Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

phương pháp thảo luận nhóm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 33 trang )

Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

LỜI NĨI ĐẦU
Để góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng “phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng
lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh” (Luật Giáo dục, điều 24.2), đồng thời để góp phần giúp bản thân và
đồng nghiệp sử dụng có hiệu quả phương pháp thảo luận nhóm, tơi giới thiệu đề tài
sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
mơn giáo dục công dân ở trường THPT
Giáo dục công dân là mơn học có những nội dung tương đối trừu tượng, khái
qt vì nó đề cập tới nhiều vấn đề hết sức rộng lớn có liên quan đến cuộc sống của
con người. như những nội dung liên quan đến triết học, kinh tế, chủ nghĩa xã hội
khoa học, pháp luật, đạo đức, các chính sách của Đảng và Nhà nước.
Việc tìm ra những phương pháp phù hợp với trình độ nhận thức của học
sinh, phù hợp với đặc thù tri thức bộ môn giúp cho người dạy và người học tránh
được những lúng túng trong việc tiếp cận những kiến thức trừu tượng trong sách
giáo khoa, giúp người học tích cực và hứng thú hơn trong việc lĩnh hội những tri
thức của môn học.
Phải làm sao để những giờ học giáo dục công dân không bị nhàm chán? Phải
làm sao để các em học sinh thân yêu của chúng ta không quay lưng lại với môn
học? Phải làm sao để những tri thức của mơn học này sẽ có trong hành trang cuộc
sống của các em?...Với việc giới thiệu đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi mong
muốn được cùng với các đồng nghiệp sẻ chia những trăn trở, suy tư để có được tiết
dạy hay, những giờ học hiệu quả, giúp cho học sinh thấy được cái hay và sự cần


thiết của môn học.
Hy vọng đề tài nghiên cứu này sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích đối với
quý thầy, cô và các bạn đồng nghiệp. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp của quý thầy, cô và các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Trang 1


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh hiện nay, khi thế giới đang có những biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc,
khi mọi mặt của đời sống xã hội đang trong q trình quốc tế hóa sâu sắc, khi trên đất
nước ta đang có những biến đổi tồn diện thì vị trí của mơn GDCD càng trở nên quan
trọng. Đó là một tất yếu khách quan buộc tất cả chúng ta nói chung, đặc biệt là giáo viên
GDCD nói riêng phải nhận thức đúng đắn và đầy đủ vị trí đó để khơng ngừng bồi dưỡng
chun mơn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp dạy học, không thể giữ mãi lối truyền thụ
tri thức một chiều, lối học thụ động, máy móc, cần phải sử dụng phối hợp phương pháp
dạy học truyền thống, phương pháp dạy học hiện đại, tăng cường phát huy tính chủ động,
tích cực, sáng tạo của học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy và học mơn GDCD, góp
phần thực hiện “chiến lược con người” mà chúng ta đang triển khai trong tư duy và hành
động.
Là một giáo viên dạy GDCD- tôi xác định: một trong những nhiệm vụ quan trọng

hàng đầu của bộ môn là rèn luyện cho các em những kỹ năng sống cần thiết để sau này
khi ra trường, các em có thể vận dụng những kỹ năng này để bước vào đời một cách vững
vàng nhất. Và tôi nhận thấy, một trong những kỹ năng quan trọng nhất là kỹ năng hợp
tác, kỹ năng hịa nhập và thích ứng cuộc sống. Và phương pháp thảo luận nhóm là một
phương pháp dạy học tích cực, nó vừa đảm bảo được chất lượng truyền thụ tri thức vừa
rèn luyện được cho các em kỹ năng hợp tác, kỹ năng hịa nhập nhóm rất tốt. Hiện nay,
phương pháp này được các thầy cô sử dụng rất nhiều nhưng do nhiều nguyên nhân khác
nhau mà chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Vì vậy tôi rất quan tâm đến phương
pháp này.
Là một công dân - tơi nhận thấy: với xu hướng tồn cầu hóa, với mục tiêu đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại vững vàng hội nhập trên trường quốc tế,
đòi hỏi tất cả chúng ta phải chung tay đoàn kết để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xưa ông
cha ta dạy rằng: “ Một cây làm chẳng nên non; Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Nay
với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ cơng nghệ hiện đại, những mơ hình sản
xuất, kinh doanh với quy mô lớn lại càng cần hơn nữa sự chung tay góp sức của nhiều
người. Vì vậy đỏi hỏi những công dân mới phải được trang bị kỹ năng hợp tác, kỹ năng
hòa nhập cộng đồng, kỹ năng giải quyết vấn đề, tính năng động, sáng tạo, thích ứng với
cơ chế thị trường, có phẩm chất và năng lực để thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Qua những trải nghiệm của bản thân tôi nhận thấy khả năng hợp tác, khả năng hịa
nhập cuộc sống của mình đã từng có thời điểm cịn rất hạn chế và nó gây khó khăn cho
tơi rất nhiều trong cơng việc cũng như trong cuộc sống. Vậy phải chăng, từ những bài học
rút ra từ bản thân mình, tơi nên làm một điều gì đó cho các em?
Trang 2


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương


Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

Với tơi, khơng có gì nhiều nhặn và to tát, chính những lí do trên đã thơi thúc tơi
chọn đề tài : “Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn GDCD ở
trường THPT”.
2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của một đề tài sáng kiến kinh nghiệm, bài viết chỉ tập
trung nghiên cứu vấn đề ở mức độ sơ lược trong phạm vi sau:
-Cơ sở lí luận của phương pháp thảo luận nhóm
-Thực trạng việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm ở mơn GDCD trong trường
THPT.
-Một số biện pháp tiến hành phương pháp thảo luận nhóm ở mơn GDCD THPT

3.Mục đích nghiên cứu
Q trình nghiên cứu nhằm xác định vấn đề có tính chất lý thuyết của phương pháp
thảo luận nhóm, góp phần bổ sung cho hệ phương pháp dạy học môn GDCD ngày càng
hiệu quả.
Nghiên cứu cách vận dụng PPTLN vào dạy học GDCD sẽ giúp người viết có được
cái nhìn đúng đắn, sâu sắc và toàn diện về PPDH này để tăng cường phát huy tính chủ
động, tích cực của học sinh trong dạy học môn GDCD.

4.Phương pháp nghiên cứu
-Thử nghiệm thực tế giảng dạy và học tập trên lớp
-Thu thập thông tin qua các kênh: sách, báo, tài liệu chuyên ngành liên quan...
-Qua kinh nghiệm của các đồng nghiệp, đặc biệt là các đồng nghiệp trực tiếp giảng dạy
mơn GDCD.

