Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

SKKN một số giải pháp nâng cao hoạt động thư viện và phát triển văn hóa đọc tại trường THPT đô lương 3, nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.86 MB, 63 trang )

SỞ GD&ĐT NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 3

---

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
LĨNH VỰC : QUẢN LÝ

Tên đề tài: “Một số giải pháp nâng cao hoạt

động thư viện và phát triển văn hóa đọc tại
trường THPT Đơ lương 3, Nghệ an”

0


MỤC LỤC

A. PHẦN MỜ ĐẦU

Trang

1. Lý do chọn đề tài

3

2. Mục đích nghiên cứu

4

3. Lịch sử nghiên cứu



4

4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

5

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5

6. Đối tượng khách thể nghiên cứu

5

7. Tính mới của đề tài

5

8. Giả thiết khoa học

6

9. Phương pháp nghiên cứu

6

B . NỘI DUNG

8


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

8

1. Cơ sở lý luận

8

1.1 Các khái niệm cơ bản của đề tài

8

1.2. Đặc điểm về hoạt động học tập, giao tiếp đọc sách của học sinh THPT

11

1.3. Vai trị của BGH trong quản lí, khai thác thư viện nhà trường

13

2. Cơ sở thực tiễn

15

2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu

15

2.2. Thực trạng quản lý và phát triển thư viện trường ở THPT Đô Lương 3


15

3. Nguyên nhân của tồn tại trên

21

3.1. Nguyên nhân khách quan

21

3.2. Nguyên nhân chủ quan

21

Chương 2. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN NHẰM PHÁT TRIỂN VĂN HĨA
ĐỌC TẠI TRƯỜNG THPT ĐƠ LƯƠNG 3, NGHỆ AN

23

2.1. Đầu tư chuẩn hóa thư viện và cơng tác đổi mới của thủ thư

24

2.2. Phối hợp đoàn trường tổ chức hoạt động NGLL – Giới thiệu sách hay

27
1



2.3.Đầu tư phát triển mơ hình “Thư viện xanh”

28

2.4. Kết nối với phụ huynh học sinh, cựu học sinh và các tổ chức giáo dục
để duy trì và khai thác mơ hình “ Thư viện xanh”

30

2.5. Kết nối thư viện Tỉnh xin dự án bổ sung sách cho thư viện trường

33

2.6. Triển khai các sân chơi về sách để thi đua giữa các lớp thơng qua mơ
hình “ Thư viện xanh”

34

2.7. Khích lệ học sinh thành lập các câu lạc bộ về sách để lan tỏa việc đọc
sách theo cách truyền thống, tham gia các cuộc thi văn hóa đọc

35

Chương 3. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP

36

3.1. Thử nghiệm các biện pháp tác động


36

3.1.1. Kết quả thử nghiệm

36

3.1.2. Đánh giá những kết quả đạt được

37

3.2. Kết luận thử nghiệm và dự thảo nhân rộng mơ hình

38

C . MỘT SỐ KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

39

1. Kết luận

39

2. Khuyến nghị

39
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN
Nội dung


Viết tắt

Trung Học Phổ Thông

THPT

Học Sinh

HS

Giáo viên

GV

Đại sứ văn hóa đọc

ĐSVHĐ

Ban giám hiệu; Giáo dục phổ thơng

BGH; GDPT

An tồn giao thơng; Cơ sở dữ liệu

ATGT; CSDL

2



A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Năm học 2021-2022, ngành Giáo dục và Đào tạo nói chung, các trường học
trên khắp cả nước nói riêng tiếp tục gặp mn vàn khó khăn do đại dịch Covid-19
diễn biết phức tạp. Cũng trong thời gian này trên các kênh truyền thơng đại chúng
đã nói nhiều về những sáng kiến, giải pháp nhằm giúp đỡ học sinh sinh viên chinh
phục tri thức trong mùa đại dịch, trong đó có đề cập đến việc phát triển mơ hình
thư viện tiên tiến, thư viên điện tử. Tuy nhiên mơ hình này bước đầu mới chỉ được
khảo cứu và thực hiện thí điểm ở một số trường đại học nhằm đáp ứng nhu cầu
khai thác thông tin cho sinh viên và nghiên cứu sinh, cịn ở bậc THPT thì cơ bản
vẫn gắn bó với mơ hình thư viện truyền thống . Và từ xa xưa, hình ảnh thư viện với
những cuốn sách được sắp xếp ngay ngắn trên kệ đã trở nên quen thuộc với thầy cô
và học sinh trong các môi trường giáo dục học đường. Thực tế đã có nhiều học
sinh thành tài nhờ những cuốn sách từ thư viện trường, nhiều thế hệ giáo viên nhờ
thư viện mà có lượng tri thức được bổ trợ thường xuyên. Nếu trường học thiếu thư
viện thì chưa thể là trường học đạt chuẩn, chưa thể là trường học đúng nghĩa “ coi
trọng con chữ” và hướng tới phát triển toàn diện cho học sinh.
Vậy nhưng ở một số thư viện trường học nhiều năm nay khơng có mấy học
sinh đến đọc sách, thư viện khơng cịn là điểm đến mà các bạn học sinh lựa chọn.
Phải chăng những cuốn sách trong thư viện và các dãy bàn ghế ở đây chưa thực sự
hấp dẫn, lôi cuốn các em học sinh đến với việc đọc sách. Vậy vấn đề đặt ra làm thế
nào để văn hóa đọc khơng bị mai một khi đối diện với thời đại công nghệ số? Làm
thế nào để hấp dẫn và lôi cuốn được các em đến với sách, đến với thư viện? Làm
thế nào để học sinh thấy được giá trị của việc đọc sách? Rõ ràng trách nhiệm này
thuộc về những người làm công tác giáo dục và đặc biệt là người quản lý giáo dục
trường học. Xuất phát từ việc nhận thức về trách nhiệm trên đây cũng như thực
trạng đọc sách hiện nay của giới trẻ, đặc biệt là thực trạng công tác thư viện tại các
trường THPT hiện nay, với mong muốn đánh thức tiềm năng đọc sách trong học
sinh chúng tôi chọn chia sẻ đề tài "Một số giải pháp nâng cao hoạt động thư viện
và phát triển văn hóa đọc tại trường THPT Đơ Lương 3, Nghệ An”.

Có thể nói, thư viện trường học thật sự là điểm khởi đầu lí tưởng trong hành
trình rèn luyện bản thân để trở thành những cá nhân học tập suốt đời! Vì vậy, đề
xuất giải pháp thiết lập, khai thác thư viện theo mơ hình “Thư viện xanh” để phát
triển văn hóa đọc cho học sinh THPT là vấn đề hết sức thiết thực, hơn nữa đây
cũng là một trong những chiến lược của “Trường học hạnh phúc”, “Thư viện thân
thiện” mà nhiều nhà giáo tâm huyết đang mong muốn nhân rộng trên toàn quốc. Hi
vọng một ngày không xa, học sinh đến trường trong niềm hân hoan hạnh phúc và
sách, thư viện luôn là người bạn đồng hành làm nên thành công của tuổi trẻ.

3


2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm chia sẻ những giải pháp khai thác và quản lí thư viện
trường theo cách thức mới đó là tạo khơng gian đọc sách thân thiện với mơi trường
để học sinh có tâm thế và hứng thú đọc sách tốt nhất từ đó nâng cao hiệu quả của
văn hóa đọc tại trường THPT. Đề tài cũng nhằm mục đích giúp mọi người chú ý
nhiều hơn đến chức năng thư viện trường học bởi đây là kho tri thức khổng lồ, là cơ
sở vững chắc cho văn hóa đọc phát triển.
Cụ thể đề tài nghiên cứu có thể giải quyết được những vấn đề đặt ra là:
- Thay đổi cách điều hành, quản lí và khai thác thư viện trường học một
cách khoa học, hiệu quả.
- Triển khai đề án “Thư viện xanh” để thu hút, khích lệ việc đọc sách đối
với học sinh.
- Giúp học sinh thay đổi tư duy đọc sách, có một cách nhìn và đánh giá tốt
hơn về giá trị của sách.
- Trang bị cho học sinh những kĩ năng đọc sách giúp học sinh cảm thấy tự
tin hơn về chính mình, mạnh dạn bày tỏ ý kiến, tranh luận về những cuốn sách đã
đọc.
- Tạo một môi trường đọc sách thân thiện, cởi mở, năng động, nâng cao đời

sống tinh thần, rèn luyện kỹ năng sống, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng ngôn ngữ, kĩ
năng hợp tác, kĩ năng tự học, … cho học sinh.
- Nâng cao hoạt động thư viện, đa dạng hóa các hoạt động giáo dục bằng các
hoạt động trải nghiệm, sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của
nhà trường.
3. Lịch sử nghiên cứu:
Những năm gần đây đã có một số đề tài hướng đến việc phát triển văn hóa
đọc trong học sinh như : “Xây dựng các mơ hình phát triển văn hóa đọc cho học
sinh trường Nghi Lộc 2”; “Giải pháp nâng cao văn hóa đọc cho học sinh qua mơ
hình “tủ sách thanh niên” ở trường Đặng Thai Mai”; “Đề xuất một số giải pháp
phát triển văn hóa đọc nhằm nâng cao quản lý thư viện trường” của trường Diễn
Châu 2 v.v…
Trong thực tế đã có các mơ hình, dự án xây dựng và phát triển “Thư viện
xanh” ở một số trường trong và ngoài tỉnh nhưng về cơ bản là các trường mầm
non, tiểu học hoặc THCS, theo đó cũng đã có những đề tài SKKN tổng kết các
hoạt động này. Tiêu biểu như SKKN của cô giáo trường tiểu học Nho Quan- Ninh
Bình, trường tiểu học Minh Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa…Tuy nhiên, ở bậc học
4


