Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

HUYỀN THOẠI NGƯỜI NỮ TRONG BA PHIM ĐIỆN ẢNH ĐÈN LỒNG ĐỎ TREO CAO; XUÂN, HẠ, THU, ĐÔNG…RỒI LẠI XUÂN VÀ TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.12 KB, 72 trang )

Dịch vụ viết luận văn trọn gói website:
luanvantot.com Zalo/tele 0934573149

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại
luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149
1

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................

1

CHƯƠNG 1: DẪN NHẬP: LÍ THUYẾT CẢI BIÊN VÀ VẤN ĐÈ NGHIÊN
CỨU HUYỀN THOẠI TRONG TÁC PHẨM CẢI BIÊN..........................

12

1.1. Lí thuyết cải biên trong giới hạn nghiên cứu tác phẩm điện ảnh cải biên
.................................................................................................................

12

1.2. Nghiên cứu huyền thoại trong tác phẩm cải biên...........................

25

1.3. Tái hiện huyền thoại trong tác phẩm điện ảnh cải biên: cơ chế và tác
dụng.........................................................................................................



32

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG THỨC CẢI BIÊN CỦA BA BỘ PHIM ĐIỆN ẢNH
ĐÈN LỒNG ĐỎ TREO CAO; XUÂN, HẠ, THU, ĐÔNG…RỒI LẠI XUÂN; VÀ
TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH................................................... 37
2.1. Động thái đối với tác phẩm được cải biên: lựa chọn chất liệu nghệ thuật
.................................................................................................................

37

2.2. Động thái đối với tác phẩm điện ảnh cải biên: lấp đầy chất liệu nghệ
thuật và hồn thiện bằng ngơn ngữ điện ảnh.........................................

43

CHƯƠNG 3: HUYỀN THOẠI NGƯỜI NỮ TRONG BA PHIM ĐIỆN ẢNH
ĐÈN LỒNG ĐỎ TREO CAO; XUÂN, HẠ, THU, ĐÔNG…RỒI LẠI XUÂN VÀ
TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH................................................... 58
3.1. Đèn lồng đỏ treo cao: “tính chất phụ nữ” đi cùng với hồn cảnh phong
tỏa; là cơng cụ tình dục và gắn liền với sự nắm giữ hạnh phúc bởi nam giới
.................................................................................................................

58

3.2. Xuân, Hạ, Thu, Đơng…Rồi lại Xn: “tính chất phụ nữ” đồng nhất với
tác nhân của tam độc “tham, sân, si”......................................................

62


3.3. Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh: “tính chất phụ nữ” đi liền với tính chất
yếu thế, trở thành đối tượng thể hiện nam tính và đi liền với trách nhiệm gia
đình..........................................................................................................

64

KẾT LUẬN.........................................................................................................

69

TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................. 70

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149
2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Vũ trụ nghệ thuật hiện đại và đương đại đã tạo ra nhiều cơ hội và tiềm năng cho
những kết giao và tiếp biến loại thể. Người nghệ sĩ từ đa lĩnh vực liên tục sáng tạo
nên những góc nhìn mới mẻ và khả hữu, khiến những đối tượng nghệ thuật được
hoàn thiện, biến chuyển và tái sinh khơng ngừng. Có thể nói, nghệ thuật hiện đại và
đương đại thúc đẩy con người chia sẻ và vận dụng vô vàn những bộ mã văn hóa. Từ
đó, văn bản trở thành một chủ thể đa diện và đa tầng, liên tục mời gọi các tác giả
đón nhận và tạo nghĩa. Trong số những thao tác đọc đáng kể, cải biên, như một thao
tác năng động và hấp dẫn, công nhận rằng văn bản đã có cuộc sống mới độc lập và
vượt khỏi biên giới của những tư duy đặc thù loại thể.
1.2. Cải biên học là lĩnh vực chưa có nhiều nghiên cứu và cơng bố mang tính đột

phá tại Việt Nam. Lí thuyết cải biên trên diện rộng là đối tượng học thuật chưa được
chú trọng để phổ biến trong các chuyên ngành nghiên cứu liên quan. Do đó, vấn đề
cải biên chưa nhận được sự quan tâm xứng đáng với những đóng góp của nó, trong
khi các nền học thuật tại Mỹ và Châu Âu đã đề cập và khai thác về cải biên được
một thời gian dài.
Nằm trong hoàn cảnh tương tự, Huyền thoại học vốn là một vấn đề lí thuyết thú vị
ra đời cách đây một thời gian khá dài. Tuy nhiên, việc tiếp nhận và diễn giải lí
thuyết này tại Việt Nam cịn nhiều hạn chế, dẫn đến sự hiểu lầm ít nhiều đối với đại
chúng. Lí thuyết huyền thoại chính vì thế ít có điều kiện để được phổ biến và ứng
dụng vào các hiện tượng chính trị - xã hội bản địa.
1.3. Từ thực trạng tiếp nhận lí thuyết như trên, cộng với sự hứng thú đối với những
tác phẩm cải biên và sự quan tâm đối với việc ứng dụng lí thuyết huyền thoại, người
viết nảy sinh ý định tìm hiểu mối tương quan giữa chúng trong nghiên cứu các hiện
tượng cải biên thuộc thể loại điện ảnh nhằm chỉ ra những tác dụng cụ thể hơn nữa
của việc cải biên. Sau khi tiếp cận một vài tác phẩm điện ảnh cải biên, người viết
nhận thấy phát hiện của mình là có cơ sở: sự tái hiện huyền thoại là tất yếu khi cải
biên một văn bản sang thể loại điện ảnh bởi sự sản sinh ấn tượng thị giác của thể
loại này.
1.4. Chúng tôi lựa chọn ba đối tượng điện ảnh đã nêu, với những lí do như sau:

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149
3

1.4.1. Thứ nhất, ba bộ phim này, dù là dòng phim nghệ thuật hay dòng phim thương
mại, đều là những sản phẩm cải biên đáng chú ý, vị thế đối với người tiếp nhận
không hề thua kém tác phẩm được cải biên, thậm chí có trường hợp cịn thành cơng
hơn trên thị trường phát hành tương ứng.

1.4.2. Thứ hai, ba bộ phim tuy phản ánh các đối tượng trung tâm khác nhau: phụ nữ
(Đèn lồng đỏ treo cao), đàn ông (Xuân, Hạ, Thu, Đông,…Rồi lại Xuân), trẻ em (Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh); và trải dài trên dòng thời gian với lần lượt các thời
điểm ra đời khác nhau: 1991, 2004, 2015; nhưng đều có sự trình hiện hình ảnh
người nữ, đặt trong những mối tương quan với người nam và tương quan ấy mang
dấu ấn đặc trưng về giới: người nữ như là cơng cụ tình dục, người nữ như là phương
tiện tu tập, người nữ như là tác nhân tha hóa, và người nữ như là đối tượng thể hiện
nam tính.
1.4.3. Khái quát từ hai lí do trên, chúng tơi kết luận, có thể đặt ba phim điện ảnh này
cạnh nhau vì tính chất tương đồng trong sự trình hiện hình ảnh người nữ, bất chấp
sự khác biệt về quốc gia, thời đại, mục đích sản xuất và nội dung đề cập.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu về lí thuyết cải biên
Cải biên học là lĩnh vực chưa được đề cập một cách bài bản và rộng rãi tại Việt
Nam. Trong khi đó, nguồn tài liệu nước ngồi đã xây dựng hệ thống lí thuyết cải
biên tương đối đa dạng và khai thác phong phú nhiều trường hợp hoặc nhóm trường
hợp cải biên nổi bật. Do đó, người viết sẽ trình bày lịch sử vấn đề từ những cơng
trình nước ngồi đến những cơng trình trong nước. Nguồn sách Anh Ngữ được
người viết tiếp thu với điều kiện còn nhiều hạn chế. Đây là một vài cơng trình nổi
bật ra đời và được phổ biến trong khoảng thời gian mười lăm năm trở lại đây, do đó
có tính cập nhật và tương thích thời đại cao hơn. Đối với nguồn tài liệu trong nước,
lí thuyết cải biên được giới thiệu thơng qua các luận án thuộc lĩnh vực nghiên cứu
văn học - điện ảnh và các bài báo điện tử với dung lượng và qui mơ khai thác hẹp
hơn.

