Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

ĐỀ TÀI VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH VÀ VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.19 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP LỚN HỌC PHẦN BỔ SUNG KIẾN THỨC 1
(TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN, KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
& CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC)

ĐỀ TÀI

VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH VÀ VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LỚP: - NHÓM: - BS7.2

GVHD: THS. VŨ QUỐC PHONG
SINH VIÊN THỰC HIỆN
STT

MSSV

HỌ

TÊN

1
2
3
4
5
6

2247505



Nguyễn Anh
Nguyễn Phan Đại
Phạm Đình
Nguyễn Vũ
Trần Hữu
Phan Lê Vĩnh

Chương
Dương
Hn
Khiêm
Quyết
Quỳnh

2247533
2247546
2247578
2247579
Tổng

% ĐIỂM ĐIỂM
BTL
BTL
20
20
20
20
20
100


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022

GHI
CHÚ


BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM
STT

Mã số SV

1

2247505

2

Họ

Tên

Nguyễn Anh

Chương

Nguyễn Phan Đại

Dương


3

2247533

Phạm Đình

Hn

4

2247546

Nguyễn Vũ

Khiêm

5

2247578

Trần Hữu

Quyết

6

2247579

Phan Lê Vĩnh


Quỳnh

Nhiệm vụ được phân
cơng

Ký tên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
Chương 1: VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH VÀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................................4
1.1. Khái niệm gia đình................................................................................................4
1.2. Vị trí và chức năng của gia đình..........................................................................4
1.3. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH.................................6
1.4. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH................7
1.5. Biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình.......................................14
1.6. Phương thức cơ bản xây dựng & phát triển gia đình trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam hiện nay......................................................................................19
Chương 2: VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH VÀ VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HOÁ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY..............................................................................................24
KẾT LUẬN.................................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................28

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: GIA ĐÌNH VÀ VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH

VĂN HỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Không gian:
Thời gian:
4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Thứ nhất,
Thứ hai,
Thứ ba,
Thứ tư,
Thứ năm,
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và các phương pháp nghiên
cứu như trừu tượng hóa khoa học, phân tích tổng hợp, thống kê mơ tả.
6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngồi mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 02
chương:
- Chương 1: VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH VÀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG

THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
- Chương 2: VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH VÀ VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN
HOÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2


Chương 1: VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH VÀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm gia đình
Khái niệm gia đình Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của
con người, một thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát

triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và
giáo dục… giữa các thành viên.
1.2. Vị trí và chức năng của gia đình
Gia đình là một tế bào cơ bản và tự nhiên cấu thành nên từng cộng đồng, xã hội.
Gia đình giữ vai trò trung tâm trong đời sống của mỗi con người, là nơi bảo đảm đời
sống vật chất và tinh thần của mỗi cá nhân, là một trong những giá trị xã hội quan
trọng bậc nhất của người Á Đông, trong đó có Việt Nam. Đối với mỗi quốc gia thì gia
đình được coi là “một tế bào xã hội có tính sản sinh”. Do vậy sức mạnh trường tồn của
quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn tại và phát triển của gia đình.”
Đối với sự phát triển của xã hội trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào, sự vững vàng
bền bỉ của nền tảng gia đình cũng sẽ là yếu tố quyết định đến sự giàu mạnh, thịnh
vượng của đất nước. Cho nên, việc quan tâm coi trọng đến yếu tố gia đình chính là
hướng đi đúng đắn cho việc tạo dựng một xã hội phát triển ổn định và bền vững. Điều
này càng thấy rõ khi chúng ta nhìn nhận đầy đủ vị trí, vai trị, chức năng của gia đình
trong xã hội hiện nay. Đúng như C.Mác đã nói: “…hàng ngày tái tạo ra đời sống của
bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở – đó là
quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”. Cho nên yếu tố huyết
thống và tình cảm là nét bản chất nhất của gia đình. Nhưng, xét rộng hơn và đầy đủ
hơn, gia đình khơng chỉ là một đơn vị tình cảm – tâm lý, mà còn là một tổ chức kinh tế
– tiêu dùng, một môi trường giáo dục – văn hóa, một cơ cấu – thiết chế xã hội đặc biệt.
Với tất cả những đặc biệt đó, cho thấy gia đình có một vị trí vai trị cực kỳ quan trọng
trong sự phát triển của xã hội nói chung.
Gia đình là “tế bào của xã hội”. Điều này chúng ta ln ln khẳng định và dù
trong hồn cảnh nào, xã hội nào nó vẫn ln ln đúng. Nó nói lên mối quan hệ mật

3


thiết giữa gia đình và xã hội, quan hệ đó giống như sự tương tác hữu cơ của quá trình
trao đổi chất, duy trì sự sống của cơ thể. Xã hội (cơ thể) lành mạnh tạo điều kiện cho

các gia đình tiến bộ, gia đình (tế bào) hạnh phúc góp phần cho sự phát triển hài hòa
của xã hội.
Trong mối quan hệ ấy, trình độ phát triển về mọi mặt của xã hội quyết định đến
hình thức, tính chất, kết cấu và quy mơ của gia đình. C.Mác nhiều lần lưu ý rằng: tơn
giáo, gia đình, nhà nước, pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ thuật…chỉ là những
hình thức đặc thù của sản xuất và phục tùng quy luật chung của sản xuất. Và thực tế
cũng cho ta thấy, gia đình lần lượt biến đổi tương ứng với những giai đoạn phát triển
xã hội khác nhau.
Gia đình là cầu nối giữa mọi thành viên trong gia đình với xã hội. Nhiều thông
tin về xã hội tác động đến con người thơng qua gia đình. Xã hội nhận thức đầy đủ và
toàn diện hơn về một người khi nhận rõ hoàn cảnh gia đình của người ấy. Nhiều nội
dung quản lý xã hội không chỉ thông qua hoạt động của các thiết chế xã hội, mà cịn
thơng qua hoạt động của gia đình để tác động đến con người; nghĩa vụ và quyền lợi xã
hội của mỗi người được thực hiện với sự hợp tác chung của các thành viên trong gia
đình. Qua đó ý thức cơng dân được nâng cao và sự gắn bó giữa gia đình và xã hội có ý
nghĩa thiết thực.
Gia đình là tổ ấm thân u đem lại hạnh phúc cho mỗi con người. Trong gia
đình, mỗi cá nhân được đùm bọc về mặt vật chất và giáo dục về tâm hồn; trẻ thơ có
điều kiện được an tồn và khơn lớn, người già có nơi nương tựa, người lao động có
điều kiện để phục hồi sức khỏe và thoải mái tinh thần…Ở đó, hàng ngày diễn ra các
mối quan hệ thiêng liêng giữa vợ – chồng, cha – con, anh – em,…những người đồng
tâm, đồng cảm, nâng đỡ nhau suốt cả cuộc đời. Khi đó, gia đình thực sự là một tổ ấm
thực sự của mỗi con người.
Gia đình là nơi cung cấp nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước hiện nay ngày càng địi hỏi trình độ và u cầu cao, đó phải là những người
“giàu lịng u nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân; có tri thức, sức khỏe,
lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính”. Gia đình
chính “là mơi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”
4



