Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

dạy triết học lôi cuốn hs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.76 MB, 50 trang )

Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lơi cuốn học sinh

LỜI NĨI ĐẦU
Để góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng “phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” (Luật Giáo
dục, điều 24.2), đồng thời để góp phần giúp bản thân và đồng nghiệp khai thác hiệu quả
nội dung, kiến thức phần triết học trong từng tiết dạy, tôi giới thiệu đề tài sáng kiến kinh
nghiệm: Để bài dạy Triết học ( phần 1 GDCD lớp 10) hiệu quả và lôi cuốn học sinh.
Triết học Mác –Lênin là một bộ phận quan trọng cấu thành Chủ nghĩa Mác –
Lênin. Triết học Mác-Lênin đã lý giải về thế giới và vị trí của con người trong thế giới
đó, trang bị thế giới quan và phương pháp luận cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nhưng triết học là một mơn học mang tính khái qt cao nên khá trừu tượng, vì vậy nếu
giáo viên khơng nắm được tính đặc thù của nó, khơng có cách giảng phù hợp thì chỉ làm
cho người học thấy cái khó hiểu, khơ khan của nó dẫn đến chán học, khơng thích học chứ
khơng thấy cái hay, cái hữu ích của nó.
Việc tìm ra những phương pháp phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, phù
hợp với đặc thù tri thức bộ môn giúp cho người dạy và người học tránh được những lúng
túng trong việc tiếp cận những kiến thức trừu tượng trong sách giáo khoa, giúp người học
tích cực và hứng thú hơn trong việc lĩnh hội những tri thức của môn học.
Phải làm sao để những giờ học triết không bị nhàm chán? Phải làm sao để các em
học sinh thân yêu của chúng ta không quay lưng lại với môn học? Phải làm sao để những
tri thức của mơn học này sẽ có trong hành trang cuộc sống của các em?...Với việc giới
thiệu đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi mong muốn được cùng với các đồng nghiệp sẻ
chia những trăn trở, suy tư để có được tiết dạy hay, những giờ học hiệu quả, giúp cho học
sinh thấy được cái hay và sự cần thiết của triết học.


Hy vọng đề tài nghiên cứu này sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích đối với quý
thầy, cô và các bạn đồng nghiệp. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của q
thầy, cơ và các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Trang 1


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Cách dây gần mười năm, khi ra trường với tâm thế là một giáo viên trẻ dạy môn
GDCD đầy háo hức và nhiệt huyết, có những lúc tơi tự hào vì mình dạy mơn GDCD, bởi
tơi nhận thức rất rõ ràng và sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của môn học này.
Một môn học nhằm trang bị cho học sinh thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp
tư duy khoa học về tự nhiên, xã hội, con người. Một môn học nhằm giáo dục cho học
sinh tình yêu quê hương, đất nước XHCN, biết yêu và bảo vệ cái thiện, cái đẹp, kiên
quyết đấu tranh với những thói hư tật xấu, những biểu hiện tiêu cực trong xã hội, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Bác Hồ dạy chúng ta rằng: “Muốn xây dựng đất nước
XHCN trước hết chúng ta phải xây dựng con người XHCN” và mơn GDCD đang góp
phần thực hiện nhiệm vụ hết sức cao cả đó.
Thế nhưng khi bước lên bục giảng thực sự, sự háo hức trong tôi gặp phải một thử
thách rất lớn khi vấp phải thái độ của đa số học sinh với môn học này: thờ ơ, thiếu quan
tâm, chỉ là môn phụ thôi mà, mơn này khó hiểu và khơ khan q, chán; đặc biệt là phần
triết học- ngay học kỳ 1 của GDCD lớp 10. Đa số học sinh khi nghe đến “Triết học” đã

có những cái lắc đầu với định kiến về một mơn học “ hóc búa”. Nhiều ý kiến đưa ra: Triết
học là những kiến thức “cao siêu huyền bí”, khô khan, “cốc cà phê đắng”, “những thứ dài
miên man với những cuốn sách dày cộp” và những ông giáo sư đầu to mắt cận hay thậm
chí là “vớ vẩn” và “ khơng cần thiết”…Thất vọng, nhưng tơi biết đó khơng phải hồn
tồn là lỗi ở các em mà trước hết phần quan trọng chính là ở phương pháp truyền thụ của
giáo viên.
Theo chương trình mới của Bộ giáo dục và Đào tạo, mơn GDCD sẽ có những kiến
thức nền tảng đầu tiên về Triết học, nhưng làm thế nào để mơn học vốn khó khăn ngay cả
với những người lớn này trở nên hấp dẫn hơn với học sinh lớp 10 trở thành bài tốn
khơng hề dễ dàng. Là người giáo viên, tơi nhận thấy bản thân mình phải có trách nhiệm
tìm ra phương pháp truyền thụ thế nào để bài dạy triết học vừa đảm bảo nội dung, kiến
thức cần truyền thụ vừa lôi cuốn được học sinh.
Qua quá trình giảng dạy, với mục tiêu “làm sao để các em học sinh thân yêu của
chúng ta không quay lưng lại với môn học”, từ những trải nghiệm của bản thân, từ học
hỏi đồng nghiệp, từ tìm hiểu thêm tư liệu về phương pháp dạy học, tôi đã đúc rút được
Trang 2


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

một số kinh nghiệm và mạnh dạn đề xuất đề tài: Để bài dạy Triết học ( phần 1 GDCD
lớp 10) hiệu quả và lôi cuốn học sinh. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của hội
đồng khoa học và đồng nghiệp để đề tài được hồn thiện hơn.
2. Tổng quan những thơng tin liên quan về những vấn đề cần nghiên cứu, liên quan
đến thực trạng vấn đề
Hứng thú có vai trị quan trọng trong q trình học tập của học sinh. Nó là động

lực thúc đẩy chủ thể tạo ra những sản phẩm góp phần vào sự phát triển của xã hội. Nếu
khơng có hứng thú thì hoạt động khó đạt được kết quả cao. Trong các trường THPT nói
chung, trường THPT Thống Nhất- Bình Phước nói riêng, nhiều người có quan điểm cho
rằng môn GDCD chỉ là môn học phụ .…
Ủng hộ cho quan niệm này, nhiều người cịn cho rằng mơn GDCD đơn thuần chỉ
là mơn học chính trị thuần túy hay chỉ là môn học bổ trợ thêm kiến thức. Bởi vậy việc tạo
ra hứng thú trong giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh đã không được chú
trọng nhiều trong những năm qua. Thực trạng này đã gây ra những ảnh hưởng trực tiếp và
gián tiếp tới kết quả học tập của học sinh. Do đó, cần tập trung nghiên cứu để tìm ra giải
pháp nhằm nâng cao hứng thú học tập của môn Giáo dục công dân, đặc biệt là ở phần
Triết học- một nôi dung được cho là khơ khan, khó hiểu, dễ gây nhàm chán đối với người
học.
Quá trình nghiên cứu nhằm xác định vấn đề có tính chất lý thuyết của phương pháp
dạy học phần Triết học, góp phần bổ sung cho hệ phương pháp dạy học môn GDCD ngày
càng hiệu quả.
Nghiên cứu một số biện pháp để bài dạy Triết học ở phần 1 môn GDCD lớp 10 đạt
được hiệu quả và lơi cuốn học sinh sẽ giúp người viết có được cái nhìn đúng đắn, sâu sắc
và tồn diện về PPDH để tăng cường phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh trong
dạy học mơn GDCD nói chung và trong phần Triết học nói riêng.
3. Khẳng định tính mới của đề tài trong điều kiện thực tế của ngành, địa phương
Mặc dù trường THPT Thống Nhất nằm ở xã Thống Nhất huyện Bù Đăng, một xã
vùng sâu vùng xa ở cách xa thị trấn, điều kiện cơ sở vật chất chưa đủ để phục vụ cho PP
giảng dạy hiện đại nhưng với mục đích nâng cao chất lượng học tập của HS , tạo cho HS
hứng thú với môn học nói chung và phần triết học nói riêng nên tôi đã nghiên cứu về
phương pháp dạy học Triết học và đã áp dụng vào giảng dạy cho HS ở môn GDCD .Qua
thực tế giảng dạy tôi nhận thấy nếu vận dụng sáng tạo, phù hợp, linh hoạt những phương
Trang 3


Trường THPT Thống Nhất

Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lơi cuốn học sinh

pháp này sẽ khai thác được tính năng động, tích cực của học sinh, gây hứng thú trong giờ
học triết môn GDCD nhằm nâng cao chất lượng dạy-học, đáp ứng yêu cầu mới của đất
nước.
4. Giới hạn nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của một đề tài sáng kiến kinh nghiệm, bài viết chỉ tập
trung nghiên cứu vấn đề ở mức độ sơ lược trong phạm vi khối học sinh lớp 10 trường
THPT Thống Nhất-Bình Phước với những nội dung sau:
-Cơ sở lí luận của phương pháp thảo luận nhóm
-Thực trạng việc dạy, học Triết học ở môn GDCD trong trường THPT.
-Một số biện pháp để bài dạy Triết học ở phần 1 môn GDCD lớp 10 đạt được hiệu quả và
lôi cuốn học sinh
5. Phương pháp nghiên cứu
-Thử nghiệm thực tế giảng dạy và học tập trên lớp
-Thu thập thông tin qua các kênh: sách, báo, tài liệu chuyên ngành liên quan...
-Qua kinh nghiệm của các đồng nghiệp, đặc biệt là các đồng nghiệp trực tiếp giảng dạy
môn GDCD.

