Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Tìm hiểu giá trị văn học của Đại Việt Sử kí toàn thư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------

LÊ THỊ THANH PHƯƠNG

TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HỌC CỦA ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TỒN THƯ

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Nội - năm 2008


Lời cám ơn
Để hồn thành luận văn này, tơi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình của
PGS.TS Trần Nho Thìn-người đã có những định hướng ban đầu, những lời nhận
xét và chỉ dẫn quý báu trong suốt quá trình tơi thực hiện luận văn. Tơi xin bày tỏ
lịng biết ơn sâu sắc, chân thành tới thầy về những gợi ý quý báu và thời gian mà
thầy đã dành cho tôi.
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn tới các thầy cô khoa văn học, Trường đại học
KHXH&NV - Đại học QG Hà Nội.
Tôi xin cảm ơn tới các thầy cô giáo trường THCS Vĩnh Tường, nơi tôi đang
công tác đã tạo điều kiện cho tôi học tập trong suốt thời gian qua.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã hết lịng động viên và tạo điều kiện thuận lợi để tơi có kết quả học tập
như ngày hôm nay.

Hà Nội, ngày ……tháng … năm 2008…

1



Đề tài: TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HỌC CỦA ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TỒN THƢ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đại Việt sử kí tồn thư là một bộ quốc sử lớn của nước ta thời trung đại. Tác
phẩm là tập đại thành gồm nhiều bộ sử do nhiều nhà sử học của các đời biên soạn
trong đó người có cống hiến lớn nhất là Ngơ Sĩ Liên .
Đại Việt sử ký toàn thư được coi như một di sản văn hoá dân tộc. Ra đời trong
thời trung đại, khi mà tư duy nguyên hợp còn tồn tại và chi phối khá mạnh mẽ đến
việc trước tác, Đại Việt sử ký tồn thư là tác phẩm điển hình lưu dấu ấn của lối tư
duy này. Tác phẩm không chỉ có giá trị lịch sử to lớn mà cịn có giá trị văn học
sâu sắc. Đại Việt sử ký toàn thư đã xây dựng thành công nhiều chân dung nhân vật
lịch sử, miêu tả thành công những bối cảnh, không gian, thời gian xẩy ra sự việc.
Ngoài ra nguồn sử liệu phong phú trong tác phẩm còn là nguồn tư liệu quý giá cho
nghiên cứu và sáng tác văn học. Đó là một trong những lý do thơi thúc chúng tơi
tìm hiểu đề tài Tìm hiểu giá trị văn học của Đại Việt sử ký toàn thư. .
Đại Việt sử ký toàn thư bao gồm: quyển thủ và 24 quyển ghi chép lịch sử
nước ta từ thời kỳ Hồng Bàng cho đến năm 1675. Việc nghiên cứu giá trị văn học
của Đại Việt sử ký tồn thư góp phần làm rõ tính nguyên hợp của tác phẩm: vănsử bất phân và giúp cho bạn đọc thấy được sự ảnh hưởng của lối viết trong bộ sử
này rất sâu rộng đến nhiều thế hệ sau này. Ở giai đoạn đầu tiên, giữa văn học và
các bộ môn khoa học khác như: triết học, sử học, thiên văn học, y học chưa có
danh giới rõ ràng… . Văn học chưa tách ra thành một bộ môn nghệ thuật độc lập
như ngày nay. Thời cổ, văn học có thể là thơ ca mà cũng có thể là sử ký, thậm chí
viết sử cịn được coi là hình thức sáng tác văn học cao quý nhất. Người xưa coi
văn chương là thú chơi tao nhã để di dưỡng tính tình, có thể cảm động được lòng
người, di dịch được phong tục, tập quán chuyển biến được cuộc đời công hiệu giáo
2


hoá của văn chương là rất lớn …Và viết sử chính là cách giáo huấn đạo đức hiệu

quả nhất, sâu sắc nhất.
Tìm hiểu giá trị văn học của Đại Việt sử ký toàn thư cho thấy được quan
niệm về nhân sinh của cha ông ta trong quá khứ “sự ngưng kết vững vàng của trí
tuệ dân tộc và phản ánh sức sống người Việt trong mấy ngàn năm trước
đó”.(7,T289)
Đại Việt sử ký tồn thư có giá trị sử học, văn học rất lớn nên hiện nay chương
trình sách Ngữ văn lớp 10 ( cải cách) do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo tổ chức biên soạn,
đã đưa một số đoạn trích từ bộ sử này vào để giáo dục cho học sinh thời đại mới về
những nét đẹp trong nhân cách con người Việt Nam xưa đồng thời cho học sinh thấy
được phần nào tính nguyên hợp và giá trị văn học của tác phẩm. Đây cũng là lí do
thơi thúc tôi, với tư cách một giáo viên dạy văn ở trường phổ thơng, đi tìm giá trị văn
học của Đại Việt sử ký toàn thư.

2. Lịch sử vấn đề.
Đại Việt sử ký toàn thư đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trên các lĩnh
vực lịch sử, văn hoá, văn học…Dưới đây xin điểm qua một số cơng trình nghiên cứu
liên quan đến tác phẩm.
Trên lĩnh vực sử học có thể kể đến đề tài tiến sĩ của Nguyễn Thi “Sự phát
triển của sử học Việt Nam từ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu đến Đại Việt sử ký
tồn thư cuả Ngơ Sĩ Liên”. Ở cơng trình này tác giả chỉ ra cơng lao đóng góp và
phát triển của Ngô Sĩ Liên so với bộ Đại Việt sử ký. Ngô Sĩ Liên biên soạn thêm
phần ngoại kỷ, chép sử từ thời Hồng Bàng cho đến khi quân Minh bị đánh đuổi ra
khỏi nước ta. Phần bổ sung của ông làm cho lịch sử nước ta thời kỳ dựng nước
mang tính chất nửa lịch sử nửa huyền thoại. Hơn nữa bắt đầu từ Ngô Sĩ Liên tác
phẩm mới mang tên là Đại Việt sử ký toàn thư và cấu trúc của tác phẩm được chia
làm hai phần: Ngoại kỷ và bản kỷ.
3


Có thể kể đến bài viết của Nguyễn Phương trên tạp chí Đại học Huế năm

1960 với nhan đề: “Phương pháp viết sử của Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên”. Ở bài
viết này, tác giả chủ yếu chỉ ra đặc điểm cách tiếp cận lịch sử của các nhà nho. Hai
chữ “trung”, “hiếu” đã ảnh hưởng phức tạp đến suy nghĩ của họ. Họ chép sử chủ
yếu để nêu gương, dăn dạy, để truyền thụ luân lý chứ không phải tìm kiếm chân lí
lịch sử…Cách chép sử như vậy dễ làm mất đi tính khách quan trung thực của khoa
học lịch sử và mang nặng tính chủ quan của người chép sử. Nguyễn Phương đứng
trên quan điểm của người hiện đại để phê phán các nhà chép sử thời xưa chứ chưa
quan tâm tìm hiểu giá trị văn học của tác phẩm.
Trong cuốn Từ điển văn học (Nhà xuất bản Thế giới), Bùi Duy Tân đã chỉ
ra: “Đại Việt sử ký tồn thư khơng những có giá trị lịch sử mà cịn có giá trị văn
học. Tác phẩm thể hiện rõ quan niệm “văn sử triết bất phân”. Các tác giả viết sử đã
chú ý đến nghệ thuật viết văn vì vậy chép sử vẫn có giá trị văn học. Giá trị ở đây là
ở những đoạn kể truyện hấp dẫn, có miêu tả được bối cảnh, khơng khí xẩy ra sự
việc, là ở những trang viết về nhân vật lịch sử mà lại chú ý ở tính cách, hành động,
có cả tâm trạng suy nghĩ của nhân vật”( 50 ,tr1015). Những nhận xét cô đọng này
là những gợi ý rất qúi giá cho việc xử lý đề tài của chúng tơi.
Đồn Thu Vân trong phần hướng dẫn giảng dạy hai trích đoạn của Đại Việt
sử ký tồn thư cũng nhấn mạnh giá trị nhiều mặt, kể cả giá trị văn học của bộ sử:
“Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử lớn của Việt Nam thời trung đại do Ngơ Sĩ
Liên biên soạn, hồn tất năm 1479, gồm 15 quyển, ghi chép lịch sử nước ta từ thời
Hồng Bàng cho đến khi Lê Thái Tổ lên ngơi(năm 1479). Theo lời tựa của chính
tác giả ngay từ đầu cuốn sách thì Đại Việt sử ký tồn thư được biên soạn dựa trên
cơ sở sách Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu ở đời Trần và Sử ký tục biên của Phan
Phu Tiên ở đời Hậu Lê. Tác phẩm thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ, vừa có giá
trị sử học vừa có giá trị văn học”(26,tr 41).

