Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận Triết học: Vấn đề khoán trong nông nghiệp ở Việt Nam, hiện tại và triển vọng Đề xuất những chính sách chủ yếu để phát triển nền nông nghiệp bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.81 KB, 14 trang )

TIỂU LUẬN MƠN: TRIẾT HỌC
Chủ đề: Vấn đề khốn trong nông nghiệp ở Việt Nam, hiện tại và triển vọng.
Đề xuất những chính sách chủ yếu để phát triển nền nông nghiệp bền vững.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hằng
Lớp: QTKD K29
Mã sinh viên:

Thái Bình, ngày 15 tháng 8 năm 2020

1


PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là nước nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao. Sau 30 năm thực hiện đổi
mới, đến nay nông nghiệp VN đã có những bước tiến quan trọng. Xuất phát từ
một nền nơng nghiệp lạc hậu, nghèo đói, thiếu lương thực, thực phẩm trở thành
một nước xuất khẩu nhiều sản phẩm nơng nghiệp. Có được thành tựu đó nơng
nghiệp VN đã trải qua nhiều thời kỳ khó khăn. Từ chủ trương hợp tác hố nơng
nghiệp với tư duy quản lý tập thể, cơ chế hố trong nơng nghiệp, với hình thức
khốn việc, đến sự ra đời của hình thức khốn hộ. Từ khốn hộ ở một xã, huyện,
một cách cơng khai đến khoán chui, khoán lùi rồi khoán sản phẩm, khoán lúa,
khoán 100 và khoán 10 là cả một chặng đường gian nan, đi từ thử nghiệm này đến
thử nghiệm khác, từng bước điều chỉnh giữa lý luận và thực tiễn để tìm ra con
đường đúng đắn cho nơng nghiệp VN phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị và
sự phát triển của Việt Nam. Từ một nước nông nghiệp thiếu đói triền miên qua
q trình đổi mới, Việt Nam đã tự lực được lương thực và vươn lên trở thành
nước thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Xã hội càng phát triển vai trị của
nơng nghiệp càng được coi trọng. Bài học về khoán hộ và sự thăng trầm của
khoán hộ là một thực tế đáng suy ngẫm trong quá trình đi đến đổi mới ở Việt


Nam. Khốn hộ khơng chỉ là vấn đề của q khứ mà cịn nhiều bài học nóng hổi
cho giai đoạn phát triển đất nước hiện nay.
Do đó việc nghiên cứu “Vấn đề khốn trong nơng nghiệp ở Việt Nam, hiện
tại và triển vọng. Đề xuất những chính sách chủ yếu để phát triển nền nông nghiệp
bền vững” là cần thiết.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Hiểu rõ thêm về q trình phát triển nền nơng nghiệp nước nhà, đặc biệt là
vai trị Khốn trong nơng nghiệp.
- Nghiên cứu và đưa ra thực trạng nền Nông nghiệp hiện tại và các giải pháp
để phát triển nông nghiệp VN trong tương lai.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu tập trung vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm
đảm bảo cho ngành nông nghiệp phát triển bền vững.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu
sau:
2


- Phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, Chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
- Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn;
- Quán triệt tư tưởng chỉ đạo, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước;
- Sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh tài liệu.
- Phương pháp khảo sát, trao đổi và đánh giá khách quan.
PHẦN II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Nông nghiệp Việt Nam qua các thời kỳ
1.1 Trước 1945:
Thời kỳ thực dân Pháp đô hộ Việt Nam (1884 - 1945), chính quyền thực dân
thực hiện chính sách: Thuộc địa phải được giành riêng cho thị trường Pháp, cung

cấp nguyên liệu cho Pháp và mua hàng hóa của Pháp. Thực dân Pháp cướp đoạt
ruộng đất của nông dân Việt Nam. Nông nghiệp từ chỗ chỉ trồng lúa là chính,
được chuyển một phần sang trồng các cây phục vụ chính quốc như: Cao su, cà
phê, thầu dầu, đay, lạc v.v... nơng dân bị bần cùng hóa vì sưu cao, thuế nặng, vì
thiên tai liên tiếp. Nạn đói xảy ra nghiêm trọng.
1.2. Từ khốn việc đến khốn hộ
Phát xít Nhật cùng với thực dân Pháp đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm
1945. Sau cách mạng tháng 8 thành công, Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân Việt
Nam “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm” “tăng gia sản xuất” “sản
xuất và tiết kiệm”. Chỉ sau khoảng một năm, nhân dân Việt Nam đã chiến thắng
được nạn đói. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954), nhân
dân ta vẫn đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đáp ứng về cơ bản nhu cầu ăn no,
đánh thắng theo lời hiệu triệu của Hồ Chí Minh “ruộng rẫy là chiến trường, cuốc
cày là vũ khí, nhà nơng là chiến sỹ, hậu phương thi đua với tiền phương”. Hịa
bình được lập lại ở miền Bắc, nông dân bắt tay mạnh mẽ vào hàn gắn những vết
thương chiến tranh. Qua cuộc vận động giảm tô, cải cách ruộng đất (1953 - 1957),
hơn 810.000 ha ruộng đất được chia cho 2.104.158 hộ nông dân. Năm 1958, Nhà
nước chủ trương, vận động hợp tác hóa trong nơng nghiệp, kết hợp với cải tiến kỹ
thuật và phát triển sản xuất.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhằm phát triển SX nhưng giai đoạn này SX
nơng nghiệp ở miền Bắc vẫn mang nặng tính bình qn, bao cấp; cịn ở miền
Nam, phong trào hợp tác hóa phát triển nhanh nhưng khơng bền vững;…
Với nhận thức: “…còn chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lối
làm ăn riêng lẻ thì vẫn còn cơ sở vật chất và điều kiện xã hội cho khuynh
3


