới và cải tổ để thích
ứng với sự vận động đổi thay không ngừng của hiện thực. Liên hợp quốc
với tư cách là một tổ chức quyền lực đa phương có tính tồn cầu, một
phương tiện ủy thác để qua đó nhân loại có thể đối phó với những thách
thức hiện nay và mai sau, thì Tổ chức này cần có các cuộc cải cách rộng
lớn và sâu sắc để tăng cường t ính chính đáng, tính hiệu quả và trách nhiệm
của nó. vấn đề cải tổ Liên hợp quốc không chỉ xuất phát từ yêu cầu giải
quyết hiệu quả các thách thức to lớn đã đề cập bên trên mà nó cịn xuất phát
từ những áp lực của hiện thực chính trị và kinh tế quốc tế mới hiện nay. Cơ
cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Liên hợp quốc vốn chỉ phản ảnh
tương quan lực lượng và bối cảnh quốc tế thời kỳ năm 1945, đến nay đã
khơng cịn phù hợp với sự đổi thay nhanh chóng của diện mạo tình hình
quốc tế. Hơn 70 năm qua, thế giới đã hải qua các thời kỳ như phong trào

phi thực dân hóa, chiến tranh lanh và hậu chiến tranh lạnh. Cục diện quốc
tế đã chuyển từ hai cực sang nhất siêu đa cường và đang vận động theo
hướng đa cực hóa, đa trung tâm quyền lực với sự nổi lên của các cường
quốc mới, các trung tâm quyền lực mới, sự gia tăng vai trò vị thế của các
nước đang phát triển. Bên cạnh đó là sự tấn cơng mạnh mẽ của q trình
Tồn cầu hóa kinh tế phát triển như vũ bão hiện nay, rồi các vấn đề mà Liên
hợp quốc phải đối mặt cũng xuất hiện thay đổi lớn cả về tính chất và quy
mơ. Bản thân Tổ chức Liên hợp quốc cũng đã mờ rộng từ 51 thành viên
sáng lập ban đầu lên 193 thành viên hiện nay, mà đa số là các nước đang
phát triển. Trong khi đó, cơ cấu cơ bản và phương thức vận hành của Liên
hợp quốc nói chung và của Hội đồng bảo an - cơ quan quan trọng nhất của
Liên hợp quốc có trách nhiệm chính trong việc gìn giữ hịa bình và an ninh


8
quốc tế nói riêng đã khơng hề thay đổi trong suốt hơn 70 năm qua. Nó ngày
càng tỏ ra bất cập, khơng cịn khả năng đổi phó với tình hình quốc tế ngày
càng phức tạp. Điều đó làm cho vai trị, tính hiệu quả và quyền lực thực tế
của Tổ chức này bị đe dọa nghiêm trọng. Thực trạng đó cho thấy, để Liên
hợp quốc tiếp tục phát huy vai trò là trung tâm phối họp giải quyết các vấn
đề tồn cầu thì việc cấp thiết cải tổ nó một cách tồn diện và có hệ thống
cho phù hợp với một thế giới mới là một yêu cầu thực tể khách quan.
Cải tổ Liên hợp quốc trước hết là cải tổ bộ máy và sự vận hành của Tổ
chức này, trong đó cốt lõi nhất là cải tổ Hội đồng bảo an. Cơ chế 5 ủy viên
thường trực và 10 ủy viên khơng thường trực hiện nay khơng cịn phản ảnh
đúng tương quan lực lượng quốc tể mới. Hội đồng bảo an cần phải được
mở rộng cả số thành viên thường trực và khơng thường trực. Nó cần được
cân đối lại theo hướng mở rộng diện các nước thường trực với đại diện của
các châu lục, các cường quốc mới nổi và của các nước đang phát triển.
Điểm chốt thứ hai của cải tổ Hội đồng bảo an là vấn đề quyền phủ quyết

cảu các ủy viên thường trực. Với cơ chế phủ quyết hiện nay, quyền lực tối
cao trong các quyết định liên quan đến vận mệnh nhân loại nằm trong tay
mấy đại cường quốc. Với quyền phủ quyết tuyệt đối của 5 ủy viên thường
trực thì chỉ một lá phiếu phủ quyết cũng có thể làm cho mọi nghị quyết
phản ánh ý nguyện của đông đảo các nước và nhân dân thế giới bị vơ hiệu
hóa. Ngược lại, trong trường họp Irắc thì đa số các ủy viên thường trực bác
bỏ và cả nhân loại phản đối nhung một nước vẫn có thể đơn phưong hành
động. Điều đó cho thấy tính cấp thiết phải cải tổ cơ quan quan trọng nhất
này của Liên hợp quốc theo hướng đảm bảo dân chủ thực sự và tính cơng
khai, cơng bằng, tính minh bạch trong cơng việc, nâng cao trách nhiệm,
hiệu quả công tác, thực sự là đại diện cho quyền lợi của đa số các nước chứ
không chỉ là của một số nước "mạnh vì gạo, bạo vì tiền". Cơ chế phủ quyết
này rõ ràng cần phải được thay đổi theo hướng giảm và tiến tới xóa bỏ tồn
bộ đặc quyền này. Tuy nhiên, các cường quốc nắm trong tay quyền phủ


