113
Chương 7
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
Đại đoàn kết dân tộc là một nội dung xuyên suốt trong tư tưởng và hoạt
động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân
tộc là một trong những cống hiến to lớn, đặc sắc của Người đối với cách mạng
Việt Nam. Hiện nay, việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đồn kết dân tộc là một trong những vấn đề lý luận, thực tiễn cấp thiết, có
ý nghĩa chiến lược bảo đảm cho sự thành công của cách mạng nước ta trong
thời kỳ mới.
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1.1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề đoàn kết,
tập hợp các lực lượng cách mạng
Đây là cơ sở lý luận chủ yếu quyết định hình thành tư tưởng khoa học và
cách mạng của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
Khái quát lịch sử nhân loại, C.Mác - Ph.Ăngghen đã chỉ rõ quan niệm duy
vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa quần chúng nhân dân và cá nhân
lãnh tụ, trong đó khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân
chính ra lịch sử và nhiệm vụ cách mạng càng phát triển thì vai trị đó ngày
càng tăng lên. Phát triển quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã chỉ
rõ cách mạng là ngày hội của quần chúng bị áp bức bóc lột và khẳng định vai
trị của quần chúng nhân dân trong cách mạng vô sản. Song, vai trò sức mạnh
của quần chúng nhân dân chỉ được phát huy khi họ được tổ chức, tập hợp lại
thành một khối thống nhất mà nền tảng là liên minh cơng - nơng - trí thức,
dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân. V.I.Lênin đã bổ sung vào
khẩu hiệu của C.Mác “Vô sản thế giới liên hợp lại” thành khẩu hiệu “Vô sản
tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đồn kết lại”.
Hồ Chí Minh đã thấm nhuần sâu sắc những quan điểm trên của các nhà
kinh điển Mác - Lênin lấy đó làm cơ sở lý luận để đánh giá đúng những yếu tố
114
tích cực và hạn chế trong tư tưởng đồn kết, tập hợp lực lượng ở trong nước
và thế giới, qua đó, hình thành tư tưởng về đại đồn kết dân tộc.
1.2. Truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc Việt Nam
Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng được hình
thành và phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm
lịch sử của dân tộc Việt Nam là cơ sở quan trọng để hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đồn kết dân tộc. Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ được truyền
thống đó qua nghiên cứu kho tàng văn hóa dân gian, qua tìm hiểu tư tưởng
đồn kết tập hợp lực lượng của các vị anh hùng dân tộc, của các nhà cách
mạng yêu nước đầu thế kỷ XX, tiêu biểu là của Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh. Người khẳng định truyền thống yêu nước, đoàn kết là “thuần phong mỹ
tục” của dân tộc, cần phải kế thừa và phát huy mãi mãi.
1.3. Tư tưởng về đoàn kết trong nền văn hóa của các dân tộc phương
Đơng, phương Tây
Khơng chỉ tiếp thu, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
vấn đề đoàn kết và truyền thống yêu nước, đồn kết của dân tộc Việt Nam, Hồ
Chí Minh cịn tiếp thu tư tưởng về đồn kết trong nền văn hóa của các dân tộc
phương Đơng, phương Tây, nhất là những hạt nhân hợp lý trong tư tưởng Phật
giáo, tư tưởng về đồn kết mọi dịng họ trong cả nước và đoàn kết quốc tế
“liên Nga, hiệp Cộng, ủng hộ công nông” của Tôn Dật Tiên đã được Hồ Chí
Minh vận dụng một cách phù hợp với điều kiện thực tế ở nước ta. Tư tưởng về
vai trò sức mạnh của nhân dân và của đoàn kết nhân dân trong nền văn hoá
Pháp, Anh, đặc biệt là tư tưởng của Mơngteckiơ, Vơnte đã được Hồ Chí Minh
tiếp thu và phát triển rất sâu sắc.
1.4. Kinh nghiệm thực tiễn các phong trào yêu nước, phong trào cách
mạng Việt Nam và thế giới
Kinh nghiệm về đoàn kết lực lượng cách mạng được rút ra từ các phong
trào yêu nước, phong trào cách mạng ở Việt Nam và trên thế giới, nhất là
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa đã được Hồ Chí Minh
tổng kết, trở thành cơ sở quan trọng, cần thiết cho việc hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.
115
Nghiên cứu thực tế phong trào cách mạng ở Trung Quốc, Ấn Độ và ở
Pháp, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp lực
lượng tiến bộ để tiến hành cách mạng. Đến với Cách mạng Tháng Mười Nga,
Hồ Chí Minh đã nhận thấy bài học thành công của cuộc cách mạng này từ việc
huy động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản để giành, giữ chính quyền và xây dựng chế độ xã hội mới.
Nghiên cứu thực tiễn Việt Nam, Người rút ra bài học lịch sử sâu sắc là:
“Lúc nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái
lại, lúc nào nước ta không đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn” 1. Từ thực tiễn
này, Người đã đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng, củng cố, phát triển khối
đại đoàn kết dân tộc và chính Người đã trở thành linh hồn của khối đại đoàn
kết dân tộc.
2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết
dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc có nội dung vơ cùng
phong phú, đề cập đến nhiều lĩnh vực, bao gồm những nội dung cơ bản sau:
2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của
cách mạng Việt Nam
Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc là vấn đề chiến lược
lâu dài, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại đoàn kết dân tộc khơng phải là
nhiệm vụ mang tính nhất thời hay là một giải pháp tình thế. Trong “bài nói
chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc”, ngày 10.1.1955,
Hồ Chí Minh đã khẳng định “Đồn kết là một chính sách dân tộc, khơng phải
là một thủ đoạn chính trị”2.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải
điều chỉnh chính sách, hình thức, phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp
với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc ln ln được
Hồ Chí Minh nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Người sớm nhận
thấy là “Qn thù khơng sợ cái gì, chỉ sợ nhân dân Việt Nam đồn kết” 3. Đối
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.217.
Hồ Chí Minh,Tồn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.438.
3
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.462.
1
2
116
với Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc khơng chỉ là sức mạnh chiến thắng kẻ
thù xâm lược giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc mà còn là sức mạnh
trong xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh đã nêu ra luận điểm khái qt có tính
chân lý thể hiện mối quan hệ nhân quả giữa đoàn kết với sự thành cơng của
cách mạng:
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”1.
2.2. Đại đồn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh khơng chỉ xác định đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến
lược, có ý nghĩa quyết định thành cơng của cách mạng mà cịn coi đại đồn kết
dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Theo đó, tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam
ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước tồn thể dân
tộc: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là: “Đồn kết
toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả
dân tộc. Bởi lẽ, đại đoàn kết dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do
quần chúng và vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đồn kết
quần chúng tạo thành sức mạnh vơ địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho
dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết toàn dân Việt Nam
Đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ được hiểu
theo nghĩa hẹp là đoàn kết các tộc người trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam
mà được hiểu theo nghĩa rộng, ở cấp độ phổ quát là đoàn kết toàn dân.