5.Khẳng định tính mới của đề tài trong điều kiện thực tế của ngành, địa
phương

Mặc dù trường THPT Thống Nhất nằm ở xã Thống Nhất huyện Bù Đăng, một xã
vùng sâu vùng xa ở cách xa thị trấn, điều kiện cơ sở vật chất chưa đủ để phục vụ cho PP
giảng dạy hiện đại nhưng với mục đích nâng cao chất lượng học tập của HS nên tôi đã
nghiên cứu về PPTLN và đã áp dụng vào giảng dạy cho HS ở môn GDCD .Qua thực tế
giảng dạy tôi nhận thấy nếu vận dụng sáng tạo, phù hợp, linh hoạt phương pháp thảo luận
nhóm sẽ khai thác được tính năng động, tích cực của học sinh, gây hứng thú trong giờ
học môn GDCD nhằm nâng cao chất lượng dạy-học, đáp ứng yêu cầu mới của đất nước.
Trang 3


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận của đề tài
I.1. Khái niệm phương pháp thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm (TLN) là gì? Theo tác giả Phan Trọng Ngọ: “Thảo luận nhóm là
phương pháp trong đó nhóm lớn(lớp học) được chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các
thành viên trong lớp đều được làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý
kiến chung của nhóm mình về vấn đề đó”(6,tr.223). Cũng đồng quan điểm đó, theo tác
giả Nguyễn Trọng Sửu trong cơng trình “Dạy học nhóm- phương pháp dạy học tích cực”
viết “Dạy học nhóm là một hình thức của xã hội học tập, trong đó học sinh của một lớp
được chia thành các nhóm nhỏ trong một khoảng thời gian nhất định , mỗi nhóm tự lực
hồn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc, kết quả làm
việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước lớp”(5,tr.21).Phương pháp này có
mầm mống từ những năm 70 của thế kỷ XX, ở trường đại học sư phạm của một số nước

tiên tiến, bắt đầu từ môn học “Năng động tập thể”-một môn học dạy cho sinh viên kỹ
năng làm việc tập thể. Dần dần, môn học này chuyên rèn luyện kỹ năng làm việc theo
nhóm, từ đó hình thành nên phương pháp thảo luận nhóm ở tất cả các cấp học. Ở Việt
Nam, phương pháp này cũng được sử dụng và được nhắc đến trong câu thành ngữ “học
thày không tày học bạn” và được áp dụng rộng rãi trong dạy học từ những năm cuối thế
kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Hiện nay, TLN được coi là một trong những PPDH tích cực,
phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh, đáp ứng những yêu cầu dạy và học
trong điều kiện mới của đời sống xã hội, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa
đất nước.
Từ các định nghĩa trên, chúng ta có thể đi đến kết luận: TLN là một PPDH hiện đại
lấy người học làm trung tâm. Với phương pháp này, người học được làm việc cùng nhau
theo các nhóm nhỏ và mỗi thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia vào giải quyết
các nhiệm vụ học tập trong một khoảng thời gian nhất định dưới sự hướng dẫn, lãnh đạo
của giáo viên.

I.2. Ưu điểm của phương pháp thảo luận nhóm
Những năm gần đây, khi dự giờ đồng nghiệp dạy các môn xã hội trong trường, đặc
biệt là môn GDCD, hơn 80% trong các tiết thao giảng, họ đều sử dụng PPTLN, khi tham
khảo các mẫu thiết kế bài giảng trong các sách tham khảo hay trên mạng internet tôi cũng
thấy PPTLN được sử dụng rất nhiều. Khi được hỏi: PPTLN có đặc điểm gì ưu việt hơn so
với các phương pháp dạy học khác? Đa số giáo viên được hỏi đều có nhận định: PPTLN
là một PP tiêu biểu trong đổi mới PPDH, nó có nhiều ưu điểm hơn so với các PPDH tích
cực khác.vv…Từ việc tổng hợp những ý kiến của đồng nghiệp, từ những đúc rút của bản
Trang 4


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương


Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

thân qua quá trình áp dụng phương pháp này, từ tìm hiểu thêm trong các tài liệu liên
quan, tôi nhận thấy PPTLN có những ưu điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Mỗi PPDH đều có những ưu điểm và hạn chế nếu chúng ta sử dụng
từng PP riêng biệt, nhưng với PPTLN, chúng ta có thể kết hợp lồng ghép được nhiều
PPDH hiện đại nhằm phát huy tối đa ưu điểm, khắc phục hạn chế của từng phương pháp,
tăng cường phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh. Một số PP có thể
lồng ghép trong PPTLN như:
PP trực quan: Ví dụ ở bài 7 GDCD lớp 10: “ Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối
với nhận thức”, GV có thể chuẩn bị trước để cho các em xem trực tiếp quả cam thực tế
hoặc chiếu hình ảnh quả cam lên máy chiếu.

Các nhóm quan sát kỹ .
Nhóm 1 trả lời câu hỏi: “Quả cam có đặc điểm gì về hình thức bên ngồi? Nhờ đâu mà
chúng ta biết được các đặc điểm đó? Từ đó rút ra khái niệm nhận thức cảm tính là gì ?”.
Nhóm 2 trả lời câu hỏi: “Tìm ra thuộc tính bên trong của quả cam? Nhờ đâu mà chúng
ta biết được các thuộc tính đó? Từ đó rút ra khái niệm nhận thức lý tính là gì?” . Thời
gian thảo luận 7 phút.
PP giải quyết vấn đề: GV đặt ra vấn đề để các nhóm giải quyết. Ví dụ: Trong bài 3
GDCD 11: “ Quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thơng hàng hóa”, GV đưa ra tình
huống: “Một người nào đó sản xuất mặt hàng A và đem ra bán trên thị trường nhưng giá
cả mặt hang này thấp hơn giá trị cá biệt mà họ đầu tư. Nếu tiếp tục họ sẽ thua lỗ. Vậy để
tránh thua lỗ và có lãi, người này phải làm gì?” Các nhóm tiến hành thảo luận giải quyết
vấn đề.

Trang 5



Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

PP liên hệ thực tế và tự liên hệ: Ví dụ ở bài 5 GDCD 12: “ Quyền bình đẳng giữa
các dân tộc, tơn giáo” GV cho các nhóm tiến hành thảo luận với nội dung câu hỏi có yêu
cầu liên hệ thực tế như: “Quyền bình đẳng về văn hóa, giáo dục giữa các dân tộc được
thể hiện như thế nào ở nơi em sinh sống và học tập?”
PP ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy: Để nâng cao hiệu quả của TLN,
GV có thể sử dụng máy chiếu chiếu các đoạn phim, câu hỏi tình huống, kết quả thảo luận
PP vận dụng tri thức liên mơn: Ví dụ: Bài 12 GDCD 10: “Cơng dân với tình u,
hơn nhân và gia đình” GV có thể nêu câu hỏi thảo luận như sau: “ Chế độ hôn nhân ở
nước ta hiện nay có gì tiến bộ hơn so với thời kỳ phong kiến?” Để trả lời được câu hỏi
này buộc các nhóm phải vận dụng kiến thức lịch sử và văn học để giải quyết.
Thứ hai: TLN tạo cơ hội tối đa thậm chí bắt buộc tất cả các thành viên trong nhóm
phải động não suy nghĩ (kể cả những em có ý thức tự giác kém), giúp các em phát triển
khả năng tư duy và diễn đạt, điều này đặc biệt có ích với những HS nhút nhát thường
ngày ít phát biểu.
Thứ ba: TLN tạo cơ hội cho mọi thành viên trong nhóm học hỏi lẫn nhau, tập lắng
nghe ý kiến của người khác một cách kiên nhẫn, lịch sự, tập đánh giá ý kiến của người
khác một cách độc lập, tập cho HS biết chia sẻ công việc một cách bình đẳng, biết cách
giao việc cho nhau và có trách nhiệm đối với cơng việc của mình cũng như của cả nhóm.
Thứ tư: Hình thành thói quen tương tác trong học tập, tăng năng lực hợp tác và
khơng khí hiểu biết, đồn kết, tin cậy lẫn nhau, giúp các em tự tin hơn, có kinh nghiệm
trong tổ chức làm việc nhóm, đặc biệt là tính năng động.
Thứ năm: Giảm bớt tính chủ quan, phiến diện, tăng tính khách quan khoa học trong
kiến thức của học sinh.

Thứ sáu: Kích thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm.
Thứ bảy: TLN được sử dụng khi vấn đề đưa ra cần được bàn luận sâu sắc và kỹ
lưỡng hoặc khi bàn về vấn đề có tính nhạy cảm, tế nhị, dễ dàng chia sẻ kinh nghiệm để
đánh giá hay tạo ý tưởng mới.
Thứ tám: Cải thiện mối quan hệ thầy-trò, trị-trị, GV có thơng tin phản hồi từ HS để
điều chỉnh việc dạy của thầy, việc học của trò, đồng thời tăng cường mối giao cảm thầy
trò khiến giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.