9
quyết khơng dễ gì vứt bỏ hoặc chia sẻ đặc quyền đặc lợi của mình, cịn các
quốc gia khác thì đều muốn có chân trong cơ quan trọng yếu nhất này của
Liên hợp quốc. Vì thế, cải cách Hội đồng bảo an là một cơng việc khó khăn
và phức tạp nhất trong cải tổ Liên hợp quốc. Nó được khởi động và thúc
đẩy mạnh mẽ trong nhiều năm qua nhưng vẫn đang rơi vào bế tắc.
Trong khi 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng bảo an lại được trao
cho q nhiều quyền lực mang tính đặc lợi thì Đại hội đồng với tư cách đại
diện cho tất cả 193 nước thành viên lại khơng có quyền quyết định các vấn
đề của Liên hợp quốc. Vì thế, để cải tổ Liên hợp quốc theo hướng dân chủ
và tiến bộ, nhất thiết phải tăng cirờng quyền lực cho Đại hội đồng, làm
sống động vai trò của cơ quan này, đảm bảo vai ừò ra quyết định hiệu quả
hơn đối với cơ quan lớn nhất và mang tính đại chúng nhất này của Liên hợp
quốc. Theo đó, cần củng cố vai trị và thẩm quyền của Chủ tịch Đại hội

đồng, đồng thời giao cho Đại hội đồng những quyền lực thực tế hơn trong
việc xem xét và quyết định những vấn đề trọng đại của Liên hợp quốc và
của thế giới, trong đó có cả việc bầu Tổng thư ký Liên hợp quốc. Ngoài ra,
các cơ quan Liên hợp quốc khác như Hội đồng Kinh tế - xã hội, Ban thư
ký cũng cần được cải tổ mạnh mẽ theo hướng tinh gọn, hiệu quả, tiết kiệm
và công bằng trong tuyển dụng nhân viên. Hội đồng Quản thác là một trong
6 cơ quan Liên hợp quốc được lập ra nhằm thúc đẩy quá trình phi thực dân
hóa và quản lý các vùng lãnh thổ do Liên hợp quốc ủy trị đến nay đã hồn
thành sứ mệnh của mình nên cần chấm dứt hoạt động của nó. Thay vào đó
nó cần đảm nhiệm nhiệm vụ tăng cường sự hợp tác và hỗ trợ phát triển
quốc tế, thúc đẩy phát triển tiến bộ ở các nước đang phát triển, nỗ lực xóa
bỏ đói nghèo và bất bình đẳng giữa các quốc gia, thu hẹp khoảng cách Bắc
- Nam, đảm bảo thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGS).
Trong nỗ lực cải tổ mạnh mẽ Tổ chức Liên hợp quốc, bên cạnh ưu tiên
cải tổ bộ máy và phương thức vận hành của các cơ quan Liên hợp quốc,
cần phải cài cách hoạt động của Liên hợp quốc trên 3 lĩnh vực lớn là kinh


10
tế, bảo đảm an ninh và nhân quyền, về cải cách kinh tê, cần củng cố các
cơ' quan kinh tế của Liên hợp quốc, coi thúc đẩy hợp tác phát triển quốc tế
là nhiệm vụ trọng yếu của Liên hợp quốc trong giai đoạn hiện nay bên canh
nhiệm vụ gìn giữ hịa bình và an ninh quốc tế. Liên hợp quốc cần coi trọng
tạo sự giúp đỡ và ủng hộ có hiệu quả cho sự phát triển của các nước, đặc
biệt là các nước đang phát triển, từng bước thiết lập nguyên tấc hợp tác
kinh tế quốc tế bình đẳng, cùng có lợi, làm cho các nước cùng phát triển.
Cải cách an ninh cần tăng cường chủ nghĩa đa phương và hệ thống an ninh
tập thể, ngán chặn và hòa giải xung đột, bảo vệ hòa binh và ổn định, thực
hiện an ninh lâu dài, phản đối sử dụng bạo lực bừa bãi; chấm dút những
tiêu chuẩn kép trong hệ thống an ninh quốc tế, ví như việc ngăn chặn phổ

biến vũ khí hạt nhân phải đi liền với giải trừ vũ khí hạt nhân ở tất cả các
nước; gia tăng thẩm quyền của Liên hợp quốc và của các thể chế tư pháp
quốc tế nhằm xác định và trừng phạt những hành động sai trái vi phạm luật
pháp quốc tế của các nước thành viên, kể cả nhũng thành viên có nhiều
quyền lực. Cải cách nhân quyền cần bảo vệ cả nhân quyền và chủ quyền,
coi nhân quyền thuộc phạm vi chủ quyền, phản đối việc sử dụng tiêu chuẩn
kép về vấn đề nhân quyền trong quan hệ quốc tế, lấy cớ nhân quyền, dân
chủ để can thiệp vào công việc nội bộ các nước khác.
Vấn đề cải tổ Liên hợp quốc đã trở thành đề tài nổi bật trong sinh hoạt
của Tổ chức này sau chiến hanh lạnh, nó đã được khởi động và thúc đẩy
trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, con đường cải cách Liên hợp quốc là
không hề bằng phẳng, bởi nơi đây là nơi hội tụ và đan xen rất nhiều vướng
mắc về lợi ích. Tại vũ đài lớn nhất thế giới này, đằng sau sự thể hiện của
mỗi quốc gia, mỗi nguyên thủ và mỗi quan chức ngoại giao đều có hình
ảnh của lợi ích, đó là cuộc đấu tranh giành đất lợi ích. Mặc dầu vậy, cải tổ
Liên hợp quốc là vấn đề liên quan tới lợi ích thiết thân của hầu hết mỗi
quốc gia, đồng thời liên quan tới trật tự thế giới trong tương lai của nhân