Dân, nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là một tập hợp đơng đảo
quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể và cả hai đều là
chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Người dùng khái niệm Dân để chỉ “mọi con
dân nước Việt”, “Con Rồng, cháu Tiên”, “con cháu Hồng Bàng”, khơng phân
biệt dân tộc, tơn giáo, tín ngưỡng, già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện. Hồ
1
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.438.
117
Chí Minh đã mở rộng “biên độ” khái niệm tồn dân đến tất cả những ai vẫn
còn “tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó
trước đây chống lại chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”1.
Ngay từ tháng 3-1944, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Hiện nay ở trong nước khơng
cần nêu khẩu hiệu “Đồn kết các đảng phái” vì điều này đã trở thành hiện
thực, mà cần phải mở rộng khối đoàn kết đến toàn dân...để đạt tới mục đích...
đặng hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc”2.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ để đồn kết tồn dân thì phải kế thừa truyền thống
đồn kết của dân tộc, phát triển “thuần phong mỹ tục” đó; phải có lòng khoan
dung độ lượng và niềm tin vào con người. Năm 1946, trong thư gửi đồng bào
Nam Bộ, Người viết: “Tơi khun đồng bào đồn kết chặt chẽ và rộng rãi.
Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều hợp lại nơi bàn
tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác nhưng thế này hay
thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta
phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lịng ái
quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường ta phải lấy tình thân ái mà
cảm hóa họ có như thế mới thành đại đồn kết, có đại đồn kết thì tương lai
chắc chắn sẽ vẻ vang”3.
Để thực hiện đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh u cầu phải xóa bỏ mọi
thành kiến, phải thật thà đoàn kết, đoàn kết thực sự, giúp nhau cùng tiến bộ để
thực hiện mục đích chung là “cứu nước, cứu dân tộc”, xây dựng nền độc lập
và thống nhất của Tổ quốc, cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân. Như
thế, Hồ Chí Minh đã tìm thấy “mẫu số chung” của tồn dân tộc, thay vì khoét
sâu cách biệt, đặt tiến trình đi lên của lịch sử trên sự quy tụ lợi ích chung thay
vì loại trừ những lợi ích khác nhau.
Điều mà Hồ Chí Minh rất quan tâm nhắc nhở là để đoàn kết toàn dân, địi
hỏi phải làm tốt cơng tác dân vận. Có như vậy mới vận động tất cả lực lượng
của mỗi người dân, khơng để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn
dân. Đồng thời, Người chỉ rõ trong đoàn kết toàn dân phải thể hiện đúng lập
trường giai cấp công nhân, lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng
1
2
3
Sđd, tập 7, tr.438.
Sđd, tập 3, tr.465.
Sđd, tập 4, tr.246, 247.
118
do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chỉ có như vậy mới củng cố, mở rộng khối đoàn
kết toàn dân bền vững mà khơng có thế lực nào có thể làm suy yếu được.
2.4. Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức thể hiện và phát huy sức
mạnh của khối đại đồn kết dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, để đạt được mục đích của đại đồn kết dân tộc khơng
thể chỉ dừng lại ở quan niệm, tư tưởng, ở những lời kêu gọi mà phải trở thành
một chiến lược cách mạng, thành hành động thực tế của toàn Đảng, toàn dân.
Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức và tổ chức
đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Về bản chất, Mặt trận dân tộc thống
nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, là nơi quy tụ mọi tổ chức, mọi cá
nhân yêu nước không chỉ ở trong nước mà cả những người Việt Nam định cư
ở nước ngoài, phấn đấu góp sức vì mục tiêu chung là độc lập thống nhất của
Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất được thể
hiện rõ ở việc Người đề nghị thành lập “Việt Nam độc lập đồng minh”, gọi tắt
là Việt Minh, vào tháng 5-1941 tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám
và đã được Hội nghị thông qua. Sau Mặt trận Việt Minh, sự ra đời của các Mặt
trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, Liên
minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hịa bình Việt Nam và Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam hiện nay chính là sự tiếp tục thể hiện tư tưởng của Hồ Chí
Minh về đồn kết, đại đồn kết trong vấn đề tổ chức.
Hồ Chí Minh khơng những chỉ rõ việc xây dựng và phát triển Mặt trận
dân tộc thống nhất là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt
Nam, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa, mà còn đưa ra những nguyên tắc cơ bản để xây dựng mở
rộng Mặt trận, đó là:
+ Mặt trận phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công - nông - lao
động trí óc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, lực lượng, thành phần tham gia Mặt trận rất phong
phú, đa dạng, rộng rãi nhưng phải xác định rõ lực lượng nòng cốt, nền tảng.
Lực lượng đó là liên minh cơng - nơng - lao động trí óc, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản. Trên cơ sở khối liên minh này mà mở rộng Mặt trận, làm cho
119
Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân, kết thành một
khối vững chắc.
Trong Mặt trận, Đảng Cộng sản là một thành viên và là lực lượng lãnh
đạo Mặt trận. Hồ Chí Minh cho rằng, quyền lãnh đạo Mặt trận không phải do
Đảng tự phong cho mình mà phải được nhân dân thừa nhận qua năng lực thực
tế và uy tín của Đảng. Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng việc xác định chính sách
Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Đảng phải
dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, tránh gò ép,
quan liêu mệnh lệnh trong lãnh đạo Mặt trận. Đặc biệt, Đảng phải thật sự tiêu
biểu, mẫu mực cho sự đoàn kết, làm cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết
trong Mặt trận.
+ Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống
nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở
để củng cố và không ngừng mở rộng.
Theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, mọi việc của Mặt trận đều do bàn
bạc thống nhất quyết định một cách thật sự dân chủ. Khi có những lợi ích
riêng không phù hợp, Mặt trận theo phương châm “cầu đồng tồn dị” lấy cái
chung là đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết và lấy lợi ích căn bản của
các tầng lớp nhân dân để hạn chế cái khác biệt thông qua bàn bạc để đi đến
nhất trí.
+ Khối đồn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân
thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Đoàn kết trong Mặt trận không phải chỉ trong thời gian nhất định mà phải
lâu dài và chặt chẽ. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở mặt trận phải đoàn kết
chặt chẽ thành một khối vững chắc, thống nhất trong sự đa dạng, phong phú
rộng rãi của các lực lượng, thành phần.
Hồ Chí Minh địi hỏi một sự đồn kết thực sự, có hiệu quả, khơng phải
đồn kết ngồi miệng, mà đồn kết bằng việc làm, đồn kết bằng tinh thần.
Người giải thích: đồn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập
trường cũng phải nhất trí, vừa đồn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của
nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì
nước, vì dân. Người thường xuyên căn dặn phải khắc phục tình trạng đồn kết
xi chiều, khơng có đấu tranh trong nội bộ Mặt trận.