I.3. Nhược điểm của phương pháp thảo luận nhóm
Bên cạnh những ưu điểm, thảo luận nhóm cũng có những nhược điểm cần phải được
khắc phục:
Trang 6


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

Thời gian học tập trên lớp bị bó hẹp ở tiết học (45 phút) nên GV sử dụng không khéo
sẽ không cung cấp hết nội dung bài học vì PP này rất mất thời gian.
Do phải tập hợp học sinh thành những nhóm, GV khơng nói rõ cách chuẩn bị nhóm
trước thì lớp học sẽ rối loạn, mất trật tự, lãng phí nhiều thời gian
Nếu trình độ HS trong nhóm khơng đều nhau thì những HS giỏi, khá sẽ lấn lướt HS
trung bình, yếu. Các em HS trung bình, yếu sẽ khơng có điều kiện nói lên ý kiến riêng
của mình. Từ đấy, các em sẽ mặc cảm, bất mãn, lơ là và không tập trung vào buổi thảo
luận.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC VÂN DỤNG PPTLN Ở MÔN GDCD TRONG

TRƯỜNG THPT
Qua việc dự giờ một số tiết dạy của đồng nghiệp trong trường, qua các tiết dạy của
bản thân, tôi thấy có những tiết dạy thành cơng do GV vận dụng linh hoạt các PPDH
trong đó có PPTLN. Song có một số tiết dạy chưa thực sự thành công khi vận dụng
phương pháp này.
II.1.Về phía giáo viên
Khi vận dụng PPTLN, GV còn lung túng ở một số thao tác sau:
Thao tác lựa chọn vấn đề thảo luận: Việc lựa chọn vấn đề thảo luận chưa hấp dẫn
nên chưa khơi dậy tính tích cực của học sinh. Có những vấn đề thảo luận q khó hoặc
q dễ so với trình độ của học sinh. Ví dụ ở bài 5 GDCD 10: “Cách thức phát triển của
sự vật, hiện tượng” GV đưa ra câu hỏi: “Những biểu hiện của sự biến đổi về lượng dẫn
tới sự biến đổi về chất trong cách mạng XHCN ở Việt Nam?”. Đây là câu hỏi quá khó so
với trình độ nhận thức của HS lớp 10 làm cho các em cảm thấy bế tắc khơng cịn hứng
thú thảo luận. hay ví dụ ở bài 6 GDCD 11: “ Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
GV đưa câu hỏi: “ Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa có tác dụng gì?”. Đây lại là câu hỏi
quá dễ vì tât cả nội dung trả lời đã có hết trong sách giáo khoa, HS không cần phải động
não suy nghĩ , làm phản lại tác dụng của PPTLN. Lại có trường hợp lựa chọn chủ đề phù
hợp trình độ đối tượng nhưng nội dung vấn đề lại quá khô khan, khơng phù hợp đặc điểm
tâm lí HS. Việc lựa chọn vấn đề thảo luận là khâu then chốt quyết định sự thành bại của
PP này. Vấn đề không hay, không phù hợp với trình độ HS sẽ khơng huy động, thu hút
được HS tập trung thảo luận, nếu có thì cũng chỉ mang tính chất đối phó.
Thao tác chia nhóm: GV chưa xác định được số lượng nhóm trong một lớp, số
lượng HS trong một nhóm. Cho nên, có trường hợp chia nhóm q lớn hoặc q nhỏ
khơng phù hợp với vấn đề cần thảo luận và đặc điểm của lớp học. Việc chia nhóm cịn
đơn điệu, chủ yếu theo bàn( 2 bàn/ nhóm) hoặc chia lớp thành 4 nhóm, mỗi dãy 2 nhóm.

Trang 7


Trường THPT Thống Nhất

nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

Thao tác chọn nhóm trưởng: Nhóm trưởng khơng do nhóm tự bầu hoặc luân chuyển
giữa các thành viên trong nhóm mà do GV chọn một HS khá trong nhóm chuyên trách.
Điều này khiến cho HS khác trong nhóm mất đi cơ hội thể hiện mình cũng như cơ hội rèn
luyện năng lực quản lý, năng lực trình bày vấn đề trước nhóm và tập thể lớp.
Thao tác giao nhiệm vụ: GV giao nhiệm vụ chưa rõ ràng cụ thể. Do đó, HS khơng
hiểu rõ nhiệm vụ của nhóm là cần phải làm gì, trong thời gian bao lâu,cách thức thực hiện
như thế nào.
Thao tác quan sát, hỗ trợ HS khi thảo luận: Hai lỗi GV hay mắc phải khi điều hành
TLN là:
1.Thơng thường các lớp thường có số lượng HS khá đông. Một số GV khi giao
nhiệm vụ xong thường ngồi tại chỗ nên không quan sát, bao quát hết được HS trong lớp
làm gì trong thời gian thảo luận, dẫn tới tình trạng HS làm việc riêng, nói chuyện trong
thời gian này. GV cũng khơng nắm bắt được những khó khăn vướng mắc của HS trong
quá trình thảo luận để có sự gợi ý, hỗ trợ kịp thời;
2: GV khơng nhớ mình là người điều hành và tham gia thảo luận nhóm như một
thành viên của nhóm nhỏ.
Thao tác tổng kết: Sau khi viết phương án trả lời ra bảng hoặc ra giấy, nhóm
trưởng thay mặt nhóm đọc kết quả thảo luận trước lớp hoặc viết lên bảng. GV gọi HS
khác nhận xét, bổ sung. GV kết luận. Thao tác này được lặp đi lặp lại khá đơn điệu, nhàm
chán.
II.2. Về phía học sinh
-Trong thời gian thảo luận, chỉ có số ít HS làm việc thật sự( nhóm rưởng và HS
khá giỏi trong nhóm), cịn lại, các em thường ngồi chơi, nói chuyện, làm việc riêng. Hiện
tượng độc diễn cá nhân bên cạnh “người chầu rìa”, “người ngồi cuộc” diễn ra khá phổ

biến. một số HS không ý thức được sự cần thiết phải hợp tác để chiếm lĩnh tri thức nên
nhiều khi các em biến hoạt động nhóm thành cơ hội dể tán gẫu, lãng phí thời gian.
-Câu trả lời của HS thường lặp lại những vấn đề trong SGK, thiếu sức sáng tạo.
-Với những chủ đề có nội dung phong phú, hấp dẫn( ví dụ: TLN về hiện tượng
quan hệ tình dục ở lứa tuổi vị thành niên), HS dễ đi chệch hướng, tản mạn do theo đuổi ý
tưởng riêng.
-TLN thường gây ồn ào, ảnh hưởng tới lớp khác
Vì những hạn chế trên mà PPTLN thương được vận dụng mang tính hình thức, đối
phó, chủ yếu chỉ được sử dụng trong các giờ hội giảng, hầu như rất ít vận dụng trong
những giờ học bình thường.
Trang 8


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

Nguyên nhân việc GV ngại áp dụng PP này là:
+Do thói quen sử dụng PPDH truyền thống
+TLN là PP khó, tốn nhiều thời gian trong khi lượng kiến thức phải truyền đạt đồ sộ, quỹ
thời gian dành cho môn GDCD lại q ít(1 tiết/tuần)
+GDCD là mơn phụ trong khi để TLN thành công cần phải tốn nhiều công sức chuẩn bị,
cũng từ quan niệm coi GDCD là môn phụ nên HS không chú trọng học môn này nên
không hào hứng tham gia TLN.
+Không gian lớp học chật, bàn ghế cố định, lớp học đơng nên việc di chuyển khi chia
nhóm gặp nhiều khó khăn, mất thời gian.
III. ĐỊNH HƯỚNG CÁCH TIẾN HÀNH PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHĨM Ở