11
loại, do đó, có thể nói con đường cải tổ của Liên hợp quốc chỉ có đường
tiến chứ khơng có chỗ quay lại.
II. Thách thức đối với nỗ lực cải tổ Liên hợp quốc
Theo giới chuyên gia, để thúc đẩy được tiến trình cải tổ cơ chế hoạt động
của Liên hợp quốc, chỉ có quyết tâm chính trị thơi là chưa đủ. Liên họp quốc
cũng như cộng đồng quốc tế đang phải đối mặt với khơng ít thách thức.
Thách thức khơng thể bỏ qua đó là việc tạo dựng một mơi hường hịa
bình trên quy mơ tồn cầu, điều kiện tiên quyết để có được sự phát triển bền
vững. Để đạt được điều này, trước mắt cộng đồng quốc tế cần phải giải quyết
được hai vấn đề: xóa bỏ các điểm nóng và ngăn ngừa xung đột. vấn đề biến

đổi khí hậu, mơi trường, di cư và kiểm sốt biên giới cũng địi hỏi Liên hợp
quốc phải có cái nhìn tổng thể hơn, gắn với những thách thức an ninh.
Tuy nhiên, có lẽ thách thức lớn nhất là việc phải gây dựng lại sự đồn
kết trong đại gia đình Liên hợp quốc. Kể từ thời Chiến hanh Lạnh, chưa bao
giờ cơ quan đa phương lớn nhất toàn cầu này rơi vào tình trạng thiếu đồn
kết như hiện nay. Theo ơng tân Tổng thư ký Liên hợp quốc A. Guterres, một
nền “ngoại giao hịa bình” mới địi hỏi phải tiếp xúc ngoại giao kín đáo và
"con thoi" giữa các bên chủ chốt trong các cuộc xung đột và tranh chấp.
Tổng thư ký Liên hợp quốc cần “hành động với sự khiêm nhường để cố
gắng tạo điều kiện cho các quốc gia thành viên có thể đến với nhau và vượt
qua những khác biệt”...
Bảo đảm sự phát triển hài hòa, trước hết là cơng cuộc xóa đói, giảm
nghèo, giảm bớt khoảng cách giàu, nghèo giữa các quốc gia, các khu vực
trên thế giới cũng là một thách thức. Hiện tại, cuộc chiến chống đói nghèo,
giảm thiểu bất bình đẳng xã hội cịn trở nên khó khăn hơn bởi những
nghịch lý đang tồn tại trong đời sống quốc tế đương đại. Thế giới vẫn phải
chứng kiến có khoảng hơn 1 tỷ người trên thế giới sống trong tình trạng
nghèo đói, chỉ với chưa đầy l,25USD/ngày. Như vậy, những thành công to
lớn trong khoa học - công nghệ vẫn chưa thể giúp loại bỏ tình trạng nghèo


12
đói trên thế giới, mà ngược lại cịn khiến cho khoảng cách giàu nghèo ngày
càng gia tăng, thậm chí thực tế này còn đang diễn ra ở ngay tại các nước
công nghiệp phát triển nhất. Sự gia tăng mạnh mẽ của q trình hợp tác,
liên kết quốc tế đã khơng tạo ra được bức tranh cùng nhau phát ữiển giữa
các quốc gia như kỳ vọng, trái lại nỏ còn khiến khơng ít quốc gia cịn trở
nên nghèo hơn trong so sánh với sự giàu lên của các nước công nghiệp phát
triển. Tuy chiếm ưu thế về nguồn lực, nhưng việc các nước phát triển giàu
có khơng ngại thi hành những chính sách bảo hộ khi cần thiết càng khiến

tình trạng bất bình đẳng thêm sâu sắc, và các nước nghèo càng ít cơ hội
phát triển hơn.
Trong bài phát biểu nhậm chức hơm 12-12-2016, ơng A. Guterres nói
rằng: “Liên hợp quốc cần phải công nhận những nhược điểm và cải tổ cách
thức làm việc. Tổ chức này là nền tảng của chủ nghĩa đa phương, và trong
nhiều thập niên qua đã có những đóng góp đáng kể cho hịa bình. Tuy
nhiên, thách thức hiện đang vượt quá khả năng đáp ứng của chúng ta. Liên
hợp quốc cần phải sẵn sàng cho sự thay đổi”.
Chính thức tuyên thệ nhậm chức để trở thành Tổng Thư ký thứ 9 của
Liên họp quốc, ông A. Guterres đã cam kết sẽ tiến hành cuộc cải tổ khâu
quản lý để bảo đảm rằng, Liên họp quốc có thể hoạt động “mau lẹ, hiệu quả,
và năng suất”. Ông A. Guterres nhấn mạnh: “Liên họp quốc cần phải chú
trọng nhiều hơn đến quá trình thực thi và rút ngắn thời gian lên kế hoạch,
chú trọng nhiều hơn đến con người và giảm bớt những thủ tục quan liêu”.
Theo tân Tổng Thư ký, ưu tiên của Liên họp quốc là giải quyết những vấn đề
gốc rễ của vô số những thách thức đang đặt ra đối với ba trụ cột chính của
Liên họp quốc, đó là: hịa bình và an ninh, phát triển bền vững, nhân quyền.
Cuộc nội chiến kéo dài gần 6 năm qua ở Syria; tăng cường can dự để
hịa giải cuộc xung đột ở miền Đơng Ukraine; tìm kiếm giải pháp cho
chương trình hạt nhân của Triều Tiên; đối phó với các vấn đề biến đổi khí
hậu, mơi trường, di cư và kiểm sốt biên giới... gói gọn trong hai từ “giải