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149
4


Về nguồn tài liệu nước ngồi:
Những cơng trình người viết có thể tìm kiếm và tiếp cận bao gồm:
(1) Adaptation and Appropriation, cuốn sách xuất bản năm 2005 của tác giả Julie
Sanders. Trong ấn phẩm này, tác giả trình bày nhiều vấn đề như: sự đa dạng về định
nghĩa và thực hành của hai hiện tượng cải biên - chiếm dụng; những động lực văn
hóa - thẩm mỹ của việc cải biên; những phương thức cải biên đa dạng của nghệ
thuật đương đại; sự ảnh hưởng và dịch chuyển của những lí thuyết vào hiện tượng
cải biên - chiếm dụng; và sự chiếm dụng xuyên văn hóa, xuyên thời gian những văn
bản kinh điển và những nguyên mẫu văn học. Tiếp cận cơng trình của Julie Sanders,
người đọc được mở rộng hiểu biết về các hiện tượng chiếm dụng thú vị hiện diện
trong văn học kinh điển cũng như mở rộng góc độ khai thác đối với hiện tượng này.
(2) A theory of Adaptation, cuốn sách xuất bản năm 2006 của tác giả Linda
Hutcheon. Trong ấn phẩm này, tác giả xây dựng hệ thống lí thuyết mạch lạc và sáng
rõ, trình bày những vấn đề đáng lưu tâm về hiện tượng cải biên. Điều đáng chú ý về
kiến thức được đề cập trong cuốn sách này là sự mở rộng biên độ của hiện tượng cải
biên, người đọc có cái nhìn thực sự phổ quát nếu đồng tình với tác giả, rằng cải biên
xuất hiện trong hầu hết sản phẩm văn hóa và đã trải dài hằng thế kỉ, và văn học điện ảnh chỉ là hai loại thể quen thuộc đối với tiếp nhận của chúng ta. Đánh giá của
tác giả Linda có thể ứng dụng trong cả các sản phẩm thương mại, chứ không dừng
lại ở các tác phẩm cải biên nghệ thuật, vì khơng bỏ qua những nguyên nhân cải biên
xuất phát từ yếu tố kinh tế. Và đóng góp thêm nữa là sự cơng nhận và mời gọi người
đọc cơng nhận đóng góp cải biên của nhiều đối tượng khác nhau, mở rộng khái
niệm “nhà cải biên” khỏi quan niệm cũ - chỉ dừng lại ở đạo diễn. Người viết cho
rằng, cuốn sách này đóng vai trò nền tảng, nên được tiếp cận trước khi đến với cơng
trình của Julie Sanders.
(3) Film Adaptation and its Discontents - From Gone with the Wind to The Passion
of the Christ, cuốn sách xuất bản năm 2009 của tác giả Thomas Leitch. Tác giả đặt
ra vấn đề quan trọng khi tiếp cận tác phẩm cải biên là việc nhìn nhận và phân tích
q trình cải biên như là sự khai thác và sáng tạo từ văn bản ngôn từ; quan tâm về
việc cải biên đặt ra một sự giới thiệu chứ không chỉ là sự sao chép; và chỉ ra cách

thức những văn bản văn hóa đại chúng được cải biên lên màn ảnh. Cũng giống như

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149
5

cơng trình của Julie Sanders, cuốn sách này cho thấy những bàn luận trong phạm vi
hẹp hơn, thích hợp để mở rộng tiếp nhận cho độc giả đã có kiến thức khái quát về
cải biên học.
Về nguồn tài liệu trong nước:
(1) Năm 2012, tác giả Phan Bích Thủy cơng bố luận án Tiến sĩ Từ tác phẩm văn
học đến tác phẩm điện ảnh: khảo sát việc chuyển thể tác phẩm truyện văn học
thành phim truyện điện ảnh trong lịch sử văn học và điện ảnh Việt Nam. Trong đó,
tác giả trước hết trình bày tương quan giữa hai loại hình văn học - điện ảnh ở các
khía cạnh tương đồng và khác biệt (Chương 1). Người viết nhận thấy, ở phần này,
những đánh giá của tác giả chưa thật sự tạo nên khu biệt bởi những khía cạnh được
đề cập vốn đồng thời liên quan đến hầu hết các loại hình nghệ thuật khác. Trong
nhiều diễn đạt của mình, tác giả bộc lộ quan điểm: điện ảnh tiếp thu văn học và tính
chất văn học là yếu tố quan trọng làm nên thành công của sản phẩm điện ảnh. Theo
chúng tơi, quan điểm này chưa thỏa đáng vì vốn dĩ tác phẩm điện ảnh đã trở thành
sản phẩm tự trị với bộ mã tiếp nhận chuyên biệt, không nên được nhìn nhận như sản
phẩm thứ cấp. Đóng góp của luận án này nằm ở Chương 2: Cơ chế và qui trình thực
hiện việc chuyển thể từ tác phẩm văn học sang phim truyện điện ảnh. Trong chương
này, tác giả đã cung cấp nguồn kiến thức về kĩ thuật và qui trình sản xuất phim
truyện điện ảnh từ cơ sở chuyển vị nội dung tác phẩm văn học. Đây là những trình
bày bổ ích đối với nhu cầu tiếp thu kiến thức chuyên ngành biên kịch và sản xuất
điện ảnh. Ở Chương 3: Một số thành tựu của phim truyện chuyển thể từ tác phẩm
văn học, tác giả khảo sát và đánh giá các tác phẩm “chuyển thể” (chữ dùng xuyên

suốt của tác giả trong luận án) được cho là thành cơng. Người viết cho rằng nội
dung đưa ra mang tính đa dạng, tuy phương pháp triển khai chưa làm nổi bật được
sự đóng góp độc lập của hai thể loại nghệ thuật đối và tập trung vào thành công ở
mặt nội dung. Đánh giá chung về vấn đề cải biên (“chuyển thể”) được thể hiện trong
luận án, người viết cho rằng cơng trình này thích hợp đối với những người đọc có
nhu cầu tìm hiểu lịch sử chuyển thể từ tác phẩm văn học của Điện Ảnh Việt Nam.
(2) Năm 2015, tác giả Đào Lê Na công bố luận án Tiến sĩ Ngữ Văn Lí thuyết cải
biên học: Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh - trường hợp Kurosawa

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149
6

Akira. Đây là cơng trình đạt được giá trị lí luận lớn nhất cho đến thời điểm hiện tại.
Trong luận án này, tác giả đã hệ thống hóa lí thuyết về cải biên học một cách đầy đủ,
vững chắc và sáng rõ. Đối tượng được nghiên cứu của tác giả này là nghệ thuật cải
biên của nhà làm phim Kurosawa Akira, một nhân vật nổi tiếng trong việc cải biên
văn học thành những tác phẩm điện ảnh ấn tượng, tuy nhiên chưa thực sự được phổ
biến với người học trong việc đào tạo các chuyên ngành liên quan. Bộ mặt của lí
thuyết cải biên được tác giả định hình như là sự phức hợp của các lí thuyết: lí thuyết
liên văn bản, lí thuyết phiên dịch, lí thuyết văn hóa, lí thuyết giải kiến tạo; và nhìn
nhận bổ sung từ góc độ cá nhân như là hành trình tiếp nhận và hồi đáp sáng tạo.
Người viết cho rằng, những tổng hơp, phân tích và diễn giải của Đào Lê Na là hợp
lí, mới mẻ và cần thiết cho những nghiên cứu liên ngành về sau, cũng như mở rộng
phạm vi học thuật của đối tượng nghiên cứu khỏi ranh giới của lĩnh vực điện ảnh.
(3) Năm 2016, NXB Khoa học Xã hội ấn hành Chuyên luận Tiến sĩ của Tiến sĩ Lê
Thị Dương: Chuyển thể Văn học - Điện ảnh (Nghiên cứu liên văn bản), cho thấy một
góc độ tiếp nhận cải biên khác: giới hạn từ một lí thuyết duy nhất - lí thuyết liên văn

bản. Quan điểm này có sự giao thoa với những nhận định của tác giả Đào Lê Na, tuy
khác nhau về cách sử dụng thuật ngữ. Từ cơ sở lí thuyết liên văn bản, việc đánh giá
chuyển thể văn học - điện ảnh như là phương thức liên văn bản tất yếu, khẳng định
văn bản là những liên văn bản, là góc nhìn thuyết phục. Điểm duy nhất mà chúng tơi
chưa đồng tình là việc duy trì thuật ngữ “chuyển thể” (chữ dùng xuyên suốt của tác
giả), làm hạn chế phạm vi diễn giải của tác phẩm điện ảnh, mặc dù nội dung triển
khai của tác giả không giới hạn điện ảnh - văn học chỉ như là sự chuyển đổi loại thể.
(4) Ngoài ra, còn tồn tại một số lượng các bài viết nhỏ lẻ về mối quan hệ văn học điện ảnh trên nhiều cổng thơng tin điện tử, đóng góp cái nhìn về bộ mặt cải biên
đương thời và thể hiện quan điểm ngày càng hiện đại về giá trị nghệ thuật độc lập
của tác phẩm điện ảnh cải biên.
2.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu về lí thuyết huyền thoại (Roland Barthes)
Cơng trình Những huyền thoại (Mythologies) được tác giả Roland Barthes công bố
từ năm 1957. Ấn bản Tiếng Việt dịch bởi dịch giả Phùng Văn Tửu được phát hành