120
2.5. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đồn kết quốc tế
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam
chỉ có thể thắng lợi khi đồn kết chặt chẽ với các lực lượng trong phong trào
cách mạng thế giới. Theo Người “Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng
chí của nhân dân An Nam cả”1. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ
Chí Minh đã đấu tranh không mệt mỏi để củng cố, tăng cường đoàn kết quốc
tế, kiên quyết chống chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Đối với
Hồ Chí Minh, các dân tộc trên thế giới có màu da vàng đen trắng đỏ đều là
anh em. Trong diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh rất phấn khởi đọc câu thơ: “Quan san
muôn dặm một nhà, Bốn phương vô sản đều là anh em” 2. Hơn nữa, Hồ Chí
Minh cịn chỉ rõ những ngun tắc trong quan hệ quốc tế.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ dừng lại ở đồn kết trong nội
bộ dân tộc Việt Nam mà phải đi đến đoàn kết quốc tế, coi đại đoàn kết dân tộc
là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế, đoàn kết quốc tế làm tăng thêm
sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc. Nếu như đại đoàn kết dân tộc là một trong
những nhân tố quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam thì đồn
kết quốc tế là một nhân tố hết sức quan trọng.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc vào xây
dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân hiện nay
3.1. Giáo dục nâng cao nhận thức về tính cấp thiết xây dựng và củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, từ khi ra
đời đến nay, Đảng ta ln coi trọng việc xây dựng khối đại đồn kết toàn dân
tộc. Điều này đã trở thành truyền thống quý báu của Đảng và nhân dân ta, tạo
thành sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Tuy nhiên, hiện nay, “khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan
hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước
những thách thức mới”3. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ
Sđd, tập 2, tr.301.
Sđd, tập 10, tr.195.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy BCHTW, khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2003, tr.10.
1
2
121
phận dân chưa vững chắc, việc tập hợp nhân dân vào mặt trận và các đoàn thể,
các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế. Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách
mạng hiện nay là phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
cơng bằng, dân chủ văn minh.
Trong khi đó, những tác động tiêu cực từ mặt trái của phát triển kinh tế xã hội và sự chống phá của kẻ thù đang có ảnh hưởng không nhỏ tới xây dựng
và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc. Vấn đề đặt ra là cần phải kiên quyết
đấu tranh chống lại những quan niệm: Muốn thu hẹp hoạt động của Mặt trận,
bài bác, chê bai một số việc làm của Mặt trận, thực chất là muốn hạ thấp vai
trò của Mặt trận, xem nhẹ tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Hồ Chí
Minh. Đồng thời chủ động ngăn chặn và làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hòng chia rẽ, phân hóa, gây nên tình
trạnh đối đầu giữa các bộ phận dân cư để phá ta từ bên trong, khi cần thì dùng
lực lượng từ bên ngồi để can thiệp hỗ trợ. Hoặc lợi dụng vấn đề dân chủ,
nhân quyền, tôn giáo để chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; lợi dụng các khó khăn, yếu
kém trong quản lý của các cấp chính quyền, bịa đặt, vu khống tung tin thất
thiệt... nhằm làm cho người dân nghi ngờ, nghi kỵ và xung đột lẫn nhau.
Xuất phát từ thực tế đó, chúng ta cần phải tăng cường giáo dục để nâng
cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về sự cần thiết phải tiếp tục xây dựng
và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Quán triệt và thực hiện tốt những quan điểm, chủ trương, biện
pháp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới
Tiếp tục đường lối, quan điểm đã xác định trong các đại hội của Đảng,
Nghị quyết TW 7 (khóa IX) “Về phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc
vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”, Đại hội X của
Đảng khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh,
động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1. Đồng thời chỉ rõ, đại đoàn
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.116
1
122
kết toàn dân tộc là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt
nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều hình thức, biện
pháp; lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn
bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Cùng với giải quyết đúng đắn, hài hồ
quan hệ lợi ích giữa các tầng lớp dân cư thì phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần nhân nghĩa dân tộc và thực hiện dân chủ cũng là những yếu tố quan trọng
để tìm ra “mẫu số chung”- điểm tương đồng trong xây dựng và phát huy đại
đoàn kết toàn dân tộc. Để tạo ra sự tương đồng, cần xoá bỏ mặc cảm, định
kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; phải tôn trọng những ý
kiến khác nhau không trái với lợi ích dân tộc, xây dựng tinh thần cởi mở, tin
cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.
Xây dựng và phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới địi
hỏi phải tiến hành tồn diện, đồng bộ các chủ trương, biện pháp, với sự tham
gia của cả hệ thống chính trị và tồn dân ở mọi cấp từ Trung ương đến cơ sở.
Hiện nay, cần tập trung thực hiện tốt một số chủ trương, biện pháp cơ bản
sau đây.
+ Thực hiện đồng bộ các chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm phát
huy dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của cộng
đồng dân cư) và giữ vững kỷ cương trong xã hội.
+ Tổ chức và động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu
nước, làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế đi liền với phát triển văn hoá - xã hội;
mỗi người, mỗi hộ đều phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng, đất nước.
+ Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị
trí vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể trong việc thực
hiện đại đồn kết dân tộc. Tơn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt
của những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc,
các tôn giáo.
+ Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo đảm cơng bằng và bình
đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp,
tầng lớp nhân dân, kết hợp hài hịa các lợi ích, thực hiện dân chủ gắn liền với
tăng cường, đẩy mạnh chống các tiêu cực trong Đảng, Nhà nước và xã hội để
củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc.
123
3.3. Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong quân đội và phát huy vai
trò của quân đội trong xây dựng, phát triển khối đại đồn kết dân tộc
Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng sự đoàn kết
trong quân đội, đoàn kết quân dân. Trong nhân cách cán bộ, chiến sĩ quân đội
nhân dân, Hồ Chí Minh ln ln dạy phải có đức tính đồn kết. Người cho
rằng “khơng đâu thực hiện sự đồn kết ấy sâu rộng và thấm thía hơn giữa quân
đội và nhân dân ta”1. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đồn kết của qn đội
khơng chỉ trong chiến đấu mà “trong việc xây dựng quân đội, phát triển kinh
tế, cũng phải tăng cường đoàn kết, đoàn kết trong cán bộ với nhau, đoàn kết
giữa cán bộ và chiến sĩ, đoàn kết giữa cán bộ và bộ đội Bắc Nam, đoàn kết
giữa bộ đội chiến đấu và bộ đội sản xuất”2.