THPT hiện nay, việc đầu tư xây dựng thư viện đạt chuẩn, thư viện xanh hay việc
quan tâm xây dựng phát triển văn hóa đọc thực sự cịn khá khiêm tốn.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu.
- Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác giáo dục
học sinh bậc THPT, đặc biệt là cơng tác quản lí và khai thác thư viện nhà trường
hướng tới phát triển văn hóa đọc cho học sinh THPT.
- Đề tài được triển khai nghiên cứu (NC) tại trường THPT Đô Lương 3 và
một số trường THPT trên địa bàn huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An – nơi chúng tôi
đang làm việc, công tác.
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm học 2019-2020 đến năm học 2021-2022.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận, kiến thức lí luận về tâm lý, sở thích đọc sách của
học sinh và phương pháp khích lệ việc đọc sách đối với học sinh THPT.
- Thực trạng việc đọc sách trong học sinh ở cơ sở nghiên cứu.
- Phân tích nguyên nhân thực trạng, nhất là đặc điểm tâm lý, thực trạng đọc
sách trong học sinh.
- Nghiên cứu các giải pháp khả thi về quản lý và khai thác sử dụng thư viện
nhà trường nhằm phát triển văn hóa đọc.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đọc sách và lan tỏa việc
đọc sách ở trường học, trong cộng đồng.
- Báo cáo kết quả ứng dụng các hoạt động giáo dục và đề xuất giải pháp nhân
rộng mơ hình.
6. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp trong quản lý nhằm nâng cao hoạt động thư viện, đặc biệt
là xây dựng và khai thác mơ hình “Thư viện xanh” để phát triển văn hóa đọc cho
học sinh bậc THPT.
6.2. Khách thể nghiên cứu
+ Mơ hình hoạt động thư viện tại trường THPT Đô Lương 3 và một số trường trên
địa bàn nơi chúng tôi công tác.

5


+ Việc đọc sách của học sinh tại trường THPT Đô Lương 3 và một số trường trên
địa bàn nơi chúng tôi công tác.
+ Cán bộ quản lý, cán bộ thủ thư, giáo viên giảng dạy và chủ nhiệm tại trường
THPT Đô Lương 3 và một số trường trên địa bàn nơi chúng tôi công tác.
7. Tính mới của đề tài

7.1. Về lý luận.
Đề tài phân tích làm sáng tỏ tâm lý, sở thích, năng lực đọc sách ở học sinh
THPT, qua đó đề xuất giải pháp giúp học sinh hiểu về giá trị của sách, giúp các
bạn chủ động đến với sách, yêu sách để từ đó tạo được mối quan hệ và tương tác
lẫn nhau cùng phát triển văn hóa đọc.
7.2. Về thực tiễn:
+ Đối tượng nghiên cứu:
- Thư viện và văn hóa đọc của học sinh THPT Đơ Lương 3.
- Có một số phương pháp mới mẻ và sáng tạo.
- Tính thực tế cao, dễ áp dụng.
Như vậy đề tài góp phần làm rõ thực trạng và ý nghĩa của các hoạt động đọc
sách, khai thác và quản lý sách ở thư viện trường THPT Đô Lương 3 và một số
trường THPT trên địa bàn nghiên cứu, đặc biệt giải pháp xây dựng, phát triển thư
viện trường theo mơ hình “Thư viện xanh” đã góp phần nâng cao hiệu quả tìm
kiếm, tơn vinh những đại sứ văn hóa đọc trong học sinh hướng tới phát triển văn
hóa đọc cộng đồng, bồi dưỡng và khích lệ kĩ năng sáng tác, viết bài, viết báo cho
học sinh. Đề xuất những giải pháp tích cực nhằm phát triển văn hóa đọc cho học
sinh trường THPT Đô Lương 3.
8. Giả thuyết khoa học
Đề tài sẽ là những gợi ý về cách thức khai thác và quản lý thư viện để các
nhà trường có thể áp dụng cho học sinh trải nghiệm văn hóa đọc nhằm mang lại
hiệu quả cao hơn trong hành trình chinh phục tri thức, góp phần tích cực trong
công cuộc đổi mới căn bản Giáo dục và Đào tạo.
Đề tài cũng sẽ giúp ích cho các nhà trường, thầy cô, các bậc phụ huynh, các
bạn học sinh hiểu rõ giá trị của sách trong cuộc sống, trong học tập, giúp mọi
người hiểu được tầm quan trọng của việc đọc sách, nhất là đọc sách theo cách
truyền thống để khai thác tốt hơn thư viện trường hay tủ sách gia đình, tủ sách
dịng họ…
9. Phương pháp nghiên cứu
6



9.1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Thực hiện nghiên cứu theo phương pháp tư duy quy nạp: từ việc nghiên cứu
các biểu hiện tâm lý cũng như sở thích, thói quen đọc sách trong cuộc sống hằng
ngày của học sinh để từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp.
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu lý luận về ý thức, thói quen
đọc sách của học sinh bậc THPT để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
9.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Chúng tôi sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát về vấn đề quản lí và khai
thác thư viện của các trường; nghiệp vụ của cán bộ thủ thư; quan điểm, cách làm
của giáo viên, phụ huynh đối với việc đọc sách của các em tại trường THPT Đô
lương 3 và một số trường trên địa bàn chúng tôi đang công tác.
Sử dụng phương pháp thu thập thông tin qua việc tìm hiểu hồn cảnh gia
đình, đời sống, sở thích đọc sách của học sinh; Bên cạnh đó chúng tơi cịn trưng
cầu ý kiến những giáo viên có lịng đam mê với sách nhờ hỗ trợ, tư vấn để có được
những kết luận, giải thích và trình bày vấn đề một cách chính xác và sâu sắc nhất.
- Phương pháp điều tra: Dùng phiếu điều tra bằng bảng hỏi (Ankét) và trắc
nghiệm tâm lý (trắc nghiệm khả năng giao tiếp của V.P Dakharốp) để khảo sát thu
thập thông tin và đánh giá các biểu hiện thích đọc sách hoặc lười đọc sách của học
sinh THPT.
- Phương pháp quan sát: Quan sát HS đến thư viện mượn và đọc sách mỗi
ngày, mỗi tuần, thái độ của các em trong các giờ sinh hoạt theo chủ đề về sách trên
lớp, các giờ ra chơi, sinh hoạt 15 phút, trong các hoạt động ngoại khóa, các hoạt
động trải nghiệm về sách để nắm bắt các biểu hiện cụ thể về lĩnh vực nghiên cứu.
9.3. Các phương pháp thống kê toán học
Sử dụng các phương pháp thống kê toán học để thu thập số liệu, xử lý số
liệu định lượng kết quả nghiên cứu xây dựng cơ sở thực tiễn, từ đó đề xuất các
biện pháp quản lý và khai thác thư viện nhằm phát triển văn hóa đọc cho học sinh
bậc THPT.