để hình thành nên những phẩm chất tốt đẹp của mỗi cá nhân, mỗi con người, góp phần
đắc lực vào chiến lược phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng u cầu
của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Gia đình là nơi ni dưỡng, bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển
với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp, góp phần xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc.
Những giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương,
đùm bọc lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù và sáng tạo trong lao động,
bất khuất kiên cường vượt qua mọi khó khăn thử thách đã được gia đình Việt Nam gìn
giữ, vun đắp trong suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc và phát huy
trong giai đoạn hiện nay.
Có thể thấy rằng, trong sự phát triển chung của xã hội hiện nay, gia đình ln
đóng một vai trị quan trọng. Khơng thể có một xã hội giàu mạnh, văn minh nếu như
khơng dựa trên cơ sở xây dựng những gia đình ấm no, hạnh phúc, tiến bộ. Vì vậy, xây
dựng và phát triển gia đình với những giá trị tốt đẹp trong xã hội hiện đại là một trong
những yếu tố cốt lõi trong mục tiêu chung của xây dựng nền văn hóa mới XHCN.
1.3. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hợi là
việc thiết lập chính qùn nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao động được
thực hiện qùn lực của mình khơng có sự phân biệt giữa nam và nữ. Nhà nước cũng
chính là cơng cụ xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ, lạc hậu, đè nặng lên vai người phụ nữ
đồng thời thực hiện việc giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Như
V.I.Lênin đã khẳng định: “Chính qùn xơ viết là chính quyền đầu tiên và duy nhất
trên thế giới đã hoàn toàn thủ tiêu tất cả pháp luật cũ kỹ, tư sản, đê tiện, những pháp
luật đó đặt người phụ nữ vào tình trạng khơng bình đẳng với nam giới, đã dành đặc
quyền cho nam giới… Chính quyền xô viết, một chính qùn của nhân dân lao đợng,
chính qùn đầu tiên và duy nhất trên thế giới đã hủy bỏ tất cả những đặc quyền gắn

liền với chế độ tư hữu, những đặc quyền của người đàn ông trong gia đình…”.

5


Nhà nước xã hội chủ nghĩa với tính cách là cơ sở của việc xây dựng gia đình
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện rõ nét nhất ở vai trị của hệ thớng
pháp ḷt, trong đó có Luật Hôn nhân và Gia đình cùng với hệ thớng chính sách xã hợi
đảm bảo lợi ích của công dân, các thành viên trong gia đình, đảm bảo sự bình đẳng
giới, chính sách dân sớ, việc làm, y tế, bảo hiểm xã hội… Hệ thống pháp luật và chính
sách xã hợi đó vừa định hướng vừa thúc đẩy quá trình hình thành gia đình mới trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Chừng nào và ở đâu, hệ thớng chính sách, pháp
ḷt chưa hoàn thiện thì việc xây dựng gia đình và đảm bảo hạnh phúc gia đình còn
hạn chế.
1.4. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình
Gia đình Việt Nam ngày nay có thể được coi là “gia đình quá độ” trong bước
chuyển biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại. Trong
quá trình này, sự giải thể của cấu trúc gia đình truyền thống và sự hình thành hình thái
mới là một tất yếu. Gia đình đơn hay còn gọi là gia đình hạt nhân đang trở nên rất phổ
biến ở các đô thị và cả ở nông thôn - thay thế cho kiểu gia đình trùn thớng từng giữ
vai trị chủ đạo trước đây.
Quy mô gia đình ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số
thành viên trong gia đình trở nên ít đi. Nếu như gia đình truyền thống xưa có thể tồn
tại đến ba bốn thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà thì hiện nay, quy mơ gia đình
hiện đại đã ngày càng được thu nhỏ lại. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ có hai thế hệ
cùng sớng chung: cha mẹ - con cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như trước,
cá biệt cịn có sớ ít gia đình đơn thân, nhưng phổ biến nhất vẫn là loại hình gia đình hạt
nhân quy mô nhỏ.
Quy mô gia đình Việt Nam ngày càng thu nhỏ, đáp ứng những nhu cầu và điều

kiện của thời đại mới đặt ra. Sự bình đẳng nam nữ được đề cao hơn, cuộc sống riêng tư
của con người được tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống của gia
đình truyền thống. Sự biến đổi của gia đình cho thấy chính nó đang làm chức năng tích

6


cực, thay đởi chính bản thân gia đình và cũng là thay đổi hệ thống xã hội, làm cho xã
hội trở nên thích nghi và phù hợp hơn với tình hình mới, thời đại mới.
Tất nhiên, q trình biến đởi đó cũng gây những phản chức năng như tạo ra sự
ngăn cách không gian giữa các thành viên trong gia đình, tạo khó khăn, trở lực trong
việc gìn giữ tình cảm cũng như các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình. Xã hội
ngày càng phát triển, mỗi người đều bị ćn theo cơng việc của riêng mình với mục
đích kiếm thêm thu nhập, thời gian dành cho gia đình cũng vì vậy mà ngày càng ít đi.
Con người dường như rơi vào vịng xốy của đờng tiền và vị thế xã hợi mà vơ tình
đánh mất đi tình cảm gia đình. Các thành viên ít quan tâm lo lắng đến nhau và giao
tiếp với nhau hơn, làm cho mối quan hệ gia đình trở nên rời rạc, lỏng lẻo...
Biến đổi các chức năng của gia đình
- Chức năng tái sản xuất ra con người
Với những thành tựu của y học hiện đại, hiện nay việc sinh đẻ được các gia đình
tiến hành một cách chủ động, tự giác khi xác định số lượng con cái và thời điểm sinh
con. Hơn nữa, việc sinh con còn chịu sự điều chỉnh bởi chính sách xã hội của Nhà
nước, tùy theo tình hình dân số và nhu cầu về sức lao động của xã hội. Ở nước ta, từ
những năm 70 và 80 của thế kỷ XX, Nhà nước đã tuyên truyền, phổ biến và áp dụng
rộng rãi các phương tiện và biện pháp kỹ thuật tránh thai và tiến hành kiểm sốt dân sớ
thơng qua C̣c vận đợng sinh đẻ có kế hoạch, khuyến khích mỗi cặp vợ chồng chỉ
nên có từ 1 đến 2 con. Sang thập niên đầu thế kỷ XXI, dân số Việt Nam đang chuyển
sang giai đoạn giá hóa. Để đảm bảo lợi ích của gia đình và sự phát triển bền vững của
xã hội, thông điệp mới trong kế hoạch hóa gia đình là mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ
hai con.