Trang 4


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh


B. NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC PHẦN TRIẾT HỌC Ở PHẦN MỘT MÔN GDCD
LỚP 10 TRONG TRƯỜNG THPT
Phần Triết học trong chương trình GDCD lớp 10 có vai trị quan trọng trong việc
hình thành và phát triển nhân cách học sinh, trang bị cho học sinh thế giới quan và
phương pháp tư duy khoa học. Tuy nhiên, trên thực tế các tiết dạy phần triết học chưa
thực sự phát huy được hiệu quả dẫn đến tâm lý nhàm chán ở học sinh, một phần là do
những ngun nhân sau:
I.1. Về phía chương trình sách giáo khoa.Bên cạnh những ưu điểm, chương trình mơn
GDCD hiện nay vẫn cịn nhiều hạn chế.
Bộ GD & ĐT đang có những động thái đánh giá một cách toàn diện về những bất
cập trong việc dạy học môn GDCD. Nhằm mục tiêu định hướng, hình thành ý thức, tư
cách đạo đức của HS trong thời đại mới. Chương trình SGK về môn học này đang khiến
cả giáo viên và học sinh gặp khó khăn trong việc cảm thụ và ứng dụng. Giáo viên gọi
mơn học này là mơn “ 3K”: khó, khô và khổ(!).
Tại Hội thảo quốc gia về giáo dục đạo đức- công dân trong GDPT Việt Nam diễn
ra tại Hà Nội, thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Vinh Hiển đã chỉ ra: Nội dung, chương
trình của mơn học GDCD cịn nhiều điều chưa hợp lý, nặng giáo dục chính trị, nhẹ giáo
dục kỹ năng sống, coi trọng lý thuyết, chưa chú ý vận dụng thực hành, chưa yêu cầu thể
hiện qua việc làm và hành vi cụ thể trong đời sống. Nhiều bài học trong SGK GDCD cịn
khơ khan, gượng ép, chưa phù hợp với đặc điểm tâm lý tình cảm của học sinh.
Nội dung chương trình mơn GDCD đang quá tải đối với hầu hết học sinh lớp 10,
11 và lớp 12, đặc biệt là khối lớp 10 hiện nay. Nhiều giáo viên nhận xét Phần công dân
với việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học cịn trừu tượng và khó
hiểu đối với HS khối 10 mới 15- 16 tuổi. Trong khi đó thời lượng giảng dạy q ít, phần
lớn các bài trong chương trình là 01-02 tiết. SGK mặc dù đã có sự điều chỉnh, bổ sung
nhưng vẫn còn khá dài, các định nghĩa, khái niệm là công cụ nhận thức lại quá khô khan
trừu tượng dẫn đến việc HS học vẹt mà không hiểu bản chất. Thậm chí ngay cả GV giảng
dạy mơn GDCD lớp 10 mà không được đào tạo một cách quy lát cũng rất khó cắt nghĩa

được một số khái niệm trong phần triết học. Điều này đưa tới tình trạng khơng ít HS hiểu
sai bản chất của các khái niệm công cụ.
Trang 5


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lơi cuốn học sinh

Vì vậy, quả thực tơi rất trăn trở, dạy môn GDCD (đặc biệt phần triết học) tưởng là
dễ nhưng để HS nghe và thích thì khơng đơn giản. HS phải làm quen với các khái niệm
về triết học, duy vật biện chứng, phủ định biện chứng…quá khô khan, dễ gây chán nản.
Người dạy phải “dụng công” cô đọng lại những nội dung trong sách, vận động HS tham
gia vào bài giảng bằng cách cho các em sắm vai, diễn kịch, chơi trị chơi. Chỉ có cách đó
mới giúp các em nhớ phần lý thuyết “ dài” và “khô”.Công việc “hậu cần” trước mỗi tiết
cũng ngày một công phu hơn mới mong thu hút được sự chú ý của các em HS. Giáo viên
phải mất khá nhiều thời gian và cơng sức chuẩn bị giáo cụ, tìm tư liệu, hình ảnh. Dạy hết
giáo án đã khó, thời gian eo hẹp (1 tiết/1 tuần) khiến GV khó có cơ hội đi sâu vào các vấn
đề đạo đức, kỹ năng sống cho HS ở tuổi mới lớn.
I.2.Về phía giáo viên
Chất lượng giáo dục phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song yếu tố chiếm vị trí quan
trọng hafng đầu là đội ngũ giáo viên. Thực tế cho thấy, năng lực chuyên mơn của đội ngũ
GV GDCD cịn nhiều bất cập, hạn chế, các GV tuổi nghề cịn ít, vốn sống chưa nhiều,
chưa có kinh nghiệm giảng dạy, chưa đủ thời gian tích lũy kiến thức chun mơn và xã
hội. Từ đó việc truyền thụ kiến thức đến HS cịn thiếu sót, nhất là ở phần liên hệ với cuộc
sống, thực tiễn, coi nhẹ việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và kỹ năng
sống cho học sinh.
Phần lớn giáo viên GDCD vẫn lên lớp bằng phương pháp truyền thống: thầy đọc,

trò chép tạo cảm giác mệt mỏi, thụ động đối với HS trong việc tiếp nhận kiến thức. Một
số GV lên lớp với tâm lý cho rằng môn mình là mơn phụ nên ít có sự quan tâm, đầu tư
trong việc soạn giáo án, chuẩn bị đồ dùng trực quan và ứng dụng công nghệ thông tin
trong bài giảng. Không những thế, việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập cịn nặng về
hình thức, phổ biến là kiểm tra kiến thức, chưa chú trọng kiểm tra, đánh giá năng lực,
phẩm chất của HS.
Khi lên lớp, GV chỉ hướng dẫn các em hiểu biết về những kiến thức đã được định
sẵn, ít mạnh dạn “ lật ngược vấn đề”, tiếp cận mặt phải- trái của bài học để cùng HS đi
sâu phân tích bản chất của vấn đề nên nhìn chung tiết dạy vẫn cịn nặng giáo điều. Đổi
mới phương pháp dạy học nhưng vẫn cịn “ bó khung” trong bốn bức tường của lớp học
dẫn đến niềm tin của HS vào bài học chưa đủ độ tin cậy. Thiết nghĩ, đổi mới cách dạy của
thầy, cách học của trò là phải cùng nhau bơi ra “biển lớn” chứ khơng chỉ quanh quẩn ở
khúc sơng “hẹp”. Do đó giờ dạy dù có nhiều nỗ lực nhưng vẫn cịn khơ khan, nặng tính lý
thuyết. sức thuyết phục, độ cảm xúc của bài dạy chưa cao.