7


B. NỘI DUNG
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1.1.Các khái niệm cơ bản đề tài
1.1.1.Khái niệm thư viện:
Theo Luật Thư viện số 46/2019/QH14 do Quốc hội ban hành ngày
21/11/2019 giải thích : Thư viện là thiết chế văn hóa, thơng tin, giáo dục, khoa học
thực hiện việc xây dựng, xử lý, lưu giữ, bảo quản, cung cấp tài nguyên thông tin
phục vụ nhu cầu của người sử dụng.
Trong thực tế thư viện là một kho sưu tập các nguồn thông tin, được chọn lựa
bởi các chuyên gia và có thể được tiếp cận để tham khảo hay mượn, thường là
trong một môi trường yên tĩnh phù hợp cho học tập. Kho tàng của một thư viện có
thể chứa đến hàng triệu đầu mục, bao gồm nhiều định dạng sách, các ấn phẩm báo
chí và các thể loại khác.
Một thư viện được xây dựng và bảo quản bởi một cơ quan nhà nước, một tổ
chức, một công ty, hoặc một cá nhân. Ngoài việc cung cấp tài liệu, thư viện còn
được phục vụ bởi các thủ thư, những chuyên gia trong việc tìm kiếm và sắp xếp
thơng tin và đáp ứng nhu cầu của người dùng. Thư viện cũng thường có khu vực
yên tĩnh để học tập, và những khu vực hỗ trợ học và làm việc nhóm.
Lịch sử thư viện bắt đầu với những nỗ lực đầu tiên nhằm sắp xếp bộ sưu tập
văn bản. Những vấn đề đặc biệt thiết yếu bao gồm tính tiếp cận của kho sưu tập,
việc thu thập tài liệu, công cụ sắp xếp và tìm kiếm, trao đổi sách, tính chất vật lý
của các vật liệu viết khác nhau, phân bố ngôn ngữ, vai trò giáo dục. Từ những năm
1960, vấn đề số hóa và kỹ thuật số kho tàng lưu trữ đã bắt đầu xuất hiện.
Những thư viện đầu tiên lưu trữ văn bản đầu tiên các phiến đất sét viết
bằng chữ hình nêm được phát hiện tại Sumer, có tuổi đời lên đến 2600 TCN. Thư

viện công và tư chứa sách viết xuất hiện ở Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ thứ 5 trước
Công nguyên. Vào thế kỷ thứ 6, gần thời Cổ đại Hy-La, những thư viện lớn
ở Constantinople và Alexandria, cùng với thư viện của Timbuktu thu hút nhiều học
giả trên khắp thế giới.
Thư viện hiện đại đang ngày càng được hướng đến trở thành nơi tiếp
cận thông tin và kiến thức không giới hạn qua nhiều hình thức và nguồn khác
nhau. Thư viện ngày càng trở thành những trung tâm cộng đồng nơi thực hiện các
chương trình cơng cộng và hỗ trợ mọi người có thể học tập suốt đời.
Điều 4 Luật Thư viện số 46/2019/QH14 quy định thư viện cơ sở giáo dục
phổ thông thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản: Phát triển tài nguyên thông
8


tin phù hợp với nhu cầu học tập, nghiên cứu của người học, người dạy, cán bộ
quản lý và mục tiêu, nội dung, chương trình học tập, giảng dạy của từng cấp học,
chương trình học; Tổ chức hoạt động khuyến đọc, hình thành thói quen, kỹ năng
đọc của người học; Hướng dẫn sử dụng thư viện, trang bị kỹ năng tìm kiếm, khai
thác, sử dụng thơng tin cho người học, người dạy và cán bộ quản lý; Hỗ trợ việc
học tập, giảng dạy, nghiên cứu và tổ chức các hoạt động giáo dục khác; Thực hiện
nhiệm vụ khác do cơ sở giáo dục giao.
1.1.2.Khái niệm thủ thư:
Thủ thư hay cán bộ thư viện hoặc hiểu nghĩa đơn giản là người trông coi
sách thư viên là một nghề nghiệp làm việc liên quan đến thư viện, coi giữ sách
trong thư viện, đó là một chun gia về thơng tin, lưu trữ, sắp xếp hồ sơ, phân loại,
sắp xếp sách vở, đánh bút lục, lau, quét sách ở các kệ sách, hướng dẫn tra cứu
thông tin ... được đào tạo về khoa học thư viện, là người thông thạo việc tổ chức và
quản lý dịch vụ thông tin hoặc các tài liệu cho những người có nhu cầu thơng tin.
Thơng thường, thủ thư làm việc trong một thư viện công cộng hoặc một thư
viện trong các trường đại học, trường tiểu học hoặc trường trung học, các thư viện
trong doanh nghiệp hoặc công ty, hoặc cơ quan khác như một bệnh viện, cơng ty

luật.... Cơng việc này có điểm tương đồng với những người làm nghề nhân viên
lưu trữ.
Thủ thư là một nhân viên quan trọng và cần thiết trong bất kỳ tổ chức giáo
dục nào (trường học, nhà trẻ, trung tâm giáo dục nâng cao). Cùng với các giáo
viên (giáo viên, nhà giáo dục, một nhà tâm lý học), phụ huynh… phát huy tầm
quan trọng của sách trong học sinh.
1.1.3.Khái niệm văn hóa đọc:
Thuật ngữ “Văn hóa đọc” phiên bản từ tiếng Anh là "reading culture" hoặc
"culture of reading". Cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một định nghĩa hay
khái niệm hoàn chỉnh và thống nhất được đưa vào trong các bộ từ điển. Hiện nay,
vấn đề văn hóa đọc đang được xã hội quan tâm, đã có nhiều học giả, nhà khoa học
nghiên cứu về đề tài này và đưa ra các khái niệm về thuật ngữ văn hóa đọc. Theo
đó“Văn hố đọc" gần đây đã được nhiều người hiểu với ý nghĩa là một hoạt động
văn hoá của con người thông qua việc đọc sách báo, tài liệu để tiếp nhận và xử lý
thông tin, tri thức một cách khoa học và bổ ích. Như vậy chúng ta có thể hiểuvăn
hóa đọc sách là đọc sách một cách có văn hóa. Nói cách khác là ý thức đọc sách
đúng đắn của con người. Ở mức độ lí tưởng, văn hóa đọc đề cao tính nghệ thuật,
nhu cầu thưởng thức văn hóa đích thực trong việc đọc sách. Bởi thế, nó vượt lên
trên khái niệm đọc đơn thuần.Dù hiểu theo cách nào thì văn hố đọc ln góp phần
to lớn vào việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, hình thành và phát triển nhân cách
con người.
9


Tại Hội thảo “Văn hóa đọc, thực trạng và giải pháp” tổ chức tại thành phố
Hồ Chí Minh (2010), khái niệm “văn hóa đọc” được lý giải theo cả nghĩa rộng và
nghĩa hẹp.
Ở nghĩa rộng, đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc của mỗi cá
nhân, của cộng đồng xã hội và của các nhà quản lý và cơ quan quản lý nhà
nước. Như vậy, văn hoá đọc ở nghĩa rộng là sự hợp thành của ba yếu tố, hay chính

xác hơn là ba lớp như ba vịng trịn khơng đồng tâm, ba vịng trịn giao nhau.
Ở nghĩa hẹp, đó là ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân. Ứng
xử, giá trị và chuẩn mực này cũng gồm ba thành phần: thói quen đọc, sở thích
đọc và kỹ năng đọc.
Theo ThS. Chu Vân Khánh, văn hóa đọc là một loại hình hoạt động văn hóa,
bởi lẽ: Đọc sách là tiêu thụ, quảng bá những giá trị văn hóa và các giá trị từ sách
báo mà người đọc tiếp nhận và làm nền tảng để tiếp tục sáng tạo nên những giá trị
mới. Vì vậy, có thể xem văn hóa đọc là một chỉ số văn hóa của một cộng đồng,
một xãhội.
ThS. Bùi Văn Vượng lại coi thuật ngữ văn hóa đọc là đọc sách có văn hóa,
hay xây dựng một xã hội đọc sách.
Theo TS. Lê Văn Viết, quan niệm đọc đến một mức độ, trình độ nhất định
nào đó thì mới được coi là văn hóa đọc.
Dưới một góc nhìn khác về văn hóa đọc, tác giả Vũ Dương Thúy Ngà(Vụ
trưởng Vụ Thư viện, Bộ VHTTDL) cho rằng: "Văn hóa đọc là một hoạt động văn
hóa của con người, thơng qua việc đọc để tiếp nhận thông tin và tri thức. Đó là sự
tích hợp của các yếu tố như nhu cầu đọc, thói quen đọc và được biểu hiện qua
hành vi, tập quán đọc của cá nhân và cộng đồng".
Qua đó có thể thấy, văn hóa đọc khơng phải là một khái niệm mới nhưng nội
hàm của nó rất rộng, các quan niệm khác nhau về văn hóa đọc đã góp phần trong
việc nhận dạng đầy đủ hơn bản chất của văn hóa đọc. Khi đề cập đến nó mỗi tác
giả có một cách hiểu riêng tùy thuộc vào góc độ tiếp cận. Trong đề tài nghiên cứu
này, các tác giả tiếp cận văn hóa đọc dưới góc độ cá nhân là tổng thể các năng lực
của chủ thể hướng tới việc tiếp nhận và sử dụng thông tin trong tài liệu bao gồm
các năng lực định hướng người đọc (nhu cầu đọc, hứng thú đọc), năng lực lĩnh hội
tài liệu (kỹ năng đọc) và thái độ ứng xử văn hóa với tài liệu.
1.1.4. Khái niệm học sinh phổ thơng:
Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về học sinh phổ thông:

10



Theo từ điển tiếng Việt: “học sinh phổ thông là người học ở bậc phổ thông”,
tức là giới hạn đối tượng là những người đang học ở bậc phổ thông (tiểu học,
Trung học cơ sở và Trung học phổ thông).
Theo từ điển Giáo dục học: Học sinh bậc trung học phổ thông thuộc lứa tuổi
đầu thanh niên từ 14-15 tuổi đến 17-18 tuổi. Như vậy học sinh Trung học phổ
thông nằm trong độ tuổi từ 14-15 tuổi đến 17-18 tuổi, là những người đang theo
học các trường THPT trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Theo điều lệ trường Trung học được ban hành kèm theo Thông tư 32/TTBGD&ĐT, quy định học sinh trung học phổ thơng có nhiệm vụ:
- Thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục
của nhà trường.
- Rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh cá nhân. Tham gia các hoạt động tập thể
của trường, lớp, của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Đồn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh; giúp đỡ gia đình và tham gia các cơng tác xã hội như hoạt
động bảo vệ môi trường, thực hiện trật tự an tồn giao thơng; Giữ gìn, bảo vệ tài
sản của nhà trường, tài sản cơng cộng; góp phần xây dựng, bảo vệ và phát huy giá
trị truyền thống nhà trường.
- Kính trọng cha mẹ, thầy giáo, cơ giáo, cán bộ, nhân viên của nhà trường và
những người lớn tuổi; đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, rèn luyện; thực
hiện điều lệ, nội quy nhà trường; chấp hành pháp luật của Nhà nước.
Học sinh THPT có quyền:
- Được bình đẳng trong việc hưởng thụ giáo dục toàn diện, được bảo đảm
những điều kiện về thời gian, cơ sở vật chất, vệ sinh, an toàn để học tập ở lớp và tự
học ở nhà, được cung cấp thơng tin về việc học tập của mình, được sử dụng trang
thiết bị, phương tiện phục vụ các hoạt động học tập, văn hoá, thể thao của nhà
trường theo quy định.
- Được tôn trọng và bảo vệ, được đối xử bình đẳng, dân chủ, được giáo dục
kỹ năng sống. Được quyền khiếu nại với nhà trường và các cấp quản lý giáo dục về
những quyết định đối với bản thân mình.

- Được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật.
1.2. Đặc điểm về hoạt động học tập, giao tiếp và đọc sách của học sinh THPT:
1.2.1 Hoạt động học tập:
Có thể nói học tập là một hoạt động đặc trưng và hết sức quen thuộc đối với
học sinh. Hoạt động ấy vừa đem đến cho các em niềm u thích, sự hứng thú,
những thăng hoa,… nhưng có khi hoạt động học tập cũng là một áp lực gây nên
11


tâm lý mệt mỏi, chán chường... Hoạt động học tập ở mỗi cấp học, mỗi giai đoạn,
thời điểm lại có những biểu hiện khác nhau, những cảm xúc, thái độ khác nhau.
Ở lứa tuổi học sinh trung học phổ thông (THPT), hoạt động học tập có
những điểm khác biệt cơ bản, học sinh cũng ý thức rõ hơn về động cơ học tập của
bản thân. Học sinh THPT thường xác định khá rõ mục tiêu học tập của mình. Học
sinh thường sẽ tự trả lời câu hỏi của chính mình là học để làm gì trong tương lai?
Học như thế nào? Vì vậy, về cơ bản việc học của hầu hết các em học sinh bậc
THPT là sự tự giác. Có những học sinh ưu tú ln chủ động lên kế hoạch học tập,
chủ động tìm thầy, tìm bạn, tiếp cận tri thức và làm đầy tri thức mỗi ngày.Tuy
nhiên, vì các em cũng ở trong độ tuổi đang lớn, lập trường chưa vững nên việc học
tập của học sinh có thể bị ảnh hưởng khá lớn từ mơi trường xung quanh. Những
cám dỗ có thể khiến cho một số học sinh trốn học, bỏ học và sa vào các tệ nạn xã
hội. Đặc điểm này có thể coi là đặc điểm mang “tính lịch sử” trong tồn bộ lịch sử
đường đời của mỗi cá nhân. Hoặc có một số học sinh bậc THPT cịn mơ hồ về đích
đến nên thường lúng túng, còn thụ động trong việc học tập, học cịn mang tính đối
phó....
1.2.2. Hoạt động giao tiếp:
So với học sinh ở cấp Tiểu học và THCS thì học sinh bậc THPT có quan hệ
giao tiếp rộng hơn nhiều do phạm vi tiếp xúc và môi trường giáo dục khơng đóng
khung ở làng, xã, phường mà là liên xã, liên phường, quận, thị...Hơn nữa, xét ở
tâm lý lứa tuổi thì học sinh THPT đã lớn hơn, trưởng thành hơn nên cách thức giao

tiếp, ngôn ngữ và thái độ giao tiếp cũng khác với học sinh trung học cơ sở.
Học sinh THPT muốn khẳng định theo hướng tự quyết, tự chịu trách nhiệm,
ở một mức độ nhất định nào đó thì họ khơng muốn phụ thuộc mà muốn tự lập
nhiều hơn. Tính tự lập của học sinh thể hiện ở ba mặt: tự lập về hành vi, tự lập về
tình cảm và tự lập về đạo đức giá trị. Nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi
trong tập thể phát triển mạnh. Chính điều đó làm cho học sinh phải biết tự suy
nghĩ và điều chỉnh nhân cách và kĩ năng giao tiếp của mình.
Ở học sinh THPT cũng bắt đầu xuất hiện tình yêu nam nữ, nhưng đa số các
em thường che giấu tình cảm của mình, cũng có học sinh phân tán tư tưởng trong
tình cảm này mà ảnh hưởng tới việc học tập. Tình yêu tuổi học đường đôi lúc cũng
tạo ra những cảm xúc căng thẳng vì thiếu kinh nghiệm, vì sợ bị từ chối hoặc quá
vui vẻ khi nhận được quan tâm chăm sóc. Tình u tuổi học đường lành mạnh
trong sáng nhưng cũng là một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải có kĩ năng điều khiển
cảm xúc hành vi cho phù hợp.
1.2.3.Hoạt động đọc sách của học sinh THPT:

12


Có thể nói đọc sách là hoạt động thường xuyên, tất yếu, bắt buộc của lứa
tuổi học sinh. Bởi vì sách giáo khoa và tài liệu tham khảo là dụng cụ, tư liệu học
tập quen thuộc của các em. Đọc sách vì thế là kĩ năng trước tiên mà bất kì nhà
trường nào cũng trang bị cho học sinh qua các hoạt động dạy học ở trường đặc biệt
là qua môn “Tập đọc”. Như vậy, ngay từ khi cắp sách đến trường tất cả các em đã
được làm quen với sách, được rèn kĩ năng đọc sách, biết đọc sách, nhiều em sau đó
đã chủ động trong việc tìm sách để đọc, nhất là những trang cổ tích, truyện tranh
trong hành trình tuổi nhỏ. Tuy nhiên, theo thời gian và sự tác động của mạng xã
hội các em dần lãng qn kĩ năng đó, ngồi những cuốn sách giáo khoa phải đọc
dường như học sinh bây giờ khơng có thói quen đọc thêm sách. Nhiều bạn trẻ hôm
nay đặc biệt là học sinh bậc THPT khơng có thói quen đọc sách, họ cho rằng việc

đọc sách ấy cho những người trí thức, các nhà văn, nhà khoa học. Một số khác đọc
một cách qua loa, những trang sách cứ thế lật đi mà đầu vẫn trống rỗng. Sách có
rất nhiều mà khơng ít người khơng biết chọn đúng sách để đọc và tìm hiểu. Một số
lại chọn đọc sách theo phong trào, khơng phải do đam mê, khơng có một chút hiểu
biết gì về nội dung cuốn sách mình đang chuẩn bị đọc, cho nên dễ chọn nhầm sách
vô thưởng vơ phạt, sách có nội dung thiếu văn hố, khơng lành mạnh. Vậy nên mới
có một nghịch lí trong giới trẻ Việt Nam hiện nay là truyện ngơn tình bán chạy
hơn, phổ biến hơn cả những cuốn sách được trao giải Nobel.
Thực tế lứa tuổi học sinh nói chung và học sinh bậc THPT nói riêng đều
tiềm tàng ý thức về giá trị của sách và kĩ năng đọc sách, có một số bạn vẫn chăm
chỉ và đam mê đến với sách mỗi ngày. Vấn đề là cần sự quan tâm và định hướng
của người lớn, của giáo viên, của nhà trường để khích lệ và phát huy nhiều hơn
nữa những kĩ năng đọc sách chủ động đã bị “đóng băng” ở phần lớn học sinh.
1.3.Vai trò của BGH trong quản lý, khai thác thư viện nhà trường:
Như chúng ta đã biết, vai trò lãnh đạo quản lý nhà trường, của ban giám
hiệu (BGH) đặc biệt là người đứng đầu đối với sự phát triển hết sức quan
trọng. Qua những khóa bồi dưỡng lí luận chính trị, các đồng chí cán bộ lãnh đạo
quản lí của nhà trường đã được trang bị kiến thức phương pháp luận và phương
pháp công tác về điều hành, quản lý các lĩnh vực hoạt động chủ yếu, mang tính
then chốt của nhà trường trong một mơi trường có nhiều thay đổi. Đổi mới tư duy
cách nghĩ, cách làm để trở thành những người lãnh đạo biết vận dụng sáng tạo và
phát huy hết khả năng, năng lực sử dụng kinh nghiệm, những giá trị của mình và
của mỗi cá nhân trong nhà trường cho sự phát triển, với mục tiêu “Đào tạo học
sinh trở thành chủ nhân mới của đất nước, biết khát vọng đổi mới để vươn lên”.
Quản lý giáo dục và quản lý nhà trường đóng vai trị định hướng, là một
trong những yếu tố mang tính đột phá và quyết định đến chất lượng và hiệu quả
giáo dục.
Nghị quyết 29-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa
13



XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cũng đã nêu “Tạo chuyển
biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày
càng tốt hơn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của
nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào; sống tốt và làm việc hiệu quả… ”. Đối với giáo dục phổ thông, tập trung
phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực cơng dân, nâng cao
chất lượng giáo dục tồn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức,
lối sống, .. (mục tiêu của Nghị quyết 29 Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung
ương khóa XI).
Theo tinh thần của Nghị quyết 29, phương pháp giáo dục hiện nay đang trên
bước đường đổi mới. Từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang sang tiếp
cận năng lực của học sinh, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến học sinh học được cái gì
đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học trên
cơ sở trau dồi các phẩm chất linh hoạt, sáng tạo, độc lập. Tăng cường tổ chức học
nhóm, học trong lớp, học ngồi lớp...và thư viện nhà trường sẽ là mơi trường trải
nghiệm học tập mới rất tốt cho học sinh.
Đến với thư viện trường học, các em được tiếp xúc và đọc rất nhiều sách: từ
sách giáo khoa, sách bổ trợ, sách nâng cao… đến các loại sách mang tính giải trí
như sách truyện, thơ… Đây được xem là kênh thơng tin hữu dụng và mang tính
giáo dục cao cho các em khi mà văn hóa đọc đang dần mất ưu thế trước văn hóa
nghe nhìn. Việc tiếp cận kiến thức, thơng tin qua kênh thư viện trường học có nét
“mở” hơn so với hoạt động giảng dạy – học tập ở trên lớp. Nếu việc học trên lớp
chủ yếu tập trung vào hoạt động thu nhận, sao chép và ghi nhớ các thơng tin thì
việc “đọc và học” ở thư viện thực sự là một q trình tìm tịi, khám phá, trải
nghiệm và đánh giá. Các em được lựa chọn những cuốn sách mình thích, đọc và
cảm thụ theo cách cá nhân, không bị chi phối và ràng buộc bởi bất kỳ khn mẫu
nào. Cán bộ thư viện có thể giúp các em tìm hiểu, nắm bắt được nội dung kho sách

và định hướng đọc sách nhưng quyền lựa chọn cuối cùng là dành cho các em.
Hiểu rõ được hiệu quả giáo dục từ mơ hình học tập này, ở một số nhà trường
các nhà quản lý đã chú ý đến công tác thư viện, bởi họ nhận ra những lợi ích thiết
thực và tích cực từ mơ hình giáo dục này, họ xem thư viện “là trái tim của trường
học”. Thư viện được xem là địa chỉ cung cấp thơng tin – kiến thức quen thuộc và
hữu ích nhất cho các em học sinh ngoài lớp học. Đây là nơi mà các em học sinh
ln được chào đón, nơi mà mọi mơ ước và sở thích cá nhân của các em đều được
trân trọng. Thư viện là nơi mà các em được thỏa sức tư duy, sáng tạo và chia sẻ.
Các em học sinh lên thư viện vào các buổi chiều hoặc trong giờ giải lao, giờ trống
để được đọc sách, được tìm hiểu và khám phá thế giới xung quanh qua những
thơng tin mà các em có được từ kho tài liệu của thư viện. Tuy nhiên ở một số
14


trường học, vì các lí do khác nhau BGH chưa thực sự quan tâm hoặc quan tâm
chưa đúng mực đến cơng tác thư viện. Vì vậy, trong hồn cảnh đó, thư viện mới
chỉ là “cái kho” để chứa sách, là nơi cho học sinh và giáo viên mượn sách. Nhiều
trường cịn xem nhiệm vụ chính của thư viện hiện nay là bán sách giáo khoa, bán
dụng cụ học tập cho học sinh; Hoạt động thư viện chưa phát huy được hiệu quả,
chưa thu hút được nhiều học sinh đến học tập và trải nghiệm ở khơng gian này.
Mỗi thời kì, giai đoạn lịch sử đều có những yêu cầu nhất định đối với con
người với tư cách là thành viên trong xã hội. Theo đó, học sinh khơng những cần
trau dồi về mặt tri thức mà còn phải rèn luyện, phát triển hệ thống kĩ năng để trở
thành thế hệ cơng dân tích cực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, thích ứng
nhanh chóng và kịp thời với bước đi của thời đại, phù hợp với bối cảnh xã hội rộng
lớn và phức tạp. Giáo dục, do đó cũng cần phải chuyển trọng tâm sang chú trọng
bồi dưỡng các phẩm chất năng lực đó cho mỗi người học sinh. BGH nhà trường
hơn ai hết phải là người luôn cập nhật và tiên phong trong công tác giáo dục, đặc
biệt là thay đổi công tác quản lý, điều hành, khai thác thư viện trường học - xem
đây là một trong những mắt xích quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục toàn

diện của nhà trường. Ngày 21/11/2019 Luật Thư viện đã được Quốc hội thông qua
và Việt Nam đang thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ
thông theo yêu cầu của Nghị quyết 88/2014/QH13. “Chúng ta phải đổi mới từng
yếu tố để tạo ra chất lượng giáo dục phổ thông đáp ứng yêu cầu mới của thực tế
cuộc sống và hội nhập thế giới”. Trong đó một phần rất quan trọng để tạo nên mơ
hình trường học chất lượng, góp phần hình thành thói quen đọc sách, năng lực tự
học, tự nghiên cứu và sáng tạo cho học sinh chính là phát triển và nâng cao hiệu
quả thư viện trường học.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN

15


2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
Địa bàn nơi chúng tôi công tác thuộc huyện miền Tây-Nam Nghệ An, nơi đây
hiện có 6 trường dành cho đối tượng học sinh THPT, trong đó gồm 4 trường hệ
cơng lập, một trường ngồi cơng lập và một trung tâm GDTX. Trường THPT
chúng tôi công tác và nghiên cứu thuộc vùng hạ huyện, nơi điều kiện kinh tế xã hội
còn rất nhiều khó khăn. Khả năng, nhận thức của người dân trong việc đầu tư cho
con cái học tập còn hạn chế. Trường được thành lập năm 1978; từ chỗ chỉ có 3 lớp
với 10 giáo viên ở năm học đầu tiên, trải qua gần 45 năm tồn tại và phát triển, đến
nay trường có 38 lớp(quy mơ 39 lớp) với hơn 1.600 học sinh, trong đó số học sinh
nữ là 1032 học sinh (chiếm 64,6%), số học sinh nam là 558 học sinh (35,4%).
Hội đồng sư phạm trường hiện có gần 100 cán bộ giáo viên, nhân viên. Học
sinh theo học tại trường đa số thuộc gia đình nơng thơn, nhiều học sinh là con em
hộ nghèo, cận nghèo hoặc gia khó khăn; trình độ dân trí của phụ huynh trong vùng
còn khá thấp; Nhiều bậc phụ huynh chưa quan tâm nhiều đến việc học của con em,
một số cịn có tư tưởng ỉ lại, phó thác hồn tồn việc học của con cái cho nhà
trường.
2.2. Thực trạng quản lý và phát triển thư viện trường ở THPT Đô Lương 3