13
quyết”, song dường như Liên hợp quốc đã “góp sức” nhung chưa thể đặt
dấu kết thúc cho nhũng vấn đề này. Cho dù tổ chức đa phương lớn nhất
hành tinh này trong năm qua đã được ghi nhận với nhũng bước tiến thành
công, như: nỗ lực đối với vấn đề biến đổi khí hậu, mà thành quả là Hiệp
định Paris được thông qua và được đưa vào thực thi; tầm nhìn và quyết tâm
hiện thực hóa một thế giới cơng bằng hơn, thịnh vượng hơn và an tồn hơn

thơng qua việc thực thi Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển bền vững;
vấn đề bĩnh đẳng giới, mà nổi bật nhất là việc thành lập Cơ quan Liên hợp
quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (được biết đến với cái
tên Tổ chức Phụ nữ của Liên hợp quốc)...
Tuy nhiên, Liên hợp quốc cũng phải đối mặt với nhiều thách thức “dai
dẳng”, khó “xoay chuyển”, trong đó có cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ
nhất kể từ thời đại suy thoái, sự bùng nổ nhiều cuộc nổi dậy và xung đột và
con số kỷ lục người dân trốn chạy khỏi chiến tranh, áp bức và nghèo đói.
Có thể thấy rõ, trong 10 năm qua'(2006 - 2016), Liên hợp quốc đã có quyền
lực và cơng cụ để ngăn ngừa và chấm dứt các cuộc xung đột, có khả năng
thu hẹp khoảng cách giữa người giàu và người nghèo... Nhưng theo tân
Tổng Thư ký Liên hợp quốc A. Guterres, những xu hướng tăng trưởng dân
số của thế giới, tình trạng biến đổi khí hậu, cũng như nhiều trào lưu lưu
khác thể hiện rằng, trong thế giới ngày nay, các vấn đề đều mang tính tồn
cầu, do đó khơng thể giải quyết chúng trên cơ sở từng quốc gia, mà thay
vào đó cần phải dựa trên cơ chế đa phương. Trong bối cảnh đó, Liên hợp
quốc nổi lên là nền tảng của cách tiếp cận đa phương. Tuy nhiên, ơng
António Guteưes thẳng thắn thừa nhận, ngày càng nhiều người dân hoài
nghi về những tổ chức đa phương như Liên họp quốc. Do đó, ơng kêu gọi
tồn bộ tổ chức Liên hợp quốc cùng nỗ lực để sửa chữa những thiếu sót,
đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải cải tổ hệ thống phát triển của Liên
hợp quốc, cũng như xử lý những hạn chế đang cản trở hoạt động của tổ
chức này.


14
Ngoài những thách thức từ bối cảnh quốc tế hiện nay, một trở ngại
trước mắt đối với tân Tổng Thư ký Liên hợp quốc A. Guterres đó chính là
việc vượt qua nhiều hạn chế đối với quyền hạn của chính mình khi thực sự
muốn thay đổi Liên hợp quốc. Với vai trị là Tổng Thư ký Liên hợp quốc,

ơng A. Guterres vấp phải tình trạng chia rẽ trong Hội đồng Bảo an Liên họp
quốc. Hiện 5 ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an đang trong tình trạng
chia rẽ khá sâu sắc như trong thời Chiến tranh Lạnh, vì thế giữ được cách
tiếp cận trung dung là điều không hề dễ dàng đối với ơng A. Guterres, chưa
nói đến việc hối thúc sự cải tổ cơ quan siêu quyền lực này. Thứ hai, đối với
các cơ quan và chương trình của Liên họp quốc nói chung, các chính phủ
thành viên đề ra chính sách, và các bộ máy khác nhau của Liên họp quốc
chi được giao nhiệm vụ thực thi chính sách đó. Do vậy, cả Tổng thư ký lẫn
Ban Thư ký Liên họp quốc đều khơng có bất kỳ vai ừị kiến tạo chính sách
độc lập nào.
Ngồi ra, cịn một trở ngại khác có thể đến từ Mỹ, nhà tài trợ lớn nhất
của Liên hợp quốc (cung cấp 20% ngân sách hoạt động của Liên hợp
quốc). Ngày 20- 01-2017, nước Mỹ có tân Tổng thống Donald Trump người đã chỉ trích Liên họp quốc hoạt động chưa tương xứng với tiềm năng
của tổ chức này và không giải quyết được các vẩn đề toàn cầu.
Mặc dù vậy, theo giới phân tích, bất chấp những hạn chế đối với
quyền hạn của mình, ơng A. Guterres đang nắm trong tay cơ hội hiếm có
để thúc đẩy cuộc cải tổ Liên hợp quốc. Trong thời gian gần đây, Liên họp
quốc đang phải gánh vác nhiều trọng ưảch hơn vì khơng có chính phủ của
cường quốc nào muốn tăng cường vai trò của họ trên trường quốc tế. Mỹ
tiếp tục có những điều chỉnh đáng kể chính sách đổi ngoại theo hướng
tránh bất kỳ cam kết triển khai quân đội dài hạn nào hay phải chi tiền của
người đóng thuế. Các nhà lãnh đạo châu Âu, vốn đang vật lộn với thách
thức nội bộ cả về chính trị, an ninh và kinh tế, cũng không tha thiết theo
đuổi những cúộc phiêu lưu mới ở nước ngồi mà khơng nhìn rõ lợi ích thu