Trong bài nói chuyện với qn đội về tình hình và nhiệm vụ trước mắt tại
Hội nghị cao cấp toàn quân, ngày 20-3-1958, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ để đồn
kết quân dân “quân đội phải giúp đỡ nhân dân. Nhất là các đơn vị bộ đội sản
xuất càng phải chú ý giúp đỡ nhân dân, thực hiện tốt chính sách dân tộc của
Đảng và chính phủ. Phải đồn kết qn, chính, đảng. Qn đội phải tơn trọng
sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ phải giúp đỡ các cấp ủy Đảng và chính
quyền địa phương”3.
Phẩm chất đồn kết trước hết thể hiện trong mối quan hệ nội bộ quân đội.
Đó là tinh thần yêu thương nhau như ruột thịt, đồng cam, cộng khổ, chia ngọt
sẻ bùi. Trong quan hệ nội bộ quân đội, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây
dựng quan hệ giữa cán bộ với chiến sĩ, Người dạy cán bộ phải thương yêu săn
sóc chiến sĩ, phải hiểu rõ bộ đội thuộc quyền và làm gương đoàn kết thật sự
đối với họ, nhất là người cán bộ chính trị phải là “người anh, người chị, người
bạn của đội viên”. Thực tế cho chúng ta thấy, đơn vị nào nhận thức sâu sắc,
làm đúng lời dạy về đoàn kết của Hồ Chí Minh thì ở đó nội bộ đồn kết, cơng
việc trơi chảy, giành nhiều thắng lợi, ở đâu khơng tn theo lời dạy đó thì nội
bộ lủng củng, trên dưới cách xa và khơng hồn thành nhiệm vụ được giao.
Hiện nay, tình hình nhiệm vụ của cách mạng và của quân đội đòi hỏi cán
bộ và chiến sĩ trong toàn quân phải tiếp tục giữ vững và tăng cường sự đoàn
kết trong nội bộ, đoàn kết quân dân để góp phần to lớn vào củng cố và phát
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.426.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.141,142.
3
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.142.
1
2
124
triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của
cách mạng nước ta trong giai đoạn mới. Bên cạnh những cái tích cực hiện
đang có nhiều nhân tố có khách quan và chủ quan tác động, ảnh hưởng tiêu
cực, gây khó khăn cho việc xây dựng sự đồn kết đó. Về khách quan, đó là
những tác động, ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường trong nước, sự
chống phá quyết liệt của kẻ thù nhằm phá hoại khối đại đoàn kết trong nội bộ
quân đội, đoàn kết quân dân. Về chủ quan, chúng ta có những hạn chế trong
xây dựng và tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân. Ở một số nơi vẫn
cịn tình trạng mất đồn kết giữa cán bộ với chiến sĩ, giữa cán bộ với cán bộ,
mối đoàn kết quân dân bị suy giảm.
Trong thời gian tới, để giữ vững và tăng cường đoàn kết của qn đội,
đồn kết qn dân, địi hỏi cán bộ và chiến sĩ quân đội phải tiếp tục quán triệt
sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, đoàn kết trong quân
đội và đoàn kết quân dân. Phát huy tốt những bài học kinh nghiệm về củng cố,
xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong quân đội và đoàn kết quân dân, phát
hiện nguyên nhân và khắc phục có hiệu quả những biểu hiện mất đồn kết ở
các đơn vị. Cán bộ, chiến sĩ quân đội phải làm tốt hơn nữa cơng tác dân vận
trong tình hình mới, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn về kinh tế
- xã hội, trình độ dân trí thấp, đời sống khó khăn, vùng có nhiều đồng bào theo
đạo. Phải phát huy vai trò của quân đội, tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng
và phát triển sự đoàn kết trong quân đội và đoàn kết quân dân. Trong đó, phải
nâng cao vai trị hạt nhân đồn kết của các tổ chức đảng, vai trò gương mẫu
của đội ngũ cán bộ các cấp, trước hết là vai trị xây dựng khối đồn kết của
người chính uỷ, chính trị viên và của đội ngũ cán bộ các cấp ở đơn vị.
CÂU HỎI ƠN TẬP
1. Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đồn kết dân tộc?
2. Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đồn kết dân tộc?
3. Vai trị của Quân đội ta trong xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết
dân tộc hiện nay?
125
Chương 8
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KẾT HỢP
SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội dung quan
trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là quy luật, bài học kinh nghiệm
lớn của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, nhờ khéo kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo
dân tộc Việt Nam giành thắng lợi suốt mấy thập kỷ qua. Trước những diễn
biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới hiện nay, việc nghiên cứu,
tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
của mình, giai cấp vô sản ở mỗi nước phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại để tạo ra sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi cho cách mạng.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác - Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
Giai cấp vơ sản có sứ mệnh lịch sử lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ
nghĩa cộng sản ở từng quốc gia dân tộc và trên phạm vi toàn thế giới. Sức
mạnh để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản không chỉ giới hạn
trong phạm vi từng dân tộc, mà phải mở rộng ra vơ sản tồn thế giới. C.Mác Ph.Ăngghen kêu gọi Vơ sản tồn thế giới, đồn kết lại. Nói cách khác, cách
mạng vô sản muốn giành thắng lợi phải tạo ra được sức mạnh tổng hợp, kết
hợp giữa các yếu tố khách quan và chủ quan, dân tộc với thời đại, trong nước
và ngoài nước.
Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh phát triển đến giai đoạn tột cùng thành
chủ nghĩa đế quốc. Sự khai thác, bóc lột thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc đã
trở thành một phương thức đảm bảo cho sự tồn tại phát triển của chúng. Lúc
đó, bên cạnh mâu thuẫn giữa tư bản và vơ sản còn xuất hiện mâu thuẫn giữa
126
chủ nghĩa đế quốc với các nước thuộc địa. Trong điều kiện lịch sử mới này,
V.I.Lênin đã phát triển các quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về vấn đề dân
tộc, thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Theo V.I.Lênin, cuộc đấu tranh của
giai cấp vơ sản ở chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu không biết
liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa, cách mạng
giải phóng thuộc địa muốn thắng lợi thì phải liên hiệp lại. Nếu trước đây
C.Mác - Ph.Ăngghen khẳng định Vơ sản tồn thế giới, đồn kết lại thì bây giờ
V.I.Lênin bổ sung Vơ sản tồn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại.