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149
7

năm 2008. Tuy nhiên, hiện nay, những diễn giải và nghiên cứu xoay quanh lí thuyết
huyền thoại vẫn hạn chế.
Cho đến hiện tại, bên cạnh rất ít bài viết tái diễn giải lí thuyết này, sự phân tích cơ
chế đi kèm với sự ứng dụng lí thuyết huyền thoại duy nhất được thực hiện thông
qua dự án mang tên Những huyền thoại, bởi nhóm Thứ 6 - Nhóm đọc sách khoa học
xã hội và nhân văn. Dự án này được Thứ 6 vận hành thông qua việc đăng tải trực
tuyến cũng như tổ chức trao đổi trực tiếp lí thuyết huyền thoại: nhận diện và giải mã
những huyền thoại trong đời sống Việt Nam đương đại. Sản phẩm hoạt động học
thuật của nhóm mang tính sinh động và gợi mở trải nghiệm văn hóa đại chúng, do
đó tạo nên niềm hứng thú cho nhiều cá nhân, trong đó có người viết, quan tâm đến lí

thuyết huyền thoại và sự hiện diện của nó trong nhiều phương diện đời sống.
2.3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu các trường hợp cải biên cụ thể
Thuật ngữ “cải biên” ít nhiều xa lạ với độc giả Việt Nam, bởi lẽ nó được sử dụng
thay thế bằng thuật ngữ “chuyển thể”, và đa phần tập trung vào hai đối tượng văn
học - điện ảnh. Các cơng trình hệ thống hóa lí thuyết cải biên bằng Tiếng Việt tuy
chưa xuất hiện nhiều nhưng dạng bài viết phân tích trường hợp thì chiếm số lượng
đáng kể, đặc biệt là bài báo khoa học hoặc bài viết đăng tải trên các địa chỉ thông tin
điện tử. Điều này cho thấy, trong phạm vi tiếp nhận như là “chuyển thể”, cải biên
văn học - điện ảnh là vấn đề tạo ra hứng thú cho nhiều tác giả.
Có ít nhất bốn đóng góp quan trọng về nghiên cứu trường hợp “chuyển thể” văn học
- điện ảnh, theo chúng tôi, là (1) bài viết của TS. Phan Bích Thủy, Phim Đừng đốt Câu chuyện huyền thoại về cuốn nhật kí Đặng Thùy Trâm (Tạp chí Khoa học
Trường ĐH Sư phạm TP HCM, số 32, 2011; (2) bài viết của đạo diễn Mai An
Nguyễn Anh Tuấn, Truyện Kiều: từ văn học đến điện ảnh - một phương thức diễn
dịch nghệ thuật đầy thử thách (Tham luận hội thảo quốc tế: Đại thi hào dân tộc,
Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du: Di sản và các giá trị xuyên thời đại, Viện
Hàn lâm KHXH Việt Nam, 2015); (3) bài viết của TS. Phan Thu Vân, Chiến tranh
Việt Nam và tinh thần hòa giải trong Forrest Gump - Từ văn học đến điện ảnh (Tạp
chí Khoa học Trường ĐH Sư phạm TP HCM, Khoa học xã hội và nhân văn, tập 14,
số 8, 2017); và (4) bài viết của tác giả Nguyễn Thị Bích, Thời xa vắng - hành trình
từ văn học đến điện ảnh (Tạp chí Văn nghệ Quân đội điện tử, 2017).

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149
8

Xét về nhóm (1), (3), (4), cả ba văn bản này đều dựa trên góc nhìn so sánh và tập
trung phân tích về các yếu tố thành cơng của tác phẩm điện ảnh. Đáng chú ý, các tác
giả đều có thao tác khai thác thành công đến từ ngôn ngữ điện ảnh, bên cạnh thành

công từ việc diễn giải nội dung, cho thấy sự quan tâm về vấn đề chất liệu nghệ thuật
khi tác phẩm được chuyển vị sang hệ thống kí hiệu mới. Đặc biệt, theo người viết,
bài báo khoa học của TS. Phan Thu Vân đã cho thấy góc độ tiếp nhận khác biệt và
sâu sắc, diễn giải ngôn ngữ điện ảnh theo phương diện đánh giá nhất quán, trình
hiện một lớp ý nghĩa cụ thể đầy ấn tượng từ tác phẩm điện ảnh. Chiều sâu nghiên
cứu này là điểm nổi trội, trong thế so sánh với hai bài viết còn lại,dừng lại ở những
đánh giá khái quát và những phân tích sơ khởi về các đối tượng nghệ thuật.
Xét về (2), tính chất bài viết có sự khác biệt. Từ góc nhìn của một nhà làm phim, tác
giả đưa ra tiềm năng điện ảnh và những lưu ý nếu cải biên tác phẩm Truyện Kiều, ở
các phương diện cốt lõi của điện ảnh như thiết kế bối cảnh, xây dựng tạo hình nhân
vật, khai thác xung đột và đặc biệt nhấn mạnh về thao tác trình hiện diễn biến tâm lí
nhân vật. Những phân tích này, đều hợp lí. Đáng kể hơn, sự đề cập đến việc cải biên
Truyện Kiều sang các dạng thức nghệ thuật khác như sân khấu, hội họa, bằng cách
gọi “diễn dịch” thay vì “chuyển thể” cho thấy sự xác định quan trọng về tính hạn
chế của thuật ngữ “chuyển thể”, khi trình bày sức sống của Truyện Kiều trong văn
hóa đại chúng.
Tuy nhiên, phải khẳng định, sự lựa chọn đối tượng nghiên cứu của bốn tác giả trên
là thỏa đáng. Thông qua các bài viết như trên, các tác giả đã mang đến niềm hứng
khởi ở người đọc trong việc tìm đến tiếp nhận tác phẩm điện ảnh cải biên hoặc tác
phẩm văn học được cải biên, từ đó đa dạng sự đọc và tạo động lực khai thác những
đóng góp nghệ thuật tự thân ở mỗi dạng thức nghệ thuật.
Tóm lại, qua việc tìm hiểu lịch sử vấn đề nghiên cứu, người viết có các nhận xét sau.
Thứ nhất, hiện tượng cải biên là đối tượng nhận được sự quan tâm của đông đảo tác
giả và được khai thác ở nhiều phương diện khác nhau. Tuy nhiên, ở Việt Nam,
hướng nghiên cứu này còn hạn chế về cách sử dụng thuật ngữ. Thứ hai, lí thuyết
huyền thoại của Roland Barthes chưa được vận dụng tích cực ở các nghiên cứu trong
nước, và cũng chưa được áp dụng như một hướng tiếp nhận sản phẩm điện ảnh cải
biên. Chính vì thế, sự ra đời của khóa luận này là cần thiết cho cả hai lĩnh

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com



Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149
9

vực, khi đóng góp một góc độ khai thác sản phẩm cải biên mới, dựa trên cơ sở
huyền thoại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của người viết bao gồm:
(1) Cơ sở tái hiện huyền thoại thông qua sự cải biên một văn bản sang sản phẩm
điện ảnh.
(2) Sự trình hiện nhân vật nữ giới trong ba trường hợp điện ảnh được chọn và sự
mời gọi huyền thoại tính chất phụ nữ kéo theo.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Người viết lựa chọn khai thác trong phạm vi ba bộ phim điện ảnh cải biên ở ba quốc
gia Châu Á khác nhau, ra mắt ở ba thời điểm khác nhau. Trong đó, hai phim điện
ảnh từ Trung Quốc và Hàn Quốc đã gây được nhiều tiếng vang nghệ thuật. Phim
điện ảnh Việt Nam còn lại, tuy là sản phẩm nhắm đến mục tiêu thương mại, nhưng
đã tạo ra làn sóng quan tâm rất đáng kể, là dấu ấn điện ảnh khơi gợi lại hứng thú của
người xem đối với thể loại điện ảnh cải biên.
(1) Đèn lồng đỏ treo cao (Đại hồng đăng lung cao cao quải; Raise the Red Latern),
Đạo diễn: Trương Nghệ Mưu, 1991 - cải biên từ tiểu thuyết Thê Thiếp thành quần,
Tô Đồng
(2) Xuân, Hạ, Thu, Đông,…Rồi lại Xuân (Spring, Summer, Autumn, …And Spring),
Đạo diễn: Kim Ki-duk, 2004 - cải biên từ lí thuyết Phật Giáo
(3) Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (Yellow flowers on the green grass), Đạo diễn:
Victor Vũ, 2015 - cải biên từ truyện dài Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Nguyễn
Nhật Ánh
4. Mục tiêu nghiên cứu
Khóa luận hướng đến mục tiêu làm sáng tỏ một vài phương thức cải biên, với văn

bản cải biên thuộc thể loại điện ảnh; và thơng qua sự trình hiện điện ảnh, phát hiện
sự mời gọi của huyền thoại tính chất phụ nữ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Người viết sử dụng hai phương pháp: phương pháp phân tích cơ chế cải biên và
phương pháp phân tích huyền thoại. Tương ứng với hai phương pháp này là việc
tiếp nhận và sử dụng hai thuật ngữ:

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149
10

(1) Thuật ngữ cải biên (adaptation) và những đặc trưng liên quan, của tác giả Linda
Hutcheon, từ cơng trình A theory of Adaptation.
(2) Thuật ngữ huyền thoại (myth) của Roland Barthes, từ cơng trình Những huyền
thoại (Phùng Văn Tửu dịch), đồng thời tham khảo nội dung từ bản tiếng Anh
Mythologies.
6. Đóng góp của khóa luận
Người viết cho rằng, khóa luận đã phần nào đóng góp được những giá trị sau:
(1) Tái diễn giải hệ thống kiến thức về lí thuyết huyền thoại theo một cách ngắn
gọn và sáng rõ.
(2) Giới thiệu một góc độ diễn giải mới mẻ về lí thuyết cải biên, từ cơ sở tiếp nhận
nguồn tài liệu quốc tế đã được công nhận về độ tin cậy.
(3) Đề xuất một phương pháp tiếp nhận và khai thác giá trị nghệ thuật của tác phẩm
điện ảnh cải biên, trong điều kiện thỏa mãn sự độc lập của bộ mã ngôn ngữ mới tiếp nhận điện ảnh thông qua việc đọc huyền thoại, được tái hiện bằng những ấn
tượng thị giác.
7. Bố cục khóa luận
Ngồi mục mở đầu và kết luận, khóa luận được trình bày với ba chương:
Chương 1: Dẫn nhập: Lí thuyết cải biên và vấn đề nghiên cứu huyền thoại trong tác

phẩm cải biên. Trong chương này, người viết tái diễn giải về lí thuyết cải biên, trên
cơ sở tiếp thu cơng trình A theory of Adaptation của Linda Hutcheon; về lí thuyết
huyền thoại trên cơ sở tiếp thu cơng trình Mythologies của Roland Barthes, bản dịch
Những huyền thoại từ Phùng Văn Tửu; và về cơ sở cũng như cơ chế tái hiện huyền
thoại trong tác phẩm điện ảnh cải biên.
Chương 2: Phương thức cải biên trong ba bộ phim điện ảnh Đèn lồng đỏ treo cao;
Xuân, Hạ, Thu, Đông…Rồi lại Xuân; và Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh. Trong
chương này, người viết phân tích phương thức cải biên chung với sản phẩm cải biên
là điện ảnh thể hiện qua ba sản phẩm trên: lựa chọn chất liệu nghệ thuật đối với sản
phẩm được cải biên và lấp đầy chất liệu nghệ thuật, hoàn thiện bằng ngôn ngữ điện
ảnh đối với sản phẩm cải biên.
Chương 3: Huyền thoại người nữ trong ba bộ phim điện ảnh Đèn lồng đỏ treo cao;
Xuân, Hạ, Thu, Đông…Rồi lại Xuân; và Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh. Trong

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149
11

chương này, người viết vận dụng cách đọc huyền thoại thứ ba theo định hướng của
Roland Barthes để phân tích và nhận xét sự mời gọi của huyền thoại người nữ trong
ba phim điện ảnh trên.

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149
12


CHƯƠNG 1: DẪN NHẬP: LÍ THUYẾT CẢI BIÊN VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN
CỨU HUYỀN THOẠI TRONG TÁC PHẨM CẢI BIÊN
1.1. Lí thuyết cải biên trong giới hạn nghiên cứu tác phẩm điện ảnh cải biên
1.1.1. Khái niệm cải biên và tác phẩm điện ảnh cải biên: sự chuyển di bộ mã
ngôn ngữ và sự tồn tại tự trị như là chính nó
“Cải biên” được dịch từ thuật ngữ “Adaptation”, với nghĩa “q trình thay đổi điều
gì đó cho thích hợp với hoàn cảnh mới” (“The process of changing something, to
suite a new situation”) (Từ điển Oxford). Sự thích nghi này khơng đơn giản chỉ là
sự thay đổi từ thể loại này sang thể loại khác như cách dùng từ chuyển thể, vốn phổ
biến hơn. Theo chúng tơi, cũng chính vì cách sử dụng từ ngữ với giới hạn nghĩa hẹp
hơn này, đối tượng tiếp nhận của cải biên tại Việt Nam thường gặp phải sự ngộ
nhận:
(1) Ngộ nhận thứ nhất: Tác phẩm cải biên chỉ là sự thay đổi về mặt thể loại từ một
nguyên tác nào đó. Ngộ nhận này dẫn đến những đối chiếu về mức độ tương đồng
với tác phẩm có trước và từ đó đánh giá mức độ thành công của tác phẩm cải biên
với cương vị là sản phẩm phái sinh trong sự tái hiện nguyên tác. Những suy nghĩ
mang tính đóng khung này dẫn đường cho quan niệm về thứ bậc cho những tác
phẩm nghệ thuật lẽ ra hồn tồn có đời sống tự thân. Xét đến một trường hợp phổ
biến: tác phẩm điện ảnh được cải biên từ tác phẩm văn học, được phần lớn khán giả
tiếp nhận với tư duy so sánh với tác phẩm văn học trên các phương diện tương đồng,
tương phản về nội dung và tác phẩm văn học đóng vai trò như là căn cứ tối thượng
để đánh giá mức độ thành công của tác phẩm điện ảnh. Những câu hỏi thường xuyên
được trao đổi giữa khán giả như sau: Phiên bản nào hay hơn? Có hay bằng nguyên
tác khơng? Có thể nói, đây là sai lầm cơ bản cần được thay đổi để mở rộng tầm đón
nhận của khán giả điện ảnh nói riêng và người tiếp nhận tác phẩm cải biên nói
chung. Bởi lẽ tác phẩm cải biên, như đã nhấn mạnh, không nằm trong mối liên hệ
thứ bậc với tác phẩm xuất hiện trước đó. Nghĩa là, chúng ta chỉ có thể đánh giá giá
trị của một tác phẩm điện ảnh (cải biên) so với các tác phẩm điện ảnh khác với hệ
thống tiêu chí nhất định, và, sự so sánh ngược về với tác phẩm có trước, thuộc vào
một thể loại khác biệt, là khập khiễng. Để quán triệt tư tưởng thứ bậc này, tác giả

Linda Hutcheon trong cuốn A theory of Adaptation đã nhấn mạnh cách sử dụng

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149
13

thuật ngữ của mình: hồn tồn loại bỏ cách gọi “văn bản nguyên tác” (“original
text”), hay “văn bản nguồn” (“source text”), thay vào đó là “văn bản được cải biên”
(“adapted text”)1.
(2) Ngộ nhận thứ 2: Cải biên chỉ xoay quanh các thể loại nghệ thuật quen thuộc
như văn học - điện ảnh - âm nhạc - sân khấu. Thực chất, hiện tượng cải biên xuất
hiện ở rất nhiều sản phẩm văn hóa, nghệ thuật đồng hành với cuộc sống con người.
Tác giả Linda Hutcheon đã chỉ ra những hiện tượng cải biên tham khảo đặc sắc mà
phần lớn chúng ta đã bỏ qua: Cơng viên văn hóa Disney Land, Trị chơi điện tử với
chủ đề lấy từ các bộ phim hoặc tiểu thuyết ăn khách, hay những tác phẩm Ballet,
Opera biên soạn từ kho tàng sân khấu của Shakespeare. Bên cạnh đó, chúng tơi
đồng thời chỉ ra các tác phẩm cải biên thú vị rất nổi tiếng và quen thuộc với độc
giả/thính giả/khán giả Việt Nam như: ca khúc “Starry Starry night” (được cải biên
từ bức họa cùng tên của họa sĩ Van Gogh); ca khúc “Nụ Tầm Xuân” (được cải biên
từ bài ca dao “Trèo lên cây bưởi hái hoa/ Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân/ Nụ
tầm xuân nở ra xanh biếc/ Em lấy chồng anh tiếc lắm thay”); Bảo tàng Studio Gibli
(được cải biên từ bộ sưu tập các phim hoạt hình của hãng phim Gibli); Video game
Chúa tể của những chiếc nhẫn (được cải biên từ bộ phim điện ảnh cùng tên). Sự đa
dạng đối tượng cải biên như trên cho ta thấy, sẽ là thiếu sót và sai lầm nếu như hiểu
rằng cải biên chỉ là phương thức xuất hiện qua lại giữa văn học và điện ảnh.
Từ hai ngộ nhận lớn về hiện tượng cải biên, người viết đi đến sự trình bày hợp lí về
cải biên và tác phẩm cải biên như sau:
1.1.1.1. Cải biên là hiện tượng chuyển di bộ mã ngôn ngữ

Người viết tiếp nhận cách đánh giá về cải biên theo Linda Hutcheon (A theory of
Adaptation) - từ hai phương diện: như là sản phẩm (product) và như là q trình
(process). Chúng tơi tái trình bày về vấn đề này như sau:
Thứ nhất, khi được nhìn nhận như là một sản phẩm, tác phẩm cải biên được xác
định là sự chuyển di mang tính mở rộng của một tác phẩm riêng biệt hoặc nhóm các
tác phẩm. Sự chuyển mã này liên quan đến vấn đề về môi trường trung giới
(medium), thể loại (genre), hoặc các phương thức cấu thành tác phẩm nghệ thuật
như điểm nhìn, bối cảnh, nhân vật, v.v..
1 Linda Hutcheon, A Theory of Adaptation, Routledge, 2006, Preface, p. xiii