Trang 6


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

Cần thừa nhận một thực tế khác là, khơng phải giáo viên nào cũng có khả năng
truyền đạt những kiến thức triết học Mác - Lênin trừu tượng thành những điều đơn giản,
dễ hiểu, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh lớp 10. Buổi học dễ trở nên nhàm
chán, kém hấp dẫn đối với người học nếu giáo viên khơng có phương pháp phù hợp. Do
vậy, giáo viên cần phải rút kinh nghiệm sau mỗi buổi lên lớp, tự hoàn thiện, bổ sung nội
dung tri thức và phương pháp giảng dạy, không được thoả mãn với những cái đã có; phải

xem mỗi buổi dạy là một lần sáng tạo, thử nghiệm; phải có tinh thần cầu thị, chịu khó học
hỏi, tiếp thu và vận dụng phương pháp giảng dạy tiên tiến kết hợp với phương pháp
truyền thống.
I.3. Về phía học sinh
Đa số GV dạy môn GDCD đều chia sẻ: HS dường như không mấy mặn mà với
mơn GDCD mà mình dạy. Có nhiều lý do khác nhau để lý giải thực tế này, nhưng chủ
yếu hầu hết HS đều quan niệm môn học này là mơn phụ. Hơn nữa, mơn học này khơng
có mặt trong các kỳ thi quan trọng như thi tốt nghiệp hay thi đại học nên HS thường học
chỉ để có đủ điểm, bỏ qua vấn đề suy ngẫm, tìm hiểu thêm kiến thức đằng sau mỗi bài
học. Chính vì vậy, việc học mơn GDCD rơi vào tình trạng bị động và đối phó.
Ai cũng hiểu vị trí, tầm qua trọng của mơn GDCD nhưng buồn thay thực tế nó chỉ
được coi là môn phụ trong nhà trường. Nhận thức như vậy trách sao các em ít đầu tư
nhiều cho mơn GDCD. Qua quan sát thực tế và tham khảo ý kiến của nhiều giáo viên
GDCD, nhiều em vẫn cịn thích học mơn GDCD , nhưng động cơ học là vì mơn này dễ
có điểm cao…càng buồn hơn khi biết rằng, nhiều phụ huynh tỏ vẻ ái ngại, lo lắng khi biết
rằng con mình được xếp vào lớp có giáo viên GDCD làm chủ nhiệm. Với cách nhận thức
của người lớn như thế thì các em cịn suy nghĩ gì hơn!
Thực trạng dạy, học, nội dung, chương trình của mơn GDCD cịn nhiều bất cập,
cho thấy vi thế của mơn học làm người chưa được nhìn nhận và quan tâm đúng mức. Vị
thế ấy cần được sớm trả lại, đặc biệt khi ngành giáo dục đang thực hiện đổi mới chương
trình giáo dục phổ thơng cũng như đổi mới chương trình giáo dục đạo đức-công dân sau
năm 2015.

Trang 7


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)

hiệu quả và lôi cuốn học sinh

II. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
II.1. Đặc điểm kiến thức triết học ở phần 1 GDCD lớp 10
Theo chương trình mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo, mơn GDCD sẽ có những kiến
thức nền tảng đầu tiên về Triết học, cung cấp cho học sinh những nội dung như: Triết học
là gì? Thế giới quan duy vật, thế giới quan duy tâm, phương pháp luận biện chứng,
phương pháp luận siêu hình, sự vận động và phát triển, nguồn gốc, cách thức, khuynh
hướng của sự vận động, thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức …cấu trúc
của mỗi bài thường bao gồm các nội dung : khái niệm, phạm trù; nguyên lý và quy luật, ý
nghĩa phương pháp luận.
II.2. Vai trò của Triết học đối với việc học tập nói chung và đối với mỗi học sinh nói
riêng
Triết học Mác- Lênin là một bộ phận quan trọng cấu thành chủ nghĩa Mác- Lênin.
Đối với thực tiễn ở nước ta Triết học Mác- Lênin có vị trí và vai trị rất quan trọng đối
với việc học tập của học sinh.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà triết học, đồng thời là nhà khoa học tự nhiên Rên
Descarter cho rằng: “ Triết học là sự thể hiện cơ bản nhất sự thông thái của con người
không chỉ trong lĩnh vực nhận thức mà cả trong các cơng việc khác”.
Vai trị của mơn triết học Mác - Lênin được thể hiện ở chỗ:
- Một là, triết học Mác - Lênin góp phần hình thành thế giới quan khoa học cho học sinh ,
giúp các em có cái nhìn khách quan, khoa học về thế giới, xã hội, con người vốn rất phức
tạp, đa dạng và ln vận động, biến đổi; trên cơ sở đó, có nhân sinh quan đúng đắn để
định hướng hoạt động trong cuộc sống, tránh được sự sa ngã trước những thử thách, cám
dỗ của văn hoá ngoại lai.
- Hai là, triết học Mác - Lênin góp phần vào sự hình thành và phát triển trí tuệ, nâng cao
năng lực, trình độ tư duy khái qt, lơgíc và hệ thống của học sinh.
- Ba là, triết học Mác - Lênin còn giúp cho các em học sinh bồi dưỡng và nâng cao bản
lĩnh chính trị, đấu tranh chống lại âm mưu “diễn biến hồ bình“ của các thế lực thù địch
trong và ngồi nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, phòng

chống các tệ nạn xã hội một cách có hiệu quả.

Trang 8


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

- Bốn là, triết học Mác - Lênin góp phần hình thành những giá trị văn hố, lý tưởng đạo
đức, lối sống, niềm tin của thế hệ trẻ trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước do Đảng lãnh đạo. Góp phần động viên họ đóng góp cơng sức của mình vào cơng
cuộc xây dựng đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”, biết gắn nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của cá nhân với lợi ích
của giai cấp, quốc gia, dân tộc.
Với những vai trị quan trọng đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định chọn triết
học Mác- Lênin là phần khởi đầu trong chương trình giáo dục cơng dân THPT,là một
trong những môn thi tốt nghiệp trong các trường đại học và cao đẳng. Tuy nhiên, không
phải ai cũng hiểu đúng vai trị của mơn học này.
II.3. Thế nào là một tiết dạy hiệu quả
Tôi thiết nghĩ, một tiết dạy hay, một tiết dạy hiệu quả, lôi cuốn được học sinh là một
tiết dạy đạt được mục tiêu bài học, phù hợp chuẩn kiến thức, kỹ năng, có phương pháp
giảng dạy và học tập tương thích với nội dung bài học, thỏa mãn được niềm đam mê của
người thầy trên bục giảng và niềm hứng thú của học trò trong giờ học.
II.4. Hứng thú học tập môn GDCD của HS THPT
Hứng thú học tập môn GDCD là thái độ lựa chọn đặc biệt của người học đối với
kết quả, quá trình của sự lĩnh hội và vận dụng những tri thức cũng như kỹ năng của môn
học GDCD, do thấy được sự hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực của môn học đối với bản thân.

III. NHỮNG YẾU TỐ CẦN THIẾT ĐỂ MỘT TIẾT DẠY ĐẠT HIỆU QUẢ VÀ LÔI
CUỐN HỌC SINH
III.1. Về phía giáo viên
Nhiều giáo viên chủ quan cho rằng, chỉ cần dốc tất cả sự nhiệt tình để truyền thụ
kiến thức trong một tiết dạy, như thế là thành công. Thật ra nghề dạy học là một trong
những nghề công phu nhất. Một giờ dạy trên lớp có hiệu quả hay khơng phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, mà chỉ khi nào thầy chuẩn bị tốt ở vai trò chủ đạo, trò học tập trong tâm thế
chủ động thì mới gọi là thành cơng…
*Chuẩn bị bài giảng: Chúng ta biết rằng, để có một bài giảng hiệu quả cao cần rất
nhiều yếu tố, song yếu tố đầu tiên hết sức quan trọng đó là cần làm thật tốt khâu chuẩn bị
bài giảng. Giáo án của giáo viên thể hiện rõ mục tiêu bài học theo chuẩn kiến thức kỹ
Trang 9