Như vậy, từ bản chất quốc tế của giai cấp vô sản, từ xu thế chung của thời
đại và thực tiễn kẻ thù của giai cấp vô sản là một lực lượng quốc tế, cách
mạng vô sản muốn thắng lợi địi hỏi phải có sức mạnh tổng hợp, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Nhận rõ yêu cầu khách quan này là cơ sở
quan trọng cho các Đảng Cộng sản ở các nước định ra chiến lược và sách lược
phù hợp với điều kiện của mình. Trung thành với tư tưởng đó của các nhà lý
luận mácxít, Hồ Chí Minh khẳng định: Trong thời đại ngày nay sự nghiệp giải
phóng các dân tộc thuộc địa muốn giành thắng lợi phải biết kết hợp sức mạnh
của dân tộc mình với sức mạnh do xu thế chung của thời đại tạo ra. Để thực
hiện điều đó, Người kêu gọi: Lao động tất cả các nước đoàn kết lại. Nghiên
cứu luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh nhận
xét: “Lênin đã đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các
nước thuộc địa”1. Nhận thức trên là cơ sở quan trọng để hình thành quan điểm
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2. Thực tiễn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên thế
giới và Việt Nam
a. Thực tiễn thế giới
Sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học kỹ thuật từ những năm 60
của thế kỷ XX, cùng với những ứng dụng thành tựu khoa học đó vào mọi mặt
đời sống xã hội, làm cho nền sản suất thế giới phát triển mạnh, đem lại cho
con người và thời đại sức mạnh chưa từng có. Hồ Chí Minh khẳng định: "Thế
giới ngày nay đang tiến những bước khổng lồ về mặt kiến thức của con người.
Khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội không ngừng mở rộng ra những
chân trời mới, con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên, cũng như làm
1
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.136.
127
chủ được vận mệnh của xã hội và của bản thân mình"1. Đây là một đặc điểm
của thời đại mà các nước muốn phát triển, khơng thể tự bó hẹp trong phạm vi
dân tộc mình, mà phải mở rộng ra bên ngoài, chiếm lĩnh đỉnh cao của khoa
học, tận dụng được sức mạnh của thời đại để nhân lên sức mạnh dân tộc.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 giành thắng lợi đã mở ra một
thời đại mới - Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản trên
phạm vi toàn thế giới. Thực tiễn này đã giúp cho Hồ Chí Minh thấy rõ cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa ở các nước muốn thắng lợi triệt để phải đi
theo "con đường cách mạng vơ sản". Xu thế chung của thời đại địi hỏi các
dân tộc phải nhận thức được yêu cầu tất yếu của việc kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.
Sự hình thành, phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa từ sau
Chiến tranh thế giới II là một nhân tố quan trọng tạo ra sức mạnh của thời đại.
Các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện tinh thần quốc tế vơ sản của mình đã
giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân, nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các
nước tư bản đã góp phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, đóng góp tích cực
vào việc bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Nhận thấy vai trị của
nhân tố thời đại này, Hồ Chí Minh chủ trương phát huy sức mạnh của các
phong trào cách mạng trên thế giới, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa phục vụ
cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Qua nghiên cứu, khảo sát thực tiễn cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh
nhận thấy chủ nghĩa đế quốc là một lực lượng quốc tế, chúng liên minh lại để
chống vơ sản ở mọi nơi chưa đủ mà cịn dùng vơ sản da trắng đi đàn áp, bóc
lột vơ sản da đen. Người kết luận: Chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù của nhân dân
lao động ở chính quốc và nhân dân lao động ở các nước thuộc địa. Muốn đánh
bại chủ nghĩa đế quốc, giai cấp vô sản phải tập hợp lực lượng chiến đấu trong
tất cả nhân dân lao động ở các nước thuộc địa; lao động ở thuộc địa với vơ sản
ở chính quốc, nếu tách riêng mỗi lực lượng, mỗi bộ phận thì khơng thể nào
thắng được kẻ thù.
1
Sđd, tập 9, tr.355.
128
Những đặc điểm tình hình thế giới nổi bật nêu trên đã được Hồ Chí Minh
khái quát trong Báo cáo Chính trị đọc tại Đại hội II của Đảng (2-1951): “Năm
mươi năm vừa qua có những biến đổi mau chóng hơn và quan trọng hơn nhiều
thế kỷ trước cộng lại... loài người đã tiến một bước dài trong việc điều khiển
sức thiên nhiên... chủ nghĩa tư bản từ chỗ tự do cạnh tranh, đã đổi ra độc
quyền lũng đoạn, đã tiến lên chủ nghĩa đế quốc... Cách mạng Tháng Mười
Nga thành công, Liên Xô nước xã hội chủ nghĩa thành lập rộng một phần sáu
thế giới và gần một nửa loài người đã tiến vào con đường dân chủ mới, những
dân tộc bị áp bức lần lượt nổi dậy chống chủ nghĩa đế quốc địi độc lập tự
do”1. Đó là một sự tổng kết ngắn gọn và sâu sắc, bao quát được những vấn đề
cơ bản của thực tiễn thế giới nửa đầu thế kỷ XX. Nhận thức đúng về tình hình
thế giới, về thời đại là cơ sở quan trọng để Hồ Chí Minh đề ra chiến lược, sách
lược cách mạng và cho kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Cách phân tích và nhìn nhận về thời
đại đó của Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với chúng
ta hôm nay, khi thời đại mới đang tiếp diễn phức tạp.
b. Thực tiễn Việt Nam
Vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam. Đến Việt Nam, đế quốc Pháp có trong tay một đội quân nhà nghề,
trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, tiềm lực kinh tế mạnh,
nhưng cũng phải mất gần một phần ba thế kỷ mới đặt được ách thống trị lên
toàn đất nước ta. Các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược của
nhân dân Việt Nam diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ, thể hiện quyết tâm thà chết
không chịu làm nô lệ. Kết quả cuối cùng, tất cả các phong trào kháng pháp của
nhân dân Việt Nam đều bị thất bại, “những đám đen lại bao phủ đất nước Việt
Nam”. Từ thực tiễn trên cho thấy Việt Nam một dân tộc nhỏ, có nền kinh tế
lạc hậu, chậm phát triển muốn chống lại đế quốc thực dân có tiềm lực kinh tế,
quân sự ban đầu mạnh hơn mình, khơng thể khơng phát huy sức mạnh bên
trong và bên ngoài để giành thắng lợi. Mặt khác, do địi hỏi khách quan của sự
nghiệp giải phóng dân tộc lúc này phải có một giai cấp tiên tiến, nắm bắt được
xu thế phát triển của thời đại, lãnh đạo định ra đường lối gắn cách mạng Việt
Nam với cách mạng thế giới. Thực tiễn đó là nguyên nhân thơi thúc Nguyễn
Ái Quốc đi tìm đường cứu nước, và Người đã tìm thấy con đường cứu nước
1
Sđd, tập 6, tr.153
129
đúng, đáp ứng được yêu cầu khách quan mà xã hội Việt Nam đòi hỏi là kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giải phóng đất nước.
Nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
từ thực tiễn tình hình thế giới và Việt Nam đã được nghiên cứu và khảo
nghiệm, Hồ Chí Minh có nhận thức mới về sức mạnh tổng hợp của cách mạng
Việt Nam để thực hiện con đường giải phóng dân tộc mà các nhà yêu nước
đương thời chưa làm được. Cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi phải kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Quan điểm trên của Nguyễn Ái Quốc
được hình thành từng bước, thông qua hoạt động thực tiễn mà tổng kết thành
lý luận: kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo ra sức mạnh
tổng hợp cho cách mạng.