MƠN GDCD

III.1. Những ngun tắc vận dụng PPTLN trong dạy học môn GDCD
Dạy học nhóm khơng phải là một phương pháp độc tơn. Nó cũng có những hạn chế nhất
định, nếu tổ chức khơng khéo dễ gây nên tình trạng kiến thức bị gián đoạn, không hệ
thống, thiếu logic, không đạt được mục tiêu của bài học. Để tăng cường phát huy được
tính chủ động, tích cực của HS, khắc phục được những hạn chế, điểm khó của PPTLN ở
mơn GDCD, GV nên chú ý những vấn đề cơ bản sau:

III.1.1. Lựa chọn chủ đề thảo luận.Chủ đề thảo luận phải là những nội dung cơ bản
trọng tâm đồng thời là những tình huống có vấn đề, hấp dẫn, buộc HS phải động não. Ví
dụ:

“Hãy thảo luận để chỉ ra yếu tố siêu hình trong truyện ngụ ngơn “ Thầy bói xem voi”?
(GDCD 10);

Trang 9


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

“Hãy thảo luận để giải thích vì sao cả thế giới chọn vàng làm vật ngang giá mà lại
không chọn các kim loại khác?”(bài 2, GDCD 11).
Khi đưa ra chủ đề thảo luận, GV cần phải chú ý đến câu hỏi thảo luận. Câu hỏi
thảo luận là câu hỏi phảm đảm bảo 4 tiêu chí: mở, dễ hiểu, phù hợp và đúng văn phạm.

Vấn đề thảo luận ở môn GDCD thường tập trung vào 2 khía cạnh:
1.Những khái niệm hạt nhân.Ví dụ: khái niệm “chất”, “lượng”( ở bài 5 GDCD
10), “nhận thức”, “thực tiễn” (ở bài 7 GDCD 10), “cung”, “cầu” (ở bài 5 GDCD
11).vv…
2. Những tình huống có vấn đề trong thực tiễn: Ví dụ: “Tại sao vào đầu vụ và cuối
vụ, giá hoa quả thường cao trong khi giữa vụ giá hoa quả lại thấp? Tại sao trong năm
2012 vừa qua, bà con trồng vải (quả) ở Việt Nam được mùa nhưng họ không vui?” (bài 5
GDCD 11: Cung cầu trong sản xuất và lưu thơng hàng hóa)
Để đảm bảo chất lượng của quá trình thảo luận cũng như chất lượng của giờ lên
lớp, GV nên hướng dẫn HS đọc trước bài học và những vấn đề cần lưu ý để giúp HS chủ
động hơn trong thảo luận.

III.1.2. Chia nhóm và chọn nhóm trưởng
Trong việc thành lập nhóm, GV nên áp dụng linh hoạt các hình thức chia nhóm như:
Chia nhóm ngẫu nhiên: HS đếm 1,2 3,4…rồi vịng trở lại. HS đếm số nào thì vào
nhóm ấy. GV cũng có thể chia theo bàn, theo tổ.
Chia nhóm theo năng lực học tập: GV dựa vào năng lực học tập của HS để chia
thành nhóm giỏi, khá, trung bình, yếu. Những HS yếu hơn sẽ xử lí các bài tập cơ bản,
những HS giỏi sẽ nhận được thêm các bài tập bổ sung.
Chia nhóm gồm đủ trình độ: cách chia này thường được sử dụng khi nội dung thảo
luận cần có sự hỗ trợ lẫn nhau.
Chia nhóm cố định theo một thời gian dài: nhóm được duy trì trong một số tuần
hoặc một số tháng. Các nhóm này thậm chí có thể được đặt tên riêng.
Số lượng thành viên trong nhóm: nhóm nhỏ (2HS), nhóm vừa (4-5 HS), nhóm lớn
(7-10 HS).
Số lượng nhóm, số lượng thành viên trong nhóm, thời gian thảo luận phải phụ
thuộc vào số lượng HS trong lớp hoặc vấn đề thảo luận nảy sinh từ nội dung bài học. Cụ
thể:

Trang 10



Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

Với vấn đề thảo luận có tính chất phức tạp, chứa nhiều nội dung cần làm sáng tỏ,
hoặc có nhiều cách lí giải như : “ Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cần phải phê bình
và tự phê bình như thế nào mới phù hợp với quan điểm của phủ định biện chứng?”,
chúng ta nên chia nhóm gồm đủ trình độ học sinh, số lượng thành viên từ 4-5 HS với thời
gian thảo luận khoảng 4-6 phút. Với thời gian và cấu trúc nhóm đó, các em sẽ chia nhau
đảm nhận những vấn đè khác nhau nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà GV giao phó.
Cới vấn đề thảo luận có tính chất đơn giản như “ Tìm ví dụ về phủ định biện chứng
và chỉ ra đặc điểm của nó trong ví dụ đó?” chúng ta nên sử dụng loại nhóm 2 HS và thời
gian thảo luận khoảng 2 phút.
Sau khi chia nhóm, mỗi nhóm sẽ bốc thăm để chọn nhóm trưởng, thư ký hoặc tự
bầu ra nhóm trưởng. GV có thể chỉ định nhóm trưởng, thư ký luân phiên để khắc phục
tình trạng chỉ có một HS chun trách nhiệm vụ này.

III.1.3. Quan sát, hỗ trợ HS trong quá trình thảo luận nhóm.
Trong khi HS thảo luận nhóm, GV di chuyển chung quanh các nhóm, im lặng
quan sát các nhóm làm việc, nhắc nhở HS khơng nói chuyện, chơi, làm việc riêng. Khi
HS gặp khó khăn, bế tắc, giáo viên kịp thời can thiệp, hướng dẫn nhóm ra khỏi bế tắc
bằng những câu hỏi gợi mở.
Ví dụ: “ Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cần phải phê bình và tự phê bình
như thế nào mới phù hợp với quan điểm của phủ định biện chứng?”
Vấn đề này phức tạp, để giải quyết được HS cần phải nắm vững bài học và có sự

liên hệ. Ban đầu các em sẽ gặp lúng túng, thậm chí nói lan man khơng vào trọng tâm. Để
các em giải quyết được, GV cần có những định hướng gợi mở, dẫn dắt HS vận dụng tư
duy vốn có của các em giải quyết từng vấn đề: gợi lại những tri thức đã có từ trước, khơi
gợi những suy nghĩ của các em thông qua vốn sống của các em, như:
+Yêu cầu các em phải hiểu được thế nào là phê bình và tự phê bình
+Các em phải nắm được bản chất và đặc điểm của phủ định biện chứng
+Phê bình, tự phê bình và phủ định biện chứng có mối liên hệ thế nào với
nhau.
Trên những định hướng đó, các em sẽ dễ dàng tiến hành thảo luận.
Khi gặp trường hợp trong nhóm có thành viên “ ngơi sao” hoặc có thành viên q
nhút nhát, GV kịp thời can thiệp hạn chế những HS nói q nhiều, khích lệ, động viên HS
nhút nhát phát biểu ý kiến bang cách GV có thể trực tiếp hỏi HS nhút nhát rằng: “ Cơ
nhận thấy nhóm bạn rất có tinh thần tham gia thảo luận, đã đưa ra được rất nhiều ý
kiến, quan điểm của các bạn như vậy còn ý kiến của em như thế nào? Em thấy chúng ta
cần bổ sung những gì cho những ý kiến các bạn vừa nêu?”.
Trang 11


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

III.1.4. Báo cáo kết quả thảo luận
Một số cách báo cáo kết quả thảo luận nhóm có thể áp dụng như:
Một nhóm báo cáo, nhóm khác bổ sung: yêu cầu một nhóm báo cáo lại tồn bộ kết
quả thảo luận nhóm của mình. Những nhóm cịn lại bổ sung những điểm khác biệt của
nhóm mình với nhóm vừa báo cáo.