Nếu như trước kia, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán và nhu cầu sản xuất
nông nghiệp, trong gia đình Việt Nam truyền thống, nhu cầu về con cái thể hiện trên
ba phương diện: phải có con, càng đông con càng tốt và nhất thiết phải có con trai nối
dõi thì ngày nay, nhu cầu ấy đã có những thay đổi căn bản: thể hiện ở việc giảm mức
sinh của phụ nữ, giảm số con mong muốn và giảm nhu cầu nhất thiết phải có con trai
của các cặp vợ chồng. Trong gia đình hiện đại, sự bền vững của hôn nhân phụ thuộc

7


rất nhiều vào các yếu tố tâm lý, tình cảm, kinh tế, chứ không phải chỉ là các yếu tố có
con hay khơng có con, có con trai hay khơng có con trai như gia đình trùn thớng.
Biến đởi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Xét một cách khái quát, cho đến nay kinh tế gia đình đã có hai bước chuyển
mang tính bước ngoặt: Thứ nhất, từ kinh tế tự cấp tự túc thành kinh tế hàng hóa, tức là
từ một đơn vị kinh tế khép kín sản xuất để đáp ứng nhu cầu của gia đình thành đơn vị
mà sản xuất chủ yếu để đáp ứng nhu cầu của người khác hay của xã hội. Thứ hai, từ
đơn vị kinh tế mà đặc trưng là sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc
gia thành tổ chức kinh tế của nền kinh tế thị trường hiện đại đáp ứng nhu cầu của thị
trường toàn cầu.
Hiện nay, kinh tế gia đình đang trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh sản phẩm hàng
hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới, kinh tế gia đình gặp rất nhiều khó
khăn, trở ngại trong việc chuyển sang hướng sản xuất kinh doanh hàng hóa theo hướng
chuyên sâu trong kinh tế thị trường hiện đại. Nguyên nhân là do kinh tế gia đình phần
lớn có quy mô nhỏ, lao động ít và tự sản xuất là chính.
Sự phát triển của kinh tế hàng hóa và nguồn thu nhập bằng tiền của gia đình tăng
lên làm cho gia đình trở thành một đơn vị tiêu dùng quan trọng của xã hội. Các gia
đình Việt Nam đang tiến tới “tiêu dùng sản phẩm do người khác làm ra”, tức là sử
dụng hàng hóa và dịch vụ xã hội.

Biến đổi chức năng giáo dục (xã hội hóa)
Trong xã hợi Việt Nam trùn thớng, giáo dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã
hội thì ngày nay, giáo dục xã hội bao trùm lên giáo dục gia đình và đưa ra những mục
tiêu, những yêu cầu của giáo dục xã hội cho giáo dục gia đình. Điểm tương đồng giữa
giáo dục gia đình truyền thống và giáo dục của xã hội mới là tiếp tục nhấn mạnh sự hy
sinh của cá nhân cho cộng đồng.
Giáo dục gia đình hiện nay phát triển theo xu hướng sự đầu tư tài chính của gia
đình cho giáo dục con cái tăng lên. Nội dung giáo dục gia đình hiện nay không chỉ

8


nặng về giáo dục đạo đức, ứng xử trong gia đình, dòng họ, làng xã, mà hướng đến giáo
dục kiến thức khoa học hiện đại, trang bị công cụ để con cái hòa nhập với thế giới.
Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống giáo dục xã hội, cùng với sự phát triển kinh
tế hiện nay, vai trò giáo dục của các chủ thể trong gia đình có xu hướng giảm. Nhưng
sự gia tăng của các hiện tượng tiêu cực trong xã hội và trong nhà trường, làm cho sự
kỳ vọng và niềm tin của các bậc cha mẹ vào hệ thống giáo dục xã hội trong việc rèn
luyện đạo đức, nhân cách cho con em của họ đã giảm đi rất nhiều so với trước đây.
Mâu thuẫn này là một thực tế chưa có lời giải hữu hiệu ở Việt Nam hiện nay. Những
tác động trên đây làm giảm sút đáng kể vai trò của gia đình trong thực hiện chức năng
xã hội hóa, giáo dục trẻ em ở nước ta thời gian qua.
Hiện tượng trẻ em hư, bỏ học sớm, lang thang, nghiện hút ma túy, mại dâm…
cũng cho thấy phần nào sự bất lực của xã hội và sự bế tắc của một số gia đình trong
việc chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm
Trong xã hội hiện đại, độ bền vững của gia đình không chỉ phụ thuộc vào sự ràng
buộc của các mối quan hệ về trách nhiệm, nghĩa vụ giữa vợ và chờng; cha mẹ và con
cái; sự hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích gia đình, mà nó còn bị chi phới bởi các mới
quan hệ hịa hợp tình cảm giữa chồng và vợ; cha mẹ và con cái, sự đảm bảo hạnh phúc

cá nhân, sinh hoạt tự do, chính đáng của mỗi thành viên gia đình trong cuộc sống
chung.
Trong gia đình Việt Nam hiện nay, nhu cầu thỏa mãn tâm lý - tình cảm đang tăng
lên, do gia đình có xu hướng chuyển đổi từ chủ yếu là đơn vị kinh tế sang chủ yếu là
đơn vị tình cảm. Việc thực hiện chức năng này là một yếu tố rất quan trọng tác động
đến sự tồn tại, bền vững của hôn nhân và hạnh phúc gia đình, đặc biệt là việc bảo vệ
chăm sóc trẻ em và người cao tuổi, nhưng hiện nay, các gia đình đang đối mặt với rất
nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt, trong tương lai gần, khi mà tỷ lệ các gia đình chỉ
có mợt con tăng lên thì đời sớng tâm lý - tình cảm của nhiều trẻ em và kể cả người lớn
cũng sẽ kém phong phú hơn, do thiếu đi tình cảm về anh, chị em trong cuộc sống gia
đình.

9


Tác động của công nghiệp hóa và toàn cầu hóa dẫn tới tình trạng phân hóa giàu
nghèo sâu sắc, làm cho một số hộ gia đình có cơ may mở rộng sản xuất, tích lũy tài
sản, đất đai, tư liệu sản xuất thì trở nên giàu có, trong khi đại bộ phận các gia đình trở
thành lao động làm thuê do không có cơ hội phát triển sản xuất, mất đất đai và các tư
liệu sản xuất khác, không có khả năng tích lũy tài sản, mở rộng sản xuất. Nhà nước
cần có chính sách hỗ trợ các hô nghèo, khắc phục khoảng cách giàu nghèo đang có xu
hướng ngày càng gia tăng.
Cùng với đó, vấn đề đặt ra là cần phải thay đổi tâm lý truyền thống về vai trò của
con trai, tạo dựng quan niệm bình đẳng giữa con trai và con gái trong trách nhiệm nuôi
dưỡng, chăm sóc cha mẹ già và thờ phụng tổ tiên. Nhà nước cần có những giải pháp,
biện pháp nhằm bảo đảm an toàn tình dục, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho
các thành viên sẽ là chủ gia đình tương lai; củng cố chức năng xã hội hóa của gia đình,
xây dựng những chuẩn mực và mô hình mới về giáo dục gia đình, xây dựng nội dung
và phương pháp mới về giáo dục gia đình, giúp cho các bậc cha mẹ có định hướng
trong giáo dục và hình thành nhân cách trẻ em; giải quyết thỏa đáng mâu thuẫn giữa