4


Trong bài viết “Nhà sử học Ngô Sĩ liên với lối viết toàn thư” Hoàng Văn

Lâu cũng ghi nhận giá trị văn học của cơng trình này: “Đại Việt sử ký tồn thư có
rất nhiều “truyện” về các bậc đế vương, các bà thái hậu hoàng phi, các hoàng tử
các công chúa, các thần văn, thần võ, các tao nhân mặc khách cho đến các nhân vật
khơng có địa vị to tát trong xã hội”(7,tr207 ).
Giá trị văn học của Đại Việt sử ký tồn thư cịn được đề cập đến trong một số
cơng trình nghiên cứu: Thi pháp văn học trung đại Việt Nam của Trần Đình Sử ,
một số bài viết về bài Nam quốc sơn hà và Bình Ngơ đại cáo của Bùi Duy Tân,
Con đường giải mã tác phẩm văn học trung đại Việt Nam của Nguyễn Đăng Na.
Như vậy các nhà nghiên cứu văn học trung đại đều đã ghi nhận, khẳng định giá trị
văn học của Đại Việt sử ký toàn thư. Nhưng chưa có tác giả nào đi sâu vào nghiên
cứu một cách hệ thống các giá trị văn học của nó. Tiếp thu, kế thừa những ý kiến
gợi ý của các nhà nghiên cứu, trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, chúng tôi sẽ chỉ
ra những biểu hiện cụ thể về giá trị văn học của bộ sử ký này.
Văn bản được sử dụng để phân tích là bản dịch bộ Đại Việt sử ký toàn thư (
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, bản in năm 1993) được dịch từ bản in Chính Hồ
thứ 18(năm 1697).
3 .Xác định đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu: Đại Việt sử ký toàn thư
3.2 Phạm vi đề tài: tìm hiểu giá trị văn học ở bộ Đại Việt sử ký toàn thư.
3.3 Nhiệm vụ và mục tiêu của đề tài: chỉ ra được giá trị văn học nhiều mặt của
Đại Việt sử ký toàn thư. Đây là một đề tài lớn, có thể trở thành đối tượng nghiên
cứu cho các luận án bậc cao hơn. Trong khuôn khổ của một luận văn Thạc sĩ và
thời gian có hạn, chúng tôi xác định chỉ xới lên một số vấn đề trong rất nhiều vấn
đề về giá trị văn học của bộ sử. Khuôn khổ và phạm vi thời gian cũng chỉ cho phép

5


chúng tôi dừng lại trên một số tư liệu khảo sát có chọn lọc để phân tích. Các
chương mục cụ thể như sau:

- Chương I: tìm hiểu mục đích, phương pháp viết sử của Ngô Sĩ Liên, sự chi
phối của quan điểm Nho gia về lịch sử, nhấn mạnh sự kết hợp hai phương thức
biên niên và kỷ truyện.
-Chương II. Tìm hiểu tính chất văn chương của Đại Việt sử ký toàn thư như là
một tác phẩm văn học qua việc phân tích tư duy, bút pháp văn học thể hiện trong bộ
sử qua nhiều phương diện khác nhau.
-Chương III. Tìm hiểu giá trị bổ trợ mà Đại Việt sử ký tồn thư có thể cung cấp
cho người hiện đại để hiểu biết về hiện thực xã hội, con người liên quan đến văn học
và đời sống văn học trong thời kỳ lịch sử được bộ sử phản ánh. Nói cách khác,
chương này đi tìm từ bộ sử các dẫn liệu về ngữ cảnh của các sáng tác văn học từ thế
kỷ XV trở về trước và xác định giá trị như là chất liệu cho sáng tác văn học đời sau.
Chương này về lý thuyết đòi hỏi phải xử lý một lượng tài liệu rất lớn nhưng chúng tôi
trong khuôn khổ thời gian hạn hẹp và phạm vi khả năng của học viên cao học, chỉ xin
chọn một số trường hợp chúng tôi coi là tiêu biểu để phân tích. Một sự phân tích đầy
đủ tất cả các nguồn tư liệu sẽ là nhiệm vụ của một cơng trình tầm cao hơn, như luận
án Tiến sĩ.
4.Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1phương pháp phân tích, chứng minh.
4.2 phương pháp so sánh.
4.3 phương pháp thống kê.
4.4 Phương pháp xã hội –lịch sử.
4.5 phương pháp tiếp cận văn hoá học.

6


5 Đóng góp mới của luận văn: Lần đầu tiên nghiên cứu có hệ thống giá trị
văn học của Đại Việt sử ký toàn thư .
6. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba
chương.

Chương I : Khái quát chung về Đại Việt sử ký tồn thư.
Chương II: Tính văn chương của Đại Việt sử ký toàn thư.
Chương III: Đại Việt sử ký toàn thư là nguồn tư liệu quý giá cho nghiên cứu và
sáng tác văn học.

7


Chƣơng I: QUAN NIỆM VÀ PHƢƠNG PHÁP VIẾT SỬ TRONG

ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƢ
1.

Quan niệm về lịch sử và mục đích chép sử của tác giả Đại Việt sử ký

toàn thƣ
Đại Việt sử ký toàn thư là tập đại thành của nhiều bộ sử do nhiều nhà sử học
các đời biên soạn, từ Lê Văn Hưu đời Trần qua Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ
Quỳnh đời Lê Sơ, đến Phạm Công Trứ, Lê Hy đời Lê Trung Hưng. Tác phẩm ghi
chép lịch sử dân tộc ta từ họ Hồng Bàng đến năm 1675.
Trong các nhà chép sử trên thì Ngơ Sĩ Liên là người có đóng góp nhiều nhất .
Ngô Sĩ Liên người làng Chúc Lý, huyện Chương Đức, nay là xã Chúc Sơn, huyện
Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Không rõ năm sinh và năm mất chỉ biết theo Đại Việt
lịch triều đăng khoa lục, ông thọ 98 tuổi. Ông đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn (1418-1427) và đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Tuất năm Đại Bảo thứ 3, đời Lê
Thái Tông (1434-1442) .
Dưới triều Lê, Ngô Sĩ Liên giữ chức Đô ngự sử đời Lê Nhân Tông (14341459) rồi Lễ bộ thị lang Triều liệt đại phu kiêm Quốc tử giám tư nghiệp, kiêm sử
quan tu soạn đời Lê Thánh Tông (1460-1479). Cũng như Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ
Liên hoạt động trong hai cơ quan chuyên trách về văn hoá và giáo dục, là Quốc tử
giám và Quốc sử viện . Năm 1479, Lê Thánh Tông “sai Sử quan tu soạn Ngô Sĩ