hướng tư bản chủ nghĩa tự phát nảy nở”, sau khi thực hiện cải cách ruộng đất
và cải tạo nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước đề mục tiêu xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Trong nông nghiệp chủ trương thực hiện phong trào

hợp tác hố, thành lập các hợp tác xã nơng nghiệp, hô hào nông dân tham gia hợp
tác xã.
Đến cuối 1960, phong trào hợp tác hố nơng nghiệp đã cơ bản thành công
với 85,8% số hộ nông dân và 68,1% diện tích đất canh tác ở miền Bắc được đưa
vào 40.422 hợp tác xã nông nghiệp. Nguyên tắc của hợp tác xã là: tập thể hoá tư
liệu sản xuất và sức lao động, quản lý theo cơ chế tập trung, phân phối tư liệu và
sản phẩm một cách thống nhất.
Khi vào hợp tác xã, hộ nơng dân đóng góp tất cả tư liệu sản xuất mà mình có
được bao gồm: ruộng đất, trâu, bò, cày, cuốc… để sơ hữu chung, dưới sự quản lý
của Ban chủ nhiệm hợp tác xã và các Đội sản xuất. Mọi việc làm và kết quả thu
hoạch được đều do Ban chủ nhiệm và các Đội sản xuất quản lí, điều hành và phân
phối. Hình thức tổ chức sản xuất ở các hợp tác xã là khoán việc. Đơn vị sản xuất
là tổ đội sản xuất chứ khơng cịn là hộ gia đình, vai trị kinh tế hộ nơng dân bị xố
bỏ. Khốn việc khơng quy trách nhiệm cho ai, xã viên không hề thấy quyền lợi
mà mình sẽ được hưởng trên cánh đồng chung. Xã viên làm việc theo tiếng kẻng,
buổi sang theo kẻng đủng đỉnh ra đồng, làm việc cầm chừng đợi kẻng hết giờ ra
về, không quan tâm đến chất lượng công việc.
Theo chế độ khốn việc, cơng sức lao động của xã viên được qui thành cơng,
điểm (cơng là ngày cơng, cịn điểm là 1/10 ngày cơng). Từ cấy hái, chăm bón đến
họp hành đều tính thành cơng điểm mà người ghi điểm là cán bộ thôn, xã. Cán bộ
thôn, xã được bầu theo quan điểm giai cấp nên hầu hết là những bần, cố nơng –
những người cịn nhiều hạn chế về khả năng và trình độ quản lí. Ngày cơng được
tính cho mỗi lao động khi thực hiện một cơng việc theo tiêu chuẩn hợp tác xã đề
ra. Cuối mỗi vụ đều dựa vào công điểm để chia hoa lợi. Đây chính là điểm sơ hở
đẻ ra rất nhiều sâu mọt, quan tham ngay từ cơ sở. Kẻ ghi công điểm thì khơng
phải lao động và có quyền ban phát cơng điểm cho nơng dân. Cịn nơng dân thì
một nắng hai sương nhưng chẳng được bù đắp gì vì mọi thứ đều là của chung và
rơi vào tình trạng “cha chung khơng ai khóc”. Tình trạng “dong cơng, phóng
điểm” ngày càng phát triển tràn lan. Chính vì vậy mà sau một thời gian hợp tác
hố, nơng nghiệp nước ta rơi vào tình trạng lụn bại.

Trong thời kì 1961-1965, diện tích trồng trọt của miền Bắc tuy đã tăng thêm
khoảng 20 vạn hecta do khai hoang, nhưng năng suất lúa giảm chỉ cịn 17-18
tạ/hecta. Năm 1961, mức bình qn lương thực đầu người là 24kg/tháng, đến năm
1965 giảm chỉ còn 14kg/tháng.
1.3 Từ khoán hộ đến khoán chui, khoán lùi
Với cơ chế khốn việc, chỉ đạo của hợp tác xã, người nơng dân không thiết
tha với công việc của hợp tác xã, cha chung khơng ai khóc, làm việc chỉ vì cơng
4