nhu cầu tự do, tiến bộ của người phụ nữ hiện đại với trách nhiệm làm dâu theo quan
niệm truyền thống, mâu thuẫn về lợi ích giữa các thế hệ, giữa cha mẹ và con cái. Nó
đòi hỏi phải hình thành những chuẩn mực mới, bảo đảm sự hài hòa lợi ích giữa các
thành viên trong gia đình cũng như lợi ích giữa gia đình và xã hội.
Sự biến đổi quan hệ gia đình
-Biến đổi quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng
Trong thực tế, hôn nhân và gia đình Việt Nam đang phải đối mặt với những thách
thức, biến đổi lớn. Dưới tác động của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ hiện đai,
toàn cầu hóa… khiến các gia đình phải gánh chịu nhiều mặt trái như: quan hệ vợ
chồng - gia đình lỏng lẻo; gia tăng tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình, quan hệ tình dục
trước hôn nhân và ngoài hôn nhân, chung sống không kết hôn. Đồng thời, xuất hiện
nhiều bi kịch, thảm án gia đình, người già cô đơn, trẻ em sống ích kỷ, bạo hành trong
gia đình, xâm hại tình dục… Từ đó, dẫn tới hệ lụy là giá trị truyền thống trong gia đình
bị coi nhẹ, kiểu gia đình truyền thống bị phá vỡ, lung lay và hiện tượng gia tăng số hộ
gia đình đơn thân, độc thân, kết hôn đồng tính, sinh con ngoài giá thú… Ngoài ra, sức
10


ép từ cuộc sống hiện đại (công việc căng thẳng, không ổn định, di chuyển nhiều…)
cũng khiến cho hôn nhân trở nên khó khăn với nhiều người trong xã hội.
Trong gia đình truyền thống, người chồng là trụ cột của gia đình, mọi quyền lực
trong gia đình đều thuộc về người đàn ông. Người chồng là người chủ sở hữu tài sản
của gia đình, người quyết định các công việc quan trọng của gia đình, kể cả quyền dạy
vợ, đánh con.
Trong gia đình Việt Nam hiện nay, khơng cịn mợt mô hình duy nhất là đàn ông
làm chủ gia đình. Ngoài mô hình người đàn ông - người chồng làm chủ gia đình ra thì
cịn có ít nhất hai mơ hình khác cùng tồn tại. Đó là mô hình người phụ nữ - người vợ
làm chủ gia đình và mô hình cả hai vợ chồng cùng làm chủ gia đình. Người chủ gia
đình được quan niệm là người có những phẩm chất, năng lực và đóng góp vượt trội,
được các thành viên trong gia đình coi trọng. Ngoài ra, mô hình người chủ gia đình

phải là người kiếm ra nhiều tiền cho thấy mợt địi hỏi mới về phẩm chất của người
lãnh đạo gia đình trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế.
- Biến đổi quan hệ giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, quan hệ giữa các thế hệ cũng như các
giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình cũng không ngừng biến đổi. Trong gia đình
truyền thống, một đứa trẻ sinh ra và lớn lên dưới sự dạy bảo thường xuyên của ông bà,
cha mẹ ngay từ khi còn nhỏ. Trong gia đình hiện đại, việc giáo dục trẻ em gần như phó
mặc cho nhà trường, mà thiếu đi sự dạy bảo thường xuyên của ông bà, cha mẹ. Ngược
lại, người cao tuổi trong gia đình truyền thống thường sống cùng với con cháu, cho
nên nhu cầu về tâm lý, tình cảm được đáp ứng đầy đủ. Cịn khi quy mơ gia đình bị
biến đởi, người cao tuổi phải đối mặt với sự cô đơn thiếu thớn về tình cảm.
Những biến đởi trong quan hệ gia đình cho thấy, thách thức lớn nhất đặt ra cho
gia đình Việt Nam là mâu thuẫn giữa các thế hệ, do sự khác biệt về tuổi tác, khi cùng
chung sống với nhau. Người già thường hướng về các giá trị truyền thống, có xu
hướng bảo thủ, áp đặt nhận thức của mình đối với người trẻ. Ngược lại, tuổi trẻ thường
hướng tới những giá trị hiện đại, có xu hướng phủ nhận yếu tố truyền thống. Gia đình
càng nhiều thế hệ, mâu thuẫn thế hệ càng lớn.

11


Ngày càng xuất hiện nhiều hiện tượng mà trước đây chưa hề hoặc ít có như: bạo
lực gia đình, ly hơn, ly thân, ngoại tình, sớng thử... Chúng đã làm rạn nứt, phá hoại sự
bền vững của gia đình, làm cho gia đình trở nên mong manh, dễ tan vỡ hơn. Ngoài ra,
các tệ nạn như trẻ em lang thang, nghiện hút, buôn bán phụ nữ qua biên giới... cũng
đang đe dọa, gây nhiều nguy cơ làm tan rã gia đình.
Xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam hiện nay vừa phải kế thừa và phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, vừa kết hợp với
những giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại để phù hợp với sự vận động phát triển tất
yếu của xã hội. Tất cả nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu làm cho gia đình thực sự là

tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người.
Thứ ta, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình
văn hóa
Gia đình văn hóa là mợt mơ hình gia đình tiến bộ, một danh hiệu hay chỉ tiêu mà
nhiều gia đình Việt Nam mong muốn hướng đến. Đó là, gia đình ấm no, hịa tḥn,
tiến bợ, khoẻ mạnh và hạnh phúc; Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân; Thực hiện kế
hoạch hóa gia đình; Đoàn kết tương trợ trong cợng đờng dân cư.
Được hình thành từ những năm 60 của thế kỷ XX, tại một địa phương của tỉnh
Hưng Yên, đến nay, xây dựng gia đình văn hóa đã trở thành phong trào thi đua có độ
bao phủ hầu hết các địa phương ở Việt Nam. Phong trào xây dựng gia đình văn hóa đã
thực sự tác động đến nền tảng gia đình với những quy tắc ứng xử tốt đẹp, phát huy giá
trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam. Chất lượng cuộc sống gia đình ngày
càng được nâng cao. Do vậy, để phát triển gia đình Việt Nam hiện nay cần tiếp tục
nghiên cứu, nhân rộng xây dựng các mô hình gia đình văn hóa trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa với những giá trị mới tiên tiến cần tiếp thu và dự báo những
biến đổi về gia đình trong thời kỳ mới, đề xuất hướng giải quyết những thách thức
trong lĩnh vực gia đình.
Ở đây cần tránh xu hướng chạy theo thành tích, phản ánh khơng thực chất phong
trào và chất lượng gia đình văn hóa. Các tiêu chí xây dựng gia đình văn hóa phải phù
hợp và có ý nghĩa thiết thực với đời sớng của nhân dân, cơng tác bình xét danh hiệu
gia đình văn hóa phải được tiến hành theo tiêu chí thớng nhất, trên ngun tắc cơng
12


bằng, dân chủ, đáp ứng được nguyện vọng, tâm tư, tình cảm, tạo được sự đồng tình
hưởng ứng của nhân dân
1.5. Biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình
Xu hướng biến đổi giá trị đạo đức, tâm lý và tình cảm của gia đình Việt Nam
đương đại
Trong những thập niên qua, gia đình Việt Nam đã trải qua những biến chuyển