Liên soạn Đại Việt sử ký tồn thư gồm 15 quyển”
Ngơ Sĩ Liên đã thêm vào Đại Việt sử ký phần Ngoại kỷ làm cho lịch sử nước
ta trong thời mở nước mang tính chất nửa lịch sử nửa huyền thoại và lịch sử nước
ta được nhìn nhận một cách hệ thống…Riêng Đại Việt sử ký tồn thư của Ngơ Sĩ
Liên ghi chép lịch sử nước ta bắt đầu từ thời kỳ mở nước( họ Hồng Bàng) và dừng

8


lại năm 1427 khi quân Minh bị đuổi ra khỏi nước ta. Phần còn lại do các nhà sử
học đời sau ghi chép và hồn thiện .
So với Ngơ Sĩ Liên các nhà sử học khác cũng có những đóng góp khơng hề
nhỏ . Tiêu biểu là Lê Văn Hưu (1230-1322) người làng Phủ Lý huyện Đông Sơn,
nay là thôn Phủ Lý, xã Thiệu Trung, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hố, thuộc dịng
dõi của Trấn bộc xạ Lê Lương đời Đinh. Ông đỗ bảng nhãn năm Đinh Mùi (1247)
đời Trần Thái Tông ,nhận chức vị Hàn Lâm viện học sĩ kiêm Quốc viện giám tu
nghiệp . Ông vâng mệnh vua biên soạn bộ Đại Việt sử ký chép lịch sử từ thời Triệu
Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng. Theo con số xác minh của nhiều nguồn sử liệu thì bộ
sử của Lê Văn Hưu gồm 30 quyển.
Sang đời Lê Nhân Tông (1443-1459) Phan Phu Tiên lại vâng lệnh vua Lê biên
soạn tiếp từ đời Trần Thái Tông (1225-1258) cho đến khi quân Minh bị đuổi ra
khỏi nước ta năm 1427. Bộ quốc sử của Phan Phu Tiên coi như tiếp tục bộ quốc sử
đời Trần do Lê Văn Hưu biên soạn nên vẫn mang tên Đại Việt sử ký. Phan Phu
Tiên người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, nay thuộc quận Tây Hồ, thành phố
Hà Nội. Ông đỗ Thái học sinh năm 1396 đời Trần sau lại thi đỗ khoa Minh kinh
năm 1429 đời Lê Thái Tổ. Ông viết tiếp bộ sử ký khi đang giữ chức Quốc tử giám
bác sĩ tri quốc sử viện. Theo Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú thì bộ sử của Phan
Phu Tiên gồm 10 quyển.
Đầu thế kỷ XVI, năm 1511 Vũ Quỳnh với cương vị sử quan Đô tổng tài, biên
soạn xong bộ Đại Việt thông giám thông khảo chép lịch sử nước ta từ họ Hồng

Bàng cho đến khi Lê Lợi “đại định thiên hạ” tức cho đến thắng lợi của sự nghiệp
bình Ngơ dẫn đến sự sáng lập vương triều nhà Lê. Như vậy bộ sử của Vũ Quỳnh
bao quát thời gian lịch sử gần như bộ sử của Ngô Sĩ Liên và chắc chắn dựa trên cơ
sở bộ sử của Ngô Sĩ Liên. Nếu như bộ sử của Ngô Sĩ Liên có 15 quyển thì bộ sử
của Vũ Quỳnh chia thành 24 quyển.

9


Sang thời Lê Trung Hưng, năm 1665 Phạm Công Trứ (1600-1675) cùng một
nhóm triều thần do ơng đứng đầu được giao nhiệm vụ biên soạn quốc sử. Đó là bộ
Đại Việt sử ký tục biên .
Năm 1676, Thượng thư bộ Công Hồ Sĩ Dương được giao nhiệm vụ “trông coi
việc sửa quốc sử”. Nhưng đến năm 1681 Hồ Sĩ Dương mất nên Tham tụng Thượng
thư bộ hình tri trung thư giám Lê Hy (1646-1702) lại được giao nhiệm vụ biên
soạn quốc sử. Ơng kế thừa những cơng trình của người đi trước và biên soạn tiếp
từ Lê Huyền Tông năm Cảnh Trị (1663) đến Lê Gia Tông năm Đức Nguyên 2
(1675) cũng gọi là Bản kỷ tục biên. Đây là phần biên soạn mới của Lê Hy. Tháng
11 năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hồ 18 (1697), bộ quốc sử do nhóm Lê Hy
biên soạn hồn thành “Sách làm xong dâng lên ngự lãm, bèn sai thợ khắc in ban bố
trong thiên hạ”. Đây chính là bộ Đại Việt sử ký toàn thư – một bộ quốc sử lần đầu
tiên được khắc in tồn bộ và cịn được bảo tồn đến ngày nay.
Hiện nay thư viện nghiên cứu Hán Nôm tàng chữ 6 bản in Đại Việt sử ký toàn
thư là A3/14, VHV179/1-9, A2694, VHV1499/1-11, VHV2330-2333, VHV23342236. Thư viện Sử học có một bản in Đại Việt sử ký tồn thư mang ký hiệu
HV118. Đây là một bản in đầy đủ gần giống với bản A3 của viện nghiên cứu Hán
Nơm. Thư viện Viện Khảo học của Sài Gịn trước đây nay là Thư viện Khoa học
xã hội của thành phố Hồ Chí Minh, lưu giữ một bản in ký hiệu VS4. Bộ sách này
đóng thành 7 tập và 24 quyển. Như vậy là nước ta hiện nay có 8 ký hiệu sách Đại
Việt sử ký tồn thư có thể quy vào 7 văn bản. Trong các bản khắc in của Đại Việt
sử ký toàn thư, văn bản khắc in Chính Hồ 18 là văn bản đáng tin cậy nhất. Hiện

nay đã được dịch ra tiếng Việt và là nguồn tư liệu cần thiết không chỉ cho ngành sử
học mà còn cho nhiều ngành khoa học khác.
Đại Việt sử ký tồn thư theo bản in khắc ván từ năm Chính Hoà (1697) bao
gồm Quyển thủ và 24 quyển.