điểm, khơng vì chất lượng nên chỉ sau một thời gian ngắn, nông nghiệp bị giảm
sút nghiêm trọng.
Sau một thời gian trăn trở, tìm tịi đổi mới trong quản lý nơng nghiệp, ngày
10/9/1966, dưới sự chủ trì của đồng chí Kim Ngọc, Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc ra Nghị
quyết số 68- NQ/TU “Về một số vấn đề quản lý lao động nông nghiệp trong hợp
tác xã hiện nay”, sau này nhân dân gọi là “khoán hộ”.
“Khoán hộ” đã giải quyết một vấn đề rất cơ bản là giải phóng sức sản xuất
đang bị kìm hãm bởi cơ chế quản lý khơng phù hợp, xa rời thực tiễn sản xuất
nông nghiệp; phát huy sự chủ động, năng động, những tiềm năng dồi dào trong
nhân dân, khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, biến người nơng dân thành
người chủ đích thực trong sự ràng buộc bởi yếu tố lợi ích. Lần đầu tiên, ý tưởng
về khốn cho hộ gia đình xã viên đã khơi dậy tính sáng tạo trong quần chúng lao
động và phù hợp với lịng dân nên nhanh chóng đi vào đời sống thực tiễn.
Nội dung của đổi mới tư duy dù mới là q trình tìm tịi ban đầu, nhưng đã
thể hiện tư duy đổi mới vượt trước trong lĩnh vực quản lý nông nghiệp, nông thôn
và nông dân, đồng thời là kết quả của quá trình đấu tranh giữa cái mới với cái cũ,
giữa cái tiến bộ với cái lạc hậu mà đồng chí Kim Ngọc là người tổ chức và khởi
xướng. Chủ trương “khoán hộ” do đồng chí Kim Ngọc đưa ra là một quyết định
đúng đắn, táo bạo nhưng đầy trách nhiệm, thể hiện tầm tư duy đổi mới, sáng tạo,
đi trước của đồng chí Kim Ngọc.

Tuy vậy, ở thời điểm đó “khốn hộ” bị coi là “đốt cháy giai đoạn”, không
phù hợp với chủ trương đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa của Trung ương và
được coi là một sự “vượt rào”, vi phạm “nghiêm trọng” đường lối của Đảng về
phát triển nông nghiệp thời bấy giờ, nên không thể triển khai rộng rãi; bản thân
đồng chí Kim Ngọc phải chịu nhiều sức ép, nhưng đồng chí vẫn giữ vững bản
lĩnh của người lãnh đạo dám làm và dám chịu trách nhiệm, giữ vững niềm tin sắt
đá ở “khoán hộ”. Và trên thực tế, “khoán hộ” ở Vĩnh Phúc vẫn lan tỏa, được vận
dụng không chỉ ở Vĩnh Phúc mà cả một số địa phương ở miền Bắc.
1.4 Từ khoán chui đến khoán 100 và khốn 10
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/04/1975) nơng
nghiệp Việt Nam có nhiều thuận lợi mới để phát triển. Trước tình hình đó, từ
những thí điểm hình thức khốn trong SX nơng nghiệp ở Hải Phịng, Vĩnh Phú,
Nghệ Tĩnh năm 1980, Đảng, Nhà nước đã có chủ trương mở rộng hình thức
khốn theo Chỉ thị 100-CT/TW
Ngày 13 tháng 1 năm 1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100CT/TW về Cải tiến công tác khốn, mở rộng khốn sản phẩm đến nhóm lao động
và người lao động trong hợp tác xã nơng nghiệp chính thức cơng nhận khốn sản
phẩm. Chỉ thị này cho phép áp dụng chế độ khốn trong tồn bộ nền nơng nghiệp
cả nước. Chế độ khoán này thường được gọi tắt là Khoán sản phẩm, hay khoán
100.
5


Chỉ thị 100 nêu rõ ba mục đích của khốn sản phẩm là: bảo đảm phát triển
sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế (trên cơ sở lôi cuốn được mọi người hăng hái
lao động, kích thích tăng nǎng suất lao động, sử dụng tốt đất đai, tư liệu hiện có),
củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất XHCN ở nông thôn, nâng cao thu nhập
của người lao động.
Nguyên tắc khốn sản phẩm:quản lý và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất,
trước hết là ruộng đất, quản lý và điều hành lao động phải trên cơ sở gắn với kết
quả cuối cùng của sản xuất, thực hiện khoán theo 5 khâu và 3 khâu; trong phân