quan trọng, từ gia đình truyền thống sang gia đình với những đặc điểm mới, hiện đại
và tự do hơn. Quá trình hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập và giao lưu văn hóa làm
xuất hiện những quan điểm cởi mở hơn về hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Gia đình là giá trị quan trọng hàng đầu
Người dân Việt Nam vốn coi gia đình là ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống, sau
đó là sức khỏe, việc làm, thu nhập, bạn bè, học vấn, thời gian giải trí, địa vị, tín
ngưỡng tơn giáo và chính trị (Biểu 1). Khái niệm gia đình ở đây là mơ hình gia đình
truyền thống được xây dựng trên cơ sở hôn nhân.
Có thể thấy, gia đình và hôn nhân là một giá trị quan trọng ở Việt Nam và là thiết
chế xã hội phổ biến. Phần lớn những người được hỏi vẫn khẳng định tầm quan trọng
của hôn nhân, theo đó, thanh niên đến tuổi trưởng thành nhất thiết cần lập gia đình.
Quan điểm của nhóm những người chưa kết hôn cho thấy xu hướng hôn nhân vẫn là
xu hướng chủ đạo trong tương lai (với 80,5% số người chưa kết hơn cho biết sẽ “kết
hơn, có gia đình”, 46,2% cho rằng “thanh niên đến tuổi trưởng thành phải lập gia
đình”; tỷ lệ người đồng ý với việc sống độc thân thấp hơn nhiều so với số người khơng
đồng ý).
Gia đình Việt Nam trong q trình vừa bảo lưu các giá trị truyền thống, vừa tiếp
thu yếu tố hiện đại
Trong số các giá trị đạo đức, tâm lý, tình cảm của gia đình, giá trị chung thủy là
giá trị rất được coi trọng trong quan hệ hôn nhân và gia đình, được người dân đánh giá
cao nhất, sau đó là đến các giá trị tình u thương, bình đẳng, có con, chia sẻ việc nhà,
hịa hợp, có thu nhập. Kết quả khảo sát cho thấy, có tới 41,6% coi chung thủy là “quan
trọng”, và 56,7% coi chung thủy là “rất quan trọng” trong hôn nhân. Đồng thời, nghiên
13


cứu cho thấy hiện tượng bảo lưu những tiêu chuẩn kép khắt khe với phụ nữ và xu
hướng vị tha hơn cho nam giới trong vấn đề chung thủy (giá trị “chung thủy quan
trọng hơn với phụ nữ” có tỷ lệ đồng ý cao là 66,2%). Điều này cho thấy, chung thủy
vẫn là thước đo phẩm giá của người phụ nữ khi họ được kỳ vọng là nhân tố giữ gìn

cho sự êm ấm, tốt đẹp của gia đình và xã hội.
Người dân Việt Nam vốn coi gia đình là ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống_Ảnh
minh họa
Giá trị tình yêu là một giá trị bảo đảm sự bền vững của hôn nhân, nhất là hôn
nhân hiện đại dựa trên tình u để kết hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khơng có sự
khác biệt theo giới tính, tuổi, học vấn trong đánh giá tầm quan trọng của tình yêu với
sự gắn kết hôn nhân (trong số người được khảo sát có 89,7% số người được hỏi cho
rằng tình yêu là quan trọng và rất quan trọng). Thực tế khảo sát cũng cho thấy tỷ lệ
người đánh giá thấp tiêu chí này nhất thuộc về nhóm người trẻ nhất, người dân tộc
Kinh, người đi làm, người sống ở đô thị, ở các khu vực có đời sống kinh tế phát triển
và mức độ hiện đại hóa cao.
Bình đẳng là một giá trị của xã hội hiện đại. Đa số người dân đánh giá khá cao
tầm quan trọng của bình đẳng, cho thấy gia đình Việt Nam đang thích ứng với sự thay
đổi của xã hội hiện đại, ủng hộ bình đẳng giới trong quan hệ vợ chồng. Cùng với đó là
những thay đổi trong quan niệm về việc sống chung hoặc riêng trong gia đình. Sự xuất
hiện các nhân tố mới, như di cư lao động, tôn trọng tự do cá nhân, sự độc lập về kinh
tế giữa bố mẹ và con cái trong đời sống gia đình hiện đại cũng góp phần làm chuyển
dịch từ gia đình lớn nhiều thế hệ (ông bà - cha mẹ - con cháu) sang gia đình nhỏ (1
hoặc 2 thế hệ).
Hiện nay, các gia đình ngày càng nhận thức cao về tầm quan trọng của trách
nhiệm, chia sẻ trong đời sống gia đình. Đó là việc chia sẻ những mối quan tâm, lắng
nghe tâm tư, suy nghĩ của các thành viên trong gia đình. Các gia đình có mức độ hiện
đại hóa càng cao, mang nhiều đặc điểm hiện đại, như sống ở đô thị, có việc làm, có
học vấn cao, mức sống cao, các khu vực kinh tế phát triển hơn thì các giá trị chia sẻ và
trân trọng càng được các cặp vợ chồng thể hiện rõ. Tuy nhiên thực tế cho thấy, người
phụ nữ vẫn chưa bình đẳng thực sự với nam giới, thể hiện trong tỷ lệ được người
14


chồng chia sẻ, lắng nghe tâm tư và chia sẻ suy nghĩ. Các gia đình được khảo sát ở khu