10


Quyển thủ: gồm các lời tựa của Lê Hy, Phạm Công Trứ , Ngô Sĩ Liên và biểu
dâng sách, phàm lệ, kỷ niên mục lục và bài Việt giám thông khảo tổng luận của Lê
Tung
Phần ngoại kỷ: gồm 5 quyển từ họ Hồng Bàng đến các sứ quân.
Phần bản kỷ: gồm 19 quyển, từ triều Đinh đến năm 1675.
Mục đích chép sử của các sử gia được thể hiện ngay ở phần đầu trong bài Biểu
dâng sách của Ngô Sĩ Liên, tác giả viết “Thần trộm nghĩ: Ngày xưa làm sách làm
tin là điển của nước lớn, để ghi chép quốc thống lúc lìa, lúc hợp, để tỏ rõ trị hoá khi
thịnh khi suy. Ấy là muốn gương răn cho đời sau, há chỉ chép cơ vi về dĩ vãng. Ắt
thiện ác phải làm rõ ràng trong khen chê, thì người đời sau mới biết ý khuyên
răn”(1,Tr101 ). Ngô Sĩ Liên vẫn theo quan điểm truyền thống về lịch sử của Nho
gia như một quá trình thịnh suy, hưng vong, bĩ thái có tính chất chu kỳ của các
triều đại trị vì và truy tìm nguyên nhân của sự thịnh suy ấy, nhằm rút ra những bài
học đạo đức nhắn gửi cho những người làm chính trị đời sau. Quan điểm này từng
được nhấn mạnh trong một số tác phẩm về lịch sử của Trung Quốc như Kinh Xuân
Thu của Khổng Tử, Sử ký của Tư Mã Thiên, Tư trị thông giám của Tư Mã Quang,
Thông giám cương mục của Chu Hy...Các nhà sử học ở Việt Nam thời trung đại đã
chịu ảnh hưởng tư tuởng sử học của các Nho gia Trung Quốc là điều đã rõ.
Mục đích chép sử như trên qui định kết cấu và nội dung bộ sử. Trục chính của bộ sử
xoay quanh các triều đại; các sự kiện lịch sử chủ yếu là các sự kiện có liên quan đến
đời sống cung đình được kể lại theo nguyên tắc biên niên, có đối chiếu với lịch sử
biên niên theo các triều đại của Trung Quốc. Các nhân vật lịch sử thường là các bậc

vua chúa, quan lại, các bậc trung thần hay gian thần, họ được kể lại qua sự tái hiện
lời nói, việc làm, các quan hệ tương tác qua lại giữa họ với nhau. Còn lịch sử về các
mối quan hệ kinh tế và đời sống nhân dân thì ít được đề cập đến.
Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ quốc sử lớn của nước ta thời phong kiến nên
có dấu ấn ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Trong đó sự ảnh
11


hưởng của tư tưởng Nho gia là sâu đậm nhất. Tư tưởng Nho gia đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến đầu óc của các sử gia. Nhiều khi các sử gia đã nhìn nhận nhân vật
lịch sử thiếu tính khách quan mà mang màu sắc chủ quan. Mục đích viết sử là để
khen chê, nêu guơng đạo đức, một lời khen vinh dự hơn áo mũ quan tước, một lời
chê nặng hơn búa rìu. Những người hiếu nghĩa, trung quân được ca ngợi, trái lại
những kẻ bất trung, bất hiếu bị phê phán nặng nề. Người thiện đọc sử có thể bắt
chước, người ác biết có thể tự răn. Như vậy mục đích chép sử để theo đuổi một
luân lý đạo đức chứ khơng phải là tìm kiếm qui luật vận động khách quan của lịch
sử. Mục đích chép sử này khác hẳn với cách chép sử của khoa học lịch sử hiện đại
ngày nay.
Mục tiêu khen chê đã dẫn đến cách viết sử đầy cảm xúc và những dịng bình
sử, những yếu tố đã đem lại màu sắc văn chương cho bộ sử. Đại Việt sử ký tồn
thư có những trang sử thấm đẫm lòng tự hào dân tộc qua việc ca ngợi các nhân vật
lịch sử. Ngô Sĩ Liên đã đưa phần ngoại kỷ vào thời kỳ mở nước chính là để đề cao
lịch sử lâu đời của đất nước hơn nữa. Trong những lời bình sử ơng đã hết lời ca
gợi những anh vị hùng dân tộc như Bà Trưng, Đặng Dung, Hưng Đạo Đại Vương
Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi …những người thầy mẫu mực như Chu Văn An ,Tơ Hiến
Thành…những người có tài đối đáp giỏi như Mạc Đĩnh Chi, những người có tinh
thần bất khuất trước kẻ thù như Trần Bình Trọng, Lê Giốc… Đơi khi ông còn so
sánh vua Đại Việt hơn cả vua Trung Hoa. “ Việc dấy quân nhân nghĩa của vua (Lê
Thái Tổ) có thể rực rỡ hơn Thang Vũ”. Việc chép lại tồn bộ các bài như : Sơng
núi nước Nam, Tụng giá hồn kinh sư của Trần Quang Khải, Ngơn hồi của Phạm

Ngũ Lão và đặc biệt là bài Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi trong chính sử
chính là niềm tự hào vô bờ về con người, sông núi, văn hiến Đại Việt. Bên cạnh
khuynh hướng gợi ca Ngô Sĩ Liên còn phê phán những kẻ cầm quyền mà hèn nhát,
sợ quân xâm lược. Tiêu biểu là lời bàn của ông về Thái uý Trần Nhật Hiệu, khi
Nhật Hiệu viết hai chữ “Nhập Tống” và không muốn gọi quân Tịnh Cương đến hội
quân. Ông viết “Nhật Hiệu là đại thần cùng họ với vua. Giặc đến khiếp sợ, hèn
12


nhát, khơng có kế sách chống giữ, lại cịn kiếm cách xui vua mình chạy đi ở nhờ
nước khác thì cịn dùng hắn làm tướng làm gì”(2,Tr28). Nhìn chung qua các lời
bình giá , ta thấy tinh thần dân tộc ở Ngô Sĩ Liên rất sâu sắc nhưng xét về mục
đích, ngun tắc viết sử thì ơng khơng khác gì sử gia Trung Quốc nếu khơng nói là
ơng đã học cách làm sử của họ. Khảo thêm về cách viết sử của ông sẽ là mục tiếp
theo.
2. Đại Việt sử ký toàn thƣ đã vận dụng tổng hợp hai lối viết sử truyền thống
của ngƣời Trung Quốc
Mở đầu bài biểu dâng sách, Ngơ Sĩ Liên đã trực tiếp trình bày lối viết sử
của mình “ theo Mã Sử biên niên nhưng thẹn vì chắp vá cịn thơ, học Lân kinh so
việc đâu dám mong cẩn nghiêm sánh kịp”(1,T102). Kinh Xuân Thu ( Lân kinh) của
Khổng Tử ra đời vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên với những từ ngữ nghiêm
khắc khô khan. Sử ký do Tư Mã Thiên biên soạn vào thế kỷ I trước công nguyên
thấm đẫm chất văn chương . Nghĩa là Ngô Sĩ Liên đã vận dụng tổng hợp cả hai
phương pháp viết sử truyền thống của người Trung Quốc: lối viết biên niên theo bộ
Xuân Thu và lối viết kỷ truyện theo Sử ký của Tư Mã Thiên. Đồng thời Ngô Sĩ
Liên đã nhắc đến Mã sử và khẳng định theo Mã sử có nghĩa là ông đã ảnh hưởng
của Mã sử nhiều. Trong Đại Việt sử ký tồn thư, Ngơ Sĩ Liên đã rất nhiều lần nhắc
đến những nhân vật lịch sử quan trọng được Tư Mã Thiên ghi chép trong sử ký.
Trong phần Bản kỷ hai lần tác giả nhắc đến Lưu Bang Hán Cao Tổ .
Lần thứ nhất khi Lý Chiêu Hoàng nhường ngơi cho Trần Cảnh trong bài

chiếu có viết “ Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người có
văn chất đủ vẻ, thực thể các qn tử hiền nhân, uy nghi đường hồng, có tư chất
thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn
được”(1, T339,340)