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lơi cuốn học sinh

năng. Kiến thức truyền đạt phải chính xác, khoa học( khoa học bộ môn, tư tưởng, quan
điểm, lập trường chính trị). Đảm bảo tính hệ thống, đủ nội dung, làm rõ được nội dung
trọng tâm của bài để học sinh nắm, hiểu và tiếp thu được. Vận dụng tốt đặc trưng bộ môn,
biết vận dụng phương pháp dạy học mới, có ứng dụng cơng nghệ thơng tin và các phương
pháp dạy học truyền thống sao cho phù hợp, khơng gượng ép. Hệ thống câu hỏi trong q
trình thực hiện các phương pháp giảng dạy trên lớp phải phù hợp với nội dung bài dạy,
với các đối tượng học sinh khác nhau trong từng lớp học. Đó có thể là câu hỏi đóng, câu
hỏi mở, câu hỏi phát hiện.
Chuẩn bị tư liệu, tài liệu là việc rất quan trọng để xây dựng đề cương bài giảng.
nếu chỉ căn cứ vào sách giáo khoa thơi thì chưa đủ mà giáo viên cần tìm kiến thức mở

rộng, những tư liệu, những ví dụ thực tế để minh họa. Thực tiễn cuộc sống cũng như các
chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước luôn được bổ sung và phát triển.
Do đó, việc cập nhật kiến thức như: những nghị quyết mới của Ban chấp hành trung
ương, bộ chính trị, những bài viết có liên quan trên tạp chí lý luận, tình hình pháp triển
kinh tế- xã hội ở nước ta, những vấn đề nổi cộm về đạo đức, lối sống trong giở trẻ hiện
nay…là rất cần thiết để chuẩn bị bài giảng. Nếu kiến thức chuẩn bị trong bài giảng phong
phú bao nhiêu thì bài giảng lại càng có sức thuyết phục bấy nhiêu.
Ví dụ: Khi giảng bài Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức cần tìm
hiểu thêm một số tập qn, thói quen của một số địa phương để làm rõ được cơ sở của
nhận thức nằm trong thực tiễn…
Hay khi giảng bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng phần phủ
định biện chứng, giáo viên nên liên hệ đến chính sách của Đảng và Nhà nước về xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sác dân tộc.
Trên thực tế thì có nhiều phương pháp dạy học, đặc biệt là phương pháp dạy học
tích cực. Song việc áp dụng phương pháp nào là tùy thuộc vào khả năng của người dạy,
người học và những điều kiện vật chất khác. Điều này cũng cần có sự chuẩn bị trước.
Thực ra, giáo viên giống như người diễn viên mà giáo án là một kịch bản, sự đặc
biệt còn là ở chỗ người giáo viên vừa là diễn viên, vừa là người viết kịch bản. Thế nên,
nếu giáo án được chuẩn bị tốt thì bài giảng sẽ thành cơng phần lớn. Giáo án phải thể hiện
được ba phần: Phần đặt vấn đề; Phần nội dung bài giảng và Phần kết luận.
Ở phần đặt vấn đề, nên tùy theo đặc điểm, nội dung của bài song cần dẫn dắt
người nghe vào sự tiếp nhận thông tin bằng sự hào hứng, tâm lý chủ động, tích cực. Có
Trang 10


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lơi cuốn học sinh


thể có nhiều cách như: Đặt vấn đề thật ấn tượng-đặt một câu hỏi mở, đưa một vấn đề
đang được mọi người quan tâm gắn với nội dung bài giảng, hoặc có thể dẫn dắt bằng hình
ảnh,một bài thơ, một đoạn phim, một bài hát( nếu giảng bằng phương tiện dạy học hiện
đại).
Ví dụ: ở phần đặt vấn đề vào bài 5: Cách thức vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng, giáo viên có thể dẫn dắt bằng bài thơ “Thêm một”của nhà thơ Trần Hòa Bình:
“Thêm một chiếc lá rụng,
Thế là thành mùa thu.
Thêm một tiếng chim gù,
Thành ban mai tinh khiết.
Dĩ nhiên là tôi biết
Thêm một lắm điều hay,
Nhưng mà tôi cũng biết
Thêm một phiền tối thay.”
Theo các em, những câu thơ trên nói đến điều gì? Trong sự vận động biến đổi
khơng ngừng của thế giới các sự vật hiện tượng cũng như trong cuộc sống, nhiều khi
chúng ta chỉ cần thêm một chút hoặc bớt đi một ít là sự vật, hiện tượng có thể biến đổi
thành cái khác. Tại sao lại như vậy? Nội dung bài 5: Cách thức vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng sẽ giúp chúng ta lý giải điều này.
Phần nội dung cần căn cứ vào tài liệu học tập, sách giáo khoa để nêu rõ nội dung
gồm mấy phần lớn, trong phần lớn có bao nhiêu phần nhỏ, phần nhỏ gồm những chi tiết
nào. Ở phần này, GV cần phải nắm vững đặc trưng riêng của bài giảng triết học để tìm ra
cách giảng phù hợp ở những phần khác nhau. Phần nội dung này tơi sẽ trình bày cụ thể ở
mục IV trong đề tài này.
Phần kết luận cần nêu tóm tắt nội dung bài giảng, nhắc nhở điểm cần lưu ý. Đây là
công đoạn đòi hỏi giáo viên phải thực hiện nhằm tạo dấu ấn ghi nhớ sâu của người học.
Muốn để lại “dư âm” sau một bài giảng, giáo viên có thể: hệ thống bài một cách ngắn gọn
nhất hoặc hỏi 1 câu hỏi để học sinh hình dung lại bài học, neo chốt kiến thức.
Trang 11



Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

Khi chuẩn bị giáo án, nhất là giáo viên mới (chưa có nhiều kinh nghiệm), người
giảng cần phân bố thời gian cho từng vấn đề, phân bố càng chi tiết về thời gian và thực
hiện nghiêm túc quỹ thời gian đã phân bố sẽ khắc phục được tình trạng (cháy giáo án),
hoặc tránh được tình trạng “đầu voi đuôi chuột”, mất cân đối trong việc thực hiện bài
giảng…
Việc chuẩn bị giáo án không nên quan niệm chỉ soạn giáo án một lần là xong sẽ
dẫn đến tình trạng gọi là “giáo án chết”. Bởi vì thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển,
mỗi lớp học, người học có u cầu khác nhau nên khơng thể coi chỉ soạn giáo án một lần
mà phải thường xuyên bổ sung những tư liệu mới, những sự kiện mới trong giáo án để
bài giảng sinh động và gắn với hơi thở cuộc sống. Đặc điểm của giáo dục công dân lại
càng không cho phép chỉ soạn giáo án một lần là xong. Đó là vấn đề người giáo viên dạy
GDCD cần hết sức lưu ý. Người giáo viên GDCD nên tạo cho mình một thói quen, giống
như sự phản xạ nghề nghiệp, đó là khi bắt gặp bất kỳ một thơng tin nào có liên quan đến
bài giảng thì ghi chép ngay để sau đó ghi chú vào bài giảng. Khi soạn giảng nên chỉ soạn
trên một mặt giấy, mặt còn lại để giành cho phần bổ sung, cập nhật kiến thức cho bài
giảng. Kinh nghiệm cho thấy rằng: khi giảng lần đầu (bài mới cũng vậy), giáo viên càng
chuẩn bị tốt bao nhiêu, thì sẽ thuận lợi khi giảng, lần sau sẽ chuẩn bị nhanh hơn.
* Thiết bị dạy học phù hợp và cần thiết cho tiết dạy. các trang thiết bị, phương
tiện, đồ dung dạy học cần được giáo viên chuẩn bị trước khi lên lớp, tương thích với nội
dung bài dạy và tính tốn xem sử dụng lúc nào, nội dung nào, mục nào trong giờ dạy
nhằm đạt hiệu quả sử dụng cao nhất.
* Khơng khí lớp học: Giáo viên tạo ra khơng khí vui tươi, thoải mái trong lớp học,

tạo sự hứng thú cho học sinh phấn khởi để tiếp thu bài. Giáo viên phải biết bao quát lớp,
quản lý lớp trong giờ dạy của mình, đừng để bị áp lực về kiến thức trong tiết dạy. nếu
giáo viên ơm đồm q nhiều kiến thức thì sẽ bị q tải, tiết dạy khó thành cơng. Trình
bày bảng hợp lý, chữ viết bảng rõ ràng, hình vẽ trên bảng phải chính xác.
Giáo viên nên chú ý thay đổi khẩu khí khi giảng bài. Người giáo viên có thể say
mê giảng bài suốt gần cả tiếng đồng hồ của một tiết dạy mà khơng có cảm giác mệt mỏi.
nhưng với một học sinh, việc ngồi im để nghe thầy, cô giảng bài suốt gần cả tiếng đồng
hồ không phải là điều dễ dàng. Hiện tượng ngáp vặt, uể oải, ngủ gục, nói chuyện riêng
trong lớp diễn ra khá phổ biến. những giáo viên thiếu kinh nghiệm khi bắt gặp những
hiện tượng như vậy thường hay dễ nổi nóng và buộc học sinh phải ngồi nghe một cách
nghiêm túc mà không biết làm như vậy không những không mang lại hiệu quả gì mà cịn
gây thêm sự căng thẳng trong lớp học.
Trang 12