Các nhóm lần lượt báo cáo: Từng nhóm cử một người báo cáo lại kết quả làm việc
của nhóm mình. Sau đó GV tổng kết lại ý kiến chung của các nhóm hoặc GV để HS tổng
kết.
Họp chợ: Các nhóm dán kết quả làm việc của nhóm mình lên bảng và cử một HS
đứng ở đó để thuyết minh khi cần, những HS còn lại ngồi tại chỗ và đọc kết quả của mỗi
nhóm, đưa ra câu hỏi nếu có vấn đề cần làm rõ.
Quả bóng quyết: các nhóm thảo luận và ghi kết quả xuống giấy rồi luân chuyển
kết quả đó để các nhóm khác thảo luận và bổ sung.
Ví dụ: HS được chia thành 3 nhóm thảo luận 3 vấn đề. Sau 5 phút:
Kết quả của nhóm 1 được chuyển cho nhóm 2
Kết quả của nhóm 2 được chuyển cho nhóm 3
Kết quả của nhóm 3 được chuyển cho nhóm 1
Các nhóm đọc kết quả của nhóm kia và bổ sung them ý kiến của nhóm mình. Sau
5 phút lại tiếp tục chuyển như vậy cho đến khi mỗi nhóm đều đã đọc đủ 3 kết quả.
Thi hùng biện: các nhóm tham gia một cuộc thi hùng biện bảo vệ quan
điểm của nhóm mình và giao lưu chất vấn các nhóm khác.

III.1.5. Phân tích, đánh giá kết quả thảo luận.
Thơng thường sau khi (hoặc trong khi) các nhóm báo cáo lại kết quả thảo luận của
nhóm mình, GV thực hiện những việc sau:
- Hỏi để làm rõ những ý kiến cịn chung chung
- Hỏi để HS trình bày quan điểm của mình khi các nhóm có ý kiến cịn mâu thuẫn
- So sánh kết quả của các nhóm: có điểm gì chung, điểm gì bổ sung cho
nhau, điểm gì mâu thuẫn với nhau.
- Giúp HS phân tích tìm ra những giải pháp cho những vấn đề chưa giải quyết
được trong lúc làm việc nhóm nhỏ.
- Tóm tắt kết quả chung.
- Bổ sung một số thơng tin cịn thiếu

Trang 12



Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

Phần phân tích sau khi các nhóm báo cáo kết quả là hết sức quan trọng để giúp HS
hiểu rõ và thống nhất ý kiến, và rút ra bài học. Để làm tốt phần này, GV phải kết hợp
nhiều kỹ năng cơ bản khác nhau như quan sát, lắng nghe, đặt câu hỏi động viên khuyến
khích và tóm tắt. Đối với bản thân mỗi HS, khi đến lớp điểm số là rất quan trọng đối với
các em, do đó để khích lệ các em tích cực tham gia nên có cột điểm thường xuyên (điểm
hệ số 1) dành cho các buổi thảo luận nhóm.

III.2. Quy trình thảo luận nhóm
+ Giới thiệu vấn đề thảo luận
+ Xác định nhiệm vụ của các nhóm
+ Thành lập các nhóm
+ Chuẩn bị chỗ làm việc nhóm
+ Lập kế hoạch làm việc
+ Tiến hành giải quyết nhiệm vụ
+ Báo cáo kết quả thảo luận trước lớp
Muốn thành công với PPTLN , GV phải nắm vững PP thực hiện và có những
chuẩn bị trước. Để chuẩn bị, GV cần trả lời những câu hỏi sau:
 Vấn đề đặt ra trong bài học có phù hợp với PPTLN khơng?
 Các nhóm làm việc với nhiệm vụ giống nhau hay khác nhau?
 HS đã có đủ kiến thức và tài liệu cho cơng việc thảo luận nhóm
chưa?

 Cần trình bày nhiệm vụ làm việc nhóm như thế nào?
 Cần chia nhóm theo tiêu chí nào?
 Cần tổ chức lớp học, kê bàn ghế như thế nào?
 Thời gian học có đảm bảo cho việc thảo luận nhóm khơng?

III.3. Các dạng bài tập có thể vận dụng PPTLN trong giờ dạy GDCD
Như đã nói ở trên, việc lựa chọn vấn đề thảo luận là khâu then chốt quyết định
sự thành bại của phương pháp này. 80% thành công của TLN là GV đưa ra được các vấn
đề thảo luận thú vị. Để vận dụng thành công phương pháp này, phát huy được tính tích
cực, chủ động của HS trong tiết dạy GDCD, chúng ta cần xây dựng được các dạng bài tập
thảo luận phù hợp với đặc điểm của môn GDCD.
III.3.1.Dạng bài tập thảo luận trên lớp.

Trang 13


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

* Dạng bài tập thảo luận tìm hiểu khái niệm: Dạng bài tập này thường giúp HS
tìm hiểu những khái niệm hạt nhân cơ bản, khi tìm hiểu khái niệm có thể chia làm 2
cách:
Cách thứ nhất: Hình thành khái niệm (phương pháp quy nạp) : Từ bài tập TLN,
GV dẫn dắt cho HS rút ra những đặc điểm cơ bản rồi từ những đặc điểm đó tổng hợp lại
thành khái niệm .
Ví dụ 1: Tìm hiểu khái niệm “ vận động”: GV chiếu lên máy chiếu những hình ảnh sau


Lá rơi

Tàu rời bến

Lọ hoa ở trên bàn

Lá rụng xuống
gốc cây

Nước bốc hơi

Quả xồi đang chin trên cây

Sắt bị oxi hóa

Trang 14

Sắt bị oxi hóa


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

Câu hỏi thảo luận: Em có nhận xét gì về trạng thái của các sự vật, hiện tượng trên?
Trạng thái đó được gọi là gì? Thế nào là vận động? GV nên sử dụng hoạt động nhóm

nhỏ( 2HS hoặc những HS ngồi cùng bàn), thời gian thảo luận từ 3 đến 5 phút.
Ví dụ 2: GV chia lớp thành 2 nhóm lớn( 2 dãy), trong mỗi nhóm lớn có các nhóm nhỏ là
những HS ngồi cùng bàn với nhau. 2 nhóm lớn sẽ tự bầu ra nhóm trưởng để tổng hợp ý
kiến trong nhóm mình. GV dùng máy chiếu để chiếu 2 hình ảnh:
Hình ảnh 1 là quả trứng bị đập vỡ để cho vào bát

Hình ảnh 2 là quả trứng được gà mẹ ấp nở thành gà con.