13


Lần thứ hai là trường hợp thượng hồng Nghệ Tơng được tin thắng trận
giết chết Chế Bồng Nga, Nghệ Tông nói “cầm cự nhau lâu ngày mới được gặp
nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ”(2,T180)
Ở kỷ nhà Trần, Ngơ Sĩ Liên cịn so sánh Trần Hưng Đạo như Qch Tử
Nghi nhà Đường. Ơng có cơng lao cùng các vua Trần thế kỷ XIII chung sức vượt
qua khó khăn khiến cho thiên hạ đã tan mà lại hợp, xã tắc đã nguy mà lại yên, suốt
đời Trần khơng cịn nạn ngoại xâm nhà Hồ nữa. Cơng lao ấy là lớn lắm. Đơi khi
ơng cịn so sánh vua Đại Việt còn hơn cả vua Trung Hoa “ Việc dấy quân nhân
nghĩa của vua Lê Thái Tổ có thể rực rỡ hơn cả Thang Vũ”…
Như vậy việc nhắc đến tên tuổi của các nhân vật lịch sử nổi tiếng Trung Hoa
trong sử ký là một minh chứng khẳng định sự ảnh hưởng của Bắc sử đối với những
trí thức Đại Việt là rất lớn .
Theo PGS_TS Hoàng Văn Lâu thì do ảnh hưởng của lối viết kỷ truyện
trong sử ký của Tư Mã Thiên nên “Trong Đại Việt sử ký tồn thư có rất nhiều
“truyện” về các nhân vật lịch sử từ các bậc đế vương, các bà thái hậu hồng phi,
các hồng tử, cơng chúa, các văn thần võ tướng, các văn nhân mặc khách cho tới
các nhân vật khơng có địa vị to tát gì trong xã hội”(7, T207). Nét nổi bật trong bút
pháp “truyện”(bút pháp tự sự ) trong Đại Việt sử ký toàn thư là khắc hoạ chân dung
nhân vật qua những chi tiết ngoại hình, chi tiết về nguồn gốc xuất thân có tính li
kỳ, miêu tả hành động, ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật và còn đặt nhân vật
vào những mối mâu thuẫn, những tình huống truyện …Thậm chí các nhà sử học
còn biết chọn lọc sắp xếp các chi tiết thành một sâu chuỗi các sự việc. Các sự việc

này được sắp xếp theo trật tự trước sau để lột tả tính cách nhân vật.
Như đoạn kể sau đây về hồng đế Thái Tơng thuộc kỷ nhà Trần: “Xưa
Thượng hồng cịn hàn vi, lấy người con gái thơn Bà Liệt (thuộc huyện Tây Chân
). Người đó có mang thì bị thượng hoàng ruồng bỏ. Đến khi Bà Liệt ra đời, thượng
hồng khơng nhận con. Lớn lên, Bà Liệt khơi ngơ giỏi võ nghệ, xin xung vào đội
14


đánh vật. Một hôm, Bà Liệt đánh cầu với người trong đội, người kia vật ngã Bà
Liệt, bóp cổ suýt tắc thở. Thượng hoàng thét lên “con ta đấy”. Người ấy sợ hãi lạy
tạ”(2,T13) . Như vậy sự kiên gan của nhà vua làm sao chiến thắng được tình phụ
tử. Đến lúc nguy nan nhất liên quan đến tính mạng của con trai mình thượng hồng
buộc phải lên tiếng. Câu chuyện không chỉ là một sâu chuỗi sự việc lối tiếp nhau
mà cịn đầy kịch tính làm cho người đọc phải hồi hộp theo dõi.
Nhiều khi các nhà sử học cịn dừng lại ở những sự việc khác thường, những
tình huống có vấn đề hay những thói quen kỳ quặc để phác hoạ tính cách. Như
đoạn viết về viên độc bạ Trần Cụ “Bấy giờ có viên độc bạ Trần Cụ tính khoan hậu,
cẩn thận thật thà, giỏi nghề đánh cá, bắn nỏ và chơi cầu. Vua sai dạy thái tử các
nghề ấy”. Mỗi hành động của cụ đều tỉ mỉ, cầu kỳ “mỗi khi sắp đánh đàn thì cắt
đầu dây buộc lại cho chặt rồi mới gảy. Có người hỏi cớ làm sao, cụ trả lời “Nếu
khúc đàn chưa hết mà dây đứt thì làm thế nào ?”. Cụ làm cầu thì cân nhắc các múi
da, cho mười hai múi cân nhau, duy ba múi ở miệng cầu là chỗ cái bong bóng lợn
vào thì hơi mỏng và nhẹ để cân đối với sức nặng ở đầu bong bóng …Nhà ơng ta ở
và thuyền có hai cửa đối nhau, xếp đặt bày biện các thứ phải cân đối ngay ngắn”.
Đặc biệt cụ có những nguyên tắc bất di bất dịch không bao giờ thay đổi “Cụ người
Cứu Liên vốn có mối hận với người Cứu Liên, thề rằng khơng bao giờ đặt chân lên
đất ấy nữa . Sau này về trở về Cứu Liên thì đi thuyền, đến khi lên bộ thì đi kiệu cho
tới khi đến giường mới xuống kiệu, thức ngủ, ăn uống đều ở trên giường. Khi nào
chơi xem vườn ao thì lại sai khiêng giường đến chỗ đó hết hứng lại trở về, lại ngồi
kiệu lên thuyền…cứ như thế cho đến lúc hết đời chưa hề dẫm một bước lên đất

Cứu Liên”(2,T89-90). Như vậy ở đây các nhà sử học có cách khắc hoạ nhân vật rất
sinh động, chú ý đến những chi tiết thể hiện tính cách kỳ quặc.
Dấu ấn của lối viết kỷ truyện trong Đại Việt sử ký tồn thư cịn được thể hiện
ở những tình huống gay cấn mà các nhà sử học lựa chọn để đưa vào trong chính
sử. Như đoạn viết về Thái sư Trần Thủ Độ “ Thủ Độ có lần duyệt định số hộ khẩu,
15


Quốc Mẫu xin riêng cho một người làm câu đương. Thủ Độ gật đầu, biên lấy họ
tên và quê quán người đó. Khi duyệt đến xã nọ, hỏi rằng : tên mỗ ở đâu. Người ấy
mừng rỡ chạy đến. Thủ Độ bảo hắn : Ngươi vì có cơng chúa xin cho làm chức câu
đương khơng ví như người câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân
biệt với người khác”. Người đó kêu van xin thơi mãi mới tha cho, từ ấy trở đi
không ai dám đến nhà thăm vì việc riêng nữa”(2, T34). Qua đây ta thấy Trần Thủ
Độ là người làm việc rất công minh không vì tình riêng mà trao giao chức vụ cho
ai cả. Cách chọn sự việc của các sử gia trong tình huống này rất nghệ thuật với chi
tiết chặt ngón chân gây ấn tượng mạnh.
Sở dĩ có cách chép sử giàu dấu ấn của lối viết kỷ truyện như trên là do mục
đích chép sử của các nhà nho. Họ muốn nêu gương dăn dạy và giáo dục cho đời
sau bằng những câu truyện lịch sử . Bài học lịch sử là những luân lý của Nho giáo,
là đạo đức làm người. Nhìn chung lối viết kỷ truyện trong Đại Việt sử ký toàn thư
đã tạo màu sắc tự sự cho tác phẩm.
Viết Đại Việt sử ký toàn thư các bậc thần sử không chỉ ảnh hưởng của lối viết
kỷ truyện trong sử ký của Tư Mã Thiên mà còn ảnh hưởng lối viết biên niên theo
Kinh Xuân Thu của Khổng Tử. Lối viết biên niên ghi sự việc xẩy ra từng ngày,
từng tháng, năm nọ tiếp năm kia, các sự kiện trong ngoài nước cùng đời đều nghi
chép đầy đủ cả. Lối viết biên niên trong Kinh Xuân Thu cũng là lối viết “bao biếm”
“một chữ được khen thì vinh hơn hoa cổn bị chê một câu thì nặng hơn rìu búa”.
Ảnh hưởng của lối viết biên niên được thể hiện ngay qua những lời bình sử. Các
nhà sử học thường lấy ngay phép tắc trong Kinh Xuân Thu làm chuẩn mực để đánh