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

Để một tiết học diễn ra nhẹ nhàng, sinh động, giáo viên cần lưu ý những điểm sau
đây: Lường trước đối tượng học sinh thiếu tập trung do tác động của hồn cảnh khách
quan( có chuyện khơng hay trong gia đình, sức khỏe kém, cơ thể mệt mỏi) để có cách
giảng bài thích hợp; khơng rập khn theo một trình tự mà học sinh đã quá quen thuộc;
linh hoạt thay đổi khẩu khí, thay đổi cách thức hỏi, giảng giải đối với học sinh; không
tiếp tục giảng giải khi học sinh dưới lớp ồn ào…mà có thể bất ngờ gọi một học sinh kiểm
tra lại kiến thức mà giáo viên vừa truyền đạt. Bên cạnh đó, giọng điệu của giáo viên có
điểm nhấn nhá, lơi cuốn học sinh như thế nào cũng rất quan trọng đối với sự chú ý của
từng em. Qua dự giờ, tôi đã chứng kiến nhiều tiết dạy của nhiều giáo viên có gọng điệu

thuyết phục, học sinh ngồi im phăng phắc, chú ý đến từng lời giảng của giáo viên như rót
mật vào tai. Giáo viên thổi hồn vào từng bài giảng, từng tiết dạy. giáo viên dạy bằng tất
cả niềm đam mê, hứng thú của mình. Nếu dạy trên lớp mà thiếu đi niềm đam mê, hứng
thú thì tiết dạy trở nên vơ hồn.
Ví dụ: Ngay từ bài 1: Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Bài học
được giáo viên đưa ra dựa trên một tình huống giả định: Mẹ và vợ/ hoặc chồng bạn ngã
xuống biển cùng 1 lúc, bạn chỉ có thể cứu được 1 người, bạn sẽ cứu ai?
Nhiều ý kiến được đưa ra, nhiều tình huống hài hước đã khởi đầu một giờ giáo dục công
dân hứa hẹn nhiều bùng nổ với nhiều tranh cãi.
Bạn sẽ cứu ai trước tiên? Vì sao bạn lại quyết định như vậy? Giá trị nào nằm sau quyết
định đó của bạn? Tại sao lựa chọn của bạn lại hợp lý hơn lựa chọn của người khác?
Câu hỏi như một cách để giúp não bộ của học sinh được kích hoạt một cách vui vẻ.
Thơng qua một loạt câu hỏi và cách trả lời của học sinh, những khái niệm của Triết học
được thầy giáo mở ra một cách đầy sống động và gần gũi.
Những khái niệm về tình yêu, về tình mẫu tử, quan điểm về cái chết, hay “phương
thức cứu quan trọng hơn việc sẽ cứu ai”… đã được học sinh thảo luận sôi nổi. Từ chính
những thảo luận này, thầy(cơ) giáo gửi gắm tới các bạn một thơng điệp của triết học:
Trong xã hội có vơ vàn những vấn đề có nhiều đáp án khác nhau. Có thể đáp án này
đúng cho mình, nhưng khơng đúng cho người khác, và ngược lại. Làm sao để chúng ta
có thể cùng chung sống với những người có quan điểm và các khái niệm sống khác
nhau? Triết học khơng phải điều gì q xa vời, mà thực sự gắn với cuộc sống hàng ngày,
gắn với những khái niệm mà hàng ngày chúng ta vẫn đối mặt. Các nhà triết học là những
người quan sát các hiện tượng và khái qt chúng thành các khái niệm thơng qua một
góc nhìn nào đó.
Trang 13


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương


Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

* Tâm lý giáo viên vững vàng khi đứng lớp. Ngôn phong của giáo viên ngắn gọn,
dề hiểu, trôi chảy,cảm xúc, rõ ràng. Tác phong sư phạm mẫu mực, có khiếu hài hước.
năng lực chun mơn của giáo viên phải vững, việc dạy học cần phải linh hoạt, biết kết
hợp các kỹ năng: hỏi-đáp, diễn giải, viết bảng, quan sát, phân tích, tổng hợp trong giờ
dạy.
* Ngồi ra các yếu tố khác cũng rất cần thiết cho tiết dạy hiệu quả, thành công
như: cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học của giáo viên, học tập của học
sinh, lời dặn dò học sinh ở tiết dạy trước để học snh có sự chuẩn bị tốt cho tiết học này,
vốn sống của giáo viên, sự trải nghiệm của giáo viên trong quá trình dạy học…
Tóm lại, để một tiết dạy thực sự hiệu quả, đem lại hứng thú cho học sinh, trong
một người thầy phải hội đủ cả 3 yếu tố: nhà sư phạm, nhà khoa học và người nghệ sĩ. Sự
hỗ trợ của cơng nghệ thơng tin và thiết bị nghe nhìn hiện đại là điều kiện vô cùng thuận
lợi để các giáo viên có thể cải tiến lối dạy truyền thống, tạo nên những tiết dạy mới mẻ,
sinh động, hạn chế tối đa tình trạng bỏ tiết vì chán học.
III.2. Về phía học sinh
Làm sao khắc phục tâm lý chán nản và ngắt những cơn buồn ngủ “bủa vây” học
sinh? Làm sao giúp các em hứng thú với môn học là điều mà mỗi giáo viên lên lớp rất
quan tâm. Sau đây là một số kinh nghiệm tác động về phía học sinh để có tiết dạy hay và
hiệu quả.
*Để học sinh nói lên suy nghĩ của mình
Trước đây học sinh đã quen tiếp thu kiến thức theo hướng một chiều “thầy nói gì
trị ghi đó”. Học sinh rất thụ động và nảy sinh tâm lý chán nản khi học. Vì thế các thầy cơ
phải làm sao xóa sức ì cho học sinhtrong quá trình học tập trên lớp. Các thầy cô nên biến
tiết học thành một tiết trao đổi kiến thức giữa thầy và trò. Hãy nắm vai trò khới xướng,
đánh giá và bổ sung những vấn đề mà học sinh chưa phát hiện hay nhận xét chưa đúng.
Phần phát hiện vấn đề, phân tích và đánh giá ban đầu nên dành cho học sinh. Hãy để các
em nói lên những điều mình suy nghĩ. Sự tranh luận tạo nên khơng khí thoải mái, sơi

động trong giờ học. Điều này khơng chỉ kích thích khả năng tư duy độc lập của học sinh
mà còn xua tan cơn buồn ngủ cho các em. Đồng thời, khi các em phát hiện ra vấn đề dù
sai hay đúng cũng tạo ở các em sự hứng thú và tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn.Các em
tiếp nhận kiến thức theo cách hiểu của mình, khơng gị bó, khn khổ. Các em se nhớ dai
và hiểu rất sâu về môn học. Đặc biệt phương pháp này được các giáo viên áp dụng rất
Trang 14


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

nhiều trong những lớp học khá, thường là lớp chọn của khối. các giáo viên thường cho
rằng: “ Hãy để các em nói về mơn học sẽ tốt hơn thầy cơ nói về chúng”
Để khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạovà lơi cuốn được học sinh vào bài học,
không phải lúc nào giáo viên cũng là người chủ động hỏi, học sinh trả lời, mà đơi khi cần
có sự thay đổi vị trí: trị thiết kế- thầy + trị thi cơng. Đây là cách tốt nhất để đánh thức sự
quan tâm của học sinh tới môn học.
Thực tế,HS “dám” hỏi lại thầy hay phủ nhận lại vấn đề mà thầy đưa ra là rất ít, nếu
khơng nói là khơng có. Ngun nhân thứ nhất là do bản tính thụ động, máy móc trong
việc tiếp nhận kiến thức của HS. Thứ hai là quan điểm về đạo lí thầy trị theo kiểu truyền
thống Á Đơng. Thứ ba là bản thân người thầy khơng thích, ngại HS hỏi. Vì thế né tránh
câu hỏi của HS, khơng tạo cơ hội cho HS hỏi lại.
Thực ra, nếu GV đã thực sự làm chủ kiến thức của bài dạy thì sẻ chẳng ngại câu hỏi
nào của HS. Trong giờ dạy, GV tổ chức, hướng dẫn cho HS có những câu hỏi tự khai thác
nội dung bài học sẽ là giờ dạy phát huy cao nhất tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
Với những câu hỏi gan ruột, tâm đắc của mình, HS đã thực sự có niềm say mê chân thành
với nội dung bài học.