2.2.1. Khảo sát thực trạng:
- Về chất lượng quản lý: Công tác thư viện nói chung, cơng tác thư viên tại trường
THPT Đơ Lương 3 nói riêng được thực hiện theo Quyết định số: 01/2003/QĐBGDĐT ngày 2/01/2003 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Quy định
về tiêu chuẩn thư viện trường phổ thông.
- Về quy mô: Hiện trường có 01 thư viện với diện tích sử dụng gần 90m2. Có
phịng đọc dành riêng cho học sinh và giáo viên và một phòng kho để lưu trữ các
hồ sơ, học liệu liên quan đến hoạt động của thư viện. (Phụ lục 1)
Thư viện có hệ thống tủ sách với 1.578 đầu sách và 5.576 bản sách các loại
được mô tả , phân loại đúng theo nghiệp vụ chuyên mơn của cơng tác thư viện.
Việc phân loại, quản lí đầu sách cụ thể lượng sách có trong thư viện như sau:
Tổng đầu sách có trong thư viện là: 1578 đầu sách . (Phụ lục 2)
Trong đó :
STK: 1079 đầu sách
SGV :125 đầu sách
SGK :148 đầu sách
SĐĐ : 99 đầu sách
SPL : 127 đầu sách
16


- Tổng số bản sách có trong thư viện : 5.576 cuốn
Trong đó :
STK: 3219 cuốn sách
SGV :743 cuốn sách
SGK :1223cuốn sách
SĐĐ : 118 cuốn sách
SPL : 273 cuốn sách
- Về chất lượng phục vụ bạn đọc:
Để phát huy vai trị của thư viện người làm cơng tác thư viện ln có tư
tưởng đổi mới, cầu tiến; ln suy nghĩ và hành động với tư tưởng phục vụ tận tình

giáo viên và học sinh.
Nhà trường thực hiện tốt khâu tổ chức xử lý kỹ thuật, đầu tư xây dựng thư
viện đạt chuẩn của trường chuẩn Quốc gia mức độ 1(năm 2020). Về nghiệp vụ thư
viện, cán bộ thư viện có sổ sách quản lý và nhà trường có đầu tư trang bị phần
mềm quản lý thư viên để nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng phục vụ bạn
đọc. Việc bổ sung sách báo, tài liệu được thực hiện thường xun.
Tổ quản lí thư viên có sự phối hợp thường xuyên với giáo viên chủ nhiệm rà
soát đảm bảo 100% học sinh có sách giáo khoa và hướng dẫn học sinh sử dụng
sách ôn thi tốt nghiệp.
Thường xuyên sắp xếp ngăn nắp, đảm bảo cho cán bộ giáo viên mượn và sử
dụng sách, tài liệu một cách tốt nhất, khoa học nhất.
- Cơng tác quản lí việc mượn, trả sách của giáo viên và học sinh:
Thư viện trường THPT đô lương 3 đã triển khai và thực hiện một cách
nghiêm túc đầy đủ các nội dung, các quy định và hướng dẫn của Bộ, ngành Giáo
dục về công tác thư viện.
Hàng năm cán bộ thư viện lập kế hoạch hoạt động vào đầu năm học và báo
cáo tổng kết công tác thư viện vào cuối năm để báo cáo cho hiệu trưởng.
Đầu năm học cán bộ thư viện có kế hoạch kiểm kê rà soát lại các danh mục
sách thư viện, duy trì tủ sách giáo khoa dùng chung.
Tổ chức cho học sinh mượn sách giáo khoa, sách tham khảo nhất là học sinh
thuộc diện gia đình chính sách, học sinh hộ nghèo, gia đình khó khăn khơng có khả
năng tự mua.
17


Hàng năm thực hiện rà sốt và có cơ chế tặng SGK và thẻ thư viện cho
những em là học sinh nghèo, học sinh có hồn cảnh gia đình khó khăn vươn lên
đạt thành tích cao trong học tập và rèn luyện.
- Nâng cao chất lượng phục vụ bạn đọc và công tác bảo quản tài liệu:
Nhà trường tổ chức thường xuyên hoạt động giới thiệu sách đến bạn đọc

và biên soạn các thư mục giới thiệu sách để nâng cao hiệu quả hoạt động giới thiệu
sách.
Kiểm tra sách của học sinh đầu năm học. Đảm bảo 100% học sinh có sách
giáo khoa.
Thực hiện hồ sơ sổ sách đầy đủ, tổ chức kiểm kê thư viện, thanh lý sách,
báo cũ, lạc hậu.
Mọi cán bộ, giáo viên trong trường đều được mượn sách, báo và tài liệu
để đọc tại chỗ hoặc đưa về nhà để nghiên cứu và học tập; Nhà trường có quy định
cho cán bộ, giáo viên mượn và trả sách theo đúng quy định (Đối với sách giáo
khoa phải mượn đầu kì, đầu năm học và trả khi kết thúc học kì, trước khi về nghỉ
hè).
Khi mượn sách phải bảo quản, giữ gìn sách cẩn thận. Nếu làm hư hỏng thất
lạc phải bồi thường theo giá bìa.
Học sinh được mượn sách tham khảo, SGK đọc tại chỗ hoặc mượn về nhà
theo nhu cầu nhưng phải trả sách lại cho Thư viện sau một khoảng thời gian nhất
định.
Phát động phong trào mượn đọc sách tham khảo, thường xuyên giới thiệu
sách mới đến bạn đọc.
- Làm sổ cho bạn đọc, cho học sinh:
Thư viện mở cửa 5 ngày trong tuần, 10 buổi phục vụ bạn đọc và làm nghiệp vụ.
Số lượng giáo viên đọc và mượn sách tại Thư viện đạt tỉ lệ 100%
Số lượng học sinh đọc và mượn sách tại Thư viện đạt tỉ lệ trên 80%
- Việc đầu tư mua sắm, bổ sung các loại sách:
Nhà trường phối hợp với các tổ chức giáo dục khác để thường xuyên bổ
sung sách nghiệp vụ, sách tham khảo mới cho thư viện, chỉ tiêu sách giáo viên đạt
100%, sách tham khảo đạt bình quân 3-4 quyển/ học sinh. Ban giám hiệu (BGH )
cũng chỉ thị cho cán bộ thư viện tiếp tục trang bị và bổ sung sách cho tủ sách pháp
luật, tủ sách Đạo đức trong nhà trường. Cán bộ thư viện cũng trưng cầu ý kiến từ
phía giáo viên đăng kí các hạng mục sách cần mua để bổ sung kịp thời nhằm đáp
ứng việc dạy và học của giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, vì những khó khăn về

18


tài chính trong điều kiện dịch bệnh nên trong vài năm qua việc đầu tư mua sắm bổ
sung tài liệu, học liệu cho thư viện chưa đạt kết như mong muốn, các hạng mục
sách chưa thật phong phú, chưa thật sự đáp ứng được nhu cầu bạn đọc trong tình
hình mới. ( Phụ lục 3)
- Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động thư viện:
Thư viện trường THPT đô lương 3 đã triển khai và thực hiện một cách nghiêm
túc đầy đủ các nội dung ,các quyết định và hướng dẫn về công tác thư viện. Hàng
năm cán bộ thư viện phải lập kế hoạch hoạt động vào đầu năm học và báo cáo tổng
kết công tác thư viện vào cuối năm để báo cáo cho hiệu trưởng . Đầu năm học cán
bộ thư viện có kế hoạch kiểm kê rà sốt lại danh mục sách thư viện, duy trì tủ sách
giáo khoa dùng chung. Kiểm tra sách của học sinh đầu năm học, đảm bảo 100%
học sinh có sách giáo khoa.Thực hiện hồ sơ sổ sách đầy đủ, tổ chức kiểm kê thư
viện, thanh lý sách, báo cũ lạc hậu. Về phía BGH nhà trường, sẽ có kế hoạch từ
đầu năm học và thơng báo lộ trình kiểm tra công tác của hoạt động thư viện bất
đầu từ khâu kiểm tra kế hoạch của thủ thư; việc thực thi kế hoạch; kết quả cụ thể
qua từng hạng mục…Tuy nhiên công tác kiểm tra hoạt động thư viện không phải
lúc nào cũng được thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình, nhất là những năm học
trước. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động thư viện thực sự được chú trọng nhiều
hơn từ năm học 2019-2020 trở lại đây. (Phụ lục 4)
Rõ ràng, hoạt động thư viện từ trước đến nay vẫn được duy trì, tuy nhiên bên
cạnh những kết quả đạt được trong công tác thư viện vẫn tồn tại một số hạn chế và
phát triển chưa đồng bộ. Trang thiết bị cơ sở vật chất và nguồn học liệu của thư
viện chưa thật sự đáp ứng được nhu cầu sử dụng. Công tác bồi dưỡng, xây dựng
đội ngũ cán bộ thư viện chưa được chú trọng nhiều vì thế hoạt động vận hành thư
viện chưa phát huy hết hiệu quả. Hoạt động thư viện chưa thu hút được nhiều học
sinh đến học tập và trải nghiệm ở không gian này. Theo số liệu thống kê từ thủ thư
của thư viện trường THPT Đô Lương 3 qua những năm học gần đây, nhất là những

năm học 2016-2017; 2017-2018; 2018 -2019 lượng sách thư viện nhà trường được
học sinh mượn đọc hết sức khiêm tốn, thậm chí có những học sinh chưa bao giờ
đến thư viện trong suốt ba năm học cấp 3. Lượng sách trong thư viện nhà trường
có trên 5000 bản sách, chưa kể các tạp chí theo định kì nhưng thư viện chưa thực
sự thu hút được học sinh đến đọc sách, nguồn sách chủ yếu vẫn đang phục vụ theo
nhu cầu của giáo viên.
Mặc dù hàng năm nhà trường vẫn bổ sung tài liệu cho thư viện ,nhưng kể cả
số lượng cũng như chất lượng còn quá ít. Nguồn tài liệu bổ sung chủ yếu chỉ phục
vụ cho việc ôn thi hàng năm,chưa chú tâm vào việc bổ sung nguồn tài liệu tham
khảo nhiều lĩnh vực khác. Đây cũng là một trong những hạn chế trong việc thu hút
bạn đọc.
Biểu đồ 1.3 : Thống kê số đầu sách học sinh mượn từ thư viện qua các năm học.
19


