Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

bai viet luan van

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.64 KB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA TP. HỒ CHÍ MINH

HỒNG THỊ HUYỀN

VĂN HĨA ỨNG XỬ VỚI NƯỚC TRONG
ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI XÊĐĂNG
( QUA KHẢO SÁT TẠI XÃ NGỌC LINH,
HUYỆN ĐĂK GLÊI , TỈNH KON TUM)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Tp. Hồ Chí Minh, 2015
i


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA TP. HỒ CHÍ MINH

HỒNG THỊ HUYỀN

VĂN HĨA ỨNG XỬ VỚI NƯỚC TRONG
ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI XÊĐĂNG
( QUA KHẢO SÁT TẠI XÃ NGỌC LINH,
HUYỆN ĐĂK GLÊI , TỈNH KON TUM)



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số:
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Ngơ Thị Phương Lan

Tp. Hồ Chí Minh, 2015

ii


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu cứu “ Văn hóa ứng xử với nước trong đời
sống của người Xêđăng (Qua khỏa sát tại xã Ngọc Linh, huyện Đăk Glêi, tỉnh Kon
Tum)” do tôi viết và chưa công bố.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Người viết luận văn

Hoàng Thị Huyền

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU............................................................................................................1
iii


1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu...........................................................................................2

3. Tổng quan tình hình nghiên cứu..........................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................................10
4.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................10
4.2. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................10
5. Lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu...................................................................11
5.1. Lý thuyết nghiên cứu..................................................................................11
5.1.1. Thuyết sinh thái văn hóa......................................................................11
5.1.2. Thuyết khuếch tán văn hóa..................................................................12
5.2. Giả thuyết nghiên cứu................................................................................14
6. Câu hỏi nghiên cứu............................................................................................14
7. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................14
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn...........................................................................17
8.1. Ý nghĩa khoa học........................................................................................17
8.2. Ý nghĩa thực tiễn........................................................................................17
9. Bố cục luận văn.................................................................................................17
B. NỘI DUNG.........................................................................................................19
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN......................19
NGHIÊN CỨU........................................................................................................19
1.1. Cơ sở lý luận...................................................................................................19
1.1.1. Khái niệm................................................................................................19
1.1.1.1. Văn hóa.............................................................................................19
1.1.1.2. Ứng xử..............................................................................................23
1.1.1.3. Văn hóa ứng xử................................................................................25
1.1.2. Chức năng của văn hóa ứng xử...............................................................29
1.1.2.1. Phản ánh văn hóa ứng xử của cá nhân.............................................29
iv


1.1.2.2. Phản ánh văn hóa ứng xử của cộng đồng.........................................29
1.1.3. Nước, văn hóa nước và văn hóa ứng xử với nước..................................30

1.1.3.1. Nước.................................................................................................30
1.1.3.2. Văn hóa nước và văn hóa ứng xử với nước......................................32
1.2. Một số đặc điểm về địa bàn nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu.................33
1.2.1. Khái quát về xã Ngọc Linh......................................................................33
1.2.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên.....................................................33
1.2.1.1.1. Địa hình – đất đai – khống sản....................................................33
1.2.1.1.2. Khí hậu..........................................................................................34
1.2.1.1.3. Tài nguyên rừng............................................................................34
1.2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội.................................................................35
1.2.2. Khái quát về người Xêđăng.....................................................................36
1.2.2.1. Tộc danh và lịch sử cư trú................................................................36
1.2.2.2. Đặc điểm kinh tế..............................................................................37
1.2.2.3. Đời sống văn hóa..............................................................................39
1.2.2.4. Đời sống gia đình và đời sống xã hội...............................................41
Tiểu kết chương 1....................................................................................................43
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ỨNG XỬ VỚI NƯỚC CỦA NGƯỜI XÊĐĂNG Ở
XÃ NGỌC LINH....................................................................................................44
2.1. Phân loại nước của người Xêđăng..................................................................44
2.2. Nước trong hoạt động kinh tế của người Xêđăng..........................................45
2.2.1. Trồng lúa nước........................................................................................45
2.2.2. Trồng rẫy và các loại hoa màu............................................................47
2.2.3. Trong hoạt động đi rừng và khai thác thủy sản...................................48
2.3. Nước trong sinh hoạt hàng ngày của người Xêđăng..................................49
2.3.1. Nước dùng để ăn uống và kiêng cữ.....................................................49
2.3.2. Nước dùng để sinh hoạt.......................................................................53
v


2.4. Trong việc chọn gỗ để làm nhà..................................................................54
2.5. Nước trong lễ nghi gia đình, dịng họ của người Xêđăng..........................55