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


14

Chúng tôi nhận thấy rằng, nền nghệ thuật phương Tây có nhiều tác phẩm văn học
khơng ngừng được cải biên để thu hút sự đón nhận của cơng chúng với một dạng
thức nghệ thuật khác. Xét ví dụ về các tác phẩm văn học như văn bản kịch của
Shakespeare , tiểu thuyết của Victor Hugo hay truyện cổ Andersen, truyện cổ
Grimm, có thể thấy, liên tục xảy ra sự chuyển di đa dạng đến các môi trường nghệ
thuật khác là sân khấu, hội họa hay điện ảnh. Sự cải biên của một số tác phẩm trải
dài xuyên suốt xu hướng thể hiện nghệ thuật của con người. Tác phẩm kịch Romeo
và Juliet của Shakespeare được cải biên thành các thể loại kịch nói, vũ kịch, sau đó
là nhạc kịch (đặc biệt nổi tiếng với sự cải biên của các nước Châu Âu như Pháp hay
Ý). Khi điện ảnh phổ biến, tác phẩm này ngay lập tức được cải biên với gần hai
trăm phiên bản khác nhau (bao gồm cả phim điện ảnh, phim truyền hình, phim phát
hành trực tuyến) từ đầu thế kỉ XX cho đến tận ngày nay. Tương tự, các trường hợp
văn học kinh điển Những người khốn khổ (Les Misérables) (1862) và Nhà thờ Đức
Bà Paris (Notre Dame de Paris) (1831) của Victor Hugo hay văn bản văn học Bóng
ma nhà hát Opera (Le Phantome de l’Opera) (1909) của Gaston Leroux lần lượt

được cải biên thành phim và nhạc kịch. Những vở nhạc kịch sản xuất trong vòng ba
mươi năm trở lại đây tạo được độ phủ sóng tồn cầu, như Les Misérables (nói bằng
tiếng Anh), Notre Dame de Paris (nói bằng tiếng Pháp), The Hunchback of Notre
Dame (nói bằng tiếng Anh), The Phantom of the Opera (nói bằng tiếng Anh). Cùng
với nhạc kịch Romeo et Juliette được cải biên bởi người Pháp, đây là những vở nhạc
kịch, những sản phẩm nghệ thuật cải biên có được thành công vang dội và chỗ đứng
nghệ thuật độc lập, nhờ vào giá trị chuyên biệt đến từ ngôn ngữ âm nhạc - môi
trường trung giới mới sau khi cải biên.
Thứ hai, khi được nhìn nhận như là quá trình, hành động cải biên liên quan đến thao
tác (tái) diễn giải ((re-)interpretation) và (tái) sáng tạo ((re-)creation) - trong trường
hợp cải biên như là quá trình sáng tạo (a process of creation). Sở dĩ có sự xuất hiện
của yếu tố phiên dịch ở đây bởi, như đã đề cập, tác phẩm cải biên là kết quả của quá
trình chuyển di và thích ứng hóa bộ mã nghệ thuật từ đối tượng này sang đối tượng
khác. Do đó, người viết cho rằng, việc làm này tương ứng như một bộ phận của lĩnh
vực phiên dịch, vốn có phạm vi vơ cùng rộng lớn: không chỉ dừng lại như một thao
tác ngôn ngữ học, phiên dịch yêu cầu sự huy động kiến thức sâu rộng về văn hóa


15

cho một sự thích ứng và tái hiện trong hồn cảnh tiếp nhận khác biệt. Đối với những
đối tượng như tác phẩm văn học, khi được phiên dịch sang một ngôn ngữ khác, dịch
giả không những thực hiện thao tác dịch về con chữ mà cần thiết hơn cả là sự am
tường ý nghĩa của nó về văn hóa để tiến đến một tầng sâu hơn của công việc phiên
dịch là lựa chọn đối tượng tương ứng về văn hóa thuộc bộ mã ngôn ngữ mới (trong
rất nhiều trường hợp là không ăn khớp trong ý nghĩa tường minh của từ ngữ, nhưng
tương thích về văn hóa). Tương tự khi trở lại với hiện tượng cải biên, đặc biệt đối
với tác phẩm cải biên điện ảnh, có thể nói, nhà cải biên là người đọc và phiên dịch
tác phẩm được cải biên từ bộ mã của môi trường trung giới cũ sang bộ mã ngôn ngữ
điện ảnh song hành cùng sự phiên dịch các yếu tố văn hóa cho phù hợp với các yêu

cầu về thẩm mỹ, kinh tế của nhà cải biên hoặc cho phù hợp với bối cảnh lịch sử - xã
hội thuộc về khán giả.
Nhờ vào sự tương đồng về văn hóa tiếp nhận và nhu cầu thẩm mỹ, khơng ít các sản
phẩm điện ảnh Hàn Quốc được các nhà làm phim Việt Nam lựa chọn để cải biên, trở
thành sản phẩm mới nói bằng Tiếng Việt. Phim điện ảnh Sunny (2011) là một trong
số đó. Cách thức cải biên của bộ phim này tại thị trường Việt Nam, đồng thời nằm
trong trào lưu điện ảnh thời điểm bấy giờ, là remake (có cách dịch phổ biến là làm
lại), được thực hiện bởi đạo diễn Nguyễn Quang Dũng, với tên gọi Tháng năm rực
rỡ (2018). Bộ phim được đánh giá thành cơng ở khía cạnh khéo léo thay đổi các chi
tiết thuộc về bối cảnh để trở nên tương ứng với văn hóa và lịch sử Việt Nam. Cụ thể,
bộ phim Sunny có hai tuyến truyện quá khứ và thực tại, bối cảnh quá khứ thuộc
những năm 1980 tại thành phố Seoul, khoảng thời gian xảy ra những phong trào đấu
tranh dân chủ nóng bỏng và tình hình chính trị chưa ổn định. Câu chuyện thanh
xn của năm nhân vật chính đặc biệt có sự góp phần của yếu tố âm nhạc. Những ca
khúc được sử dụng tạo nên ấn tượng thời đại đặc biệt, nhưng chỉ thực sự đặc biệt
đối với khán giả Hàn Quốc. Khi được cải biên, tác phẩm điện ảnh mới được thiết kế
bối cảnh quá khứ tại thành phố Đà Lạt vào những năm 1974 - 1975, và sử dụng các
ca khúc mang dấu ấn thời đại như Kim, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Yêu, Ngày
xưa hoàng thị và ca khúc Giấc mơ tuyệt vời, gợi nhớ kí ức của thế hệ khán giả sinh
từ năm 1980, đối tượng tiêu thụ chủ yếu được hướng đến của phim. Có thể thấy yếu
tố thời gian và chất liệu âm nhạc đã có sự chênh lệch, nhưng lại có một sự phiên


16

dịch văn hóa hợp lí, đáp ứng bộ mã văn hóa đại chúng đương thời của nước sở tại.
Sự cải biên những ấn tượng văn hóa của nhà sản xuất là phù hợp để tái hiện khơng
khí của một bối cảnh quá khứ đầy màu sắc với nền văn hóa đại chúng ảnh hưởng từ
Mỹ nở rộ và hoàn cảnh xã hội dậy sóng từ những cuộc đấu tranh dân chủ của người
trẻ tại Việt Nam, và tạo nên minh chứng cho nhiều suy nghĩ sai lầm rằng cải biên là

tái dựng trong sự tuân thủ toàn bộ yếu tố nội dung.
Bên cạnh góc độ tiếp cận cải biên như là q trình sáng tạo, hoạt động này cịn được
xem xét từ khía cạnh q trình tiếp nhận (process of reception) của nó. Linda
Hutcheon cho rằng sự cải biên mang tính chất là một hình thức liên văn bản (a form
of intertextuality). Chúng ta trải nghiệm tác phẩm cải biên thông qua sự liên hệ và
kết nối với những giá trị đa diện mà (có thể đã) trải nghiệm trước đó từ tác phẩm
được cải biên hoặc kí ức cá nhân, tạo nên những cảm xúc và đánh giá khác biệt giữa
người tiếp nhận chưa biết về tác phẩm được cải biên và người tiếp nhận đã biết về
tác phẩm được cải biên. Hầu hết những phân tích hiện nay nhằm làm rõ cho ý tưởng
này đều khai thác ở phương diện trải nghiệm hoàn toàn trong suốt hay trải nghiệm
mang tính đối chiếu của hai đối tượng tiếp nhận nói trên. Về phần người viết, chúng
tơi có thể chỉ ra một vận dụng khác liên quan đến hoạt động tiếp nhận mang tính
liên văn bản của người xem, đó là khả năng nhận diện tác phẩm được cải biên. Một
vài hiện tượng cải biên đã lựa chọn một phần trong tác phẩm được cải biên, từ đó
thực hiện các thao tác bổ sung hoặc làm mới. Sản phẩm nghệ thuật này có thể gây
chú ý đến người tiếp nhận và thúc đẩy họ liên văn bản đến một đối tượng khác hay
không, phụ thuộc vào phạm vi trải nghiệm của họ trong quá khứ, đã hoặc chưa, bao
hàm tác phẩm được cải biên. Năm 2019, nữ ca sĩ trẻ nổi tiếng người Mỹ Ariana
Grande ra mắt bài hát 7 rings. Sản phẩm âm nhạc này nhanh chóng phủ sóng tồn
cầu. Tuy nhiên, người nghe nhạc tại các nước khơng nói Tiếng Anh, thuộc thế hệ trẻ
và khơng có nhiều trải nghiệm về điện ảnh Hollywood trong quá khứ, không thể
nhận ra đây là một sản phẩm âm nhạc cải biên, và đối tượng được cải biên là ca
khúc My Favorite Things nằm trong bộ phim nhạc kịch The Sound of Music, từng
giành được năm giải Oscar năm 1965.
Từ một phương diện khác, phương diện nhà cải biên, Linda Hutcheon cho thấy, sự
cải biên cịn là q trình tiếp nhận mang tính liên văn bản. Tham khảo nhận định