Qua số liệu khảo sát trên cho thấy có sự khởi sắc về ý thức đọc sách của học
sinh ở năm học 2019-2020; 2020-2021 nhưng nhìn chung lượng sách được học
sinh chủ động khám phá chưa cao. Hai năm học gần đây nhà trường đã có những
bước khởi động để đánh thức tiềm năng ý thức đọc sách từ các học sinh nên bước
đầu lượng học sinh đến với thư viện đã nhiều hơn trước. Tuy nhiên về cơ bản vẫn
là số học sinh ở các lớp chất lượng cao mới có hào hứng tìm đến với thư viện.
Làm thế nào để tất cả học sinh chú ý, chăm chỉ đọc sách nhiều hơn? Làm thế
nào để khắc phục thực trạng đọc sách trên đây từ phía học sinh ? Chắc chắn chúng
ta cần làm rõ nguyên nhân của vấn đề trước khi có câu trả lời xác đáng qua các giải
pháp.
2.2.2. Đánh giá chung về công tác thư viện tại trường THPT Đơ Lương 3:
2.2.2.1. Uu điểm:
Trường có thư viện với diện tích tương đối lớn, cơ bản đáp ứng tiêu chuẩn
về kiểm định chất lượng giáo dục. Thư viện có phịng đọc dành riêng cho học sinh
và giáo viên, có phịng kho để lưu trữ, xử lí hồ sơ, học liệu liên quan đến công tác

thư viện.
Cán bộ thủ thư có trình độ đạt chuẩn, kỹ năng cơng tác đảm bảo, nhiệt tình
trong cơng việc nên việc quản lý thư viện cơ bản tốt, có hệ thống.
Hàng năm nhà trường đều có sự đầu tư nhất định để bổ sung thêm sách, tài
liệu tham khảo, thực hiện sửa chữa, nâng cấp về cơ sở vật chất để duy trì hoạt động
của thư viện.
2.2.2.2. Tồn tại, hạn chế:
Trước hết là hạn chế về số lượng đầu sách, tài liệu của thư viện, tức là chủng
loại sách trong thư viện còn chưa đa dạng phong phú. Chủ yếu vẫn chỉ có sách
giáo khoa và sách tham khao, ít những tài liệu giải trí hoặc các bộ sách quý giúp
nâng cao và mở rộng tri thức. Tức là nguồn lực của nhà trường đầu tư cho thư viện
chưa thật cao.
20


Việc khai thác tư liệu thư viện cũng chưa được chú trọng đúng mức, chưa có
những đổi mới, sáng tạo để khích lệ học sinh đến với thư viện. Đây đó “thư viện
vẫn là kho giữ sách”, cả giáo viên và học sinh thực sự chưa mặn mà với địa chỉ
này.
Việc đầu tư xây dựng thư viện đạt chuẩn, thư viện tiên tiến hay thư viện điện
tử còn chưa được quan tâm đúng mức, nhất là từ năm học 2018-2019 trở về trước.
Đặc biệt là nhà trường chưa thật sự chú trọng đầu tư và phát triển thư viện theo mơ
hình “Thư viện xanh”, “Thư viện mở” để bắt kịp xu thế thời đại và cũng là yêu cầu
của đổi mới công tác GD trong giai đoạn hội nhập như Phó Thủ tướng Vũ Đức
Đam từng khẳng định: “Thư viện không phải là chỗ giữ sách”. Điều 24 trong TT
32 quy định về phát triển văn hóa đọc cũng đã khẳng định: Trường phổ thông phải
tạo điều kiện cho giáo viên, học sinh tiếp cận và sử dụng thông tin thư viện, các
nguồn thơng tin hữu ích khác để phát triển văn hóa đọc; Trường phổ thơng có trách
nhiệm phát triển kỹ năng đọc và kỹ năng tìm kiếm thơng tin cho giáo viên và học
sinh.

Tuy nhiên trong thực tế, vì những lí do chủ quan, khách quan khác nhau, nhà
trường chưa thực sự chú ý để chủ động đầu tư cho việc phát triển thư viện, nhất là
mơ hình “Thư viện xanh” thực sự chưa được quan tâm đúng mức. Nhà trường chỉ
mới tập trung đầu tư nâng cấp thư viện, kể cả về quy mô cũng như phương thức
quản lí kể từ năm học 2018-2019 khi trường nhận được công văn chỉ đạo của Sở
Giáo dục – Đào tạo và chính quyền địa phương về yêu cầu xây dựng trường đạt
chuẩn Quốc gia. Cụ thể vào tháng 11 năm học 2020-2021 trường THPT Đô Lương
3 đã được sở GD&ĐT công nhận là trường đạt chuẩn quốc gia mức độ một, theo
đó các hạng mục phục vụ cho cơng tác dạy học của nhà trường đã được nâng cấp
để trở nên khang trang hơn. Thư viện nhà trường cũng như văn hóa đọc của học
sinh được chú ý để phát triển hơn. Hàng ngày, hàng tuần lượng học sinh đến với
thư viện nhiều hơn, số đầu sách tham khảo, chuyên sâu cũng được các em quan
tâm khai thác nhiều hơn. Dù vậy, nhìn chung khơng gian đọc sách, các hạng mục
sách vẫn chưa thực sự hấp dẫn,chưa thuyết phục bạn đọc. Học sinh vẫn thấy bất
tiện khi tiếp cận với sách thư viện, nhiều nhu cầu và ước mơ đọc sách trong một
không gian mở của các em chưa được đáp ứng để thỏa mãn. Nghĩa là cần sự vào
cuộc và đầu tư, thiết kế bài bản của nhà trường để các em có được một thư viện
xanh thực sự .
3. Nguyên nhân của những tồn tại trên:
3.1. Nguyên nhân khách quan.
Nguyên nhân đầu tiên có thể nói đó là sự tác động của xã hội, đặc biệt là
“quy luật lây lan của môi trường giáo dục học đường”. Cụ thể là nhiều trường học
trên địa bàn chưa chú trọng đến việc đầu tư và khai thác thư viện để phục vụ cho
công tác giảng dạy của giáo viên cũng như phát triển văn hóa đọc trong học sinh.
21


Thứ hai: Đa phần gia đình các học sinh của trường THPT Đơ Lương 3 có
mức sống trung bình và thấp, có nhiều gia đình cịn là hộ nghèo, cận nghèo, mức
độ dân trí chưa thực sự cao nên ở môi trường này thực sự các bậc phụ huynh cũng