2.5.1. Nước trong tập quán sinh nở...............................................................55
2.5.2. Nước trong tập quán chọn nơi định cư................................................57
2.5.3. Nước trong phong tục cưới xin...........................................................59
2.5.4. Nước trong phong tục tang ma............................................................61
2.6. Nước trong nghi lễ cộng đồng của người Xêđăng.....................................65
2.6.1. Lễ Tết mang nước...............................................................................65
2.6.1.1. Mục đích, ý nghĩa........................................................................65
2.6.1.2. Thời gian, địa điểm tổ chức..........................................................66
2.6.1.3. Chuẩn bị.......................................................................................66
2.6.1.4. Nội dung.......................................................................................66
2.7. Cách quản lý, bảo vệ nước của người Xêđăng...............................................75
Tiểu kết chương 2....................................................................................................78
CHƯƠNG 3. BIẾN ĐỔI TRONG ỨNG XỬ VỚI NƯỚC CỦA NGƯỜI XÊĐĂNG
Ở XÃ NGỌC LINH................................................................................................79
3.1. Những biến đổi trong việc sử dụng nước.......................................................79
3.1.1. Biến đổi trong canh tác lúa nước.............................................................79
3.1.2. Biến đổi trong sử dụng nước ăn uống, kiêng cữ và nước sinh hoạt hàng
ngày.................................................................................................................80
3.1.3. Biến đổi trong việc chọn gỗ làm nhà.......................................................82
3.2. Biến đổi trong phong tục, tập quán và lễ hội liên quan đến nước..................83
3.2.1. Trong phong tục, tập quán.......................................................................83
3.2.1.1. Biến đổi trong tập quán sinh nở.......................................................83
3.2.1.2. Biến đổi trong tập quán chọn nơi định cư........................................84
3.2.1.3. Biến đổi trong phong tục cưới hỏi....................................................85
3.2.1.4. Trong lễ hội liên quan đến nước.......................................................85
vi


3.2.1.5. Biến đổi trong việc quản lý, bảo vệ nước.........................................86
3.3. Nguyên nhân của sự biến đổi.........................................................................87

3.3.1. Chính sách phát triển kinh tế...................................................................88
3.3.2. Chính sách dân tộc..................................................................................90
3.3.3. Sự giao lưu và tiếp biến văn hóa.............................................................94
3.3.4. Sự thay đổi vai trị của các Già làng........................................................97
3.3.5. Sự đứt gãy trong tiếp nối và thực hành tri thức.......................................99
Tiểu kết chương 3..................................................................................................101
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................102
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................104
E. DANH MỤC CƠNG TRÌNH CƠNG BỐ CỦA CÁC TÁC GIẢ.....................107
F. PHỤ LUC..........................................................................................................107

vii


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa với
những nét đặc thù đã góp phần tạo nên sự đa dạng trong tính thống nhất của văn
hóa Việt Nam. Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, người Xêđăng sống tập
trung ở Tây Nguyên và có một truyền thống văn hóa cổ truyền đặc sắc, đậm nét và
khá riêng biệt từ phong tục tập quán, ăn ở, đi lại hay tập tục canh tác nương rẫy.
Khi nhắc đến các cư dân vùng đất Tây Nguyên, hình ảnh các dân tộc thường
gắn liền với canh tác nương rẫy. Nhưng người Xêđăng ở xã Ngọc Linh, huyện
ĐăkGlêi, tỉnh KonTum lại có truyền thống canh tác lúa nước từ lâu đời, từ lúc họ
bắt đầu cư trú ở đây. Là một dân tộc với truyền thống canh tác là lúa nước, người
Xêđăng đã bổ sung, hoàn thiện cho bức tranh về văn hóa thích nghi với mơi trường
tại đây.
Người Xêđăng cho rằng nhân tố đầu tiên tạo nên ruộng nước tốt chính là
nguồn nước đầy đủ. Trải qua nhiều năm sinh sống, gắn bó với các con suối lớn nhỏ
trong địa bàn, người Xêđăng có rất nhiều kinh nghiệm ứng xử quý báu về nước.

Họ đã tận dụng nước để phục vụ cho hoạt động sản xuất lúa nước: làm các hệ
thống mương để đưa nước về ruộng, họ luôn đặt công việc dẫn nước về ruộng lên
hàng đầu, có nước mới có ruộng, có ruộng mới có lúa và có lúa mới ni sống
được dân làng.
Với lối sống định canh chủ yếu bằng ruộng lúa nước, lúa nước là cây lương
thực chính trong cuộc sống của người dân nơi đây nên nước chiếm một vị trí đặc
biệt quan trọng, nó bao trùm lên tồn bộ đời sống cũng như sinh hoạt văn hóa tinh
thần của họ. Ngồi ra, nguồn nước đóng vai trị quan trọng trong việc chọn đất lập
làng cũng như trong tín ngưỡng, phong tục, tập quán của người dân. Cho nên,
người Xêđăng ở đây ln coi trọng nước và có cách ứng xử với nước mang đậm
1


bản sắc văn hóa dân tộc mình. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi đời sống có
nhiều thay đổi, những nét văn hóa mang đậm dấu ân ứng xử với nước đã có ít
nhiều biến đổi. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về văn hóa ứng xử với nước của
người Xêđăng là rất cần thiết, góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị cịn phù hợp
với mơi trường để con người thể hiện nhiều cách ứng xử khác nhau đối với nước
gắn với đời sống của cộng đồng mình. Đó là những kinh nghiệm q báu giúp
người Xêđăng tồn tại, phát triển qua nhiều thời kỳ. Và đây cũng chính là lý do tơi
chọn đề tài:“Văn hóa ứng xử với nước trong đời sống của người Xêđăng (Qua
khảo sát tại xã Ngọc Linh, huyện Đăk Glêi, tỉnh Kon Tum)” làm chủ đề nghiên
cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống và khái quát những nét đặc trưng của văn hóa ứng xử với nước của
người Xêđăng trong mơi trường văn hóa Tây Ngun.
- Tìm hiểu những biến đổi trong văn hóa ứng xử với nước như một chỉ báo
cho sự biến đổi về kinh tế - xã hội của người Xêđăng.
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về chủ đề văn hóa ứng xử với nước, đã có nhiều cơng trình khác