17


này là cơ sở để người viết xác định: Sự tiếp nhận và tái tạo của nhà cải biên chịu chi
phối và bắt nguồn từ sự hiểu chủ quan - khuynh hướng thẩm mỹ, cũng như sự hiểu
khách quan - hệ thống các văn bản văn hóa được chia sẻ trong cộng đồng người tiếp
nhận. Đó là lí do cho các nhà cải biên điện ảnh sáng tạo nên các yếu tố ngoài văn
bản được cải biên như ấn tượng về phục trang, ấn tượng về dàn cảnh, ấn tượng về
tạo hình khn mặt hay ấn tượng về màu sắc, trong khn khổ mã văn hóa tiếp nhận
và diễn giải của nhà phê bình và người xem. Ví như một cảnh phim có màu xanh sẽ
mang lại cảm giác lạnh lẽo, cô đơn; một nhân vật với phục trang màu đỏ mang ý
nghĩa cho sự quyền lực hay vị trí hội thoại của nhân vật quyết định vị thế của họ so
với những đối tượng khác như thế nào.
1.1.1.2. Tác phẩm cải biên như là sản phẩm nghệ thuật tự thân
Tính tự trị của tác phẩm cải biên tuy khơng phải là vấn đề trọng tâm nhưng vốn dĩ
luôn cần được nhấn mạnh để đảm bảo loại trừ những lầm lẫn trong quá trình tiếp
nhận một tác phẩm cải biên đúng nghĩa. Tính tự trị này được người viết xác định ở
khía cạnh tồn tại độc lập trong hệ thống thể loại mà tác phẩm cải biên thuộc về,
được sử dụng cho mục đích đánh giá giá trị nghệ thuật và mức độ thành công của
tác phẩm. Xin lưu ý rằng, người viết khơng có sự mâu thuẫn với lí thuyết Liên văn
bản (intertextuality) của Julia Kristeva trong phát ngôn về tính tự trị của tác phẩm
nghệ thuật. Từ góc độ của lí thuyết gia người Ba Lan, tác phẩm nghệ thuật không
bao giờ được xem như một sản phẩm tự trị mà là sản phẩm của tập hợp vô số những
diễn ngơn văn hóa đan cài, chuyển hốn. Hay như người hết sức ủng hộ bà, Roland
Barthes, cho rằng, mỗi văn bản đều là liên văn bản. Góc độ tiếp nhận từ lí thuyết
liên văn bản cho phép độc giả mở rộng sự diễn giải của mình đối với tác phẩm nghệ
thuật, trong mạng lưới của vô vàn các giá trị văn hóa - nghệ thuật có liên hệ đến sự
sản sinh và phát triển của các chi tiết nghệ thuật trong hồn cảnh mới. Lí thuyết này
có thể phục vụ cho sự tìm tịi lí giải các văn bản (Thông diễn học) nhằm phát hiện
những sự chuyển vị (transposition) qua các hệ thống kí hiệu nhằm hướng đến xây
dựng địa vị kí hiệu mới. Từ góc độ khai thác của người viết, nói văn bản cải biên là
sản phẩm tự thân là đang đặt văn bản cải biên trong mối quan hệ với văn bản được
cải biên nhằm xóa bỏ mối quan hệ thứ bậc: cái có trước - cái có sau; cái có trước là

đại diện mẫu mực, cái có sau là sản phẩm thứ cấp; cái có trước là xuất phát điểm


18

khơng thể biệt lập với cái có sau. Chúng tơi hướng đến việc nhấn mạnh tính độc lập
của sản phẩm nghệ thuật cải biên và sự cần thiết của việc đánh giá đối tượng này
trong mối quan hệ với các đối tượng khác thuộc cùng một loại hình nghệ thuật. Nói
cách khác, một bộ phim điện ảnh cải biên cần được đối xử như là một bộ phim điện
ảnh, đặt trong tương quan nhận xét so với các phim điện ảnh khác cùng đề tài, cùng
thể loại, và không thể so sánh điện ảnh và văn bản được cải biên như một sự truy
cứu tính đáp ứng về nội dung hay tư tưởng.
1.1.2. Phương thức cải biên đối với sản phẩm cải biên là điện ảnh: lựa chọn đối
tượng để cải biên và mở rộng sự tiếp nhận đối tượng với sự đa dạng giác quan
1.1.2.1.Lựa chọn đối tượng để cải biên
Chúng tôi cho rằng, tác phẩm điện ảnh cải biên, trong nhiều trường hợp, lựa chọn
việc đồng bộ hóa sang bộ mã điện ảnh toàn bộ các yếu tố xây dựng nên tác phẩm
được cải biên. Lựa chọn này đáp ứng mạnh mẽ nhu cầu của những khán giả có niềm
u thích đặc biệt đối với tác phẩm được cải biên và mong chờ thưởng thức những
giá trị bền vững này bằng một ngôn ngữ nghệ thuật khác sống động hơn. Tuy nhiên,
sự đào thải nghệ thuật khắc nghiệt khiến cho lối cải biên này nhanh chóng được
thay thế bằng những xu hướng cải biên mới mẻ: lược bỏ nội dung và tập hợp các chi
tiết cùng hướng đến một đề tài, chú trọng khai thác nội dung ở chiều sâu, các chi tiết
nhỏ, các nhân vật phụ và sáng tạo những tác phẩm cải biên mang tính độc lập nghệ
thuật cao, cải thiện góc nhìn chưa xác đáng của khán giả - xem tác phẩm điện ảnh
cải biên như một sự lặp lại mãi mãi khơng thốt khỏi cái bóng của những giá trị
kinh điển để qui chiếu về.
Forrest Gump (1994) là đại diện điện ảnh cải biên tiêu biểu của một thao tác cải
biên thành công thông qua ý thức chỉ lựa chọn chi tiết nhằm khái quát hóa sự kiện.
Bộ phim này được cải biên từ tiểu thuyết cùng tên ra mắt năm 1986 của Winston

Groom và đã giành được sáu giải Oscar. Forrest Gump trong thế giới tiểu thuyết
hiện lên thông qua rất nhiều sự kiện, rất nhiều chi tiết mà những điều này tập trung
biểu hiện nhân vật là một gã khờ bác học, cùng với những khía cạnh thơ ráp đời
thường, nhân vật này ngô nghê nhưng lạc quan vượt qua tất cả biến cố trong cuộc
sống gắn với chiều dài lịch sử nước Mỹ. Tiểu thuyết Forrest Gump hàm chứa nhiều