giá các nhân vật lịch sử. Sở dĩ có điều này bởi bản thân Kinh Xuân Thu là một bộ
sử được viết theo lối biên niên nhưng đồng thời cũng là một bộ kinh điển của Nho
gia
Ngô Sĩ Liên đứng trên lập trường tư tưởng của nho gia để phê phán Lê Đại
Hành, tác giả khẳng định “Tam cương là đạo thường của muôn đời không thể một
16


ngày rối loạn, khi Lê Đại Hành giữ chức nhiếp chính, Vệ Vương cịn nhỏ nhưng
vẫn là vua, thế mà Đại Hành lại xưng làm phó vương, rắp tâm làm điều bất lợi.
Đạo làm tôi không được làm điều rắp tâm, rắp tâm ắt phải giết. Đó là phép của
sách Xuân Thu người người đều nêu lên để thi hành”(1, T221). Ơng cịn cho rằng
“Làm vua mà khơng biết Xn Thu tất phải chịu cái tiếng cầm đầu tội ác, làm tôi
mà không biết nghĩa Xuân Thu tất mắc vào tội cướp ngôi giết vua, tức là Minh
Vương, Ai Vương là Lữ Gia vậy”(2, T152). Nhìn chung tư tưởng nho gia đã thấm
sâu vào đời sống tinh thần của các bậc sử gia và đã trở thành kim chỉ nam để biên
soạn lịch sử. Họ đã đứng trên đạo đức của nho giáo như : tam tòng tứ đức, tam
cương ngũ thường… để nhìn nhận, đánh giá các nhận các nhân vật lịch sử. Ngô Sĩ
Liên phê phán Lê Đại Hành thông dâm với vợ của vua rồi nghiễm nhiên lập làm
hồng hậu thì khơng cịn gì hổ thẹn hơn nữa. Việc Đinh Tiên Hoàng lập 5 hoàng
hậu cùng một lúc làm rối loạn nhân luân, tác giả viết: “ Từ xưa chỉ lập hoàng hậu
một người để chủ việc nội trị mà thơi, chưa từng nghe nói lập đến năm người. Tiên
hồng khơng kê cứu khảo cổ học mà bề tơi đương thời lại khơng có ai biết sửa cho
đúng đến nỗi chìm đắm trong tình riêng…Sau đến hai triều Lê, Lý cũng phần
nhiều bắt trước làm theo. Ấy là do Tiên Hoàng khởi xướng sự rối loạn thứ bậc
vậy”. Cũng quan điểm ấy ông phê phán vua Trần Nghệ Tông đem công chúa Huy
Ninh chịu tang chồng mới được 6 tháng mà đem ngả cho Quý Ly thế là làm hỏng
nhân luân bắt đầu từ vua. Ngô Sĩ Liên khen những người phụ nữ chung thuỷ tuẫn
tiết theo chồng: “ Công chúa Thiều Dương nghe tin Thái Tông băng kêu gào mãi
rồi chết; Lê Thị nghe tin chồng chết không ăn mà chết; vợ Ngô Miễn là Nguyễn

Thị không phụ nghĩa chồng cũng nhảy xuống sông chết theo chồng. Mấy người
này đức hạnh thuần hiếu, trinh tiết, trên đời này thực khơng có nhiều”(2,Tr74 ).
Ngay cả cách nhìn nhận các nhân vật lịch sử như những ông vua “vương quỷ”
hay những vị vua “anh minh”, những bề tôi trung thành hay những tên nghịch
tặc...cũng là cách nhìn nhận con người theo chuẩn mực của Nho giáo .

17


Các bậc thần sử xem Nho gia là tư tưởng chính thống nên những vị vua say mê
đạo Phật bị họ phê phán kịch liệt. Cả Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên đều nêu nguyên
tắc làm vua là không được say mê đạo Phật. Ngô Sĩ Liên nhận xét về Lý Thái Tổ :
“Xem việc vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đơ n nước, lịng nhân thương dân,
lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp phản loạn, Nam Bắc thơng hiếu, thiên hạ
bình n, truyền ngơi lâu đời, có thể mưu lược của bậc đế vương. Duy có việc ham
thích đạo Phật, đạo Lão là chỗ kém”(1, T252). Cũng như vậy Ngô Sĩ Liên phê
phán Lý Thái Tông: “Sử khen vua là người nhân triết thông tuệ, có đại lược văn
võ…mê hoặc bởi cái lý thuyết từ ái của Phật mà tha tội cho bề tôi phản nghịch (chỉ
việc tha tội cho Nùng Chí Cao) thì lịng nhân ấy thành ra nhu nhược, đó là chỗ
kém”(1, T270). Trong lời bình về sư Vạn Hạnh, Ngơ Sĩ Liên không tán thành lối
sống xuất thế của nhà Phật: “sư Vạn Hạnh mới trông thấy Lý Thái Tổ, biết là
người khác thường, đến khi sét đánh thành vết chữ thì đốn biết thời thế thay đổi,
như thế là có trí thức vượt người thường vậy. Nhưng mặt khác dứt tính mệnh, bỏ
nhân luân, chán trần tục ồn ào, nương cửa thiền tĩnh mịch, để trong sạch lấy một
mình, người quân tử không cho là phải”(1 ,T247)
Tư tưởng thiên mệnh là một bộ phận quan trọng của Kinh Xuân Thu được Ngơ
Sĩ Liên dùng để giải thích sự biến của lịch sử, sự thịnh suy của các triều đại. Giải
thích về sự bại vong của Lý Nam Đế ông viết: “ Tiền Lý Nam Đế dấy binh trừ
bạo, đáng là thuận đạo trời, thế mà cuối cùng đến nỗi bại vong là vì trời chưa muốn
cho nước ta được bình trị chăng ? Than ơi ! khơng chỉ vì gặp phải Bá Tiên là kẻ

giỏi dùng binh mà còn gặp lúc nước sông đột ngột dâng lên trợ thế cho giặc, há
chẳng phải cũng do trời hay sao”(1, T182). Khi giải thích ngun nhân nhà Trần
thay nhà Lý, mặc dù ơng đã chỉ ra nhân tố chủ quan dẫn đến sự bại vong của nhà
Lý song lại cho rằng cái chủ quan do con người tạo ra cũng là cái tất yếu của thiên
mệnh: “Thái tử Sảm đi lần này là vì nước loạn mà tránh nạn, sao lại bng lịng
dâm dục ở bên ngoài tự tiện phong tước cho người ? Bởi Cao Tông ăn chơi vô độ,
giường mối bỏ hỏng cho nên mới thế. Nhưng họ Lý nhân thế mà vong, họ Trần
18