15
được. Trong khi đó, hai cường quốc khác là Trung Quốc và Nga cũng có
những mối bận tâm riêng của mình. Với Trung Quốc, đó là thúc đẩy tiến
trình cải cách kinh tế đầy phức tạp và nhiều rủi ro ở trong nước. Còn nước

Nga vẫn chưa hành động quyết liệt khi mà Tổng thống V. Putin cho rằng,
những lợi ích và vị thế của nước Nga đang bị đe dọa. Trong một thế giới
mà khơng có quốc gia nào muốn đứng mũi chịu sào, Liên hợp quốc càng
mang trọng trách nặng nề hơn. Chính bởi vậy, dù muốn hay không, các
quốc gia nhiều ảnh hưởng tại Liên họp quốc vẫn phải công nhận sự cần
thiết phải cải tổ cơ chế hoạt động của cơ quan này để có thể xừ lý hiệu quả
hơn những vấn đề mà các nước lớn không muốn trực tiếp tham gia giải
quyết nữa.
Với những thách thức lớn như vậy, sự thành công không chỉ phụ
thuộc vào năng lực và kinh nghiệm của bản thân ông A. Guterres, mà còn ở
5 ủy viên thường trực có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an.
Có lẽ chính bởi vậy mà thơng điệp đầu tiên Tổng Thư ký Liên họp
quốc A. Guterres đưa ra là “làm điều đúng đắn thơi là chưa đủ, mà chúng
ta cịn cần phải giành lấy quyền được làm điều đúng đắn”


16
PHẦN THỨ BA
THAM GIA CỦA VIỆT NAM TẠI LIÊN HỢP QUỐC
VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
I.Tham gia, đóng góp của Việt Nam tại Liên hợp quốc
Việt Nam chính thức gia nhập Liên hợp quốc vào ngày 20/9/1977.
Trong suốt gần 40 năm là thành viên của tổ chức lớn nhất hành tinh này,
Việt Nam ln tích cực và tham gia có trách nhiệm vào các hoạt động
trong khuôn khổ hệ thống Liên hợp quốc , tranh thủ tối đa sự đồng tình,
ủng hộ và hợp tác của các nước thành viên để xây dựng và phát triển đất
nước, Việt Nam luôn coi Liên hợp quốc là một diễn đản đa phưong quan
ừọng để tăng cường quan hệ với tất cả các quốc gia trên thế giới, cùng bảo
vệ các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc vì hịa bình, họp
tác và phát triển, bảo đảm những lợi ích cốt lõi của quốc gia và hài hịa với

lợi ích chung của cộng đơng quốc tế. Có thể thấy sự chủ động, tích cực và
những đóng góp nổi bật của Việt Nam ừong các hoạt động chung của Liên
hợp quốc và nỗ lực cải tổ tổ chức này qua một số mặt sau:
1. Việt Nam - một thành viên tích cực và trách nhiệm của Liên
hợp quốc
Với đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hịa bình, hợp tác, phát triển,
đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, là bạn, đối tác tin cậy và
trách nhiệm của các nước trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã chủ động
tích cực tham gia và được các nước bầu vào các cơ chế hoạch định chính
sách của Liên hợp quốc, như ECOSOC (1997 - 2000), ủy ban Nhân quyền
(2001 - 2003) và Hội đồng Nhân quyền (2014 - 2016), Liên minh Viễn
thơng quốc tế (2003 - 2Ọ07), Phó Chủ tịch Hội đồng chấp hành tổ chức
UNDP/ƯNFPA, phối hợp với Liên hợp quốc triển khai kế hoạch chung
trong phát triển kinh té - xã hội. Nổi bật nhất là Việt Nam đã hồn thành
xuất sắc vai trị ủy viên khơng thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2008 - 2009. Trong nhiệm kỳ đó, Việt Nam .đã đề cao các


17
nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, đồng thời
thúc đẩy họp tác, giải quyết hịa bình các tranh chấp quốc tế, bảo vệ lợi ích
chính đáng cùa các bên liên quan; góp phần giảm căng thẳng và hỗ trợ giải
quyết các vấn đề hòa bình, an ninh tại nhiều khu vực trên thế giới. Trong
thời gian là Chủ tịch Hội đồng bảo an Liên hợp quốc vào tháng 7/2008,
Việt Nam đã tổ chức và chủ tri thảo luận mở về "Trẻ em và xung đột vũ
trang" tại Hội đồng bảo an. Sáng kiến này đã được các nước đánh giá cao,
thể hiện đóng góp thực chất và có trách nhiệm của Việt Nam đói với Liên
hợp quốc.
Cùng Liên hợp quốc gánh vác sứ mệnh gìn giữ hịa bình, an ninh
quốc tế, Việt Nam đã cử cán bộ tham gia Lực lượng gìn giữ hịa bình của