phối giải quyết hài hồ mối quan hệ lợi ích người lao động.
Phạm vi khoán sản phẩm:áp dụng đối với mọi loại cây trồng và vật ni.
Khốn 100 có tác dụng phân chia lại chức nǎng kinh tế giữa tập thể và hộ
gia đình cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và phân phối, mở đầu cho quá
trình dân chủ hố về mặt kinh tế, bằng việc gắn bó trở lại lao động với ruộng đất,
mang lại lợi ích thiết thực cho nơng dân, tạo ra động lực kích thích phát triển sản
xuất. Xét về mặt cơ chế quản lý kinh tế, khoán 100 đã phá vỡ cơ chế tập trung
quan liêu trong sản xuất nông nghiệp. Trong thời gian đầu, khốn 100 đã có tác
dụng làm sống động nền kinh tế nông thôn và tạo ra một khối lượng nông sản lớn
hơn so với thời kỳ trước.
Sau khi chỉ thị 100 được ban hành, như được cởi trói, khoán sản phẩm đã
được triển khai, thực hiện phổ biến ở các hợp tác xã và các tổ, đội sản xuất. Tuy
vậy, khốn 100 cũng chỉ có tác dụng trong một thời gian, sau đó giảm dần vì cơ
chế tập trung quan liêu vẫn cịn được duy trì trong hợp tác xã, cũng như toàn bộ
hệ thống tái sản xuất xã hội trong nơng nghiệp. Mức khốn khơng ổn định, được
điều chỉnh theo từng năm, ngày càng cao hơn khiến xã viên vượt khốn được
hưởng lợi rất ít, người nơng dân chỉ cịn lại khoảng 16-20% sản lượng khốn,
khơng bù đắp được vốn và sức lao động bỏ ra, vì vậy, động lực vừa mới được tạo
ra đã dần bị triệt tiêu. Hộ nông dân không đủ khả nǎng bảo đảm tái sản xuất và
nhu cầu đời sống nên đã phải trả lại bớt ruộng đất. Khoán việc quay trở lại và xã
viên không hào hứng với các công việc do hợp tác xã huy động. Năm 1987, sản
xuất lương thực giảm gần 1 triệu tấn, đã dẫn đến nạn đói tháng 03 năm 1987,
tháng 03/1988 ở một số vùng. Vụ giáp hạt năm 1988, nạn đói xảy ra ở 21 tỉnh
thành phía Bắc với hơn 9,3 triệu người đói ăn, bằng 39% số nhân khẩu trong nơng
nghiệp, trong đó, số người đói gay gắt, đứt bữa là 3,6 triệu người.
Trước tình hình khủng hoảng nghiêm trọng, hầu hết các hợp tác xã lâm vào
tình trạng kiệt quệ về lương thực mà nguyên nhân chủ yếu là cơ chế quản lý lạc
hậu khơng khuyến khích được sản xuất. Tất cả đều có một mong muốn được
chuyển sang khốn hộ, chỉ có khốn hộ mới cứu đất nước thốt khỏi nạn đói trầm
trọng đang đe doạ.

Trước địi hỏi của cuộc sống, nhiều cấp uỷ đảng ở địa phương đã chủ động
chuyển sang khốn gọn. Ngày 05/04/1988, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 10 NQ6


TW về Đổi mới quản lý nơng nghiệp, Khốn 10 ra đời. Khốn 10 thừa
nhận “hộ nơng dân là đơn vị kinh tế tự chủ”, thực hiện giao ruộng khoán cho hộ
dài ngày (15-20 năm) đối với đất trồng cây ngắn ngày, 1 đến 2 chu kì đối với cây
dài ngày, ổn định sản lượng khoán, bảo đảm cho người trồng lúa có lãi khơng
dưới 40%. Hộ nơng dân được tự quyết định việc canh tác trên diện tích được giao,
chỉ có nghĩa vụ đóng thuế, được tự do lưu thơng sản phẩm làm ra ở nơi có lợi
nhất sau khi hoàn thành nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Cùng với việc thực hiện
khoán 10 là sự đổi mới tồn bộ cơ chế quản lý kinh tế nơng nghiệp, đổi mới hoạt
động kinh tế – xã hội ở nông thơn theo hướng xố bỏ cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp. Từ đây, chức nǎng kinh tế của hộ nông dân được xác lập trở lại.
Năm 1988, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng CSVN khóa
VI về “Đổi mới quản lý trong nông nghiệp” đã đưa nông nghiệp Việt Nam lên
bước phát triển mới. Sản xuất nông nghiệp phát triển. Việt Nam đã là nước xuất
khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới, là một trong những nước xuất khẩu hàng đầu
hồ tiêu, hạt điều, cà phê, cao su, thủy sản, đồ gỗ v.v... Cơ sở vật chất kỹ thuật
nơng nghiệp (thủy lợi, điện, cơ khí v.v...) được xây dựng và ngày càng đồng bộ.
Nông nghiệp được nâng cao trình độ thâm canh, tăng vụ, với cơ cấu sản xuất
ngày càng phù hợp với điều kiện đất đai và sinh thái của từng vùng
2. Nông nghiệp VN hiện tại và triển vọng
Qua hơn 30 năm đổi mới, ngành nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những
thành tựu quan trọng:
- Nông nghiệp chuyển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, giá
trị xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2017 tăng gần 6 lần so với năm 2008. Việt
Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới
với những mặt hàng chủ lực như: Gạo, Thuỷ sản, Gỗ, Cà Phê, Điều, Cao Su, Hồ

tiêu, Rau quả...Sản xuất chuyển mạnh theo hướng chất lượng và giá trị gia tăng;
giá trị và sản lượng nhiều nông sản đều tăng mạnh, sản xuất nông nghiệp sạch,
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ được quan tâm phát
triển; góp phần ổn định kinh tế vĩ mơ, kiểm soát lạm phát, giải quyết việc làm,
giảm nghèo và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Bộ mặt nơng thơn có nhiều đổi mới, xây dựng nông thôn mới đã trở thành
phong trào rộng khắp, được toàn dân hưởng ứng tham gia. Đời sống vật chất, tinh
thần của người dân nông thôn ngày càng được cải thiện, vai trị chủ thể của người
dân nơng thơn được phát huy.
- Hàng loạt chính sách cơ chế mới của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ bộ
ngành ban hành đã kịp thời bổ sung về nguồn lực cho phát triển các lĩnh vực then
chốt của ngành Nông nghiệp. Nhiều chính sách khuyến khích DN đầu tư vào
nơng nghiệp, nơng thôn, các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và
7