nhau tập trung vào các nhóm chủ đề sau:
* Các cơng trình liên quan đến tự nhiên và ứng xử của con người với tự
nhiên (trong đó nước là một thành tố):
Cơng trình "Con người, mơi trường và xã hội" của Nguyễn Xn Kính (2003)
có giới thiệu việc nghiên cứu của mình vào nhiều lĩnh vực khác nhau: con và môi
trường, ứng xử của người Việt đối với nước, tiếp xúc văn hóa và tiếp biến văn hóa,
văn hóa dân gian thể hiện bản sắc dân tộc... và trong mối quan hệ giữa con người
và môi trường thì ngồi việc bị ảnh hưởng của sự tiếp xúc, tiếp biến văn hóa thì
việc ứng xử của con người với môi trường cũng không kém phần quan trọng (trong
2


đó có ứng xử với nước) và trong tác phẩm của mình, tác giả Nguyễn Xn Kính đã
có một bài viết về Ứng xử của người Việt đối với nước. Trong phần này, tác giả đã
nêu rõ tầm quan trọng của nước "Đủ nước thì con người khỏe mạnh, cây cối tươi
tốt, mùa màng bội thu. Thiếu nước hoặc thừa nước thì con người đau yếu, cây cối,
mùa màng bị ảnh hưởng xấu, thậm chí lũ lụt có thể gây tai họa chết người, tàn phá
mùa màng" (tr.33).
Tác giả có nói về nhiều lễ hội ở nhiều nơi có nghi thức rước nước như: lễ hội
đền Bà Tấm ở Hà Nội với quy mô của đám rước dài và lớn, cho nên phải mất bốn,
năm tiếng mới rước được nước về tới đền. “Ngày hội mở đầu bằng đám rước nước.
Đám nước khởi hành từ đền thờ bà, đoàn người đi đến giếng nước cạnh làng Sủi.
Lấy xong nước, đám rước lại từ giếng trở về đền. Sau kiệu bà là kiệu chóe đựng
nước” (tr.34)
Hội đình - đền Bổng Điền ở Thái Bình. “Mở đầu là đám rước kiệu Thánh
mang bài vị Thành hồng làng. Đám rước đi từ đình ra đến đền Vạn Chài thì hạ
kiệu, dân làng làm lễ bãi vọng rồi đưa lọ nước xuống một chiếc thuyền, có đồn
thuyền hộ tống xi dịng đến ngã ba sơng thì làm lễ đổ nước cũ xuống, múc nước
mới lên, đưa về đặt lên kiệu rước về đình thờ” (tr.38).
Hay lễ hội đền Cuông ở Nghệ An. “Ở lễ hội này, bao giờ cũng có lễ rước

nước. Nước được lấy từ giữa sông hoặc ở giếng nước về đền và đình làng. Sau khi
đám rước đến giếng, người ta đặt kiệu long đình ở một nơi cao ráo, sạch sẽ. Hai
thanh niên khỏe mạnh (đã được trai giới) khiêng chum từ kiệu xuống, đặt sát
miệng giếng. Một cụ già được cắt cử trước, lấy gáo dừa có cán dài, đưa gáo ra
giếng, múc từng gáo một đổ từ từ qua lớp vải điều căng trên miệng chum. Sau đó,
chum nước được khiêng lên kiệu rước về đền” (tr.38).
Bên cạnh đó, tác giả có nói về dân gian có những quy định cụ thể để bảo vệ
nguồn nước sản xuất và nước sinh hoạt, cụ thể là các điều trong hương ước các
làng như Điều 15 của hương ước xã Hồnh Mĩ, tỉnh Thái Bình ghi rõ: “Làng cử
3