như các em học sinh chưa thể chú ý nhiều, nghĩ nhiều hay chăm lo việc khai thác
thư viện hay hỗ trợ đầu tư phát triển thư viện cùng nhà trường.
Thứ ba : Nhu cầu mượn sách, đọc sách của giáo viên và học sinh nhà trường
chưa thật lớn, chưa là vấn đề bức thiết để từ đó thơi thúc sự đầu tư xây dựng thư
viện ở tầm quy mô lớn.
Thứ tư : Sự tác động của thời đại công nghệ số, thư viện truyền thống thực
sự khó hấp dẫn bạn đọc bởi lẽ bạn đọc có thể mua sách, đọc sách mọi lúc, mọi nơi
khi có điện thoại thơng minh.
Thứ năm : Thông thường ở mỗi trường giờ nghỉ giải lao giữa các tiết học là
5 phút, khoảng thời gian này không đủ để học sinh lên thư viện đọc sách. Do đó
nhiều em đã chọn ngồi trong lớp nói chuyện với các bạn, hay ra sân chơi hơn là lên
thư viện. Hơn nữa ở bậc THPT khơng bố trí giờ thư viện và cũng khơng có chủ
trương cho phép học sinh mượn sách về nhà nên đa số các em gặp khó khăn trong
khâu mượn sách, đọc sách.
3.2 : Nguyên nhân chủ quan:
Trước tiên phải nói đến nguyên nhân chủ quan từ phía cơng tác quản lí của
BGH nhà trường, trong đó cơ bản là việc xác định mục tiêu giáo dục chưa đúng
đắn, còn bị động trong lãnh đạo chỉ đạo tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông (
GDPT) mới. Nhà trường chưa chú ý nhiều đến cơng tác GD phát triển kỹ năng
tồn diện cho học sinh. Bởi lẽ nếu BGH nhà trường chú ý dến cơng tác GD trong
giai đoạn mới thì song song với việc chỉ đạo đổi mới dạy học thường niên, BGH
phải luôn cập nhật các công văn, chỉ thị, nghị quyết… để chỉ đạo cán bộ giáo viên
đổi mới dạy học mà cụ thể ở đây là công tác phát triển, khai thác thư viện.
Chỉ qua cập nhật những thông số đọc sách, mượn sách từ năm học 20152016 đến năm học 2019-2020 ở thư viện trường THPT Đô Lương 3(Biểu đồ 1.3)
có thể thấy dường như BGH chưa chú ý nhiều đến công tác thư viện, nhất là việc
đọc sách của học sinh. Thư viện vẫn cơ bản là “kho giữ sách” và sách ở đây chủ
yếu là sách giáo khoa, chỉ có một số cán bộ giáo viên mượn sách để giảng dạy.
Trong khi đó dự án Luật Thư viện nằm trong Chương trình hành động của Chính
phủ thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Hội nghị lần thứ 9 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con

người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã được ban hành
theo Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ. Nghĩa là từ năm
học 2014-2015 Chính phủ đã chú tâm đến công tác phát triển văn hóa đọc. Và năm
2015, Tuần lễ Học tập suốt đời ở Việt Nam được triển khai từ 2/10 đến 9/10 ở mọi
tỉnh, thành trên cả nước. Với chủ đề “Chung tay xây dựng thư viện, thường xuyên
22


đọc nhiều sách hay”, tâm điểm của Tuần lễ Học tập suốt đời năm 2015 nhấn mạnh
đến mối liên hệ mật thiết giữa thư viện với việc đọc sách của mọi người trong quá
trình rèn luyện để trở thành một cá nhân học tập suốt đời.
Đặc biệt Luật Thư viện được Quốc hội thơng qua ngày 21/11/2019 và có
hiệu lực từ ngày 01/7/2020 đã đánh dấu một mốc quan trọng trong hoạt động thư
viện và phát triển văn hóa đọc ở Việt Nam. Trong Luật Thư viện đã có nhiều quy
định đón trước để các thư viện phát triển và bắt kịp với những yêu cầu đặt ra trong
thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0 đang xâm nhập mạnh mẽ vào tất cả các mặt
của cuộc sống . Từ những quy định về chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động
của thư viện, đến những quy định cụ thể về hoạt động thư viện, hiện đại hóa thư
viện, phát triển thư viện số, phát triển văn hóa đọc. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tin tưởng Luật Thư viện sẽ tạo động lực cho văn hóa đọc phát triển. Và đó
cũng chính là những yếu tố đảm bảo để văn hóa đọc phát triển bền vững trong
tương lai…
Như vậy về tổng thể, Đảng và Nhà nước đã có những công văn, chỉ thị để
hướng dẫn, định hướng công tác phát triển GD nói chung, phát triển văn hóa đọc
và thư viện nói riêng nhưng điều quan trọng là sự quan tâm của các nhà trường mà
trước tiên là công tác quản lý và phát triển thư viện trường học của BGH, của
người đứng đầu. Rõ ràng trong những năm qua ở trường THPT Đơ Lương 3 việc
chuẩn hóa và khai thác thư viện để phục vụ cho phát triển văn hóa đọc là chưa thỏa
đáng, đặc biệt là từ năm học 2017-2018 trở về trước.
Ngoài ra, sự vào cuộc, tinh thần đổi mới sáng tạo của cán bộ thư viện cũng

như đội ngũ giáo viên nhà trường chưa cao. Giáo viên bộ môn chỉ mới chú ý đến
môn dạy của mình, chưa xem việc cập nhật các văn bản, công văn chỉ đạo về đổi
mới thư viện là việc cần sự đóng góp tiếng nói của mình. GVCN cũng chưa thực
sự quan tâm đến việc đọc sách của các em, chưa chú trọng xây dựng mơ hình thư
viện lớp học hay đốc thúc học sinh lớp mình đọc sách ở thư viện trường. Nhiều
học sinh chưa có thói quen đọc sách báo vậy nên việc tạo thói quen đọc sách và
hình thành văn hóa đọc cho học sinh là một yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc
định hướng các em tới thư viện. Như vậy có thể nói, sở dĩ có sự thờ ơ của học sinh
đối với thư viện là do nhà trường và các thầy cô chưa định hướng tốt. Mặt khác
cũng do cán bộ thư viện chưa sâu về nghiệp vụ, chưa thực sự trở thành cầu nối
giữa bạn đọc và vốn tài liệu, đâu đó chưa thật mặn mà với cơng việc, chưa thật
nhiệt tình với học sinh, …
Đã đến lúc nhà trường và tập thể cán bộ giáo viên cần quan tâm hơn tới câu
chuyện về “Thư viện thời 4.0” đã được đặt ra trong nhiệm vụ phát triển văn hóa
đọc hiện nay. Đó cũng là một xu hướng tất yếu của thời đại số để tiếp cận và đẩy
mạnh văn hóa đọc ở Việt Nam trong thời gian tới. Chúng ta phải đổi mới cách
thức tổ chức và hoạt động thư viện trường học nhằm tạo môi trường thuận lợi cho
học sinh tiếp cận thường xuyên với sách bằng nhiều hình thức như “thư viện
23


xanh”, “thư viện thân thiện”, “thư viện điện tử”…Muốn làm được điều đó trước
hết nhà trường phải khảo sát được nhu cầu của học sinh theo từng vùng miền, từng
lứa tuổi, để từ đó lên kế hoạch mua sắm, xác định nguồn tài liệu phù hợp với nhu
cầu học tập, giải trí của các em. Bên cạnh đó, cán bộ thư viện và tập thể giáo viên
nhà trường cũng phải xây dựng kế hoạch hoạt động thư viện đảm bảo phù hợp, có
hình thức hoạt động linh hoạt, phong phú nhằm tạo hứng thú cho học sinh đến đọc
và học… Chỉ khi có sự vào cuộc tích cực của các ban ngành, của nhà trường thì
những hạn chế,tồn tại trên đây về quản lý và khai thác thư viện nhằm phát triển
văn hóa đọc cho học sinh mới có thể được khắc phục, mơ hình thư viện mở ln là

mơ ước không chỉ của học sinh mà là của cả giáo viên trong chiến lược đổi mới
GD hiện nay.

Chương 2: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN NHẰM PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC
TẠI TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 3, NGHỆ AN.
Sách là sản phẩm tinh thần, đồng thời là sản phẩm vật chất do con người lao
động sáng tạo nên, là nhân tố quan trọng để thúc đẩy xã hội phát triển. Sách giúp
tăng trí tuệ, sự hiểu biết của con người. Sách là nơi hội tụ những tri thức, kinh
nghiệm, những giá trị của cuộc sống đã được cha ông ta, những thế hệ đi trước đúc
rút và truyền lại cho thế hệ sau. “Khơng có sách thì khơng có tri thức, khơng có tri
thức thì khơng có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản”, V.I.Lê Nin. Thư viện
chính là “địa chỉ đỏ” bởi đó là “kho tri thức được cất dấu qua các cuốn sách”. Nhận
thức rõ tầm quan trọng của sách nhất là việc đổi mới phương thức quản lí hoạt
động thư viện để phát triển văn hóa đọc trong học sinh , Đảng và Chính phủ đã có
Quyết định số 329/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển
Văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; theo đó
UBND Tỉnh Nghệ An; Sở GD&ĐT Nghệ An đã ban hành các công văn tới các nhà
trường và cơ sở GD trong toàn tỉnh. Cụ thể, ngày 08 tháng 10 năm 2021 UBND
Tỉnh có cơng văn Số: 567/ KH-UBND về phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng
trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Mục
tiêu là xây dựng và phát triển thói quen, nhu cầu, kĩ năng và phong trào đọc sách
trong mọi tầng lớp nhân dân, nhất là trong học sinh, sinh viên chú trọng tới người
dân ở vùng nơng thơn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; cải thiện mơi
trường đọc; góp phần nâng cao dân trí, phát triển tư duy, khả năng sáng tạo, bồi
dưỡng nhân cách, lối sống văn minh trong con người Việt Nam, đẩy mạnh xây
dựng xã hội học tập.
24



×