hỗ trợ phát triển DN được triển khai đồng bộ. Bên cạnh đó, bộ máy tổ chức quản
lý của ngành đã được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả hơn.
- Thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu
SX: từ phát triển SX nông nghiệp theo chiều rộng, lấy số lượng làm mục tiêu sang
nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng, phát huy lợi thế của mỗi địa phương và cả
nước, gắn với nhu cầu thị trường.
-Một số mặt hàng lớn, chủ lực đã khẳng định được vị thế và khả năng cạnh
tranh trên thị trường thế giới, bảo đảm đứng vững khi hội nhập quốc tế.
Trong tình hình hiện tại, đã có một số vấn đề nảy sinh sau một thời gian thực
hiện khốn 10: đó là tình trạng người nơng dân sản xuất manh mún, cá thể, điều
đó có thể hạn chế việc áp dụng những tiến bộ của khoa học kĩ thuật ngày nay có
thể mang lại cho nơng nghiệp hiệu quả cao hơn. Việc canh tác manh mún đó làm
cho chúng ta khó có thể áp dụng cơ giới hố, hiện đại hố để có được hạt gạo có
chất lượng cao, nên khi xuất khẩu không mang lại giá trị kinh tế cao. Và vì vậy,

nơng nghiệp chỉ dừng ở việc đủ ăn, có dự trữ, có xuất khẩu nhưng lại chưa tạo
được sự bứt phá cấn thiết để thúc đẩy nền kinh tế như buổi đầu thực hiện khoán
10.
Việc canh tác manh mún sẽ tác động đến lối suy nghĩ và cách tư duy của
người nông dân, vẫn chiếm đa số trong dân số Việt Nam, đó là tư duy tiểu nơng.
Với tư duy tiểu nơng, khó có thể xây dựng một nền kinh tế nông nghiệp hiện đại,
áp dụng những thành tựu tiên tiến nhất của khoa học kĩ thuật ngày nay để tạo nên
một nền nông nghiệp năng suất cao, chất lượng sản phẩm đồng đều. Trên thực tế,
gần đây ở một số địa phương đã xuất hiện việc liên kết giữa các hợp tác xã và sự
thâu tóm của các chủ vựa để có thể áp dụng cơ giới và khoa học kĩ thuật, nâng
cao chất lượng hạt gạo, xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao hơn. Ở Nam Bộ đã
xuất hiện các cánh đồng mẫu lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao và nâng cao chất
lượng cuộc sống cho người nông dân, đưa nông dân thực sự tiến vào thời kì cơng
nghiệp hố, hiện đại hố.
Khốn 10 ra đời và có giá trị lịch sử bởi nó đáp ứng đúng yêu cầu của thực
tiễn, của nơng dân trong hồn cảnh lúc bấy giờ. Giờ đây, một số điều kiện lịch sử
đã thay đổi, nên chăng có những sự nghiên cứu, điều chỉnh để thực hiện những cơ
chế sản xuất và quản lý phù hợp hơn, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn và tạo sự
bứt phá cho nền kinh tế Việt Nam.
Bài học về khoán hộ và sự thăng trầm của khoán hộ là một thực tế đáng suy
ngẫm trong quá trình đi đến đổi mới ở Việt Nam. Khốn hộ khơng chỉ là vấn đề
của q khứ, nó cịn nhiều bài học nóng hổi cho giai đoạn phát triển đất nước hiện
nay.
3. Giải pháp để phát triển Nông nghiệp Việt Nam trong tương lai
3.1. Mục tiêu chủa ngành Nông nghiệp Việt Nam
8


Theo Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc, ngành Nông nghiệp cần phấn đấu 10
năm nữa để Việt Nam phải lọt vào nhóm 15 quốc gia có nền nơng nghiệp phát

triển nhất thế giới; riêng lĩnh vực chế biến nông sản phải nằm ở nhóm 10 nước
phát triển của thế giới. Việt Nam phấn đấu là trung tâm chế biến xuất khẩu đồ gỗ
hàng đầu thế giới, nơi sản xuất tôm lớn của thế giới,.... để đạt được mục tiêu cao
hơn sau 10 năm nữa, Nơng nghiệp Việt Nam cần phải có những giải pháp để phát
huy thế mạnh và khắc phục những hạn chế cơ bản hiện nay.
3.2. Tập trung phát triển sản phẩm nơng nghiệp có tính đặc trưng, đặc
sản vùng miền
Việt Nam là nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, có điều kiện thuận lợi
để phát triển các sản phẩm nông nghiệp quanh năm. Sự đa dạng về khí hậu, đất
đai, vị trí địa lý là điều kiện để mỗi địa phương, mỗi vùng, miền ở Việt Nam có
được nhiều loại nơng sản, đặc sản đa dạng, phong phú. Những loại nông sản, đặc
sản của Việt Nam không chỉ nhân dân trong nước u thích, mà cịn được rất
nhiều nước trên thế giới đón nhận. Các sản phẩm có tính đặc trưng, đặc sản, như:
nhãn lồng Hưng n, vải Lục Ngạn - Bắc Giang, thanh long Châu Thành - Long
An, xoài Cát Chu, cam Bố Hạ, nho Ninh Thuận, gà Đông Cảo…. Đối với một số
mặt hàng nông sản, đặc sản, chúng ta đã xuất khẩu thành công và đạt được mức
doanh thu tương đối tốt. Tuy nhiên, để nông nghiệp Việt Nam phát triển, các địa
phương cần mở rộng quy mô sản xuất, ưu tiên phát triển các vùng, miền có sản
phẩm đặc trưng, đặc sản nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và mở rộng
xuất khẩu ra nước ngồi. Mỗi địa phương phải có chiến lược phát triển nông sản,
đặc trưng, đặc sản cho địa phương mình, cần có quy hoạch vùng sản xuất chuyên
canh, xúc tiến thương mại, hợp tác quốc tế để xuất khẩu hàng hoá ra thế giới. Để
làm được điều đó, cần phải đầu tư cho việc quảng bá sản phẩm, mang sản phẩm
đi triển lãm, quảng cáo và hình thành các vùng du lịch kết hợp giữa tham quan,
mua sắm và quảng bá sản phẩm đặc trưng vùng miền. Hỗ trợ về vốn, về quyền sử
dụng đất cho từng loại nơng sản có thế mạnh về xuất khẩu, chú trọng phát triển cơ
sở hạ tầng, bưu điện, truyền thông. Hình thành những vùng có quy mơ sản xuất
lớn đáp ứng được nhu cầu chế biến và xuất khẩu. Kiên quyết khơng để các hiện
tượng phát triển tự phát, ngồi quy hoạch. Đặc biệt là phải làm chủ được thị
trường, ổn định được sản lượng hằng năm để tránh tình trạng được mùa mất giá,