vực Đơng Nam Bộ đạt điểm số trung bình cao nhất trong các hoạt động chia sẻ, lắng
nghe những mối quan tâm, tâm tư của vợ/chồng. Cịn nhóm nữ giới, dân tộc thiểu số,
có mức sống thấp, ở nơng thơn, học vấn thấp thì có tỷ lệ cao trong việc cho rằng bạn
đời coi thường hoặc đánh giá thấp việc ứng xử hằng ngày hoặc đóng góp của họ đối
với gia đình.
Các giá trị truyền thống và xu hướng dịch chuyển sang các giá trị hiện đại trong
tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời
Cùng với việc coi trọng giá trị gia đình, các tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời của
người Việt Nam vẫn nghiêng về các giá trị truyền thống nhưng đang có xu hướng dịch
chuyển sang các giá trị mang tính cá nhân và hiện đại. Có thể thấy, tiêu chuẩn lựa chọn
bạn đời của người dân được khảo sát ưu tiên các phẩm chất về tư cách, đạo đức hơn là
các tiêu chuẩn về ngoại hình hay tiêu chuẩn về kinh tế. Tiêu chuẩn đầu tiên của lựa
chọn bạn đời là người đó “có tư cách đạo đức tốt” (chiếm 66,7%), tiếp theo là tiêu
chuẩn “biết cách ứng xử” (chiếm 45%), tiêu chuẩn “khỏe mạnh” đứng thứ 3 trong các
tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời (chiếm 36,1%). Các tiêu chuẩn liên quan đến điều kiện
kinh tế, vật chất được lựa chọn nhưng với tỷ lệ thấp, như biết cách làm ăn (chiếm
28,6%), có nghề nghiệp ổn định (chiếm 12,9%). Trong các nhóm tiêu chí lựa chọn bạn
đời hiện nay, tiêu chí tình yêu được người trả lời đề cập đến cao nhất. Điều này nói lên
rằng những giá trị về tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời đã có sự chuyển đổi rõ nét từ giá trị
truyền thống sang các giá trị hiện đại. Khi cá nhân được giải phóng thì yếu tố tình cảm
và sự tự do lựa chọn hơn nhân được đề cao. Vì thế, hơn nhân đã chuyển dần từ thể chế
kinh tế là chính sang thể chế tâm lý là chính. Tiêu chuẩn lựa chọn gia đình tương đồng
về điều kiện kinh tế, địa vị xã hội “gia đình mơn đăng hộ đối” hầu như khơng cịn là
giá trị cần chú ý trong thang tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời. Nghiên cứu cũng cho thấy,
tiêu chuẩn nội hôn, hôn nhân cùng nhóm xã hội/tộc người/tơn giáo trong xã hội truyền
thống khơng cịn là tiêu chí hàng đầu. Có đến 69% số người được hỏi cho rằng tiêu
chuẩn người “cùng làng, cùng địa phương” không quan trọng; 64,1% cho rằng “cùng
dân tộc, cùng tơn giáo” khơng phải là những tiêu chí quan trọng trong lựa chọn người
yêu. Quá trình này tạo nên sự di động xã hội nhanh và đa dạng. Bên cạnh đó, nhiều
loại hình nghề nghiệp xuất hiện và sự phát triển của công nghệ thông tin là những yếu

15


tố thúc đẩy việc hình thành hơn nhân giữa các tiểu văn hóa (dân tộc, vùng, miền) và
giữa các nền văn hóa (hơn nhân có yếu tố nước ngồi).
Như vậy, có thể thấy, nếu chia tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời theo nhóm giá trị cá
nhân (tình u, hình thức, thu nhập, công việc, học vấn) và giá trị tập thể (gia đình
tương đồng, sự chấp thuận của bố mẹ, cùng địa phương, cùng dân tộc) thì các giá trị cá
nhân trong chọn lựa bạn đời là xu hướng nổi bật hiện nay, nhất là với nhóm có đặc
điểm hiện đại, như học vấn cao, sống ở thành thị.
Gia đình truyền thống và mức độ chấp nhận cởi mở dần với một số hiện tượng
hơn nhân gia đình mới
Các kiểu loại gia đình mới như hơn nhân đồng giới, chung sống không kết hôn,
làm mẹ đơn thân, tùy từng giai đoạn, thường rất hiếm hoặc khơng có trong truyền
thống nhưng lại có xu hướng gia tăng trong các xã hội đang chuyển đổi từ xã hội nông
nghiệp sang xã hội công nghiệp, hiện đại. Ở Việt Nam hiện nay, một bộ phận người
dân, chủ yếu là người dân tộc Kinh, trẻ tuổi, học vấn cao, ở thành thị có tỷ lệ chấp
nhận những kiểu loại gia đình mới cao hơn, tuy rằng có thể chưa thực sự hiểu rõ
những hệ quả tiêu cực của nó.
Với những thay đổi lớn trong kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, những hình
thức hơn nhân gia đình mới ủng hộ tính cá nhân có xu hướng tăng. Nghiên cứu cho
thấy 38,5% người trả lời chấp nhận sống độc thân - mức độ này được chấp nhận cao
hơn ở nữ giới và nhóm xã hội mang nhiều đặc điểm hiện đại; 28,4% có nhu cầu, mong
muốn sống thử trước khi kết hôn; 58,3% khơng ủng hộ sống thử. Tỷ lệ này cho thấy
nhóm người vẫn theo khuôn mẫu truyền thống trong kết hôn tuy vẫn chiếm tỷ lệ cao
nhưng khơng mang tính gần như tuyệt đối như trong xã hội truyền thống trước đây.
Gần đây, hôn nhân đồng giới là vấn đề gây ra tranh cãi gay gắt giữa những người
ủng hộ và khơng ủng hộ. Hơn nhân đồng tính mới được chấp nhận dè dặt, chỉ có
27,7% người đồng ý, phần lớn ở nhóm mang nhiều đặc điểm hiện đại.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, người phụ nữ không lấy chồng nhưng có

con thường phải chịu sự lên án gay gắt của xã hội, cộng đồng và gia đình. Hiện nay,
hơn nhân vẫn là quyết định hệ trọng trong cuộc đời của người phụ nữ. Tuy vậy, cùng

16


với sự tiếp nhận văn hóa phương Tây cộng với quyền cá nhân ngày càng được pháp
luật bảo vệ, người phụ nữ ngày càng có quyền quyết định việc kết hơn và có con.
Quyền làm mẹ khơng chỉ thể hiện sự biến đổi trong nhận thức mà còn là biểu hiện của
sự nhân văn trong bảo vệ quyền của phụ nữ. 
Gia đình hiện đại và xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng đồng
Quan hệ của gia đình với dòng họ trong xã hội Việt Nam hiện nay còn khá chặt
chẽ, gắn kết, mức độ gắn kết mạnh mẽ hơn ở nhóm mang những đặc điểm truyền
thống (như cao tuổi, học vấn thấp, nghèo, cư trú ở nông thôn); thể hiện ở số gia đình
đồng ý cao với nhận định mỗi gia đình, thành viên cần ln gắn kết với dịng họ để
giúp đỡ lẫn nhau, đạt điểm trung bình 4,04 theo thang đo 5 điểm, coi trọng việc giữ gìn
nền nếp gia phong cho con cháu, đạt điểm trung bình 4,17 theo thang đo 5 điểm.
Thực tế cho thấy có xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng đồng theo mức độ
hiện đại hóa. Ở một chừng mực nhất định, những giá trị truyền thống về tình làng
nghĩa xóm vẫn được duy trì. Điều này cho thấy tính liên tục của các giá trị văn hóa
nhưng cũng đã có những biểu hiện mới ở thế hệ trẻ về thái độ đối với quan hệ tình cảm
và quan hệ vật chất giữa các thành viên trong gia đình và cộng đồng. Trong khi người
cao tuổi đề cao việc ứng xử có lễ nghĩa, có trước có sau trong mọi hồn cảnh thì nhiều
thanh niên lại gắn khía cạnh kinh tế với khía cạnh tình cảm, hạnh phúc gia đình. Họ
cho rằng khơng thể có hạnh phúc nếu khó khăn về kinh tế.
So với điểm trung bình về mức độ gắn kết với dịng họ, mức độ gắn kết giữa gia
đình với cộng đồng thấp hơn. Chẳng hạn, điểm trung bình về nhận định “bạn bè xóm
giềng giúp đỡ bất cứ khi nào tôi cần” là 3,52/5 điểm, khá thấp so với nhiều giá trị về
quan hệ gắn kết với cha mẹ, anh chị em và dòng họ. Một chiều quan hệ khác của gia
đình với cộng đồng là mức độ tham gia các hoạt động cộng đồng của gia đình và thành