Ví dụ: Dạy bài “ Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất” (GDCD lớp 10),
GV có thể lấy ví dụ về mơ hình vận động, phát triển của xã hội loài người để minh họa
cho khuynh hướng phát triển của thế giới vật chất:
CXNT- CHNL- PK- TBCN- CNXH\CNCS...
Sau đó, GV đưa ra yêu cầu: hãy tự đặt một số câu hỏi hay từ các ví dụ đưa ra hoặc
từ nội dung bài học. HS đã đưa ra câu hỏi sau:
-Ở Việt Nam, tại sao khơng có một số hình thái kinh tế- xã hội như tiến trình của thế
giới?
-Sau khi vận động đến CNCS, mơ hình xã hội lồi người sẽ vận động như thế nào?
Không phải GV nào cũng có thể nghĩ ra được những câu hỏi hay như vậy, lại trong
thời gian rất ngắn, đây thực sự là những câu hỏi khó. Nếu đây là câu hỏi của GV, chắc
chắn sẽ rất ít em có thể mạnh dạn xin được trả lời. Còn đây là những câu hỏi của bạn
mình, tâm lí tự tin “bạn hỏi lẽ nào mình khơng trả lời được” đã là yếu tố, động lực để HS
mạnh dạn phát biểu, xây dựng bài. Số đơng HS chắc chắn sẽ cùng thích thú quan tâm và
Trang 15


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

vấn đề đã được tháo gỡ rất thú vị và hiệu quả. Lớp học trở nên sôi nổi và HS thì rất hứng
thú học tập.
Đây là một phương pháp mang lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, để làm được điều đó,
giáo viên cần:
-Giáo viên phải vững vàng, làm chủ kiến thức bài học, nhạy cảm để kịp thời nhận
xét, đánh giá, động viên, khen, chê kịp thời.
-Giáo viên cần hướng dẫn, tổ chức cho học sinh đặt câu hỏi nằm trong hệ thống

trọng tâm bài học.
*Cho học sinh tiếp xúc thực tế
Thực tế là kho tàng kiến thức bất tận của mỗi người. Chính vì vậy, giáo viên nên
gợi ý cho học sinh liên hệ thực tế. Thực tế sẽ giúp các em có sự nhìn nhận xác đáng về
kiến thức tiếp thu được trên lớp. Các em sẽ thấy những điều thú vị và ham muốn khám
phá môn học. Đồng thời từ thực tế sẽ giúp các em khám phá những điều mới lạ mà sách
giáo khoa chưa cung cấp và bổ sung kiến thức còn thiếu mà 45 phút thầy cơ chưa nói hết.
Đặc biệt với phần triết học càng cần phải cho các em quan sát rất nhiều. Bởi môn học này
theo nhiều học sinh là khơ khan, khó hiểu, trừu tượng và khó nhớ. Chính thế giới sinh
động, biến hóa khơn lường của thực tế xã hội sẽ làm cho các em luôn băn khoăn, trăn trở
“phải làm như thế nào?”, “ tại sao nó lại như thế?”. Có câu hỏi đó, các em sẽ muốn tự
mình tìm hiểu, khám phá, giải đáp thắc mắc. Từ đó, các em sẽ tự vận động, nghĩ ra nhiều
câu hỏi để chất vấn giáo viên ở các tiết học. Chính sự trao đổi qua lại giữa thầy và trị làm
tiết học thêm sơi động và hiệu quả hơn rất nhiều trong việc giúp học sinh nắm bắt và hiểu
thật sâu bài học. Ngoài ra, thực tế làm cho bài giảng của giáo viên thêm phong phú và
xóa dần tư tưởng “ kiến thức trong SGK chỉ là kiến thức suông” ở HS.
- Đối với những bài có kiến thức đơn giản, liên hệ nhiều với thực tế, ví dụ như ở
bài 5: Cách thức vân động, phát triển của sự vật, hiện tượng và bài 7 tiết 2: Thực tiễn và
vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, giáo viên có thể hướng dẫn để học sinh chủ động
lĩnh hội kiến thức. Để làm được điều này, giáo viên có thể thực hiện theo những bước
sau:
- Cho học sinh chuẩn bị kĩ bài mới ở nhà. Giáo viên phân cho từng nhóm, tổ một
vấn đề, một mục đề để học sinh tìm hiểu kĩ và sâu hơn.

Trang 16


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương


Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

- Khi lên lớp, giáo viên không giảng mà cử đại diện từng nhóm, tổ lên trình bày
từng mục đề thứ tự trong sách giáo khoa mà mình đã chuẩn bị ở nhà. Học sinh lên bảng
trình bày vấn đề như một giáo viên thực thụ, giáo viên đóng vai trị hướng dẫn, tổ chức
lớp làm việc
- Sau khi học sinh trình bày xong, các em ngồi dưới lớp đặt câu hỏi để bạn trình bày
trên bảng trả lời. Nếu những học sinh lên trình bày khơng trả lời được, những em dưới
lớp có thể xung phong trả lời, nếu vấn đề nêu ra được trả lời mà các em khơng đồng ý,
các em khác có quyền đưa ra ý kiến. Nếu lớp không ai trả lời được thì người đặt câu hỏi
phải trả lời. Tuy nhiên, giáo viên phải định hướng cho các em hỏi những câu hỏi nằm
trong kiến thức bài học.
- Sau khi giải quyết xong một mục đề tiếp tục cử đại diện lên trình bày tiếp mục
khác( theo thứ tự SGK). Giáo viên quan sát, cho điểm những học sinh trình bày tốt,
những học sinh trả lời tốt và những học sinh đặt câu hỏi hay.
- Cuối giờ, giáo viên nhận xét, kết luận lại kiến thức, công bố điểm cho học sinh.
*Tạo cho HS niềm say mê môn học
Say mê là yếu tố không thể thiếu giúp HS học tốt các mơn học. Khi say mê các em
sẽ thích khám phá những điều hay ở mơn học. Từ đó, các em khơng có cảm giác chán nản
khi nghe thầy, cơ giảng bài. Khi ấy, mỗi kiến thức thầy cơ nói đều rất quan trọng, cần
phải nghe và tìm hiểu thật kỹ. Theo kinh nghiệm của bản thân và đồng nghiệp, khoảng
90% HS học rất tốt các mơn học mà mình u thích. Vậy, để các em hứng thú với mơn
học thì mỗi thầy cô nên tạo cho các em sự yêu thích mơn học. Để làm được điều đó
khơng phải là đơn giản. Trước tiên, các em phải xóa dần tâm lý phân biệt giữa mơn chính
và mơn phụ. Vì đây là nguyên do khiến các em lơ là với những môn mà các em cho là
môn phụ. Tâm lý ấy sẽ làm cho tiết học thêm nhàm chán. Các em thụ động và tiếp tục lặp
lại lối mòn “ thầy nói gì trị ghi nấy”. Thầy cơ thường xun nhắc nhở các em môn học
nào cũng đều quan trọng và phải tạo cho các em áp lực “ không học môn này không
được”. Và thầy cô cũng nên đem thực tế vào quá trình dạy để minh chứng điều mình

đang nói, tạo cho bài giảng thêm phong phú, thu hút hơn.
Nói về vấn đề này, tơi cịn nhớ một câu chuyện xoay quanh một câu hỏi trắc
nghiệm có thưởng ở nước Pháp: “Nếu như cung điện Louvre không may bị cháy và bạn
chỉ có thể cứu một bức danh họa duy nhất, vậy bạn sẽ chọn bức danh họa nào?”.