19

dấu ấn văn hóa cũng như biểu hiện mạnh mẽ tinh thần lạc quan và tự do. Trong khi
đó, nhà cải biên chỉ lựa chọn một nửa số lượng sự kiện xung quanh nhân vật Forrest
Gump, mà khi trở thành một hệ thống kí hiệu điện ảnh, chúng tạo nghĩa, những ý
nghĩa khác biệt so với tiểu thuyết, nhưng hướng đến khơng khí chung của cả một
thời đại: hình ảnh con người lí tưởng, giấc mơ Mỹ và tinh thần hòa giải sau chiến
tranh.
Năm 2014, hãng phim Disney sản xuất phim điện ảnh Maleficent, cải biên từ truyện
cổ tích Người đẹp ngủ trong rừng (Sleeping Beauty). Tác phẩm này gây được nhiều
chú ý và đã điều chỉnh nhiều ngộ nhận của đại chúng về khái niệm phim cải biên.
Cách thức cải biên trong tác phẩm này là chọn lọc nhân vật và sáng tạo góc nhìn.
Nhà cải biên lựa chọn khai thác nhân vật phản diện - Maleficent trở thành nhân vật
chính của bộ phim. Từ một nhân vật chức năng, đối tượng này được sáng tạo một hệ
thống thông tin bao gồm xuất thân, biến cố quá khứ, nội tâm, hành vi, thái độ. Chất
liệu cũ được khai thác và tái tạo trong sự độc lập nội dung nhưng vẫn giữ lại sợi dây
liên kết với văn bản được cải biên thông qua một số chi tiết nhất định. Phim điện
ảnh cải biên này, về mặt tư tưởng, đã dẫn đầu xu hướng làm phim kẻ ác cũng có câu
chuyện riêng cũng như trở thành cảm hứng cho hàng loạt bộ phim cải biên sau này
lựa chọn đối tượng cải biên thuộc về tuyến nhân vật phản diện và nhân vật phụ: loạt
phim Joker (nhân vật Joker trước đó nằm ở tuyến phản diện so với nhân vật
Batman), phim điện ảnh Venom (2018) (Nhân vật Venom nằm ở tuyến phản diện so
với nhân vật Spiderman) hay sắp tới là phim truyền hình Loki (nhân vật Loki được

xem như nằm ở tuyến phản diện so với nhân vật Thor).
Chính vì thế, xu hướng và mục tiêu cải biên hiện đại đặc biệt chú trọng đến yếu tố
lựa chọn đối tượng để cải biên. Sự lựa chọn này chịu chi phối từ các điều kiện khác
nhau như dụng ý nghệ thuật, điều kiện kinh tế, các nguyên tắc thể loại, v.v.. Có thể
thấy, các tác phẩm điện ảnh cải biên bứt phá trong nhiều năm gần đây ln cho thấy
những góc độ tiếp cận đa chiều và phương thức khai thác từ chối sự tuân thủ về
phạm vi nội dung. Các nhà cải biên liên tục giãn nở hoặc thu hẹp phạm vi của tác
phẩm được cải biên, sinh ra những sản phẩm nghệ thuật có thể được gọi là ngoại
truyện hoặc xây dựng các vũ trụ điện ảnh đồ sộ. Trường hợp này có thể tìm thấy ở
hàng loạt bộ phim cải biên từ tác phẩm Trung Quốc kinh điển Tây Du Ký. Bên cạnh


20

sản phẩm truyền hình nổi tiếng năm 1986, Tây Du Ký chưa bao giờ thôi hấp dẫn các
nhà cải biên khám phá và tái sáng tạo trên màn ảnh rộng. Rất nhiều phiên bản điện
ảnh ra đời với nhiều cách thức cải biên khác nhau, song điểm chung đều hướng đến
động thái vay mượn tên gọi nhưng làm mới tính chất nhân vật, sáng tạo mối quan hệ
giữa các nhân vật và sáng tạo cốt truyện: Đại thoại Tây du: Nguyệt quang bảo hợp,
Đại thoại Tây du: Tiên lí kì duyên - 1995; The Monkey King (Sản xuất bởi đài NBC
- Mỹ) - 2001; Trư Bát Giới: Phúc tinh chiếu rọi - 2003; Tình điên đại thánh - 2005;
Tây Du Ký (Sản xuất bởi hãng Fuji - Nhật Bản) - 2006; The Forbidden Kingdom 2008; Tây Du Ký (phiên bản Chiết Giang) - 2009; Tây Du Ký: Mối tình ngoại
truyện - 2013; Tây Du Ký: đại náo thiên cung - 2014; Đại thoại Tây du 3 - 2016;
Tây Du Ký lạ truyện: Kiếp nạn thứ 82 - 2016; Tây Du Ký: ba lần đánh Bạch Cốt
Tinh - 2016; Tây Du Ký: Mối tình ngoại truyện 2 - 2017.
Nếu một tác phẩm điện ảnh cải biên tái hiện toàn phần nội dung của văn bản được
cải biên, chúng ta vẫn không thể bỏ qua việc phát hiện ra những sự lựa chọn. Trong
những phân tích bổ sung của tác giả Linda Hutcheon so với nhưng quan niệm đã có,
bà khẳng định, mặc dù cái đến sau hoàn toàn trùng khớp với những hiểu biết đã có
của người xem, hồn tồn đúng với nội dung được trải nghiệm trong chất liệu riêng

biệt trước đó, thì, vơ vàn những yếu tố của một câu chuyện (story) có thể được phơ
diễn tách biệt bởi nhà cải biên và lí thuyết gia, bắt nguồn từ những bắt buộc kĩ thuật
của môi trường trung giới mới, từ đó làm đậm nét những khía cạnh khác nhau của
câu chuyện được cải biên: chủ đề (themes), sự kiện (events), nhân vật (characters),
động cơ (motivations), điểm nhìn (points of view), chung cục (consequences), bối
cảnh (contexts) và một vài yếu tố khác. Thật vậy, sự ghi hình và phơ diễn hình ảnh
bằng kĩ thuật quay phim - dựng phim, sự tìm kiếm sắp đặt bối cảnh, sự chuyển di từ
ngơn ngữ văn học sang ngôn ngữ kịch bản điện ảnh, sự nhìn nhận và tái tạo hình
tượng nhân vật trong tính cụ thể hóa về hình dáng, phục trang, giọng nói, cử chỉ và
sự chú trọng ưu tiên thể hiện vấn đề nào trong những vấn đề kể trên (vì lí do chủ ý
nghệ thuật hay hồn cảnh sản xuất) của nhà cải biên, sẽ dẫn đến những giá trị riêng
biệt cho từng tác phẩm cải biên.


21

1.1.2.2. Mở rộng sự tiếp nhận đối tượng với sự đa dạng giác quan
Ngươi viết cho rằng, đối với sản phẩm cải biên là điện ảnh (và sẽ tương tự với các
hình thức khác, với đặc trưng tương tác với người tiếp nhận thơng qua nhiều kênh
giác quan, như trị chơi điện tử, sân khấu hay cơng viên văn hóa), sự cải biên ln
mang đến sự đa dạng hóa các trải nghiệm giác quan. Điện ảnh từ lâu đã được cơng
nhận như một sự tổng hịa các hình thức nghệ thuật ra đời trước nó. Nếu như độc giả
văn học tiếp nhận tác phẩm thông qua thị giác và sau đó vận dụng sự tưởng tượng
để đắm chìm vào đối tượng, khán giả điện ảnh sử dụng đồng thời thị giác, thính
giác, xúc giác (đối với một vài hình thức điện ảnh nhất định), với độ sống động
ngày càng cao nhờ vào sự phát triển của các kĩ thuật hiện đại. Để thích ứng với đặc
trưng thể loại này, nhà cải biên có nhiều sự lựa chọn như tái hiện với tinh thần tuân
thủ tác phẩm được cải biên, làm mới một vài hay toàn bộ các yếu tố của tác phẩm
được cải biên, sáng tạo các yếu tố mới nhằm hồn thiện ngơn ngữ điện ảnh.
Sự mở rộng trạng thái tiếp nhận, ở đây, cụ thể là sự bổ sung các ngôn ngữ nghệ thuật

khác, trong việc miêu tả và kể chuyện của nhà cải biên. Thử xem xét một vài đối
tượng tiêu biểu của tác phẩm văn chương khi được cải biên thành tác phẩm điện ảnh
là bối cảnh, điểm nhìn, đối thoại, hành động và nhân vật, chúng ta dễ dàng nhận thấy
sự nhân rộng hình thức thể hiện đối tượng từ chất liệu ngôn ngữ sang chất liệu hình
ảnh chuyển động và âm thanh được sắp đặt có chủ đích. Tác giả văn học sử dụng
hồn tồn năng lực ngơn ngữ để dẫn dắt người đọc vào câu chuyện của mình, bao
gồm cả những yếu tố nhân dạng, tâm lí, khơng gian, thời gian và diễn biến. Cũng từ
đó, ngơn ngữ văn học, với tư cách là chất liệu đa năng và kì diệu, cho phép người
đọc tái tạo toàn bộ các yếu tố trên hoàn toàn dựa vào sự tưởng tượng cá nhân. Do
vậy, mỗi người đọc đã chủ động chiếm lĩnh cho mình một thế giới hư cấu riêng,
sống động trong sự độc lập. Trái lại, thế giới nghệ thuật hư cấu của tác phẩm cải biên
được xây dựng bởi bộ mã ngôn ngữ điện ảnh với những qui phạm và xu hướng thuộc
về góc máy, màu sắc, tạo hình, dàn cảnh, âm thanh,v.v.. vượt khỏi phạm vi ngôn ngữ
giao tiếp thông thường. Một nhân vật văn học được cải biên trên màn ảnh rộng là
sản phẩm được định dạng cụ thể bởi một nhóm người cải biên, đáp ứng yêu cầu tiếp
nhận bằng (1) Ấn tượng thị giác thông qua sự thiết kế kĩ càng về phục trang,