viên gia đình. Kết quả cho thấy, điểm trung bình tham gia các hoạt động cộng đồng là
3,54, trên ngưỡng trung bình một chút, cho thấy, tính cộng đồng của người dân Việt
Nam đang trên đà suy giảm.
Tình làng nghĩa xóm theo nghĩa được giúp đỡ, hỗ trợ thể hiện nhiều hơn ở nhóm
các gia đình mang đặc điểm hiện đại thấp hơn. Điểm trung bình về mức độ sẵn sàng hy
sinh lợi ích vì cộng đồng của gia đình Việt Nam trong diện được khảo sát là 3,60,
17


không quá cao, nhưng cũng không quá thấp. Điều đáng chú ý là, mức độ sẵn sàng vì
tập thể, vì cái chung cao hơn ở khu vực có mức độ hiện đại thấp hơn, tức là khu vực
cịn duy trì tính cộng đồng cao hơn. Mức độ sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì cái
chung giảm dần theo đồn hệ tuổi, cho thấy càng nhóm trẻ, mức độ chấp nhận tính
cộng đồng, tính tập thể càng thấp, tính cá nhân càng cao. Chiều hướng này cũng tương
tự nếu nhìn theo mức độ chấp nhận hy sinh lợi ích cá nhân vì cái chung theo trình độ
học vấn của người trả lời và mức sống. Sự chấp nhận giá trị cộng đồng, giá trị tập thể
cao hơn ở những nhóm có đặc điểm truyền thống hoặc yếu thế hơn.
Như vậy, các kết quả nghiên cứu về giá trị gia đình Việt Nam hiện nay cho thấy
có sự dịch chuyển từ các giá trị gia đình truyền thống sang giá trị gia đình hiện đại,
đồng thời có sự bền vững tương đối của văn hóa trong q trình hiện đại hóa.
1.6. Phương thức cơ bản xây dựng & phát triển gia đình trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam hiện nay
 Gia đình là tế bào của xã hội, nơi lưu giữ, giáo dục, trao truyền các giá trị văn
hóa dân tộc cho các thành viên trong gia đình. Cơng tác xây dựng gia đình vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước. Việt Nam đã ban hành nhiều
cơ chế, chính sách về gia đình và xây dựng gia đình phát triển bền vững. Thực hiện
chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước, hiện nay chúng ta vẫn tiếp tục
nhiệm vụ xây dựng và củng cố gia đình bằng nhiều giải pháp, trong đó có thực hiện
phong trào xây dựng Gia đình văn hóa ngày càng phát triển và có hiệu quả, góp phần
tích cực để củng cố, hồn thiện gia đình hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều
gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia
đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy, muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội là phải chú ý hạt nhân cho tốt”1.
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và
củng cố trên cơ sở hơn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Quan hệ thuyết thống và tình
cảm (giữa vợ với chồng, cha mẹ với con, anh chị em với nhau...) là nét bản chất nhất
của gia đình.

18


Trong thời đại hiện nay, cùng với sự phát triển nhanh và mạnh mẽ của xã hội đã
có nhiều vấn đề mới nảy sinh, trong đó vấn đề gia đình cũng xuất hiện những biến đổi
rất phong phú. Năm 1993, Liên hợp Quốc đã lấy ngày 15/5 hàng năm là ngày Quốc tế
Gia đình”, nhằm nâng cao nhận thức về những vấn đề gia đình trên tồn thế giới. Mỗi
năm, Tổng thư ký Liên hợp quốc đều gửi thông điệp về một chủ đề riêng của ngày
Quốc tế Gia đình, ví dụ: năm 2017, chủ đề là: “Gia đình, giáo dục và hạnh phúc”, năm
2021, chủ đề là: “Gia đình và các cơng nghệ mới”... đó là những ý tưởng tốt đẹp của
cộng đồng quốc tế nhằm động viên các quốc gia cần chú ý hơn đến việc xây dựng và
củng cố gia đình. Qua đó, một lần nữa cho thấy, gia đình đã trở thành một vấn đề thời
sự được nhân loại quan tâm.
Nhận thức đúng vị trí, vai trị và chức năng của gia đình trong q trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, năm 1981, Đảng và Nhà nước ta đã chính thức lấy ngày 28/6 hàng
năm là ngày Gia đình Việt Nam và với phương châm: xây dựng gia đình Việt Nam no
ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Từ đó yêu cầu các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ
quốc các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội quán triệt thực hiện, thường xuyên quan
tâm tuyên truyền, giáo dục cho mọi công dân nâng cao trách nhiệm trong xây dựng gia
đình có đời sống mới là một trong những vấn đề quan trọng, thiết yếu ở nước ta.
Việt Nam đã và đang thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, với mục

tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có cơng nghiệp hiện đại, thu
nhập trung bình cao...; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo,
ý chí và sức mạnh tồn dân tộc, xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn
minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của Nhân
dân...”
2. Trong sự nghiệp chung ấy, có sự đóng góp khơng nhỏ của từng gia đình. Vì
vậy, quan điểm Đại hội lần thứ XIII của Đảng ta tiếp tục xác định: “... thực hiện các
chuẩn mực văn hóa gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ và văn minh. Đề cao
vai trò của gia đình trong ni dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ”
3. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của
xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách
của mỗi cá nhân, nhất là thanh thiếu niên. Đây là một nhận thức, một phương hướng
19


lớn quan trọng và chính xác trong xây dựng gia đình mới, góp phần quan trọng ổn định
an ninh chính trị xã hội và phát triển đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”
4.Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trong điều kiện tình hình thế
giới, khu vực và trong nước có cả thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, nhất là
đại dịch Covid-19 đã và đang tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết
là từng gia đình ở cả trong cơng việc làm, học tập, sinh hoạt... không thể không tác
động sâu sắc đến gia đình ở nước ta hiện nay. Để mỗi gia đình ở nước ta bền vững, là
tế bào lành mạnh của xã hội và “... con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh
nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo bệ Tổ quốc”
5. con người phát triển tồn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý
thức công dân, tuân thủ pháp luật, cần có sự kết hợp giữa những giá trị của gia đình
truyền thống và gia đình hiện đại. Nếp sống của gia đình truyền thống địi hỏi mỗi
người phải đặt tình cảm lên trên hết, con cháu có hiếu với cha mẹ, ơng bà, kính trên
nhường dưới; bên trong ln đồn tụ, thuỷ chung; bên ngồi ln nhân hậu với người

xung quanh, hàng xóm láng giềng… Với gia đình hiện đại, mọi người sống hồ thuận,
bình đẳng dân chủ: vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em cùng bàn bạc và quyết định
những vấn đề quan trọng, đồng thời tơn trọng những sở thích riêng chính đáng của
nhau. Mỗi người cần biết giữ gìn, phát huy và chọn lọc những giá trị của gia đình
truyền thống trong xây dựng gia đình của mình phù hợp với xã hội hiện nay. Đây là
trách nhiệm tuyên truyền, vận động của tồn xã hội, nhưng trước hết là cơng việc giáo
dục và thực hiện của từng gia đình, của mỗi người trực tiếp vun đắp cho tổ ấm của
mình để hình thành nhân cách cho các công dân của xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, một trong những chức năng quan trọng hàng đầu của
gia đình Việt Nam là chức năng giáo dục. Cha mẹ có nghĩa vụ thương u, ni
dưỡng, giáo dục con cái, chăm lo việc học tập và sự trưởng thành lành mạnh của con
cả về thể chất và tinh thần. Nội dung giáo dục gia đình chính là những yếu tố của vấn
đề văn hố gia đình và văn hoá cộng đồng nhằm tạo lập và phát triển nhân cách của
con người, như: đạo đức, lối sống, ứng xử, tri thức khoa học, lao động, học tập, dám
dấn thân vì sự nghiệp chung của đất nước…