Các nhóm quan sát cả 2 hình ảnh, sau đó:
Trang 15


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học mơn GDCD ở trường THPT

Nhóm 1 quan sát kỹ hình ảnh 1, trả lời câu hỏi: Nguyên nhân dẫn tới quả trứng bị phủ
định là gì? Kết quả của sự phủ định này là gì? Thế nào là phủ định siêu hình?
Nhóm 2 quan sát kỹ hình ảnh 2 và trả lời câu hỏi: Nguyên nhân dẫn tới quả trứng bị phủ
định là gì? Kết quả của sự phủ định này là gì? Thế nào là phủ định biện chứng?
Thời gian thảo luận 5 phút.
Cách thứ 2: Phân tích khái niệm ( phương pháp diễn dịch): GV cho HS đọc khái niệm
trước rồi đưa ra bài tập TLN để HS giải quyết nhằm giúp các em tự tìm ra được những ý
cơ bản của khái niệm đó.
Ví dụ: Tìm hiểu khái niệm mặt đối lập của mâu thuẫn (bài 4 GDCD 10). GV yêu cầu các
nhóm đọc kỹ khái niệm mặt đối lập của mâu thuẫn( trang 25 SGK 10) và đưa ra một số
trường hợp sau:(có thể chiếu lên máy chiếu hoặc chuẩn bị trên bảng phụ)

+ Mặt đồng hóa ở tế bào A và mặt dị hóa ở tế bào B
+ Điện tích dương của nguyên tử B và điện tích âm của
nguyên tử A
+ Hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trị trong tiết học
này
+ Mặt đồng hóa và dị hóa trong cùng một tế bào
+ Mặt tích cực và tiến bộ trong xã hội ta đang ngày càng
chiếm ưu thế
+ Tệ nạn mại dâm, ma túy trong những năm gần đây đang có chiều
hướng
giảm rõ rệt.
GV yêu cầu các nhóm: Hãy chỉ ra trong các trường hợp trên, đâu là mặt đối lập của mâu
thuẫn và đâu không phải là mặt đối lập của mâu thuẫn? Vì sao? Từ đó rút ra được kết
luận gì về mặt đối lập của mâu thuẫn? GV sử dụng hoạt động nhóm nhỏ( 2HS hoặc
những HS ngồi cùng bàn), thời gian thảo luận 5 phút.
* Dạng bài tập thảo luận tình huống:
GV sử dụng những tình huống có vấn đề để u cầu HS giải quyết. HS có thể giải quyết
theo hai hướng: một là vận dụng kiến thức nội dung bài học và giải quyết vấn đề; hai là
từ việc giải quyết vấn đề để rút ra nội dung bài học.
Ví dụ 1:Để giúp HS tìm hiểu nội dung : “Mâu thuẫn chỉ được giải quyết bằng đấu
tranh”(bài 4-Nguồn gốc vận động và phái triển của sự vật, hiện tượng-tiết 2).
GV chia lớp thành 4 nhóm:
Nhóm 1,2: “ A và B là 2 người bạn rất thân với nhau, vì một chuyện hiểu lầm khơng
đáng có mà cả tuần nay 2 bạn đã khơng chơi với nhau, thậm chí khơng thèm nói chuyện
với nhau nữa. Nếu rơi vào trường hợp của 2 bạn ấy, em sẽ giải quyết như thế nào?”.
Nhóm 3,4: “ Cả lớp 10A ai cũng phấn đấu chăm chỉ học tập, thực hiện đúng quy chế của
nhà trường, tuy nhiên có 2 bạn trong lớp thường xuyên đi muộn, bỏ tiết, lại hay mất trật
tự trong giờ học, vì thế lớp thường bị trừ rất nhiều điểm thi đua. Tuần vừa rồi, lớp đứng
Trang 16



Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

cuối toàn trường. Cả lớp ai cũng ấm ức nhưng chẳng ai dám góp ý hay phê bình 2 bạn
đó cả. Theo các em, tập thể lớp 10A cần phải làm gì để đưa phong trào của lớp đi lên?
Từ đó rút ra được bài học gì cho bản thân?”
Ví dụ 2:Tìm hiểu nội dung: “tránh quan hệ tình dục trước hơn nhân” (bài 12 GDCD
10: Cơng dân với tình u, hơn nhân và gia đình”,GV chia lớp thành 4 nhóm, GV chiếu
lên máy chiếu tình huống “ Lỗi tại ai” : “Lan và Điệp là HS THPT. Lan yêu Điệp, Điệp
thường ép Lan quan hệ tình dục với lí lẽ “đây là cử chỉ duy nhất để chứng tỏ tình yêu
chân thực của Lan”. Lan thích cái gọi là quan niệm “hiện đại” này về tình u nhưng
sợ... Cơ bắt đầu hỏi bạn bè về cách tránh thai, về “chuyện ấy” có nguy hiểm gì khơng,
nhưng khơng thu được gì thực sự nhất qn và chắc chắn. Cơ bèn tìm đến chị mình để
hỏi và chị Lan kêu lên “Em thật ngớ ngẩn! Hỏi chuyện ấy ở tuổi của em ư?” và từ chối
bàn luận thêm về chuyện này.
Nhân dịp một bác sĩ tình cờ đến thăm bố, Lan ngập ngừng hỏi bác sĩ một
cách mơ hồ… về…như thế nào. Cuối cùng bác sĩ cũng hiểu ra vấn đề nhưng cảm thấy
bối rối và sau cùng cũng nói: “ ở trường cháu khơng có bài học về chủ đề này ư?”
Lan đáp: “ Có chứ ạ! Nhưng thầy giáo dạy sinh học cũng còn quá trẻ và vẫn là
người độc thân! Trước mặt bao nhiêu đứa con gái “lớn” ở lớp, thầy ấy ngượng khi phải
nói đến “vấn đề tế nhị” này!”
Sau một đêm khơng ngủ vì lo lắng, Lan quyết định đến giãi bày tâm sự với mẹ cô.
Nhưng đến lúc cuối cùng, cơ ịa lên khóc và bỏ chạy…
Vài tháng sau, cơ có thai…”
Câu hỏi: Các em hãy xác định trách nhiệm của mỗi nhân vật trong tình huống trên? Nếu

là bạn Lan, em sẽ giải đáp khúc mắc của bạn ấy như thế nào?
Cả 4 nhóm cùng thảo luận tình huống trên trong 5 phút, sau đó từng nhóm sẽ trình
bày, nhận xét, góp ý cho nhau.
*Dạng bài tập so sánh: dạng bài tập này được sử dụng sau khi HS đã tìm hiểu xong
các khái niệm, các kiến thức cơ bản nhằm giúp HS tổng hợp lại kiến thức, khắc sâu kiến
thức mình vừa tiếp nhận. Ví dụ: so sánh phương pháp luận biện chứng và phương pháp
luận siêu hình; so sánh phủ định biện chứng và phủ định siêu hình; so sánh nhận thức
cảm tính và nhận thức lý tính; so sánh dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.vv…
*Dạng bài tập lập, giải thích biểu đồ, sơ đồ: đây là dạng bài tập bắt buộc HS phải
động não suy nghĩ, đòi hỏi các em phải phát huy khả năng khái quát, tổng hợp kiến thức.
Cụ thể là sử dụng hình trịn, hình vng, khung, mũi tên,đường thẳng, hình vẽ để biểu thị
mối quan hệ giữa các khái niệm trừu tượng hoặc các sự kiện.
Sinh
Hóa




Xã hội

Trang 17


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học mơn GDCD ở trường THPT


Ví dụ 1:

Bài tập cho các nhóm: giải thích mối quan hệ giữa các hình thức vận động theo sơ đồ
trên hoặc vẽ sơ đồ thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa các hình thức vận động ( bài 3
GDCD 10)
Ví dụ 2: Tìm hiểu mục: Các hình thức vận động cơ bản của thế giới vật chất- bài 3
GDCD 10 , GV vẽ lên bảng hoặc chiếu lên máy chiếu sơ đồ hình xốy ốc đi lên và u
cầu các nhóm giải thích:

Các nhóm giải thích.
GV bổ sung, kết luận:
-

Mỗi vòng tròn tượng trưng cho một chu kỳ của sự phát triển
Những vòng tròn nối tiếp nhau tiến lên tượng trưng cho tính lien tục( tính kế
thừa) trong quá trình phát triển vơ tận của sự vật, hiện tượng
Hướng đi lên chứng tỏ sự vật, hiện tượng ra đời sau tiến bộ hơn sự vật, hiện
tượng ra đời trước.