22

hóa trang, tạo hình; sự tái hiện chân thật về hành động, cử chỉ được thực hiện bởi
diễn viên; sự mơ phỏng các góc nhìn cận cảnh, trung cảnh hay viễn cảnh được thực
hiện bằng máy quay; sự sắp đặt dàn cảnh các khách thể xung quanh nhân vật và (2)
Ấn tượng thính giác thơng qua yếu tố âm thanh trong phim (có thể nhận diện bằng
các tiểu tố như tiếng thoại, âm thanh không gian, âm thanh hiệu quả và âm nhạc).
Để tóm tắt sự nhận diện về hiện tượng cải biên, người viết cung cấp ba miêu tả ngắn
gọn từ tác giả Linda Hutcheon về cải biên như sau:2
- Một sự chuyển vị được thừa nhận từ một hay nhiều tác phẩm khác mà có thể nhận
diện (An acknowledged transposition of a recognizable other work or works)
- Một hành động chiếm dụng mang tính sáng tạo và diễn giải (A creative and

interpretive act of appropriation/salvaging)
- Một sự liên hệ liên văn bản mang tính mở rộng với tác phẩm được cải biên (An
extended intertextual engagement with the adapted work)
1.1.1.3. Các đối tượng liên quan khi đánh giá hiện tượng điện ảnh cải biên: nhà
sản xuất điện ảnh và khán giả điện ảnh
Vấn đề thứ nhất: Cải biên từ góc độ của nhà sản xuất điện ảnh: người cải biên
là ai và vì sao lại cải biên
Tác giả Linda Hutcheon đã trích dẫn ý kiến của nhà soạn kịch Nicholas Wright về
một tác phẩm sân khấu cải biên của ông (His Dark Materials - Philip Pullman), đại
ý rằng: Nhà soạn kịch nghĩ rằng họ là tác giả trung tâm của mọi thứ xảy ra trên sân
khấu. Nhưng trong trường hợp này ơng biết mình sẽ chia sẻ khoang lái với nhiều
người khác: người viết sách, nhà biên kịch, nhà thiết kế, đạo diễn, nhạc sĩ, các thành
viên của đội ngũ sáng tạo và tác giả của tác phẩm được cải biên - Philip Pullman. Ý
kiến này đồng thời phù hợp đối với hiện tượng điện ảnh cải biên, khi nhà cải biên
nắm giữ trách nhiệm tạo ra nhiều hơn những trạng thái thể nghiệm và người xem
tiếp cận với sản phẩm cải biên trong tâm thế đón chờ sự đan cài cộng hưởng của
nhiều hơn một phương thức tri giác.
Khác với một bức tranh hoặc một ca khúc - sản phẩm làm việc hồn tồn có thể
xuất phát từ cá nhân, sản phẩm cải biên thuộc hình thức sân khấu hoặc điện ảnh là
những trường hợp phức tạp bởi chúng đòi hỏi sự kết hợp làm việc của nhiều cá
2 Linda Hutcheon, A theory of Adaptation, Routledge, 2006, p.8


23

nhân chuyên nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực sáng tạo khác nhau. Sẽ là thiển cận nếu
cho rằng tác giả cải biên của một bộ phim điện ảnh là nhà biên kịch hay người đạo
diễn (dù cho đây là hai đối tượng được cho rằng có những đóng góp quan trọng cho
sự thành công của tác phẩm). Những đối tượng sau đây cũng được xem như là nhà
cải biên từ phương diện công việc của họ đối với sự ra đời của tác phẩm cải biên:

Thứ nhất: giám đốc âm nhạc (hay cá nhân phụ trách sáng tạo âm thanh cho sản
phẩm điện ảnh cải biên). Như một sự thật không thể bàn cãi, âm thanh trong phim
đóng vai trị quan trọng căn bản trong việc dẫn dắt cảm xúc người xem và định hình
tính chất nhân vật, tính chất hồn cảnh đương diễn ra. Thật khó tưởng tượng sự
thiếu hụt ấn tượng về thực tại trong phim ra sao nếu thiếu đi sự can thiệp của âm
thanh. Do đó, có thể nói, giám đốc âm nhạc là một nhà cải biên gặp nhiều thử thách
khi sáng tạo một yếu tố chưa được xuất hiện, trong sự đáp ứng tính hài hòa và cộng
hưởng với các yếu tố cải biên khác, với điều kiện cảm hứng từ bộ mã nghệ thuật
khác biệt hoặc điều kiện khám phá cảm hứng từ tinh thần mới mẻ của tác phẩm cải
biên so với tác phẩm được cải biên.
Thứ hai: chuyên viên thiết kế phục trang. Trong rất nhiều trường hợp, đối tượng này
đóng vai trò như một nhà cải biên đáng kể, từ phương diện tác động thị giác. Sự cải
biên phục trang xuất phát từ mục đích phục vụ tính cải biên của tác phẩm nghệ thuật
và đặc biệt mang lại hiệu quả xây dựng hình ảnh nhân vật đối với thể loại nghệ thuật
đặc thù khai thác giá trị nghe nhìn như là điện ảnh.
Như vậy, bên cạnh sự cải biên mang tính hạt nhân về nội dung và hình thức xây
dựng nội dung của nhà biên kịch và nhà đạo diễn, hai đối tượng nổi bật khác cũng
được xem là nhà cải biên là giám đốc âm nhạc và nhà thiết kế phục trang. Nói cách
khác, tác giả cải biên của một sản phẩm điện ảnh cải biên không thể là một người,
mà nên được gọi là nhóm cải biên như một cách làm sáng tỏ đặc thù của sự cải biên
và vai trò của từng chủ thể sáng tạo trong việc xây dựng nên tác phẩm thuộc bộ môn
nghệ thuật thứ bảy.
Có rất nhiều lí do cho sự ra đời của một tác phẩm cải biên: động lực chính trị, động
lực cá nhân hoặc động lực kinh tế. Đối với điện ảnh, loại hình nghệ thuật ngày càng
được đại chúng hóa, thì động lực kinh tế là một ngun nhân không thể bỏ qua, chi


24

phối đáng kể cơ chế cải biên trong sự hướng đến mục tiêu khai thác thương mại và

chiếm lĩnh truyền thơng.
Vấn đề thứ hai: Cải biên từ góc độ của người xem: người xem “đã biết”, người
xem “chưa biết” và vai trò của hai đối tượng này
Tác giả Linda Hutcheon chỉ ra hai đối tượng tiếp nhận tác phẩm cải biên, và đồng
thời phù hợp với trường hợp tác phẩm cải biên thuộc thể loại điện ảnh: “người xem
đã biết” (Knowing Audiences) và “người xem chưa biết” (Unknowing Audiences)3.
Chúng tôi cho rằng, hai đối tượng người xem này vừa là động lực vừa là thử thách
cho sự cải biên và phân tích cụ thể như sau:
Người xem đã biết được xác định là người xem đã có sự tiếp nhận trước đó đối với
tác phẩm được cải biên. Đối tượng này được xem như động lực của sự cải biên ở
chỗ: tác phẩm cải biên vừa tạo ra sự kì vọng đón nhận tác phẩm được cải biên trong
một thể thức mới vừa tạo ra tiêu điểm truyền thông đáp ứng nhu cầu bàn luận - bày
tỏ những yêu cầu của khán giả đối với tác phẩm cải biên. Tùy thuộc vào chân trời
tiếp nhận trong tính liên văn bản, mỗi khán giả có những diễn giải và phản hồi riêng,
từ đó tạo nên những đối thoại đa dạng và sôi nổi. Tuy nhiên, nguồn gốc của hai động
lực này cũng chính là thách thức đối với tác phẩm cải biên: bởi lẽ người xem đặt
nhiều kì vọng và yêu cầu, nên tác phẩm điện ảnh cải biên không tránh khỏi những
phán xét, trong tâm thế như là sản phẩm thứ cấp dựa trên cái có trước đó, và chỉ có
thể “tốt đến bao nhiêu phần” so với tác phẩm được cải biên, chứ khơng được đón
nhận như là tác phẩm nghệ thuật tự trị. Đối tượng này phần lớn khó thốt khỏi cái
bóng mang tên “trải nghiệm đọc” khi tiếp cận với phiên bản điện ảnh.
Người xem chưa biết, trái lại, chính là đối tượng khán giả chưa có sự tiếp xúc trước
đó với tác phẩm được cải biên. Đối tượng này tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự cải
biên ở chỗ: họ thuộc nhóm khán giả khơng cố gắng tìm ra sự quen thuộc với trải
nghiệm đã có, khơng tiếp nhận trong thế đối sánh nhị ngun so với tác phẩm được
cải biên. Nói cách khác, họ đón nhận tác phẩm điện ảnh cải biên như các tác phẩm
điện ảnh khác, chứ không phải như một phiên bản “làm lại” hay “chuyển thể” từ
một văn bản nguồn. Giới thiệu tác phẩm điện ảnh cải biên đến với nhóm khán giả
này là tìm đến một nguồn phản hồi trong suốt và cởi mở. Tuy nhiên, mặt thách thức
3 Linda Hutcheon, A theory of Adaptation, Routledge, 2006, p.120



×