một thủ lộ coi giữ đê đường cầu giếng của làng, nếu đâu hư hỏng phải tường
hương hội để chữa đắp. Ai vì lợi riêng mà làm thiệt hại đến đê đường cầu giếng,
thủ lộ tường hương hội để trừng phạt”(tr.46). Hay điều 23 của hương ước làng
Duyên Lãng, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái bình quy định: “Trương tuần phải đơn
đốc tuần phu canh phịng đường sá sơng đê cùng với tuần phu hưởng lợi lúa
sương”(tr.46) hay điều 2 của hương ước làng Đồng Mỗ, huyện Yên Điịnh, tỉnh
Thanh Hóa ghi nhưu sau: “Những nơi ruộng thấp trũng, việc tích nước, tháo nước
đã có lệ cũ quy định. Các con đường lớn nhỏ theo địa mạch đã định ở các nơi, vào
vụ cày cấy nếu ruộng trên úng nước, dưới cạn khơ thì phải điều chỉnh lại cho đều.
Người nào tự ý làm trái, phá bờ tháo nước không xin phép, bản trang bắt phạt: 3
mạch tiền cổ. Nếu chống lại sẽ bị bắt giam khơng tha” (tr.47).
Ngồi ra, cịn rất nhiều điều của hương ước các làng, tỉnh khác nhau. Cuối
cùng, tác giả có nói đến "Sống hịa điệu với thiên nhiên, nhận thức đúng tự nhiên,
giữ gìn mơi trường xanh, sạch đẹp, tiết kiệm nước là cách ứng xử đúng đắn và
khơn ngoan" (tr.56). Cơng trình của tác giả giúp cho người viết biết được từ xa
xưa, đối với người Việt, nước đã có vai trị rất quan trọng và cũng từ xa xưa, người
Việt đã có những kinh nghiệm cũng như cách thức ứng xử với nước, bảo vệ nguồn
nước để duy trì cuộc sống của con người. Điều này đóng vai trị vơ cùng quan

trọng giúp người nghiên cứu nghiên cứu được tầm quan trọng của nguồn nước đối
với người Xêđăng ở xã Ngọc Linh để họ có cách ứng xử cho phù hợp với nguồn
nước.
Cơng trình "Theo dịng lịch sử - những vùng đất, con người, tâm thức người
Việt" (2006) của nhà nghiên cứu lịch sử - văn hóa Trần Quốc Vượng đã nêu lên
những mối tương quan, tương tác giữa con người và tự nhiên, quan hệ nhiều tầng
với tự nhiên qua các thành tố Trời (khơng khí, gió, mưa, thời tiết), Đất (thổ
nhưỡng), Nước (sơng ngịi, đầm hồ, biển...) và phong thủy. Đó là những cơ sở

4


mang tính thực tiễn cao, giúp làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu mang tính
tương quan giữa con người với nguồn nước.
"Tục thờ nước của người Việt ở Châu thổ Sơng Hồng" (2012) của Võ Thị
Hồng Lan đã nghiên cứu tục thờ nước của người Việt ở Châu thổ Sông Hồng
trong một không gian địa lý - xã hội nhất định, tác giả có nói về các lễ thức liên
quan đến nước như: lễ thức cướp nước, cụ thể là trị cướp nước với mục đích cầu
nước, cầu mưa thuận gió hịa, cả trai và gái đều cướp nước, nó có chứa được cả âm
và dương, làm cho năng lượng phồn thực của nước được tăng lên hay lễ cầu đảo
để đối phó với các hiện tường thời tiết không như ý muốn như hạn hán kéo dài, ảnh
hưởng đến cây trồng vật ni, có khi ảnh hưởng đến cuộc sống con người nên họ
làm lễ cầu đảo để xin cho trời mưa xuống. Hay lễ thức trị thủy, cụ thể như lễ cúng
bến ở thôn Văn Quán, tỉnh Vĩnh Phúc để con cháu đi làm ăn qua sông, qua bãi
không bị tai nạn sông nước, xin hà bá hãy làm cho nước sơng chảy xi dịng chứ
đừng ngưng/dâng gây ra lụt lội; lễ hội chạy ngựa tre ở thôn Yên Trạch, tỉnh Hà
Nam là một nghi lễ chống lụt của người dân. Hay các trò diễn liên quan trong lễ
hội như: lễ lấy/rước nước thiêng, múa rồng và múa sư tử, trò thi đốt pháo, trò kéo
co, trò cướp cầu, thi đua thuyền hay bơi chải, thi thả diều hay thả chim bồ câu.
Đặc biệt, trong chương 4 tác giả có nói về Giá trị của tục thờ nước và việc

bảo tồn, phát huy di sản văn hóa này trong bối cảnh hiện nay. Tục thờ nước có giá
trị về mặt nhận thức: nhận thức được rằng, nước là một lực lượng tự nhiên vừa có
thể đem lại sự sống, sự no đủ cho con người (nếu đủ nước và đúng thời), nhưng
nước cũng có khả năng gây hại, thậm chí là hủy diệt sự sống (nếu thừa hoặc thiếu
nước). Do vậy, con người cần có ý thức, thái độ đúng đắn khi sử dụng nước, đó là
sựu trân trọng, bảo vệ nguồn nước cũng như không lãng phí nước. Hay giá trị về
mặt ứng xử: hịa với nước trên cơ sở hòa với tự nhiên, cố gắng tìm mọi cách để
thích nghi, thích ứng với những thuận lợi và cả những bất lợi của môi trường tự
nhiên, tôn trọng tự nhiên, sống chung cả mặt thuận (mưa thuận gió hịa) và mặt
5