Trang 17


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

Phần lớn mọi người đều trả lời là sẽ cứu bức Mona Lisa, một trong những bức
danh họa quý nhất của bảo tàng. Thế nhưng, giải thưởng đã được trao cho Jules Verne một nhà văn nổi tiếng của Pháp. Jules Verne trả lời rằng ông sẽ cứu bức tranh gần cửa
thốt hiểm nhất.
Vì Mona Lisa được trưng bày ở tầng hai, khi hỏa hoạn xảy ra, trong tình trạng
hỗn loạn ai cũng đều đổ xơ ra ngồi mong thốt thân, nếu ai đó chạy ngược dịng người,
sau đó chạy thẳng lên lầu hai thì có lẽ chưa kịp chạm đến bức tranh Mona Lisa anh ta đã
bị thiêu cháy rồi.
Thế nên, trong tình huống này, trước hết bạn phải tìm cho ra cửa thốt hiểm để
bản thân an tồn trước, sau đó nếu bạn tiện tay giật được bức tranh nào thì mới cứu lấy
bức tranh ấy.
Trong cuộc sống, con người luôn phải đối mặt với những sự lựa chọn, và càng lớn
lên thì sự lựa chọn sẽ càng phức tạp hơn. Chúng ta cần phải xác định cho mình một thứ tự
ưu tiên để thực hiện. Thứ tự ưu tiên ấy không cần thiết phải xếp theo tiêu chí cụ thể nào,
mà chỉ cần phù hợp với hồn cảnh và trái tim của mình là đủ . Khi đã biết điều gì là quan
trọng nhất với mình trong hồn cảnh này, thời điểm này, chúng ta sẽ thoải mái hơn với
những lựa chọn và bình tĩnh hơn trước những khó khăn. Cơ biết rất nhiều học sinh khơng

thích, thậm chí xem thường mơn GDCD vì nghĩ nó là mơn phụ. Cơ hi vọng từ câu chuyện
này, các em cũng nên cân nhắc trong việc sắp xếp thứ tự ưu tiên các môn học khi các em
đang ở những bước khởi đầu của THPT.
Để có tiết dạy hay, hiệu quả, thu hút được học sinh, kích thích các em yêu thích,
chịu phát biểu ý kiến là phụ thuộc rất lớn ở tài “ cầm trịch” của mỗi giáo viên.
IV. ĐỊNH HƯỚNG CÁCH THỰC HIỆN NỘI DUNG MỘT BÀI GIẢNG TRIẾT
HỌC
Một bài giảng triết học thường có các nội dung: Khái niệm; phạm trù; nguyên lý
và quy luật; ý nghĩa phương pháp luận. Đối với mỗi nội dung do đặc trưng riêng của nó
nên phải có cách giảng khác nhau.
IV.1. Giảng khái niệm, phạm trù
- Phân biệt khái niệm và phạm trù

Trang 18


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lơi cuốn học sinh

+ Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, nó phản ánh cái chung, bản chất, tất
yếu của sự vật.
+ Có nhiều loại khái niệm nhưng khái niệm triết học mang tính chất khái quát, phổ biến nhất
của thế giới sự vật. Nó bao qt tồn bộ các lĩnh vực của thế giới.
Ví dụ: vật chất, ý thức, vận động, không gian, thời gian, lượng, chất, mâu thuẫn .v.v….
+ Phạm trù là khái niệm cơ bản nhất, phổ biến nhất. Như vậy, phạm trù cũng có thể gọi là khái
niệm nhưng nó phải là một khái niệm cơ bản nhất, phổ biến nhất của thế giới.
- Cách giảng khái niệm:

Những khái niệm của triết học phản ánh những thuộc tính của sự vật trên thế giới mang tính
khái quát nhất. Mỗi nguyên lý, quy luật triết học đều chứa đựng những khái niệm.
Ví dụ:
* Quy luật mâu thuẫn có các khái niệm: thống nhất, đấu tranh, mặt đối lập, mâu
thuẫn.v.v….
* Quy luật lượng -chất: lượng, chất, độ, điểm nút, bước nhảy
+ Tầm quan trọng của việc hình thành chính xác các khái niệm, phạm trù.
* Mỗi nguyên lý, quy luật đều chứa đựng các khái niệm. Khái niệm là cơ sở để biểu hiện
ngun lý, quy luật. Nếu khơng hiểu thì sẽ rất máy móc trong nhận thức ngun lý, quy luật,
thậm chí nhận thức sai.
* Nếu khơng hiểu chính xác các khái niệm thì sẽ rất mơ hồ trong học tập. Chẳng hạn, do
không hiểu khái niệm nên lẫn lộn giữa thế giới quan và phương pháp luận: Duy vật và siêu
hình, hoặc không phân biệt được triết học duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật biện chứng
khác nhau như thế nào, hoặc mâu thuẫn trong triết học và mâu thuẫn thông thường, vận động
trong triết học và vận động của khoa học cụ thể, khái niệm vật chất của triết học và khái niệm
vật chất theo quan điểm của khoa học tự nhiên.
+ Dùng phương pháp quy nạp đối với những phạm trù rất trừu tượng.
Khái niệm có hai mặt: nội hàm và ngoại diện. Nội hàm chỉ thuộc tính cơ bản, bản chất
của sự vật, ngoại diện chỉ lớp đối tượng rộng hơn, bao quát khái niệm. Với phưong pháp quy
Trang 19


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lơi cuốn học sinh

nạp, chúng ta phân tích dần dần nội hàm của khái niệm, sau đó mới định nghĩa, nghĩa là đi từ
tri thức riêng đến tri thức chung, từ đó rút ra kết luận.

Ví dụ 1: Định nghĩa chất trong quy luật lượng- chất: nếu chúng ta nêu lên định nghĩa
ngay thì học sinh sẽ khơng hiểu gì mà trước hết phải lấy một số ví dụ điển hình.
* Phân bịêt người và động vật dựa vào thuộc tính nào? Người có ý thức, biết lao động, có ngơn
ngữ, cịn động vật khơng có.

Con người

Con vật

* Phân biệt nước ở trạng thái lỏng, rắn, hơi thì dựa vào trạng thái tồn tại của nó

Rắn

Lỏng

Hơi

* Phân biệt được bàn, ghế, bảng nhờ đặc điểm cấu trúc của nó

Trang 20


Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Cái bàn


Cái ghế

Cái bảng

Tất cả những thuộc tính, trạng thái, đặc điểm cấu trúc.v.v.. của sự vật đã nói ở trên chính là
chất của sự vật. Nó nói lên sự vật đó là cái gì và phân biệt được sự vật này với sự vật khác. Từ
đó chúng ta đưa ra định nghĩa về chất.
Ví dụ 2: Giảng định nghĩa “vật chất”
Đây là một khái niệm rất trừu tượng, mang tính khái qt cao. Do đó, chúng ta phải lấy dẫn
chứng về các sự vật khác nhau trong thế giới, sau đó khái qt hố, trừu tượng hố các sự vật
và rút ra các thuộc tính chung cơ bản nhất của nó và đưa ra khái niệm:
* Dẫn chứng về các sự vật:

Các loài động vật
Các loài thực vật
Các hành tinh
Các sự vật trong đời sống xã hội

* Nhận xét: Chúng rất đa dạng, phong phú
Vậy chúng có điểm nào chung khơng?
Đó là:

Chúng tồn tại khách quan, tức là tồn tại độc lập với cảm giác
Khi tác động vào các giác quan đem lại cảm giác cho con người

Từ đó, hướng cho học sinh rút ra điểm cơ bản nhất để đưa ra định nghĩa. Ở phương pháp
này, chúng ta phải hướng cho người học từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể đến trừu tượng,
Trang 21



Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

nhưng lại không rơi vào cái cụ thể, vụn vặt mà phải rút ra cái khái quát. Như thế, nó phù hợp
với tư duy tiếp nhận của người học.
+ Đối với những phạm trù dễ hiểu, dễ tiếp thu chúng ta dùng phương pháp diễn dịch tức là nêu
định nghĩa trước, lấy dẫn chứng minh hoạ sau: Ví dụ định nghĩa tồn tại xã hội, ý thức xã hội,
gia đình.v.v…..
+ Trường hợp các khái niệm phải định nghĩa dài, phức tạp, giáo viên phải làm nổi bật được
định nghĩa, sau đó tìm những đặc trưng cơ bản của nó rồi cuối cùng tóm tắt bằng một định
nghĩa khái quát.
Ví dụ: Giảng định nghĩa giai cấp của Lênin
Trong 3 tác phẩm khác nhau Lênin đã đưa ra 3 định nghĩa khác nhau về giai cấp. Nhưng
cả 3 định nghĩa đều nhấn mạnh một đặc trưng cơ bản: giai cấp nào chiếm đoạt lao động của
tập đồn khác thì giai cấp đó là giai cấp thống trị. Trong đó định nghĩa ở trong tác phẩm
“Sáng kiến vĩ đại” thích hợp hơn vì nêu ra các đặc trưng của giai cấp sau đó khái quát lại bằng
một kết luận.
+ Sau khi xác lập khái niệm thì chúng ta phải so sánh những khái niệm gần nghĩa hoặc giống
nhau về từ ở các lĩnh vực khoa học khác. Chẳng hạn, sau khi đưa ra định nghĩa Chất là gì
giảng viên phải cho người học phân biệt khái niệm chất trong triết học và khái niệm chất trong
các khoa học cụ thể, trong cuộc sống . Khái niệm chất trong triết học là để phân biệt sự vật
này với sự vật khác, cịn khái niệm chất trong các mơn khoa học cụ thể dùng để chỉ vật liệu
cấu thành sự vật, chỉ độ tốt, xấu của sự vật hoặc giá trị của nó. Nếu người dạy khơng giúp
người học phân biệt điều này thì người học sẽ rất khó hiểu về khái niệm chất trong triết học .
Hoặc phân biệt :
* Chất với chất lượng, bản chất
* Lượng với số lượng, đại lượng

* Vật chất trong triết học với khai niệm vật chất trong vật lý học
* Mâu thuẫn trong triết học và mâu thuẫn trong cuộc sống
* Thống nhất trong quy luật mâu thuẫn và thống nhất trong xã hội.v.v…
+ Sau khi xác lập được phạm trù nên nói rõ trong phạm trù đó tư tưởng nào là quan trọng nhất.