được giá mất mùa.
3.3. Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
Việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nơng nghiệp là rất
cần thiết trong bối cảnh tồn cầu hóa như hiện nay. Để thúc đẩy việc ứng dụng
tiến bộ khoa học vào sản xuất, cần có sự liên kết giữa nhà nông và nhà khoa học
và nhà doanh nghiệp. Nhà nước cần có chính sách đầu tư cho các nhà khoa học
nghiên cứu ra các sản phẩm mới phục vụ cho việc tăng năng suất, chất lượng,
hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp; tăng cường nguồn vốn đầu tư cho các
chương trình khuyến nơng, chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật;
9


khuyến khích, tạo điều kiện gắn kết giữa nơng dân và doanh nghiệp, đảm bảo đầu
ra cho sản phẩm... Mặt khác, mỗi địa phương nên có chiến lược đào tạo, nâng cao
trình độ và phân bổ biên chế hợp lý cho cán bộ khuyến nông ở các địa phương,
nhất là mạng lưới cán bộ khuyến nơng ở các xã, góp phần nâng cao chất lượng và
hiệu quả của quá trình chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
nông nghiệp. Đối với lĩnh vực trồng trọt, cần ứng dụng rộng rãi các giống cây
trồng mới có năng suất cao, chất lượng tốt và khả năng chống chịu sâu bệnh,
chống chọi được điều kiện thời tiết khắc nghiệt; từng bước sử dụng cây trồng biến
đổi gen như ngô, bông, đậu tương…; mở rộng nhanh cơ giới hóa các khâu sản
xuất. Trong lĩnh vực chăn nuôi, cần ứng dụng công nghệ di truyền để chọn lọc
giống, tạo giống chất lượng tốt và bảo tồn nguồn gen, sản xuất giống mới có năng
suất chất lượng cao. Ví dụ: Cơng ty TNHH Bị sữa Thống Nhất Thanh Hóa được
Vinamilk quy hoạch là tổ hợp trang trại bị sữa cơng nghệ cao áp dụng các qui
trình và cơng nghệ hiện đại nhất của thế giới và chăn ni bị sữa cơng nghiệp đáp
ứng nhu cầu nguyên liệu sữa bò tươi cho sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu. Ngồi ra, cần đẩy mạnh sản xuất nơng sản an toàn, nâng
cao hiệu quả sản xuất, bảo vệ sức khỏe, quyền lợi người tiêu dùng, đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế. Tập trung cải tạo cây trồng, vật nuôi, tạo và nhân nhanh các

giống có năng suất, chất lượng và giá trị cao bằng tăng cường hơn nữa năng lực
nghiên cứu trong nước, kết hợp với chuyển giao công nghệ từ nước ngồi để chọn
được những giống có hiệu quả cao nhất. Đưa nhanh công nghệ mới vào tất cả các
khâu: sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm.
Xây dựng thí điểm một số khu công nghệ cao dựa vào công nghệ sinh học, công
nghệ thông tin. Đây là nơi tập trung những tiến bộ khoa học - công nghệ mới,
những sáng tạo mới, với cách thức tổ chức quản lý hiện đại dựa vào tri thức mới.
Sau đó, nhân rộng để tạo bước chuyển biến đột phá trong sản xuất nông nghiệp
theo hướng kinh tế tri thức.
3.4. Xóa bỏ mặt tiêu cực của tâm lý tiểu nông
Việt Nam là một quốc gia có nền sản xuất nơng nghiệp lâu đời, phương thức
canh tác nhỏ lẻ, manh mún và truyền thống định cư theo kiểu làng, xã đã hình
thành tâm lý tiểu nông của người Việt Nam. Tâm lý tiểu nông là các hiện tượng ý
thức như tình cảm, mong muốn, ý chí, thói quen, tâm trạng... Tâm lý tiểu nơng có
những mặt tích cực như u nước, gắn bó với làng, xã, quê hương, tinh thần đoàn
kết, gắn kết cộng đồng. Nhưng tâm lý tiểu nơng cũng có những biểu hiện tiêu cực,
đó là: nghĩ và làm theo kinh nghiệm, bảo thủ, ngại thay đổi, có tầm nhìn thiển
cận; coi trọng kinh nghiệm cũ, thói quen, cách làm cũ, bảo thủ, ngại thay đổi, nhất
là những thay đổi đột ngột, không dám mạo hiểm thử nghiệm và sáng tạo cái mới,