nghịch (lũ lụt, hạn hán) mà nguồn nước mang lại; ứng xử có tính hai chiều với
nước: tìm cách tận dụng, khai thác những lợi ích do nước mang lại, lại vừa có ý
thức phịng tránh tác hại từ nước. Ngồi ra, cịn có giá trị lịch sử là giúp tìm hiểu
lịch sử khai phá châu thổ sơng Hồng qua nguồn nước, cũng như tập quán sử dụng
nước của người Việt; giá trị về mặt tâm linh: nếu thờ phụng những vị thần linh liên
quan đến nước, cùng nhau thực hiện những lễ thức thì giúp họ tự tin hơn khi đối
diện với những hiện tượng thời tiết bất thường, mang lại cho họ sức mạnh để đoàn
kết cùng nhau vượt qua khó khăn.
Đồng thời bảo tồn tục thờ nước trong bối cảnh hiện nay bằng cách: điều tra,
sưu tầm, thu thập những thành tố văn hóa phi vật thể (truyền thuyết, thần tích, lễ
thức...) liên quan đến tục thờ nước hiện đang tồn tại để nghiên cứu và có thể dựa
vào đó để phục hồi; tạo điều kiện để di sản tồn tại trong chính mơi trường đã sản
sinh ra nó; có kế hoạch bảo tồn những giá trị văn hóa phi vật thể của tục thờ nước
và kế hoạch bảo tồn những giá trị vật thể liên quan. Và phát huy tục này bằng cách:
giúp cộng đồng nâng cao nhận thức về giá trị của tục thờ nước để gạn lọc được
những kinh nghiệm của ngày hôm qua những ứng xử vẫn cịn phù hợp và có ích
với ngày hôm nay; giải mã những biểu tượng liên quan và tuyên truyền, phổ biến
tới cộng đồng củ nhân những biểu tượng ấy để họ ứng xử với di sản tốt hơn hay

không làm biến dạng lễ thức và tục thờ; phục hồi có chọn lọc nhưng sinh hoạt tâm
linh liên quan đến nước; loại bỏ những yếu tố phản giá trị. Phát huy hết những giá
trị để giữ được sự lành mạnh, trong sáng trong sinh hoạt tín ngưỡng của người dân.
Cơng trình "Tục thờ nước của người Việt qua lễ hội ở Hà Nội và phụ cận"
(2015) của tác giả Nguyễn Thị Việt Hương đã nói về vai trò của nước trong đời
sống vật chất và tinh thần của người Việt ở Châu thổ Sông Hồng và miêu tả những
lễ hội mang ý nghĩa cầu nước như lễ hội thờ Thần Mưa, lễ hội thờ Thần Sông ở Hà
Nội khá chi tiết. Bên cạnh đó, tác giả cịn nêu ra giá trị lịch sử và giá trị văn hóa
của lễ hội thờ nước ở Hà Nội và phụ cận. Cơng trình của tác giả giúp người nghiên
6


cứu thấy được vai trò của nước trong sản xuất nông nghiệp cũng như trong đời
sống của người Việt, từ đó họ tổ chức các nghi lễ, lễ hội và những thực hành của
con người để thể hiện cách ứng xử với nước, thể hiện sự tôn trọng của con người
đối với nước. Điều này giúp người nghiên cứu có thể thấy được vai trò của nước
trong đời sống của người Xêđăng, để từ đó nghiên cứu, tìm hiểu những nghi thức,
lễ hội, phong tục, tập quán của người Xêđăng liên quan đến nước và thực hành của
họ như thế nào khi ứng xử với nước.
Tuy đều nghiên cứu về tục thờ nước của người Việt nhưng hai cơng trình của
hai tác giả này có sự khác biệt, đó là: cơng trình của Nguyễn Thị Việt Hương tập
trung vào nghiên cứu những lễ hội mang ý nghĩa cầu nước ở Hà Nội như lễ hội thờ
Thần Mưa (Hội chùa Sét thờ Pháp Điện, Hội chùa Vua thờ Đế Thích, Hội làng
Linh Đàm thờ Thủy thần), lễ hội thờ Thần Sông (Hội làng Thủ Lệ thờ Linh Lang
Đại Vương, Hội làng Nhật Tân thờ Uy Đô Linh Lang, Hội làng Yên Nội thờ Thổ
Lệnh Bạch Hạc Tam Giang, Hội làng Chủ Xá thờ Chử Đồng Tử, Tiên Dung, Tây
Sa, Càn Hải Đại Vương, Tứ Vị Thanh Nương) thì tác giả Võ Thị Hoàng Lan lại tập
trung vào việc miêu tả các lễ thức liên quan đến nước như: lễ cướp nước, lễ cầu
đảo, lễ trị thủy, lễ cúng bến, lễ hội chạy ngựa tre hay các trò diễn liên quan đến
nước trong lễ hội như: lễ lấy/rước nước thiêng, múa rồng và múa sư tử, trò thi đốt

pháo, trò kéo co, trò cướp cầu, thi đua thuyền hay bơi chải, thi thả diều hay thả
chim bồ câu.
Dường như tác giả Võ Thị Hoàng Lan đã nghiên cứu cụ thể hơn các lễ thức
liên quan đến nước cụ thể trong các lễ hội thay vì chỉ miêu tả về các lễ hội thờ các
vị thần liên quan đến nước, mang ý nghĩa cầu nước của tác giả Nguyễn Thị Việt
Hương.
Bài viết “Văn hóa ứng xử, nói thêm những điều cần nói” của Hồ Sĩ Vịnh
(2012) có nói về thái độ, hành vi ứng xử văn hóa của con người với thiên nhiên,
với xã hội và với chính mình. Trong đó, tác giả có đề cập đến thiên nhiên (đứng
7