Trang 22


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

+ Đối với một số phạm trù rất cơ bản trong triết học cần phải nói rõ q trình nhận thức của
con người về khái niệm đó
Ví dụ: Phạm trù vật chất: phải nêu rõ quan điểm của các nhà triết học trong các giai đoạn khác
nhau của lịch sử triết học: duy vật cổ đại, duy vật siêu hình thế kỷ XVII, XVIII, duy vật biện
chứng
III.2. Giảng nguyên lý và quy luật
Nguyên lý và quy luật là một loại kiến thức cơ bản của triết học, là nội dung chính của
một bài giảng triết học. Trước khi giảng nguyên lý, quy luật phải biệt được nguyên lý, quy luật
trong khoa học tự nhiên khác với nguyên lý, quy luật trong triết học.
* Trong khoa học tự nhiên: Phản ánh tính quy luật của một lĩnh vực của thế giới.
* Trong triết học: Phản ánh tính quy luật mang tính phổ biến của tồn bộ thế giới hiện thực.
Do đó, trong q trình giảng dạy phải có hướng giảng dạy cho phù hợp.
- Giảng nguyên lý, quy luật thường phải theo trình tự sau:
Thứ nhất: Phải giảng các khái niệm. Vì mỗi nguyên lý, quy luật đều phải chứa đựng các
khái niệm, là sự liên kết các khái niệm. Nếu chưa hiểu khái niệm thì sẽ rất mơ hồ trong hiểu
nguyên lý, quy luật.

+

+ Thứ hai: phải nói rõ ngun lý trước khi giảng
Ví dụ: * Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
* Vật chất quyết định ý thức
+ Thứ ba: Phân tích, giải thích nội dung của nguyên lý, quy luật
Khi giải thích nguyên lý, cần tránh phương pháp minh hoạ, gây ra mơ hồ, tiếp thu thụ
động, khơng phù hợp với trình độ của người học, không thuyết phục được người học .Ví dụ:
Giảng về lượng đổi, chất đổi, giáo viên chưa giải thích nguyên lý đã lấy một loạt ví dụ thì học
sinh sẽ khơng hiểu được vấn đề.
Giải thích ngun lý trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
+ Trên cơ sở lý luận:
Trang 23


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

* Phải dựa vào quan điểm duy vật biện chứng khi phân tích các nguyên lý. Ví dụ giảng nguyên
lý vật chất quyết định ý thức thì vật chất là tính thứ nhất (quyết định) nhưng khơng thể tuyệt
đối hóa điều này mà phải thấy rằng ý thức có thể đi trước hoặc đi sau hoặc có tác động tích
cực đối với vật chất. Nếu tuyệt đối hoá yếu tố vật chất hoặc tuyệt đối hoá ý thức sẽ rơi vào cực
đoan, hoặc là duy vật siêu hình hoặc là duy tâm. Phải thấy rõ mối quan hệ giữa hai yếu tố. Như
vậy, phương pháp phân tích vừa phải đứng trên lập trường duy vật, vừa phải biện chứng.
* Phải vận dụng các nguyên lý, quy luật, khái niệm đã học để giải thích.
Ví dụ: Giảng tính thống nhất vật chất của thế giới: Ở phần trước chúng ta đã hiểu vật
chất là vô cùng, vô tận, trong thế giới khơng có gì ngồi vật chất đang vận động, còn ý thức

chỉ là sự phản ánh của thế giới vật chất. Như vậy chúng ta có thể khẳng định: Thế giới khơng
có gì ngồi vật chất.
+ Trên cơ sở thực tiễn:
Tức là phải đưa ra các đẫn chứng khoa học để chứng minh
Dẫn chứng đó là:
* Các tài liệu của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội
* Các tư liệu trong đời sống
* Các số liệu, bảng biểu….
Ví dụ: Giảng về quy luật lượng- chất: dùng những dẫn chứng khoa học để chứng minh sự
biến đổi về lượng vượt quá độ sẽ dẩn đến biến đổi về chất.
* Trong hoá học
O + O  O2 ( ô xy- khí lành)
O2 + O  O3 ( ôzôn- khí độc)
Dãy đồng đẳng của mêtan : chỉ cần thêm một lượng CH 2 là từ hợp chất này sẽ chuyển sang
hợp chất khác
CH4 ( Mêtan)
CH4 + CH2  C2H6 ( Êtan)
Trang 24


Trường THPT Thống Nhất
Giáo viên: Lê Thị Lương

Để bài dạy Triết học ( Phần 1 GDCD lớp 10)
hiệu quả và lôi cuốn học sinh

C2H6 + CH2  C3H8 ( Prôpan)
* Trong tốn học: Có một hình chữ nhật, người ta có thể tăng và giảm chiều rộng. Nhưng sự
tăng giảm đó phải ở giới hạn nhất định thì nó vẫn là hình chữ nhật. Nếu tăng chiều rộng bằng
chiều dài thì hình chữ nhật sẽ biến thành hình vng, chất sẽ biến đổi, hoặc giảm chiều rộng

bằng 0 thì hình chữ nhật sẽ biến thành đường thẳng
* Trong xã hội: Phong trào cách mạng Việt Nam cũng là quá trình thay đổi về lượng dẫn đến
thay đổi về chất. Từ cao trào cách mạng 1930- 1931 đến cao trào dân chủ chống phát xít
(1936- 1939), đến cao trào giải phóng dân tộc (1939- 1945), đến cách mạng tháng tám 1945
đều là quá trình chuẩn bị về lượng để dẫn đến sự thay đổi về chất của xã hội Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
* Trong dược học: Các loại thuốc bổ, thuốc kháng sinh chỉ có tác dụng nếu dùng đúng liều,
lượng, dùng quá liều, lượng nó sẽ gây ra nguy hiểm cho con người.
* Trong tư duy: Để có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thơng thì phải tích luỹ lượng kiến thức
suốt 12 năm học cho đến khi thi tốt nghiệp có kết quả mới có sự thay đổi về chất trong nhận
thức.
Cần lưu ý là lấy ví dụ chứng minh cho nguyên lý triết học khác với nhiều mơn khác, bởi vì,
ví dụ đó khơng những làm sáng tỏ thêm nguyên lý mà còn mang tính chất giáo dục chính trị,
tư tưởng.
Hướng chọn ví dụ: Ví dụ phải có tính chất phổ biến, điển hình, thời sự và đã được khái
quát trong các tài liệu chính thức hoặc tham khảo chứ khơng thể theo dạng: nghe nói thế này,
nghe nói thế kia. Phần Chủ nghĩa duy vật biện chứng phải lấy ví dụ cả ba lĩnh vực của thế
giới : tự nhiên , xã hội , tư duy.
Hướng phân tích ví dụ: Phải bám vào nội dung ngun lý để phân tích chứ khơng phán
linh tinh, tràn lan.
Nếu giảng nguyên lý, quy luật mà người giảng khơng lấy được ví dụ để chứng minh thì
người học sẽ không thể hiểu được bài . Sách giáo khoa lại chỉ có kiến thức cơ bản, ít có ví dụ
nên nếu người dạy khơng dày cơng chuẩn bị thì chỉ nói lại sách giáo khoa chứ chưa phải là
giảng .
- Mức độ đề cập nguyên lý:

Trang 25



×