Tâm lý tiểu nơng được hình thành và tồn tại dưới tác động của một loạt các
nhân tố (kinh tế, xã hội, lịch sử và văn hóa…) gắn kết với nhau qua hàng ngàn
năm lịch sử, do đó nó có tính kế thừa, trở thành tập qn, thói quen; vì vậy, nó có
10


sức mạnh cũng như có tính bảo thủ và sức ỳ rất lớn. Việc xóa bỏ mặt tiêu cực này
là vấn đề khơng hề đơn giản, nhưng dù khó vẫn cần phải thay đổi . Trong xu thế
hội nhập, để nơng nghiệp Việt Nam phát triển, cần phải xóa bỏ những mặt tiêu
cực nêu trên thì mới xóa bỏ được tình trạng phá vỡ các hợp đồng kinh tế, tùy tiện

hạ giá sản phẩm nông sản trên thị trường, không quan tâm đến lợi ích chung,
khơng thích làm ăn lớn, duy trì lối sản xuất theo kinh nghiệm, khơng có đổi mới
sáng tạo trong sản xuất dẫn đến năng suất, chất lượng, hiệu quả trong nơng nghiệp
cịn rất thấp.
Để xóa bỏ được mặt tiêu cực của tâm lý tiểu nông cần có sự tun truyền
vận động tích cực của các cơ quan chức năng, nhất là chính quyền địa phương;
cần mở thường xuyên các lớp tập huấn cho nông dân tại các địa phương, làm cho
nông dân thay đổi nhận thức và bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu
nông. Giáo dục ý thức chấp hành luật pháp cho nơng dân, để xóa bỏ tư tưởng
“phép vua thua lệ làng”, trọng tình hơn lý, xóa bỏ tâm lý trọng họ hàng, cục bộ,
dẫn tới tư tưởng coi thường pháp luật. Chính quyền địa phương cần mở các lớp
tham quan học tập kinh nghiệm cho nông dân, làm cho nơng dân mở mang tầm
nhìn, sáng tạo và dám nghĩ, dám làm lớn để thay đổi tư duy manh mún nhỏ lẻ.
Lúc đầu có thể chỉ tổ chức lớp học cho một số nơng dân tiêu biểu, sau đó nhân
rộng ra, nếu thấy việc học tập đó mang lại hiệu quả tốt. Thêm nữa, phải hướng
dẫn nông dân sản xuất theo hướng kinh tế thị trường, tức là sản xuất “cái thị
trường cần” chứ khơng sản xuất “cái mình muốn có”, như vậy sản phẩm của
người nơng dân làm ra mới bán được và thu được lợi nhuận.
3.5. Hình thành những tập đồn nơng sản mạnh
Việc hình thành các tập đồn nơng sản mạnh là rất cần thiết trong bối cảnh
tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế như hiện nay. Hình thành các tập đồn nơng sản
mạnh giúp cho nơng sản Việt Nam có thể ổn định và phát triển được thị trường
trong nước cũng như đủ sức cạnh tranh với nông sản quốc tế. Đặc biệt, trong thời
gian gần đây, rất nhiều loại nông sản của các nước vào thị trường Việt Nam và
cạnh tranh rất mạnh mẽ với nơng sản của Việt Nam. Chính vì vậy, Đảng và Nhà
nước đã có chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho nông
nghiệp như Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/1013, khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư vào nơng nghiệp, nơng thơn.
Trên thực tế đã có một số doanh nghiệp đầu tư cho nông nghiệp, như: Công
ty VinEco đã đầu tư 2.000 tỷ đồng vào lĩnh vực nông nghiệp tại nhiều địa

phương, trong đó bước đầu tập trung vào lĩnh vực trồng trọt, áp dụng các công
nghệ và kỹ thuật tiên tiến hàng đầu trên thế giới để cung cấp rau quả hữu cơ và
rau quả sạch cho thị trường theo các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP. VinEco đã
sản xuất các sản phẩm rau quả hữu cơ, đáp ứng các nhu cầu chuyên biệt; đồng
thời đi sâu nghiên cứu và sản xuất một số loại nông sản thế mạnh của Việt Nam,
hướng tới việc cạnh tranh và xuất khẩu ra thị trường quốc tế [9]. Tuy vậy, tính đến
nay, mới có khoảng 1% doanh nghiệp đầu tư vào nơng nghiệp. Vì vậy, Nhà nước
11