Ví dụ 3: Sau khi dạy xong phần 1: nội dung của quy luật giá trị( bài 3 GDCD 11), GV
chia lớp thành 4 nhóm: nhóm 1,2 giải thích sơ đồ 1, nhóm 3,4 giải thích sơ đồ 2
Sơ đồ 1:
Thời gian lao động
xã hội cần thiết

Trang 18


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong

Giáo viên: Lê Thị Lương

A

B

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

C

Thời gian lao động cá biệt
Sơ đồ 2:
Giá cả thị trường

Trục giá trị

III.3.2. Dạng bài tập thực hiện ở nhà, tiết học sau trình bày

Giáo viên cho các bài tập để mỗi nhóm chuẩn bị. Bài tập có thể là tìm những vấn
đề liên quan đến bài học, hoặc sưu tầm tư liệu, hoặc tìm hiểu một vấn đề, hoặc tồn bộ
bài học. Bài tập này có tác dụng giúp HS tìm hiểu trước vấn đề, khi vào lớp học, các
nhóm sẽ góp ý kiến bổ sung những mảng kiến thức cịn thiếu, từ đó các em sẽ hiểu vấn đề
hơn.
Với dạng bài tập này, GV có thể chia nhóm theo hai hình thức: nhóm hình thành từ
bên ngồi và nhóm nảy sinh trong q trình học tập. Ở nhóm thứ nhất, HS tự giác chơi
thân với nhau và cùng nhau lập thành một nhóm để trao đổi bài tập về nhà. Nhóm này có
thể học cùng lớp hoặc khác lớp. Nhóm này hình thành có thể gọi là tự giác, nhưng nếu
GV, phụ huynh cũng như ý thức của các em tốt sẽ phát huy hiệu quả giáo dục cao. Cịn
loại nhóm thứ hai, nảy sinh do q trình học tập ở lớp , mỗi nhóm có thể khoảng 4 đến 5

HS do GV tự sắp xếp theo sơ đồ lớp, theo kết quả học tập của HS. Nhóm thảo luận này
điều kiện tập hợp lại với nhau khó khăn hơn và mức độ hợp tác có thể sẽ khơng cao nếu
khơng có sự hướng dẫn của GV, do đó hiệu quả khơng cao so với hình thức nhóm thứ
nhất.
Tuy nhiên, có trường hợp một phụ huynh đã tâm sự: “ Con tơi hễ về đến nhà là
nói đi học nhóm, thấy đi suốt ngày nên vợ chồng tơi cũng hỏi nhưng cháu bảo là thầy
giao bài tập về nhà, bắt phải làm theo nhóm mới làm hết để thảo luận cho tiết học sau.
Nhưng kết quả thi học kỳ cuối năm vừa rồi tôi suýt xỉu khi biết kết quả học tập của nó. Từ
vị trí dẫn đầu trong lớp nó rớt xuống gần cuối danh sách. Về nhà , hỏi ra mới vỡ lẽ,
những buổi học nhóm của nó là những buổi tụ tập bạn bè chơi game ở quán net.” Hạn
chế của dạng bài tập này là GV khơng thể nắm bắt hết tình hình học nhóm của các em,
nên để phịng tránh các tình trạng tiêu cực có thể xảy ra phải có sự liên hệ giữa các phụ
huynh lẫn nhau và với giáo viên để theo dõi, bám sát kiểm tra khi con em mình học
nhóm.
IV. THỰC NGHIỆM GIẢNG DẠY
Trang 19


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

IV.1. Thiết kế giáo án thực nghiệm
Bài 5: Cách thức vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng(1 tiết)
I.
Mục tiêu bài học. học xong bài này, HS cần đạt được
1. Về kiến thức

- Biết được khái niệm chất và khái niệm lượng của sự vật, hiện tượng.
- Thấy được mối quan hệ biện chứng giữa sự biến đổi về lượng và sự biến đổi về
chất của sự vật, hiện tượng.
2. Về kỹ năng
- Biết vận dụng để phân biệt mặt chất và mặt lượng của các sự vật, hiện tượng
- Biết vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa sự biến đổi về lượng và sự biến
đổi về chất của sự vật, hiện tượng vào thực tiễn cuộc sống .
3. Về thái độ
Có ý thức kiên trì, khơng ngừng nỗ lực trong học tập và rèn luyện, tránh các
biểu hiện chủ quan, nóng vội trong học tập cũng như trong cuộc sống.
II.
NỘI DUNG
Bài này có 3 đơn vị kiến thức:
1. Khái niệm chất
2. Khái niệm lượng
3. Quan hệ giữa sự biến đổi về lượng và sự biến đổi về chất
Trọng tâm của bài học: là mối liên hệ biện chứng giữa sự biến đổi về
lượng và sự biến đổi về chất của sự vật, hiện tượng
Kiến thức khó: khái niệm chất
III.
IV.
V.

PHƯƠNG PHÁP
Giáo viên có thể kết hợp các phương pháp thảo luận nhóm, đàm thoại,
thuyết trình, nêu vấn đề …để dạy bài này.
PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
Sách giáo khoa, sách giáo viên GDCD lớp 10
Giấy khổ lớn, bút dạ,..
Máy chiếu

Phiếu học tập
TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức- kiểm tra bài cũ
Câu hỏi: Hãy chỉ ra nguồn gốc dẫn đến sự vận động, phát triển của các sự vật,
hiện tượng.
2. Tổ chức học bài mới
2.1. Vào bài: Nhà thơ Trần Hịa Bình đã từng viết:
Trang 20


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

Thêm một chiếc lá rụng,
Thế là thành mùa thu.
Thêm một tiếng chim gù,
Thành ban mai tinh khiết.
Dĩ nhiên là tôi biết
Thêm một lắm điều hay,
Nhưng mà tôi cũng biết
Thêm một phiền tối thay.
Theo các em, những câu thơ trên nói đến điều gì? Trong sự vận động biến đổi
khơng ngừng của thế giới các sự vật hiện tượng cũng như trong cuộc sống, nhiều khi
chúng ta chỉ cần thêm một chút hoặc bớt đi một ít là sự vật, hiện tượng có thể biến đổi
thành cái khác. Tại sao lại như vậy? Nội dung bài 5: Cách thức vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng sẽ giúp chúng ta lý giải điều này.


2.2.Tiến trình dạy – học
Hoạt động của GV và HS
Nội dung cần đạt
Hoạt động 1: Thảo luận nhóm tìm hiểu khái niệm chất,
khái niệm lượng
1.Chất
Bước 1:GV giao nhiệm vụ cho HS từ tiết học tuần trước: về
nhà đọc trước bài 5: cách thức vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng, chú ý các vấn đề: khái niệm chất, lượng, quan hệ
giữa sự biến đổi về chất và sự biến đổi về lượng?
Bước 2: Chia nhóm: GV chia lớp thành 2 nhóm lớn theo hai
dãy bàn. Mỗi bàn lại thành 1 nhóm nhỏ. Gv cử nhóm trưởng
của 2 nhóm lớn.
Bước 3. Giao nhiệm vụ, xác định thời gian thảo luận: 7 phút,
hướng dẫn cách thức thảo luận:
GV dùng máy chiếu để chiếu hoặc chuẩn bị trước trên bảng
phụ hình ảnh quả chanh và quả ớt, đường và muối, nắng và
mưa.