sau con người) là một trong hai nguồn lực cơ bản của phát triển. Thiên nhiên cung
cấp cho con người nhiều thứ nhưng con người lại đang tâm phá hoại nó, có lúc lại
tự hào coi mình đã chinh phục được thiên nhiên - nhất là khi khoa học, công nghệ
phát triển. Điều đó đã nói nên văn hóa ứng xử của con người với thiên nhiên và tác
giả cúng đã nêu ra cách để ngăn ngừa thực trạng khủng hoảng môi trường sinh thái
bằng cách nhấn mạnh nhận thức của con người về cách ứng xử với môi trường tự
nhiên, không được hành xử thô bạo, can thiệp mù quáng đến tự nhiên. Đồng thời,
tác giả còn lùi sâu vào lịch sử nước ta trước đây, nói về cách ứng xử của con người
với tự nhiên, về cách con người coi trọng tự nhiên để con người thời kỳ của sự phát
triển biết cách ứng xử hòa hợp với môi trường tự nhiên. Bài viết của tác giả cung
cấp những nhận thức quý báu cho con người về cách ứng xử với môi trường tự
nhiên của con người (trong đó có nguồn nước), đặc biệt là con người trong xã hội
ngày nay.
Cơng trình “Những vấn đề văn hóa học – lý luận và ứng dụng” của Trần Ngọc
Thêm (2013) đã dành riêng ra một chương để nói về nước, đó là chương VIII
“Nước, văn hóa và hội nhập”. Tác giả có nói về văn hóa ứng xử của con người với
nước như: tận dụng nước (để ăn, đề ở, để đi lại) hay đối phó với nước (ở mơi
trường sơng nước, giao thơng đường thủy thì bắc cầu, với nghề nơng trồng lúa –

cần nước thì người Việt giữ nước bằng cách đắp bờ, chia ruộng thành từng khoảnh
nhỏ. Miền núi với hệ thống ruộng bậc thang thì bên cạnh các láng, đầm thiên tạo,
người Việt đã đào ao, hồ, bàu, đìa... Để dẫn nước, bên cạnh các sơng, rạch, xẻo
người Việt còn đào kênh, mương, rạch; để chống lụt thì người Việt đắp đê; nếu cư
trú ở vùng sơng nước thì làm nhà sàn cao để tránh nước) hay việc lưu luyến nước
của con người (mái nhà thường làm thành hình con thuyền, mái thấp võng xuống
và hai đầu cong lên – tuy bây giờ kiễn trúc mái cong khơng cịn được duy trì nhiều
ở những ngơi nhà bình thường nhưng vẫn được bảo tồn ở các cơng trình đình,
chùa, miếu; bên cạnh đó người Việt cịn duy trì các trị chơi liên quan đến nước
8


như: đốt pháo, đập pháo (làm giả tiếng sấm), tín ngưỡng cầu mưa, trị thả diều
(mang nắng – gió nhiều) hay trong nghệ thuật thanh sắc thì có những điệu hị gắn
với sơng nước, múa rối nước cũng là loại hình sân khấu đặc sắc nơi cuộc sống con
người gắn với địa hình sơng nước....) hay việc sùng bái nước (thờ vị thần liên quan
đến nước như: Mẹ nước, Bà Thủy, Mẫu Thoải, Bà Chúa Sông, Bà Chúa Lạch hoặc
cầu mưa hông qua các Bà Mây – Mưa - Sấm – Chớp hoặc các tục rước nước, đánh
trống đồng, đốt pháo...đều nhằm nhắc nhở trời làm mưa hay những con vật liên
quan đến sông nước được sùng bái hàng đầu như “Nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ
tượng” hoặc các loại động vật liên quan đến nước như cóc, cá voi...cũng rất được
sùng bái).
Bài viết của Trần Ngọc Thêm là nguồn tư liệu quan trọng giúp tác giả làm rõ
cách ứng xử của con người với nước bằng cách tận dụng nước hay đối phó với
nước rồi đến sùng bái nước, lưu luyến nước để từ đó có thể hồn thiện hơn đề tài
của mình.
Tóm lại, ứng xử với tự nhiên chính là cách thức mà con người:
+ Sống hịa hợp với tự nhiên (dù là tận dụng hay ứng phó với tự nhiên)
+ Bảo vệ tự nhiên để đảm bảo cho cuộc sống của con người
* Các cơng trình nói về các lễ hội liên quan đến nước:

Nếu như các cơng trình trên có đề cập đến vai trị của nước, cách thức con
người ứng xử với nước, bảo vệ nguồn nước hay bảo tồn và phát huy giá trị của tục
thờ nước thì cũng có những cơng trình liên quan đến lễ hội nước của người Việt, cụ
thể như:
Chuyên luận "Văn hóa dân gian Việt nam trong bối cảnh văn hóa Đơng Nam
Á" (1993) của GS. Đinh Gia Khánh khi trình bày những sự tương đồng cơ bản nhất
giữa văn hóa dân gian Việt Nam và văn hóa dân gian các nước Đông Nam Á khác
đã điểm qua một loại lễ hội rất quan trọng ở Đông Nam Á, đó là hội nước. Tác giả
đưa ra những dẫn chứng cụ thể và các nghi lễ liên quan đến việc cầu nước trong
9


các lễ hội của nhiều dân tộc ở Đông Nam Á: từ tục đi lấy nước thờ của người Việt
đến tục té nước của người Thái, người Lào, người CamPuChia, rồi các hội thi bơi
chải, đua thuyền, đua ghe ngo của người Khơmer, người Việt...Qua đó cho thấy
được nước khơng chỉ quan trọng đối với người Việt nói riêng mà cịn quan trọng
đối với các nước Đơng Nam Á nói chung nên họ đã có những phong tục, nghi lễ,
cách ứng xử riêng liên quan đến nước nhằm thể hiện sự tôn trọng nước, sự thiêng
liêng, cần thiết của nước. Điều này cũng giúp ích cho tác giả khi nghiên cứu về vấn
đề ứng xử với nước của người Xêđăng để biết được trong các hoạt động nghi lễ, lễ
hội, phong tục nước quan trọng như thế nào và họ đã có cách ứng xử với nước ra
sao để thể hiện sự tơn trọng của mình đối với nước.
Cơng trình "Tục thờ nước của người Việt qua lễ hội ở Hà Nội và phụ cận"
(2015) của tác giả Nguyễn Thị Việt Hương tập trung vào nghiên cứu những lễ hội
mang ý nghĩa cầu nước ở Hà Nội như lễ hội thờ Thần Mưa (Hội chùa Sét thờ Pháp
Điện, Hội chùa Vua thờ Đế Thích, Hội làng Linh Đàm thờ Thủy thần), lễ hội thờ
Thần Sông (Hội làng Thủ Lệ thờ Linh Lang Đại Vương, Hội làng Nhật Tân thờ Uy
Đô Linh Lang, Hội làng Yên Nội thờ Thổ Lệnh Bạch Hạc Tam Giang, Hội làng
Chủ Xá thờ Chử Đồng Tử, Tiên Dung, Tây Sa, Càn Hải Đại Vương, Tứ Vị Thanh
Nương). Qua các lễ hội này có thể thấy được người Việt đã tôn trọng nước như thế

nào để ứng xử phù hợp với nước thông qua các lễ hội.
Công trình "Lễ hội cổ truyền" do PGS. Lê Trung Vũ chủ biên (1992) có phần
viết về những lễ thức liên quan đến nước được đặt trong chương VII: Hội làng tái
hiện sinh hoạt nông nghiệp (tr.121 đến tr.132), tác giả đã cho người đọc những
hình dung ban đầu ở mức độ khái quát về tục cầu nước, cầu mưa và lễ rước nước.
Vì làm nghề nơng trồng lúa nên phụ thuộc vào thời tiết, nhất là nước. Làm sao đủ
nước đủ cho cả cánh đồng một làng, cho nhiều cánh đồng của nhiều làng, cho hàng
vạ, hàng chục mẫu ruộng cả một vùng nên “nước trở thành một vật báu, phải có
hành động đặc thù cầu nước về đúng lúc khi nghề nông cần tới”. Và thế là những
10


nghi lễ cầu nước nảy sinh, lễ rước nước nảy sinh để thể hiện cho lòng cầu mong
nước của con người; hay lễ đảo vũ (cầu mưa) - cẩu mưa cho những mùa hạn hán,
cây cối thiếu nước nên phải đứng ra “mở đám” lập đàn cầu mưa, gọi là lễ đảo vũ;
hay hội đua thuyền – là một “lễ thức – phong tục sinh ra từ hoạt động nông nghiệp
như nghi thức cầu mùa”, đua thuyền là một sinh hoạt văn hóa dân gian trên sơng
nước hay cịn gọi là “tiệc bơi, bơi trải”. Mặc dù chưa đi sâu vào từng chuyên luận
riêng, nhưng việc miêu tả và phân loại những lễ thức liên quan đến nước của tác
giả ở cơng trình này là gợi ý cho nghiên cứu luận văn của tác giả.
* Các cơng trình liên quan đến người Xêđăng (Xơđăng) ở Việt Nam:
Cơng trình “Các dân tộc tỉnh Gia Lai – Công Tum” do Đặng Nghiêm Vạn chủ
biên (1981) của NXB Khoa học xã hội đã mô tả 6 tộc người bản địa ở GiaLai,
KonTum, trong đó có người Xơđăng được giới thiệu với nhiều khía cạnh khác
nhau: từ tộc danh và các nhóm địa phương đến sự phân bố địa bàn cư trú; từ các
hoạt động kinh tế, các nghề phụ trong gia đình đến tổ chức, quan hệ xã hội, từ hơn
nhân, gia đình đến sinh hoạt tín ngưỡng – tơn giáo. Về cơ bản, những đặc điểm
trên của người Xơđăng được nhóm tác giả miêu tả khá chi tiết và cụ thể.
Cơng trình “Nghi lễ vòng đời của người Xơđăng” của tác giả Phan Văn
Hoàng (2009) đã viết về đời sống vật chất như sản xuất kinh tế; nhà ở, ăn, mặc,