cần có chính sách tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để các doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp nông thơn, từng bước hình thành các tập đồn nơng sản mạnh, giúp
tăng sức cạnh tranh cho nông sản Việt Nam; Cần thu hút vốn, khả năng quản lý,
khả năng sáng tạo và thúc đẩy sự liên doanh liên kết, hợp tác đầu tư để mở rộng
sản xuất, chế biến, kinh doanh, dịch vụ trong lĩnh vực nông nghiệp, huy động
được nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp phần nào sẽ khắc phục được sự
manh mún nhỏ lẻ trong sản xuất nông nghiệp, tăng quy mô và tăng sức cạnh tranh
của các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam; Thúc đẩy việc hình thành các vùng sản
xuất hàng hóa nơng sản quy mô lớn, nông dân liên kết để tham gia sản xuất tập
trung, áp dụng quy trình sản xuất khép kín, an tồn sinh học, bảo vệ mơi trường,
nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm sản xuất theo tiêu chuẩn
VietGap, góp phần thúc đẩy việc thành lập các loại hình kinh tế tập thể hợp tác
sản xuất, trang trại, gia trại hiệu quả kinh tế cao.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Lịch sử nền nông nghiệp Việt Nam đã trải qua rất nhiều thăng trầm, đến nay
đã có những bước phát triển quan trọng, góp phần vào sự phát triển của nền kinh
tế Việt Nam trong đó phải kể đến vai trị lớn của khốn trong nơng nghiệp. Tuy
nhiên trước xu hướng tồn cầu hóa về kinh tế như hiện nay, để đạt được mục tiêu
cao hơn trong 10 năm tới, nông nghiệp Việt Nam cần phát huy những thế mạnh
hiện có, đồng thời khắc phục những hạn chế cơ bản hiện nay. Sự cạnh tranh trên

các lĩnh vực ngày càng trở nên khốc liệt hơn, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, trình độ sản xuất cịn chưa cao, nên càng phải
đối diện với những nguy cơ mất thị trường ngay trên sân nhà. Để nắm được cơ
hội và vượt qua những thách thức, cần phải có một số giải pháp hiệu quả để giúp
nền nông nghiệp Việt Nam nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức mới có thể phát
triển nhanh và bền vững. Sự vận động không ngừng của xã hội địi hỏi ngành
Nơng nghiệp cần có sự đổi mới để hội nhập và phù hợp với sự phát triển của kinh
tế xã hội trong tương lai./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.

Ngân hàng Thế giới (2018), Báo cáo Doing Business 2018;

2.

Diễn đàn Kinh tế Thế giới WEF (2018), Báo cáo về sự sẵn sàng cho nền
sản xuất tương lai;

3.

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2017), Báo cáo Chỉ số năng
lực cạnh tranh cấp tỉnh 2017;

4.

Tâm Thời (2019), Ðào tạo nhân lực ngành nông nghiệp, Báo Nhân dân;

5.

Thu Thủy, Đặng Thành (2018), Tiếp cận nông nghiệp 4.0, Báo Ngày nay;


6.

Ngọc Thủy (2019),Đào tạo kỹ sư nơng nghiệp thời 4.0: Khó khăn và thách
thức, Báo Nông thôn ngày nay;

12


7.

Các website:
sggp.org.vn.

mard.gov.vn,

doimoisangtao.vn,

hanoimoi.com.vn,

8. Ban chấp hành Đảng bộ Vĩnh Phú, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú, tập II.
9. Báo cáo tại Hội nghị lần thứ 16 (mở rộng) Ban Chấp hành Trung ương khóa II,
từ ngày 16 đến 30 tháng 4 và ngày 1 đến 10 tháng 6 năm 1959.
10. Thái Duy, Từ “khốn” đến hộ nơng dân tự chủ, Đổi mới ở Việt Nam-nhớ lại
và suy ngẫm, Nxb Tri thức, H.2008.
11. Vũ Thị Hồ, Tìm hiểu khốn hộ ở Vĩnh Phúc 1966-1968, Nghiên cứu Lịch sử
số 5, 2012.
12. Kiên quyết đưa nông thôn miền Bắc nước ta qua con đường hợp tác hóa nơng
nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội, Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002, t.20.

13. Lịch sử Đảng bộ Vĩnh Phúc (1930-2005), Nxb CTQG. H.2007.
14. Nguyễn Thị Hồng Mai –Tìm hiểu khốn hộ trong nông nghiệp ở Vĩnh Phúc
trước đổi mới, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5, 2008.
15. Lịch sử nơng nghiệp VN - Học viên NN VN, Từ điển bách khoa nN
16. Báo nơng nghiệp, dịng chảy 70 năm nơng nghiệp VN.
17. Nguyễn Đình Luận, (7/2013), "Xuất khẩu gạo Việt Nam: Thực trạng và giải
pháp", Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 193, trang 9 - 14.
18.Nguyễn Thị Huyền (2019), Một số giải pháp phát triển sản xuất nông sản đặc
sản ở các huyện miền núi của tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí
Cơng Thương, số 8, tháng 5 năm 2019.
19. Nguyễn Tiến Thư, Hà Thị Thùy Dương (2019), “Mối quan hệ giữa tâm lý tiểu
nông và kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12019.
20. Tổng cục Hải quan Việt Nam, (2011, 2012, 2013, 2014, 2015),“Niên giám
thống kê Hải quan về hàng hóa xuất nhập khẩu Việt Nam”, Nhà xuất bản Tài
chính, Hà Nội.
21. />22.
/>23. />24. />25. />
13


26. Một số giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp – Nguyễn Thị Huyền Đại học
Bách Khoa Hà Nội

14



×