nhân thế mà hưng, ấy là do trời cả”(1,T334) . Theo Ngơ Sĩ Liên mệnh trời là huyền
bí song khơng phải là không biết trước, trời và người không đối lập nhau mà có
mối quan hệ “thiên nhân cảm ứng”. Bình luận sự kiện Lý Cơng Uẩn đốt hương
khấn trời trên đường đánh Diễn Châu ông viết: “Vua Thang gặp tai nạn hạn hán lấy
sáu sự việc ra trách mình là mưa xuống ngay. Nay vua gặp nạn gió sấm, lấy việc
đánh dẹp tự trách mình mà mưa bão ngừng ngay. Trời và người cảm ứng với nhau
rất nhỏ nhạy, ảnh hưởng rất chóng, ai bảo là trong chỗ tối tăm mặt trời không soi
đến ta mà dám dối trời chăng?”(1, T243). Ông rút ra bài học “thuận với trời thì
thịnh, nghịch với trời thì suy” Lê Lợi thành cơng vì “thuận thiên thừa vận”…
Nhìn chung ảnh hưởng của Kinh Xuân Thu vào biên soạn lịch sử chính là ở
những đoạn được viết theo lối biên niên. Sự kiện lịch sử được ghi chép theo từng
năm, từng mùa, từng tháng. Ngồi ra cịn là sự in đậm của tư tưởng Nho gia vào
biên soạn lịch sử. Có thể khẳng định rằng tư tưởng Nho gia đã trở thành “kim chỉ
nam” để biên soạn lịch sử và thấm nhuần vào đầu óc của các sử gia .
Như vậy Đại Việt sử ký tồn thư đã có sự kết hợp của hai lối viết sử truyền
thống của người Trung Quốc. Đó là lối viết kỷ truyện theo sử ký của Tư Mã Thiên
và lối viết biên niên theo Kinh Xuân Thu. Sự kết hợp của hai lối viết này đã chi
phối đến toàn bộ kết cấu của tác phẩm, đan xen trong Đại Việt sử ký toàn thư là
những đoạn được viết theo lối biên niên và những đoạn tự sự rời rạc và sự kết hợp
của hai lối viết này làm cho bộ sử trở lên hay và hấp dẫn hơn, càng đọc càng cảm

thấy có sức lơi cuốn đến kỳ lạ, thể hiện rõ tình trạng văn - sử bất phân
Ngoài ảnh hưởng của hai lối viết sử truyền thống của người Trung Quốc,
Ngơ Sĩ Liên cịn sử dụng nguồn tài liệu từ các truyền thuyết dân gian, điều này đã
được tác giả khẳng định rất rõ trong phần phàm lệ “sách này làm ra gốc ở hai bộ
Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên, tham khảo thêm Bắc sử, dã sử
các bản chí truyện và những việc nghe thấy truyềnlại khảo đính mà thành”(1,T103)

19


Mặc dù sử dụng nguồn sử liệu là dã sử và các bản chí truyện nhưng Ngơ Sĩ Liên
vẫn nghi ngờ, không tin cậy. Do vậy một mặt ông bỏ đi không chép những việc quá
quái đản, mặt khác dù đã đưa dã sử vào chính sử nhưng ơng vẫn viết thêm “sợ chưa
chắc đã đúng” (1,T103) hay tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại cho đời sau, có lẽ vì
thế mà khi trình bày phần này ơng gọi là phần ngoại kỷ. Việc thêm phần ngoại kỷ vào
Đại Việt sử ký làm cho lịch sử dân tộc được nhìn nhận một cách hệ thống và cũng là
niềm tự hào dân tộc của tác giả.
3. Đại Việt sử ký tồn thƣ là bộ sử điển hình cho tính ngun hợp văn- sử
bất phân
Theo từ điển thuật ngữ văn học “Tính ngun hợp trỏ sự hồ lẫn làm một ban
đầu của các loại hình sáng tạo văn hố”(46,T239). Tính ngun hợp là đặc trưng của
mọi ngành khoa học đặc biệt là khoa học xã hội ở giai đoạn đầu tiên. Ban đầu từ các
ngành khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội đều chưa có ranh giới rõ ràng, ngành
thiên văn chưa tách khỏi chiêm tinh, hố học cịn chung với luyện đơn, y dược, văn sử -triết còn ở trong tình trạng bất phân. Mãi đến sau này cùng với sự phức tạp hoá
dần của tồn tại xã hội và ý thức xã hội tính nguyên hợp mất dần đi tính phổ quát và
được phân chia thành các loại hình độc lập phát triển riêng rẽ.
Riêng ở phương Đông đặc biệt là ở Việt Nam do đặc điểm của tư duy tổng hợp
nên quá trình hình thành các bộ mơn khoa học riêng rẽ diễn ra chậm. Tình trạng văn –
sử –triết bất phân còn kéo dài cho đến tận ngày nay.
Hơn nữa do quan niệm về văn chương của người xưa rất rộng “ Trời đất vạn vật

đều có vẻ đẹp, vẻ đẹp ấy là văn”(42,T177) Tư duy nguyên hợp còn bắt nguồn từ tư
tưởng Nho giáo. Nho giáo chủ chương duy trì trật tự xã hội bằng đức trị nên dùng văn
để chở Đạo, bất cứ thể loại nào có thể chở được Đạo, phù hợp với triết lý đạo đức
kinh điển của Nho gia đều có thể gọi là văn. Phan Huy Chú mở đầu phần tịch chí,
sách Lịch triều hiến chương loại chí đã viết “cái hay trong lòng người gửi vào văn
chương sách vở, cho nên xem đến tư văn thì biết đạo trời. Thư tịch văn minh loài
20


người ở đó”. Quan niệm này coi tất cả những gì liên quan đến văn minh của xã hội
lồi người đều thuộc về phạm vi văn học. Cho nên một tác phẩm tơn giáo như Khố
hư lục của Trần Thái Tơng hay những văn kiện chính trị như Chiếu dời đô của Lý
Thái Tổ, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn
Trãi…đều được coi là tác phẩm văn học. Người xưa viết ra những tác phẩm trên
khơng chỉ là một cơng trình học thuật mà còn dùng văn để chở Đạo, hơn nữa họ viết
làm sao cho hình thức trải chuốt sao cho “lời hay ý đẹp” như một tác phẩm văn học.
Như vậy cội nguồn sâu xa của tính nguyên hợp văn- sử- triết bất phân trong văn
học phương Đông là bắt nguồn từ lối tư duy tổng hợp, bắt nguồn từ quan niệm của
Nho giáo dùng văn để chở Đạo, để giáo hoá nên mọi tác phẩm dùng để chở Đạo đều
gọi là văn.
Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ quốc sử đầu tiên của nước ta thời trung đại đã
thể hiện rất rõ tính chất văn – sử bất phân. Sở dĩ có điều này vì thời gian biên soạn bộ
quốc sử trên là khá sớm so với các bộ sử nói chung và so với nền văn học viết nói
riêng. Hơn nữa tính ngun hợp của bộ sử này cịn do mục đích viết sử của các nhà
nho chi phối. Họ viết sử trước hết để nêu gương dăn dạy hay truyền thụ đạo lý “ca
ngợi đời thịnh trị thì sáng tỏ ngang mặt trời, mặt trăng, lên án kẻ nghịch tặc thì lời lẽ
như sương thu lạnh buốt. Người thiện có thể bắt chước, người ác có thể tự răn”. Như
vậy mục đích chép sử của các nhà nho khơng khác lắm so với mục đích sáng tác văn
chương. Bên cạnh đó mục đích chép sử của các nhà nho còn để ghi lại sự thịnh suy
của quốc thống. Với mục đích chép sử như thế rõ ràng các nhà nho khơng có ý định