Liên hợp quốc làm nhiệm vụ tại Phái bộ ở Nam Sudan và Cộng hòa Trung
Phi1. Việt Nam ủng hộ giải trừ quân bị toàn diện và triệt để do Liên hợp
quốc đề ra, nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ thành viên của các điều ước
quốc tế về chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, thực hiện đầy đủ các
nghị quyết của HĐBA Liên hợp quốc về báo cáo các biện pháp thực hiện
các điều ước này, phê chuẩn Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện và ký
Nghị định thư bổ sung cho Hiệp ước Bảo đảm hạt nhân theo Hiệp ước
Không phổ biến vũ khí hạt nhân.
2. Những thành tựu nổi bật của Việt Nam trong thực hiện nghĩa
vụ thành viên của Liên hợp quốc
Trong những năm qua, với những nỗ lực không ngừng nghỉ, vượt
qua những khó khăn, thách thức do trình độ phát triển cịn thấp, nhưng
Việt Nam ln tích cực triển khai thực hiện và hoàn thành trước thời hạn
các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs), chủ động lồng ghép các mục tiêu
này vào các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việt Nam
đã hoàn thành sớm một cách ấn tượng mục tiêu xóa bỏ tình trạng nghèo
cùng cực và thiếu đói, đạt được mục tiêu thứ hai về phổ cập giấo dục tiểu
1


18
học như tỷ lệ hoàn thành tiểu học là 88,2% và tỷ lệ người dân từ 15-35
tuổi biết đọc biết viết là 98,5%, hoàn thành mục tiêu về tăng cường bình
đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ. Trước tiến độ triển khai MDGs
chưa đồng đều và còn chậm ở nhiều nơi trên thế giới, những thành tựu của
Việt Nam đã được các nhà lãnh đạo Liên họp quốc đánh giá cao, coi đây
là một mơ hình tốt cho các nước đang phát triển tham khảo. Hiện Việt
Nam đang cùng các thành viên Liên hợp quốc nỗ lực triển khai Chương
trình Nghị sự phát triển 2030 của Liên hợp quốc được thông qua tại Đại
hội đồng Liên hợp quốc khóa 70 (25/9/2015) với 17 Mục tiêu phát triển

bền vững và 169 mục tiêu cụ thể.
Việt Nam - nước thỉ điểm thực hiện mơ hình “Một Liên hợp quốc tại
Việt Nam”. Việt Nam luôn nhận thức được tầm quan trọng và vai trò trung
tâm của Liên hợp quốc trong ứng phó với các thách thức tồn cầu, qua đó ủng
hộ sự phát triển Liên hợp quốc theo hướng ngày càng minh bạch, dân chủ để
ứng phó tốt hơn với tình hình mới. Tháng 01/2007, Tổng Thư ký Liên hợp
quốc Ban Ki-moon chính thức chọn Việt Nam là một trong 8 nước thí điểm
thực hiện sáng kiến “Một Liên họp quốc” (One United Nations) tại Việt Nam.
Đây là sự tiếp nối của cả một quá trình cải cách việc quản lý, sử dụng và nâng
cao tính hiệu quả của nguồn lực ODA, phản ánh sự chủ động, tính làm chủ
của Chính phủ Việt Nam. Ngày 23/5/2015, Ngơi nhà chung Liên hợp quốc đã
được khánh thành, là một trong 6 trụ cột của Sáng kiến cải tổ thống nhất hành
động tại Việt Nam (gồm kế hoạch chung, ngân sách chung, lãnh đạo chung,
bộ quy tắc thực hành quản lý chung, tiếng nói chung và ngơi nhà xanh - Một
Liên hợp quốc). Những đóng góp của Việt Nam tại Liên hợp quốc đã góp
phần nâng cao uy tín, vị thế, vai trị của Việt Nam trên trường quốc tế, bảo
đàm lợi ích, lập trường quốc gia trên nhiều vấn đề quốc tế
II. Một số khuyến nghị để nâng tầm tham gia, đóng góp của Việt
Nam tại Liên hợp quốc.
Chặng đường hình thành và phát triển của Liên hợp quốc trong hơn
70 năm qua cho thấy tổ chức này sẽ tiếp tục là nền tảng không thể thiếu cho


19
một nền hịa bình bền vững, cơng bằng và thịnh vượng trên thế giới. Do đó,
Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh tham gia các hoạt động của Liên hợp quốc
vừa để nâng tầm đóng góp của ta vào nỗ lực chung nhằm thúc đẩy uy tín,
vai trị của tổ chức này, vừa tranh thủ họp tác, hỗ trợ của Liên hợp quốc để
phục vụ cho mục tiêu bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế quốc tế và phát triển
đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện tốt mục tiêu này, trong