Trang 21


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT


Các nhóm quan sát, nhóm 1 trả lời câu hỏi:1. Căn cứ vào đâu
để các em có thể phân biệt được các sự vật đó? 2.Những thuộc
tính của các sự vật, hiện tượng đó là do chúng tự có hay do ai
áp đặt cho chúng? 3.Mỗi sự vật, hiện tượng chỉ có một hay có
nhiều thuộc tính? 4.Để phân biệt các sự vật, hiện tượng với
nhau có nhất thiết phải căn cứ vào tất cả các thuộc tính mà
chúng đang có hay khơng? Vì sao? 5.Em hiểu thế nào về khái
niệm chất?
GV tiếp tục chiếu hình ảnh bản đồ Việt Nam kèm theo
những thông tin:

Trang 22


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

- Lãnh thổ Việt Nam rộng
336.836km2
- Năm 2012 Việt Nam xuất
khẩu 7.7 triệu tấn gạo
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam năm 2012 đạt 5.03%
- Việt Nam là một nước đang
phát triển
Các nhóm quan sát, nhóm 2 trả lời câu hỏi: 1.Những con số

trên phản ánh điều gì về đất nước Việt Nam? 2.Nó có phải do
chúng ta áp đặt mà có khơng? 3.Nó phản ánh mặt chất hay
mặt lượng của nền kinh tế Việt Nam?4.Em hiểu thế nào về khái
niệm lượng?
Bước 4. Tiến hành thảo luận. các nhóm nhỏ thảo luận theo từng
bàn. Thư ký của nhóm lớn ghi ý kiến TL của các nhóm nhỏ.
Nhóm trưởng và thư ký nhóm lớn tổng hợp, chọn lọc ý kiến.
GV đi tới các dãy bàn quan sát, trợ giúp
Bước 5. Báo cáo kết quả thảo luận
Nhóm 1báo cáo kết quả thảo luận:
-Gv bật lại máy chiếu hình ảnh cần TL của nhóm 1.
-Nhóm trưởng nhóm 1 lên trình bày kết quả TL của nhóm mình
trước lớp.
-GV hoặc thành viên của nhóm 2 có thể đặt thêm một số câu
hỏi phụ nếu thấy kết quả trả lời của nhóm 1 chưa rõ ý. Nếu
nhóm 1 khơng trả lời được thì các thành viên khác trong lớp có
thể trả lời.
-Nhóm 2 nhận xét kết quả thảo luận của nhóm 1.
-GV nhận xét,bổ sung rồi rút ra khái niệm chất. (ghi lên bảng
hoặc chiếu lên máy chiếu)
Nhóm 2báo cáo kết quả thảo luận:
- Gv lại bật máy chiếu hình ảnh cần TL của nhóm 2
-Nhóm trưởng nhóm 2 lên trình bày kết quả TL của nhóm mình
trước lớp.
-GV hoặc thành viên của nhóm 1 có thể đặt thêm một số câu
hỏi phụ nếu thấy kết quả trả lời của nhóm 2 chưa rõ ý. Nếu
nhóm 2 khơng trả lời được thì các thành viên khác trong lớp có

Khái niệm chất dùng
để chỉ những thuộc

tính cơ bản, vốn có của
sự vật và hiện tượng,
tiêu biểu cho sự vật
hiện tượng đó, phân
biệt nó với các sự vật
và hiện tượng khác
2.Lượng
Khái niệm lượng dùng
để chỉ những thuộc
tính vốn có của sự vật
và hiện tượng biểu thị
trình độ phát triển
(cao, thấp), quy mô
(lớn, nhỏ), tốc độ vận
động(nhanh, chậm), số
lượng(ít, nhiều)…của
sự vật và hiện tượng.
Trang 23


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

thể trả lời.
-Nhóm 1 nhận xét kết quả thảo luận của nhóm 2.
-GV nhận xét,bổ sung rồi rút ra khái niệm lượng.(ghi lên bảng

hoặc chiếu lên máy chiếu)
Hoạt động 2:Thảo luận nhóm
Trình tự các bước tiến hành tương tự như trên. Thời gian thảo
luận: 7 phút. Nội dung câu hỏi GV có thể chiếu lên máy chiếu
hoặc chuẩn bị trước trên bảng phụ.

3.Quan hệ giữa
biến đổi về lượng
sự biến đổi về chất
a. Sự biến đổi
lượng dẫn đến
biến đổi về chất

sự

về
sự

Nhóm 1 trả lời câu hỏi: Lượng tri thức mà các em đã tích lũy
gần 10 năm qua trong nhà trường đã giúp các em không
ngừng trưởng thành trong nhận thức và tình cảm…Song với
lượng kiến thức đó các em vẫn chỉ là học sinh mà chưa thể trở
thành sinh viên. Các em lí giải điều này như thế nào? Muốn
trở thành sinh viên các em phải làm gì? Cột mốc nào đánh dấu
việc các em từ học sinh trở thành sinh viên? Từ đó các em hãy
chỉ ra đâu là độ, đâu là điểm nút theo nghĩa triết học, rút ra
kết luận về mối quan hệ giữa sự biến đổi về lượng và sự biến
đổi về chất.Cho ví dụ?
Nhóm 2 :GV u cầu nhóm 2 nghiên cứu ví dụ phần b trang 32
sgk và trả lời các câu hỏi sau:

Khi nhiệt độ của nước thay đổi:
0độ C
100 độ C

Trang 24


Trường THPT Thống Nhất
nhóm trong
Giáo viên: Lê Thị Lương

Vận dụng phương pháp thảo luận
dạy học môn GDCD ở trường THPT

1.Hãy chỉ ra trong ví dụ đó thuộc tính nào được coi là chất và
thuộc tính nào được coi là lượng?
2.Tại sao khi chuyển từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì
thể tích cùng với vận tốc của các phân tử cũng như độ hòa tan
của nước thay đổi khác trước?
3.Từ việc phân tích trên em rút ra kết luận gì?
Các nhóm nhỏ thảo luận theo từng bàn. Thư ký của nhóm
lớn ghi ý kiến TL của các nhóm nhỏ. Nhóm trưởng và thư ký
nhóm lớn tổng hợp, chọn lọc ý kiến. GV đi tới các dãy bàn
quan sát, trợ giúp.
Nhóm 1báo cáo kết quả thảo luận:
-Gv bật lại máy chiếu nội dung cần TL của nhóm 1.
-Nhóm trưởng nhóm 1 lên trình bày kết quả TL của nhóm mình
trước lớp.
-GV hoặc thành viên của nhóm 2 có thể đặt thêm một số câu
hỏi phụ nếu thấy kết quả trả lời của nhóm 1 chưa rõ ý. Nếu

nhóm 1 khơng trả lời được thì các thành viên khác trong lớp có
thể trả lời.
Ví dụ: Sự biến đổi của lượng diễn ra nhanh hay chậm, dần dần
hay đột biến?
HS trả lời: sự biến đổi về lượng diến ra một cách dần dần
-Nhóm 2 nhận xét kết quả thảo luận của nhóm 1.
-GV nhận xét,bổ sung rồi rút ra kết luận:
Khi sự biến đổi của lượng đạt đến một giới hạn nhất định của
độ, sự thống nhất giữa chất và lượng sẽ bị phá vỡ, chất cơ bản
của sự vật thay đổi, chất mới ra đời thay thế cho chất cũ. Sự
vật, hiện tượng cũ sẽ bị thay thế bởi sự vật, hiện tượng mới.
Nhóm 2báo cáo kết quả thảo luận:
-Gv bật lại máy chiếu nội dung cần TL của nhóm 2.
-Nhóm trưởng nhóm 2 lên trình bày kết quả TL của nhóm mình
trước lớp.
-GV hoặc thành viên của nhóm 1 có thể đặt thêm một số câu
hỏi phụ nếu thấy kết quả trả lời của nhóm 2 chưa rõ ý. Nếu

-Gới hạn mà trong đó
sự biến đổi về lượng
chưa làm thay đổi về
chất cơ bản của sự vật,
hiện tượng được gọi là
độ
- Điểm giới hạn mà tại
đó sự biến đổi của
lượng làm thay đổi
chất của sự vật, hiện
tượng được gọi là
điểm nút.


b. Chất mới ra đời lại
bao hàm một lượng
mới tương ứng với
nó.

Trang 25


×