sáng tác văn chương. Nhưng trong quá trình biên soạn, họ lại “lấy tài văn chương để
ghi chép quốc sử”. Vậy là vô tình họ đã để lại giá trị văn học cho Đại Việt sử ký toàn
thư .
Đại Việt sử ký toàn thư có sự hồ quyện nhuần nhuyễn giữa văn và sử, xen lẫn
những đoạn được viết theo lối biên niên sử là những đoạn được viết theo lối kỷ truyện
mang đậm dấu ấn của tác phẩm văn học. Trước hết Đại Việt sử ký toàn thư đã khắc
21


hoạ thành công không gian tạo lên bối cảnh cho sự diễn biến của sự việc. Đó là khơng
gian nơi triều đình thường diễn ra những cảnh “nồi da nấu thịt”anh em cốt nhục giết
nhau để tranh giành ngôi báu, khơng gian chốn thâm cung bí sử nơi những vị hôn
quân ăn chơi trác táng, không gian nơi cung vua về đêm những tên nghịch thần bí mật
giết vua để chiếm đoạt ngai vàng. Ngồi khơng gian nơi triều đình cịn là khơng gian
nơi trận mạc với bối cảnh chiến trường hoang vu, hiểm trở, lau lách hay mưa gió bão
bùng…Tất cả những mảng không gian này đều là sự thật lịch sử nhưng đã được các
sử gia khắc hoạ bằng bút pháp văn học giàu sức tạo hình tạo lên bối cảnh cho diễn
biến của sự việc. Như vậy chất văn và sử đã hoà với nhau một cách nhuần nhuyễn ,
Đại Việt sử ký toàn thư chép về lịch sử của các triều đại phong kiến. Nhân vật
lịch sử được các sử gia quan tâm nhiều nhất là các bậc đế vương, các bậc trung thần
nghĩa sĩ hay những tên nghịch thần. Khi chép về các nhân vật lịch sử các bậc thần sử
đã sử dụng bút pháp khắc hoạ nhân vật của nhà văn như: thần thánh hố nguồn gốc
xuất thân, tơ đậm những nét khác biệt về chân dung ngoại hình, chú ý đến những
hành động phi phàm thể hiện thể hiện tính cách hay lên án những hành vi vô đạo đức
vi phạm những phép tắc của lễ giáo phong kiến. Cách chép sử thông thường là liệt kê
chính xác những sự kiện lịch sử theo ngày tháng nhưng trong Đại Việt sử ký toàn thư
các bậc thần sử quan tâm đến cả những cuộc đối thoại giữa các nhân vật lịch sử, thậm
chí họ còn đặt nhân vật vào những mối mâu thuẫn, những tình huống truyện có kịch
tính ….Chính cách chép sử như vậy đã mang đến giá trị văn học cho tác phẩm. Như
vậy nhân vật lịch sử nhưng lại được khắc hoạ bằng bút pháp văn học, sự kiện lịch sử

diễn ra được nằm trong bối cảnh không gian giàu màu sắc văn học, đơi khi sự kiện
cịn được sắp xếp xáo trộn không theo trật tự biên niên sử để tạo lên sức hấp dẫn. Đây
chính là sự hồ trộn giữa văn và sử .
4. Lối viết sử trong Đại Việt sử ký tồn thƣ có ảnh hƣởng sâu sắc đến lối
viết sử của nhiều thế hệ

22


Đại Việt sử ký toàn thư là một di sản văn hoá dân tộc, là tập đại thành của
nhiều nhà sử học qua nhiều đời biên soạn. Lối viết trong Đại Việt sử ký toàn thư là sự
kết hợp của hai lối viết viết sử truyền thống của người Trung Quốc. Đó là lối viết
biên niên theo Kinh Xuân Thu của Khổng Tử và lối viết kỷ truyện theo sử ký của Tư
Mã Thiên. Đánh giá về lối viết này Hoàng Hồng – Giảng viên trường Đại học khoa
học xã hội và nhân văn khẳng định rằng: “phương pháp biên niên có kết hợp với một
số yếu tố kỷ truyện cùng văn phong giàu tính thẩm mỹ của Ngơ Sĩ Liên khiến tác
phẩm rất mạch lạc, rõ ràng và sống động. Phương pháp này đã trở thành mẫu mực
biên soạn lịch sử cho các nhà sử gia của hàng trăm năm sau”(7, T108.
Ngay như tác phẩm Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sĩ, một tác phẩm viết bằng
chữ Hán ra đời vào thế kỷ XVIII có rất nhiều điểm tương đồng với lối viết sử của
Ngô Sĩ Liên. Việt sử tiêu án chép sử nước ta từ họ Hồng Bàng đến ngoại thuộc nhà
Minh. Về mặt kết cấu Ngô Thời Sĩ cũng chia lịch sử nước ta thành các kỷ gần tương
ứng với Đại Việt sử ký toàn thư như: họ Hồng Bàng, nhà Thục, ngoại thuộc Đông
Hán, ngoại thuộc Ngô - Tấn – Tề – Lương, Tiền Lý …
Khi kể lại lịch sử sau mỗi triều đại, sau mỗi sự kiện lịch tác phẩm cũng có
những lời bình sử. Qua những lời bình, người chép sử thể hiện sự đánh giá chủ quan
của mình. Cũng giống như lối viết của các bậc đại nho xưa Ngô Thời Sĩ đem văn để
chép sử. Tác giả rất thành công trong việc khắc hoạ chân dung nhân vật lịch sử qua
hành động, qua ngôn ngữ đối thoại, qua nghệ thuật sắp xếp các tình tiết…Sở dĩ có
cách chép sử như vậy bởi trong qua trình biên soạn Ngơ Thời Sĩ đã dựa vào chính sử,

ơng chỉ bổ xung đính chính lại những gì mà ơng cho là sai sót cịn lối chép sử vẫn kế
thừa các vị tiền bối xưa nên tính chất văn –sử bất phân đã hồ quyện nhuẫn nhuyễn
trong tác phẩm .
Đến các thế kỷ sau này việc sử dụng văn chương vào chép sử ngày một thể hiện
rõ ràng hơn. Điều này được đánh dấu bằng sự ra đời của hàng loạt tác phẩm diễn ca
lịch sử như: Thiên Nam ngữ lục, Đại Nam sử ký quốc ngữ, Thiên Nam minh giám,
23


Đại Nam quốc sử diễn ca…Hầu hết các tác phẩm này đều phát huy tối đa thể thơ lục
bát vào để diễn ca lịch sử. Cũng giống như các bậc thần sử xưa các tác giả diễn ca
lịch sử cũng có thái độ khen chê rất rõ ràng. Những vị anh hùng dân tộc thì được
khen gợi hết lời bằng những vần thơ hùng tráng, kỳ vĩ. Tiêu biểu là những vần thơ
dành cho vị tướng làng Phù Đổng:
Làng Phù Đổng có một người
Sinh ra chẳng nói chẳng cười trơ trơ
Những ngờ oan trái bao giờ
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân
Nghe vua cầu tướng ra quân
Thoắt ngồi, thoắt nói mn phần khích ngang
Lời thưa mẹ dạ cần vương
Lấy trung làm hiếu một đường phân minh
Sứ về tâu trước thiên đình
Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào
Trận mây theo ngọn cờ đào
Ra tay sấm sét, nửa chiều giặc tan
áo nhung cởi lại Linh san
Thoắt đà thoắt nợ trần hoàn lên tiên .
(51,T23,24)
Hay đoạn viết về Trưng Trắc, Trưng Nhị vừa mang âm điệu hào hùng vừa trữ tình, ý

thơ chắc gọn, nhịp điệu dồn dập mà lại rất tự nhiên:
Bà Trưng quê ở Châu Phong

24


×