thời gian tới, chúng ta cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp sau:
1.Tiếp tục đẩy mạnh tham gia và đóng góp thoả đảng vào các nỗ lực
vì hồ bình, độc lập và phát triển. Ta cần tham gia đầy đủ và thực chất hơn
vào các cơ chế hoạch định chính sách và các cơ chế, hội nghị trong khuôn
khổ Liên hợp quốc về phát triển kinh tế - xã hội, môi trường, an ninh lương
thực, tài chính cho phát triển, nhà ở, nhân quyền, dân số và phát triển, phụ
nữ, frẻ em, chống phân biệt chủng tộc, phòng chống HIV/AIDS... nhằm
tranh thủ sự hỗ trợ, họp tác của các nước thành viên và của Liên hợp quốc
trong nỗ lực thực hiện Chương trình Nghị sự phát triển đến 2030 và các mục
tiêu phát triển quan trọng khác.
2. Chủ động, tích cực hơn nữa trong nỗ lực cải tổ Liên hợp quốc
để phát huy vai trị và thúc đẩy các lợi ích của ta (tham gia bàn bạc, đề
xuất hướng giải quyết, chủ động đối thoại, có những đóng góp, sáng kiến
cụ thể, có ý nghĩa thực tiễn). Đặc biệt, cần tích cực phối họp với các nước
thành viên, nhất là các nước ASEAN và các nước có cùng quan điểm để đề
ra định hướng và một số biện pháp cụ thể nhằm cải tổ phương thức hoạt
động của Liên hợp quốc theo hướng ngày càng thiết thực, hiệu quả, đáp
ứng được lợi ích của các nước thành viên, nhất là các nước đang phát triển.
3. Kiên trì đẩu tranh bảo vệ các lợi ích thiết thân của ta, nhất là
trên các vẩn đề nhân quyền, an ninh, lãnh thồ. Trước tình hình chính trị
- xã hội ổn định của Việt Nam, dân chủ, nhân quyền luôn là chiêu bài
được Mỹ và phương Tây thường xuyên lợi dụng để chống phá, can thiệp
vào công việc nội bộ của ta, thúc đẩy “diễn biến hòa bình”. Trong bối


20
cảnh đó, cơng tác đấu tranh ngoại giao trong các vấn đề dân chủ, nhân
quyền cần được triển khai một cách bài bản, tích cực, chủ động, có hiệu
quả thơng qua các biện pháp, hình thức đấu tranh linh hoạt, có sự tham gia
và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong và ngoài nước.

Đặc biệt là cần phát huy vai ừò thành viên của Hội đồng Nhân quyền
Liên hợp quốc , chủ động đấu tranh ngăn chặn Mỹ và phương Tây lợi dụng
cơ chế này để đưa ra các nghị quyết về tình hình nhân quyền Việt Nam. cần
tiếp tục ứng cử và vận động các nước bầu Việt Nam vào các cơ chế quan
trọng của Liên hợp quốc trong thời gian tới, như Hội đồng Kinh tế và Xã
hội, Hội đồng Nhân quyền, Uỷ ban Phát triển Xã hội, Uỷ ban về Tình trạng
Phụ nữ... để nâng cao vị thế của Việt Nam và tận dụng tốt lợi thế là thành
viên của các cơ quan này nhằm vơ hiệu hố âm mưu của các thế lực thù địch
chống phá ta tại các diễn đàn này. Trong quá trình tham gia các cơ chế này,
ta cần tích lũy và học hỏi kinh nghiệm từ các nước thành viên để nghiên cứu,
áp dụng các hình thức đấu tranh mới, linh hoạt hơn để đề cao vị thế của ta và
hạn chế can thiệp tác động từ bên ngoài.
4.Tiếp tục thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo trong xử lý các vẩn đề
nhạy cảm, tránh căng thẳng, đổi đầu với các nước, nhất là các nước lớn.
Ta cần chủ động hơn trong việc xử lý, có sự phối họp chặt chẽ ừong nước và
tranh thủ nhiều bạn bè có cùng quan điểm nhằm thực hiện chủ trương của ta
về các vấn đề liên quan (thể hiện quan điểm nhất quán của ta về giải trừ quân
bị vũ khí huỷ diệt hàng loạt, ủng hộ giải quyết hịa bình các tranh chấp quốc
tế, cải tổ Liên hợp quốc, đề cao vai trị của chủ nghĩa đa phương...). Chủ
động, tích cực tham gia theo dõi và cùng các nước đóng góp vào quá trình
bàn bạc và xử lý nhiều vấn đề mới nổi lên, thay vì bị động ngồi chờ các
nước định đoạt cách thức xử lý vấn đề xong rồi mới tham gia. Với một số
nước lâu nay ta chưa thực sự có quan hệ đối tác trên các vấn đề chính trị, ta
cần chủ động tỏ thái độ hợp tác và ủng hộ trên một số vấn đề không gây cấn
đối với ta để tranh thủ thiện cảm, sự ủng hộ của các nước này đối với những
vấn đề thuộc quan tâm, lợi ích của ta.