2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại
2.1. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng vơ
sản thế giới
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước trong điều kiện thời đại có
những biến đổi to lớn, đã tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng cuộc Cách
mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917. Thời đại chủ nghĩa tư bản
phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, gắn liền với hệ thống thuộc địa do chủ
nghĩa đế quốc tạo dựng nên. Nhắc nhở những người cộng sản cần bám sát yếu
tố thời đại để định ra đường lối cách mạng cho phù hợp, Lênin khẳng định:
“chúng ta đang sống ở khoảng giao thời giữa hai thời đại và chỉ có thể hiểu
được những biến cố lịch sử có ý nghĩa lớn lao đang diễn ra trước mắt chúng ta
nếu trước hết chúng ta phân tích những điều kiện khách quan của bước chuyển
từ thời đại này sang thời đại kia”1. Quán triệt tinh thần đó, Nguyễn Ái Quốc
nhận thấy: "Thời đại của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại một
nhóm nước lớn do bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc
và nửa phụ thuộc, bởi vậy công cuộc giải phóng các nước và các dân tộc bị áp
bức là một bộ phận khăng khít của cách mạng vơ sản" 2. Thực tiễn thời đại đã
giúp cho Nguyễn Ái Quốc tin tưởng thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia,
dân tộc sẽ được thay bằng sự mở rộng quan hệ giữa các nước, vận mệnh của
1
2
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ Mátxcơ va, 1980, tr.174.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.567.
130
mỗi dân tộc gắn liền với vận mệnh chung của cả lồi người. Do đó, sự nghiệp
giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận khăng khít của sự nghiệp cách
mạng vô sản thế giới.
Trước khi Nguyễn Ái Quốc đi tìm đường cứu nước, ở Việt Nam đã có
nhiều nhà yêu nước nhiệt thành dám đứng lên tập hợp nhân dân phất cao ngọn
cờ đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Nhưng các phong trào đó đều
mang nặng tính tự phát, cơ lập, khơng gắn cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới, không nắm bắt được xu thế chung của thời đại, kết cục đều đi
đến thất bại. Nguyễn Ái Quốc không đi theo, không lặp lại những thất bại của
các bậc tiền bối mặc dù Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của họ.
Người ra đi tìm đường cứu nước, “xem họ làm thế nào”, đi tìm sự mách bảo
của thời đại để cứu nước cứu dân. Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin, tìm thấy ở đó con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam: cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phải hoà nhập chung vào
phong trào cách mạng vô sản thế giới, là một bộ phận khăng khít của cách
mạng vơ sản thế giới.
Trên mặt trận lý luận tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc kiên quyết chống lại chủ
nghĩa cơ hội, bảo vệ và phát triển quan điểm về mối quan hệ khăng khít cách
mạng thuộc địa với cách mạng vô sản thế giới của Lênin. Người nói: Cách
mạng ở phương Tây muốn thắng lợi thì nó phải liên hệ chặt chẽ với phong
trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và các nước bị
nơ dịch”. Vai trị của cách mạng thuộc địa rất to lớn, khơng có họ thì cách
mạng vơ sản không thể giành thắng lợi. “Lênin là người đầu tiên"1 đã nhận
thức đúng vấn đề đó. Theo Nguyễn Ái Quốc, thuộc địa là nơi mà "tất cả sinh
lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ
nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ
hàng, mộ công nhân rẻ mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển
những binh lính người bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của nó" 2.
Người khái quát: Lịch sử tất cả cuộc xâm chiếm thuộc địa nào thì từ đầu đến
cuối đều được viết bằng máu của người bản xứ. Sự bóc lột tàn bạo của chủ
nghĩa tư bản đã đưa các nước thuộc địa đến chỗ đoàn kết để cùng nhau chống
lại chủ nghĩa tư bản, lựa chọn đi theo con đường cách mạng vơ sản. Sự phân
1
2
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.219.
Sđd, tập 1, tr.243.
131
tích trên của Nguyễn Ái Quốc là một thực tế về vai trò của cách mạng thuộc
địa đối với cách mạng vô sản thế giới và sự cần thiết phải gắn bó chặt chẽ cách
mạng dân tộc với cách mạng vơ sản thế giới. Quan điểm này cịn góp phần đập
tan luận điệu của chủ nghĩa cơ hội cho rằng: chủ nghĩa đế quốc đi xâm lược
các nước thuộc địa, đóng vai là nhà “khai hố, truyền bá văn minh” đối với
các dân tộc cịn lạc hậu, trình độ phát triển thấp; các dân tộc thuộc địa chưa có
đủ khả năng để giải phóng mình, vì họ cịn thấp kém về mọi mặt; giai cấp vô
sản thế giới chưa thể giúp giai cấp vơ sản thuộc địa giải phóng được, để làm
được điều đó cần phải có thời gian tích luỹ lực lượng.
Hoạt động trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, Nguyễn Ái
Quốc tìm mọi cách gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người
khẳng định: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế
giới"1. Cách mạng ở phương Đông chậm phát triển và suy yếu vì có một
ngun nhân là “sự biệt lập”. Họ hồn tồn khơng biết đến những việc xảy ra
ở các nước láng riềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau,
sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau. Biết được nguyên nhân suy yếu
của cách mạng, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy phải tuyên truyền giáo dục để làm
cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau đi đến hiểu nhau
hơn và đoàn kết lại để cùng nhau chống kẻ thù chung. Người đưa ra luận điểm
nổi tiếng về bản chất của chủ nghĩa tư bản và sự cần thiết phải hợp lực các dân
tộc bị áp bức chống lại kẻ thù của mình. "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có
một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi khác bám vào
giai cấp vơ sản ở các nước thuộc địa... Nếu người ta muốn giết con vật ấy,
người ta phải đồng thời cắt cả hai vịi. Nếu người ta chỉ cắt một vịi thơi, thì
cái vịi kia vẫn tiếp tục hút máu giai cấp vơ sản; con vật vẫn tiếp tục sống và
cái vịi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra"2. Như vậy, chủ nghĩa thực dân không chỉ là kẻ
thù của các dân tộc bị áp bức, mà còn là kẻ thù của giai cấp cơng nhân và nhân
dân lao động ở chính quốc. Do đó, cách mạng Việt Nam phải liên hệ với cách
mạng thế giới, ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của dân An
Nam để cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng
vô sản thế giới, quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã chỉ rõ chiều hướng đi lên
1
2
Sđd, tập 2, tr.301
Sđd, tập 2, tr.120
132
tất yếu của dân tộc Việt Nam, chủ động đưa nước ta hoà nhập xu thế chung
của thời đại để đạt đến mục đích. Đây là cơng lao to lớn của Hồ Chí Minh
đối với dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc bị áp bức khác. Tư tưởng đó
làm cơ sở cho Đảng ta xác định đường lối lãnh đạo gắn cách mạng Việt Nam
với cách mạng thế giới để phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh
thời đại.