20


Giáo dục gia đình là một bộ phận của giáo dục xã hội; với chức năng giáo dục,
gia đình thực sự góp phần lớn lao vào việc đào tạo thế hệ trẻ và xây dựng con người
mới nói chung, vào việc duy trì, phát triển đạo đức, văn hố dân tộc nhằm “xây dựng
con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và
giá trị hiện đại”6. Với ý nghĩa đó, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục xây dựng
gia đình kiểu mẫu ơng bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền, vợ chồng hịa thuận,
anh chị em đồn kết, thương yêu nhau”7. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội
phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ. Đây là việc kết hợp chặt
chẽ giữa các mơi trường giáo dục (gia đình - nhà trường - xã hội) để tiến tới mục tiêu
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, xây dựng và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa.
Để xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay, phải ngăn chặn những hiện tượng
tiêu cực, mạnh dạn lựa chọn và xử lý đúng đắn những yếu tố mới nảy sinh, trong đó
quan trọng là tiếp thu có chọn lọc những nội dung tiến bộ của thời đại phù hợp với
truyền thống, văn hoá dân tộc và sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, Đảng ta xác
định: “Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn
và phát triển những giá trị truyền thống của văn hố, con người Việt Nam, ni dưỡng,
giáo dục thể hệ trẻ”8. Trong chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, cần
tiếp tục đưa phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hố” đi vào chiều
sâu, thiết thực và hiệu quả; thực hiện nghiêm chính sách và pháp luật về dân số, duy trì
mức sinh hợp lý, quy mơ gia đình ít con. Làm tốt cơng tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản,
sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, giảm mạnh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, góp phần nâng cao
chất lượng dân số phấn đấu đạt mục tiêu “Chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì
trên 0,7”9. Bảo đảm các quyền cơ bản của trẻ em, tạo môi trường lành mạnh đẻ trẻ em
được phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ. Xây dựng và triển khai chiến lược quốc
gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng bn bán
phụ nữ và bạo lực gia đình. Đẩy mạnh việc tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập,
bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng u cầu cơng việc, nhiệm vụ, chức năng trong
gia đình và xã hội.

21


Xây dựng gia đình Việt Nam là tế bào lành mạnh của xã hội là chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta, là nguyện vọng của tất cả mọi người. Một trong những
biện pháp lớn để thực hiện chủ trương đó là “nâng cao nhận thức và thực hiện nghĩa vụ
gia đình đối với mọi cơng dân”, xã hội hố việc xây dựng gia đình dưới chủ nghĩa xã
hội, thực hiện Nhà nước và Nhân dân cùng làm. Chủ nghĩa xã hội phải thực hiện xây
dựng gia đình mới khác về nhiều mặt so với gia đình truyền thống. Gia đình mới, hình
thành phát triển gắn liền với sự phát triển toàn diện của chủ nghĩa xã hội; đây là sự cố

gắng chung của từng thành viên, từng gia đình, của Nhà nước, địa phương và các tổ
chức xã hội thì mới có thể có gia đình “no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh”.
Lịch sử xã hội lồi người đã chứng minh gia đình ln là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng to lớn đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia - dân tộc. Bởi chúng ta biết
rằng gia đình là “hạt nhân” của xã hội. Tuy nhiên, trên thế giới không phải quốc gia
nào, giai cấp cầm quyền nào cũng nhận thức đúng như vậy. Nhìn lại 35 năm thực hiện
cơng cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, với bối cảnh “Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục
mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối
tác”10 và tồn cầu hóa hiện nay, Đảng ta càng nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trị của
gia đình với tư cách là “tế bào” vững chắc của xã hội, là môi trường lành mạnh để xây
dựng nguồn lực con người; coi xây dựng gia đình mới xã hội chủ nghĩa là một trong
những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm 2021 - 2030. Với tinh thần đó, mỗi chúng ta ln tin tưởng rằng vị trí, vai trị của
gia đình ở nước ta ngày càng được khẳng định và các gia đình Việt Nam ngày càng
“ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh” hơn để giữ vững là hạt nhân xã hội, nâng cao
chất lượng và cung cấp nguồn nhân lực, góp phần “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI,
nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”11.

22


Chương 2: VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH VÀ VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HỐ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Giá trị văn hóa gia đình và xây dựng giá trị văn hóa gia đình trong thời kỳ mới
Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 21-2-2005, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Trong thời gian tới, nếu chúng ta không quan tâm
củng cố, ổn định và xây dựng gia đình, những khó khăn và thách thức sẽ tiếp tục làm
suy yếu gia đình, suy yếu động lực của sự nghiệp cơng nhiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. Đề cao giá trị văn hóa gia đình và xây dựng gia đình văn hóa là mục tiêu vừa

có tính chiến lược, vừa có tính cấp bách trong sự nghiệp xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phù hợp với truyền thống đạo lý của dân tộc và phù hợp với
quy luật phát triển tất yếu của xã hội. Do đó, cơng tác xây dựng văn hóa gia đình và
phong trào xây dựng gia đình văn hóa trong giai đoạn mới cần tập trung vào một số
nội dung sau:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào xây dựng gia đình
văn hóa, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền để các cấp ủy, chính quyền, các tổ
chức đồn thể từ trung ương đến cơ sở nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trị và tầm quan
trọng của văn hóa gia đình và cơng tác xây dựng gia đình văn hóa; coi đây là một trong
những động lực quan trọng quyết định thành công sự phát triển bền vững kinh tế – xã
hội trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cấp ủy và chính quyền các cấp phải đưa nội dung cơng tác
xây dựng văn hóa gia đình và gia đình văn hóa vào chiến lược phát triển kinh tế – xã
hội và chương trình kế hoạch công tác hằng năm của các bộ, ngành, địa phương.
Thứ hai, tiếp tục giáo dục, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn với xây dựng những giá trị tiên tiến của gia
đình trong xã hội phát triển, từ đó đề cao trách nhiệm của mỗi gia đình trong việc xây
dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành viên trong gia đình. Giáo dục văn hóa gia
đình là xây dựng con người Việt Nam với những phẩm chất cao quý theo nội dung
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc”, có tinh thần yêu nước, tự cường dân
tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước
23


×