21
5.Tiếp tục huy động hỗ trợ kỹ thuật và tài chinh của Liên hợp quốc

cho các yêu cầu mới của ta về phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
quốc tế
Trong giai đoạn đất nước đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn
diện, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là giữ vững mơi trường hịa bình, ổn
định để phát triển, ta cần tập trung tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức trong
hệ thống phát triển Liên hợp quốc, đặc biệt là các dự án viện trợ của Liên
hợp quốc, để nâng cao trình độ năng lực sản xuất, phát triển nguồn nhân lực
khoa học - kỹ thuật, như các dự án của Chương trình Lương thực Thế giới
(WFP) cho trồng rừng và nâng cấp đê biển, hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng...
Do viện trợ từ các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc thường không kèm
điều kiện ràng buộc nào nên ta cần tích cực tận dụng để hỗ trợ hoạch định
chính sách trên những lĩnh vực cần thiết, đơi khi nhạy cảm song ta còn yếu
hoặc thiếu, như thuỷ lợi, nông nghiệp và thực phẩm, lâm nghiệp, thương mại,
viễn thông... Các cơng trình nghiên cứu, quy hoạch này sẽ là cơ sở có giá trị
cho việc xây dựng định hướng cùa Việt Nam trong thời gian tới. Ta cũng cần
tranh thủ ý kiến tư vấn của các chuyên gia có kinh nghiệm của các tổ chức
của Liên hợp quốc để soạn thảo nhiều bộ luật, văn bản quy phạm pháp luật
quan trọng khác, đặc biệt trong bối cảnh ta vừa ký kết và chuẩn bị thực thi
hàng loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, nổi bật là Hiệp
định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và FTA Việt Nam - Liên minh
châu Âu (EVFTA).
6.Cần sớm xây dựng định hướng vêu cầu sự hỗ trợ của Liên hợp
quốc với tầm nhìn dài hạn, trong đó ưu tiên chuyển mạnh từ hỗ trợ kỹ thuật,
chuyển giao công nghệ, cung cấp tư vấn... sang hỗ trợ các biện pháp cải cách
về chính sách, thể chế kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước, nền hành
chính cơng, luật pháp, lập kế hoạch đầu tư và phát triển hệ thống tài chính ngân hàng... Cùng với đó là thúc đẩy sự hỗ trợ của các tổ chức trong hệ
thống Liên hợp quốc đối với Việt Nam trong các lĩnh vực phát triển bền


22

vững, úng phó với các thách thức tồn cầu như biến đổi khí hậu, quản lý tài
nguyên nước, năng lượng, môi trường và đa dạng sinh học.
7.Tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công
tác đối ngoại đa phương. Đây là một đòi hỏi tất yếu và cần có sự quan tâm
của Lãnh đạo Cấp cao và các Bộ, ngành, cần kết hợp chặt chẽ giữa việc đào
tạo, bồi dưỡng thường xuyên với đào tạo, bồi dưỡng tăng cường theo hướng
giúp cán bộ có nền tảng kiến thức rộng, trình độ ngoại ngữ tốt và khả năng
phân tích, tổng họp các diễn biến riêng lẻ để đưa ra các nhận định chính xác.
Đồng thời, cần quan tâm đặc biệt bồi dưỡng cán bộ trẻ để hướng cán bộ phát
triển theo các hướng khác nhau và theo thế mạnh của mỗi cá nhân, hướng
cán bộ đi chuyên sâu hơn vào một số lĩnh vực củá ngoại giao đa phương như
giải trừ qn bị, gìn giữ hồ bình, mơi trường, phát triển... trong khi vẫn tiếp
tục bồi dưỡng cán bộ theo chiều rộng.
8.Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về đổi ngoại đa phương
Tuyên truyền là hoạt động ngày càng cần thiết trong ngoại giao đa
phương nhằm góp phần giúp quần chúng nhân dân theo dõi sát các hoạt
động của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết về
những quyết sách của Việt Nam trên những vấn đề phức tạp tại các cơ quan
này và nâng cao niềm tin vào đường lối đổi mới, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta. Sự tham gia của các cơ quan truyền thông cũng giúp
dư luận quốc tế hiểu hơn về chính sách đối ngoại, nỗ lực đóng góp xây
dựng của Việt Nam, qua đó góp phần tăng cường quan hệ của ta với các đối
tác. Cùng với đó, ta cần chú trọng phát triển quan hệ và tăng cường hợp tác
với các cơ quan, hãng thơng tấn nước ngồi, nhất là các hãng thơng tấn, báo
chí có uy tín, để cung cấp thơng tin kịp thời, chính xác, tạo sự tin cậy và
tranh thủ tuyên truyền chủ trương, chính sách và quan điểm, lập trường của
ta trên các vấn đề quốc tế quan tâm.
Hịa vào dịng chảy của lịch sử và với chính sách đối ngoại độc lập,
tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa cũng như nỗ lực vượt bậc và sự chuẩn



23
bị kỹ lưỡng của Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể tự hào và tin tưởng
Việt Nam có đù khả năng tham gia và tham gia hiệu quả vào các hoạt động
của tổ chức đa phương lớn nhất hành tinh này, phấn đấu phát huy vai trò
của Liên họp quốc vì lợi ích chung của mọi dân tộc./.


24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình cao cấp lý luận chính trị, Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, tập 14 các chuyên đề bổ trợ.
2. Bộ Ngoại giao, Vụ Tổ chức quốc tế, Kỷ yếu Hội thảo "Hội đồng Bảo
an LHQ và kinh nghiệm chuẩn bị làm thành viên Hội đồng”, Hà Nội,
12/2003.
3. Bộ Ngoại giao, Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chỉ Minh,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
4. Báo cáo kết quả cuộc trao đổi kinh nghiệm hoạt động tại HĐBA giữa
Vụ Tổ chức Quốc tế - Bộ Ngoại giao Việt Nam với Vụ Tổ chức Quốc tế Bộ Ngoại giao Na uy 2015.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2003.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2011.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2016.



×