2.2. Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa u nước chân chính với chủ nghĩa
quốc tế vơ sản trong sáng
Hồ Chí Minh khẳng định: “Tinh thần yêu nước chân chính... là một bộ
phận của tinh thần quốc tế”1. Do đó, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
chỉ được phát huy khi kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa u nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế vơ sản trong sáng. Là người yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh
đã triệt để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc.
Người cũng đồng thời là chiến sĩ cộng sản quốc tế đã suốt đời đấu tranh không
mệt mỏi để củng cố tăng cường tình đồn kết, hữu nghị giữa Việt Nam và các
dân tộc khác đang đấu tranh cho mục tiêu chung là hồ bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh: Đảng ta lấy toàn bộ hoạt động
thực tiễn của mình để chứng minh chủ nghĩa u nước chân chính khơng thể
nào tách rời chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Trước việc kẻ thù tuyên truyền chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc
cực đoan, thói kỳ thị màu da, tiếng nói, phong tục, tập quán... để chia rẽ giữa
các dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ ra cách mạng vô sản phải thực hiện triệt để tư
tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản
trong sáng. Từ đó, muốn giải phóng mình thì nhân dân “bị bóc lột thuộc mọi
chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức”2. Người không giấu nổi niềm
phấn khởi khi thấy Trường đại học phương Đông đã thể hiện rõ tư tưởng của
Lênin trong đoàn kết các dân tộc thuộc địa: “Làm cho các dân tộc thuộc địa từ
trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ
sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một
trong những cái cánh của cách mạng vô sản”3. Rằng đây bốn biển một nhà,
vàng đen trắng đỏ đều là anh em.
1
Sđd, tập 6, tr.172
Sđd, tập 1, tr.452
3
Sđd, tập 2, tr.124
2
133
Để phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, thực hiện
giành độc lập cho dân tộc, trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Hồ Chí Minh ln đòi hỏi mọi người phân biệt
rõ sự khác nhau giữa nhân dân lao động u chuộng hồ bình, tự do với bọn
thực dân đế quốc; nhân dân lao động Pháp với bọn thực dân xâm lược Pháp.
Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược gây bao tội ác đối với nhân dân Việt
Nam, nhưng Hồ Chí Minh vẫn ln đề cao văn hoá Pháp, ca ngợi truyền thống
đấu tranh cho độc lập tự do của nhân dân Mỹ. Hàng loạt những biểu hiện nêu
trên đã làm cho thế giới hiểu rõ hơn về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân
dân Việt Nam, tạo ra làn sóng phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở
Việt Nam không ngừng được mở rộng cả ở trong nước và thế giới. Khắp các
châu lục, đâu đâu cũng vang lên tiếng nói đòi đế quốc thực dân phải chấm dứt
chiến tranh, lập lại hồ bình ở Việt Nam; tinh thần u nước chân chính với
tinh thần quốc tế vơ sản được phát huy cao độ, tạo ra sức mạnh tổng hợp để
chống quân xâm lược.
Như vậy, chủ nghĩa yêu nước chân chính muốn kết hợp được với chủ
nghĩa quốc tế vô sản, những người cộng sản phải dựa trên nền tảng lý luận
Mác - Lênin về tinh thần quốc tế vô sản mà vận dụng vào điều kiện thực tiễn
cách mạng nước mình cho phù hợp, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu
hiện của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa sơ vanh, bảo vệ
lợi ích của dân tộc mình và lợi ích chung của các dân tộc khác vì hồ bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
2.3. Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngồi,
khơng quên nghĩa vụ quốc tế vô sản
Vận dụng sáng tạo quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa các yếu tố bên
trong và bên ngoài, yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Trong q trình tiến hành cách
mạng phải tranh thủ sự giúp đỡ về mọi mặt từ bên ngồi, nhưng ln đề cao ý
thức tự lực tự cường, dựa vào sức mình là chính.
Theo Hồ Chí Minh "sức mình" ở đây chính là sức mạnh của dân tộc, sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Đó là nguồn nội lực, cái gốc, điểm mấu
chốt để đảm bảo nhận sự giúp đỡ từ bên ngoài đạt kết quả. Sức mạnh của dân
tộc là một động lực lớn đã kiểm nghiệm qua thực tiễn, được Người khẳng
134
định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước"1. Trong tư duy Hồ
Chí Minh, để tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngoài, trước hết phải chủ động tạo ra
sức mạnh của chính mình, “phải tự giúp lấy mình đã. Người thường nói: Có
độc lập mới có tự lập, có tự cường mới có tự do: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các
nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ
người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác
giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập”2. Sức mạnh đó khơng phải ở đâu
xa lạ, mà nằm ngay trong sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh
của cộng đồng người Việt Nam yêu nước được hun đúc qua hàng ngàn năm
lịch sử.
Trong mối quan hệ sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, Hồ
Chí Minh coi sức mạnh của thời đại là nhân tố quan trọng, sức mạnh của dân
tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là một ví dụ điển hình cho sự kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Những điều kiện khách quan vô cùng
thuận lợi cho cách mạng đã tới, nhưng Hồ Chí Minh vẫn coi yếu tố bên trong
là quyết định. Người kêu gọi: Hỡi đồng bào toàn quốc, hãy đứng dậy đem sức
ta mà giải phóng cho ta. Dựa vào sức mình là chính nhưng phải tranh thủ sự
giúp đỡ bên ngồi có hiệu quả, Người nói: “Các nước bạn giúp ta cũng như
thêm vốn cho ta. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta,
phát triển khả năng của ta”3.
Để tranh thủ sức mạnh từ bên ngồi, Hồ Chí Minh ln nhắc nhở cán bộ,
đảng viên, nhân dân ta làm sao tuyên truyền cho sâu, cho rộng cuộc chiến
tranh chính nghĩa của Việt Nam trước nhân dân tiến bộ u chuộng hồ bình,
tự do cơng lý trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ, thực hiện
tư tưởng ngoại giao nhân dân. Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược của
nhân dân ta diễn ra trong hoàn cảnh hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa có sự
bất đồng, nhất là giữa Liên xơ và Trung Quốc. Đảng ta định ra đường lối độc
lập, tự chủ, kết hợp cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì những mục tiêu của
thời đại là hồ bình, độc lập, dân chủ với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
của nhân dân Việt Nam. Đường lối đó chẳng những đã góp phần tăng cường
sự đồn kết giữa các đảng, mà cịn huy động được sức mạnh bên ngồi, tranh
1
2
Sđd, tập 1, tr.466.
Sđd, tập 6, tr.522
135
thủ được phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới, ủng hộ Việt Nam giành
độc lập, tạo ra được một mặt trận rộng lớn, mạnh mẽ chưa từng có đoàn kết
với Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế với Việt
Nam, Hồ Chí Minh đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của Việt Nam với
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Khi có sự mất đồn kết giữa các
dân tộc phải cùng nhau khơi phục, củng cố, phát triển tình đồn kết có lý, có
tình trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin về tinh thần quốc tế vô sản. Nhân dân
Việt Nam khơng chỉ chiến đấu vì độc lập tự do cho dân tộc mình mà cịn vì
độc lập tự do của các nước khác.
Thực tiễn cách mạng nước ta hơn 75 năm qua khẳng định: chính sự nỗ
lực, cố gắng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã tạo nên nguồn sức
mạnh nội lực to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã từng nói: Chúng ta có quyền tự hào rằng nước ta là một dân
tộc nhỏ nhưng đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Đó là thắng lợi
của sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thắng lợi của tư tưởng
dựa vào sức mình là chính nhưng phải ra sức tranh thủ sự giúp đỡ từ bên
ngồi. Thắng lợi đó cịn góp phần vào bảo vệ củng cố tình đồn kết phong trào
vô sản thế giới, thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình theo đúng nghĩa
“Giúp bạn là tự giúp mình”.
2.4. Xây dựng tình hữu nghị hợp tác, đoàn kết giữa các quốc gia, dân
tộc và các lực lượng cách mạng, hồ bình, dân chủ trên thế giới
Xây dựng tình hữu nghị hợp tác, đồn kết giữa các quốc gia, dân tộc và
các lực lượng cách mạng, hoà bình, dân chủ trên thế giới, là điều kiện quan
trọng để tranh thủ khai thác sức mạnh từ bên ngoài vào củng cố giữ vững nền
độc lập cho dân tộc, xây dựng đất nước vững mạnh. Nhận thức rõ ý nghĩa và
tầm quan trọng của vấn đề đó, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945, Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay tới việc mở rộng xây dựng tình hữu nghị,
quan hệ hợp tác với các lực lượng cách mạng, hồ bình, dân chủ trên thế giới.
Tư tưởng này được thể hiện rõ trong chủ trương, đường lối, chính sách của
Nhà nước ta: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hồ là Chính phủ hợp pháp
duy nhất của tồn thể nhân dân Việt Nam. Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hồ sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính
3
Sđd, tập 8, tr.30
136
phủ nước nào tơn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền
quốc gia của nước Việt Nam để cùng nhau bảo vệ hồ bình và xây đắp dân
chủ thế giới”1. Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là
thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hồ bình. Nước
Việt Nam độc lập có quyền bình đẳng với mọi quốc gia, dân tộc khác trên thế
giới. Các nước khác trên thế giới cũng phải tôn trọng quyền độc lập của Việt
Nam, xây dựng tình hữu nghị đoàn kết với Việt Nam.
“1. Đối với nước Lào và Miên, Việt Nam tôn trọng nền độc lập của hai
nước đó và bày tỏ lịng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối
giữa các nước có chủ quyền.
2. Đối với các nước dân chủ, Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở
cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực.
a. Nước Việt Nam giành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư
bản, nhà kỹ thuật nước ngoài, trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b. Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao
thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c. Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác quốc tế dưới
sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.
d. Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân
trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và
những hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải qn và khơng
qn”2.
Những tun bố trên đây của Chính phủ Việt Nam một mặt khẳng định
nước ta là một nước độc lập, có chủ quyền, yêu cầu mọi quốc gia trên thế giới
phải tôn trọng sự thật này; mặt khác, còn tỏ rõ tư tưởng nhất quán Việt Nam
muốn xây dựng tình hữu nghị, đồn kết, hợp tác giữa các quốc gia dân tộc, các
lực lượng cách mạng, hồ bình, dân chủ trên thế giới.
Việt Nam xây dựng tình hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới, đó là
quan điểm chung. Nhưng với từng nước, nhóm nước, Việt Nam có chính sách
cụ thể. “Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là thái độ anh em,
1
2
Sđd, tập 6, tr.7, 8.
Sđd, tập 4, tr.470
137
đối với ngũ cường là thái độ bạn bè”1. Hồ Chí Minh chỉ rõ xây dựng tình hữu
nghị láng giềng gần gũi với Lào và Cămpuchia, hình thành mặt trận chiến đấu
chống kẻ thù chung của ba nước Đông Dưong. Với Trung Quốc, nước có quan
hệ lịch sử văn hố lâu đời, là củng cố, xây đắp tình hồ hiếu vốn có giữa hai
dân tộc ngày càng phát triển, xây dựng tình hữu nghị “vừa là đồng chí vừa là
anh em”. Mặc dù các nước trong khu vực có phong tục, tập quán, chế độ chính
trị xã hội khác nhau nhưng Việt Nam luôn luôn thiết lập mối quan hệ hữu nghị
láng giềng tốt, tôn trọng chủ quyền của mỗi quốc gia dân tộc.
Đối với các tư bản, nếu muốn thật thà đến kinh doanh ở Việt Nam cốt
làm lợi cho cả hai bên, thì Việt Nam sẽ hoan nghênh. Ngay cả thực dân Pháp:
“Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người
Pháp tư bản hay cơng nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà
cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như
anh em bầu bạn”1. Còn nếu tư bản đến Việt Nam để ràng buộc, chế áp, cao
hơn nữa là thơn tính, xâm lược thì nhân dân Việt Nam sẽ cương quyết cự tuyệt
chống lại.
Để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam với các nước trên thế
giới, Hồ Chí Minh đã có nhiều cuộc đi thăm hữu nghị chính thức một số nước
ở châu Á như ấn Độ, Miến Điện, Inđônêxia... hình thành trục hữu nghị Hà Nội
- Niuđêli - Giacácta và đón tiếp nhiều đồn đại biểu cấp cao từ các nước Á,
Phi; Mĩ Latinh và các tổ chức quốc tế sang thăm Việt Nam. Từ năm 1963, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước ta đã chủ trương vận động nhân dân thế giới,
các tổ chức của nhân dân Á, Phi, Mỹ la tinh có hành động phối hợp mạnh mẽ
hơn đòi đế quốc Mỹ chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Kết quả là ở nhiều
nước đã thành lập uỷ ban đoàn kết với Việt Nam và Hồ Chí Minh cũng khơng
qn gửi điện cảm ơn kịp thời tới vị đứng đầu các tổ chức đó.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, Việt Nam muốn kết hợp được sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại thì phải mở rộng mối quan hệ hữu nghị với tất cả
các nước, các lực lượng hồ bình, dân chủ, tiến bộ trên thế giới; chủ trương
xây dựng tình hữu nghị đồn kết hợp tác lẫn nhau nhưng phải trên cơ sở hợp
lý và hợp tình. Về lý, phải tuân thủ nguyên tắc tơn trọng độc lập chủ quyền,
tồn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi. Về tình, mở rộng quan hệ với các
1
Sđd, tập 5, tr.136