uống, hút đến đời sống tinh thần như ngôn ngữ và chữ viết; văn học dân gian ( gồm
truyện cổ dân gian; ca dao, dân ca); nghệ thuật dân gian (gồm ca hát, âm nhạc,
nghệ thuật múa dân gian, nghệ thuật tạo hình – trang trí dân gian) của người
Xơđăng (hay cịn gọi là Xơteng) cũng rất chi tiết.
Ngoài ra, bài viết về “Người Xơđăng ở Việt Nam” của NXB Thông Tấn
(2014) có miêu tả về nguồn gốc và sự phân bố dân cư của người Xơđăng, đời sống
vật chất của người Xơđăng như buôn làng, nhà ở; các nghề như nghề đan lát, nghề
rèn, nghề dệt; ẩm thực; trang phục, trang sức và đời sống tinh thần như tín ngưỡng,
lễ hội (lễ cúng máng nước, lễ bắn, lễ ăn trêu huê), hôn nhân, tang ma. Mặc dù
11


không đi vào miêu tả chi tiết, chỉ là miêu tả ngắn gọn nhưng bài viết đã giúp tác giả
hiểu rõ phần nào về đời sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần của người
Xơđăng ở Việt Nam.
Cùng là viết về người Xơđăng nhưng ba cơng trình có điểm giống và khác
nhau như sau:
Hai cơng trình viết về người Xơđăng của hai tác giả Đặng Nghiêm Vạn và
Phan Văn Hồng có sự giống nhau là cả hai tác giả đều giới thiệu 5 nhóm của tộc
người Xơđăng (dù tên gọi có hơi biến âm) nhưng về cơ bản hai tác giả cũng giới
thiệu 5 nhóm tộc người Xơđăng giống nhau.
Bài viết của NXB Thông Tấn và của tác giả Phan Văn Hoàng cũng phân chia
thành hai lĩnh vực là đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Tuy nhiên, ba cơng trình có sự khác nhau ở chỗ: tác giả Đặng Nghiêm Vạn thì
nói về tộc người Xơđăng ở tỉnh Kon Tum, nhưng tác giả Phan Văn Hoàng thì chỉ
nói về tộc người Xơđăng ở làng Măng Rương, xã Văn Lem, huyện Đăk Tô, tỉnh
Kon Tum nhưng bài viết của NXB Thơng Tấn thì lại nói về người Xơđăng ở Việt
Nam nói chung.
Tác giả Phan Văn Hồng phân chia thành hai lĩnh vực: đời sống vật chất (sản
xuất kinh tế; nhà ở, ăn, mặc, uống, hút) và đời sống tinh thần (ngôn ngữ và chữ

viết, văn học dân gian, nghệ thuật dân gian, lễ hội dân gian) nhưng bài viết của
NXB Thông Tấn mặc dù cũng chia thành lĩnh vực vật chất và tinh thần nhưng sự
phân chia đó có sự khác biệt như: đời sống tinh thần lại bao gồm cả hơn nhân, tang
ma, lễ hội, tín ngưỡng cịn Phan Văn Hồng thì khơng có hơn nhân và tang ma.
Cịn tác giả Đặng Nghiêm Vạn thì khơng phân chia cụ thể thành hai lĩnh vực vật
chất và tinh thần mà có sự phân chia như sau: những hoạt động kinh tế (nơng
nghiệp, các nghề phụ gia đình – trao đổi hàng hóa), tổ chức và quan hệ xã hội, gia
đình và hơn nhân, tơn giáo – tín ngưỡng.

12


Dù có những đặc điểm giống nhau về hình thức sản xuất nông nghiệp như
trồng rẫy, trồng lúa nước với những hình thức canh tác đặc thù như: tra hạt bằng
cách dùng cây nhọn vừa đi vừa chọc lỗ nhưng tác giả Đặng Nghiêm Vạn và NXB
Thơng Tấn có nói thêm người Xơđăng có hệ thống đàn mõ ở các suối, được bổ
sung bằng những máng nước gây nên tiếng làm con thú giật mình phải bỏ chạy và
đó là một công cụ bảo vệ nương rẫy, ngăn chặn thú rừng, chim chóc phá hoại rẫy
ruộng, đồng thời cũng là một hình thức giải trí cho những người coi nương rẫy.
Bên cạnh đó, ba tác giả cũng nói về người Xơđăng với những hoạt động khai thác,
săn bắt trong rừng nhưng tác giả Phan Văn Hồng và NXB Thơng Tấn có nói thêm
về sự thay đổi hình thức kinh tế với các dự án chiến lước phát triển kinh tế, bảo vệ
rừng, tài ngun mơi trường nên đã có sự thay đổi: người Xơđăng bắt đầu trồng
sen canh các loại cây trồng khác như: bí, bầu, cao su, bời lời, các loại cây công
nghiệp khác hay cây ăn quả, cây lấy bóng mát, cây gia vị... và thay vì gia súc, gia
cầm trước đây nuôi chủ yếu làm vật hiến sinh thì do việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế
cây trồng thì chủ yếu dùng làm sức kéo, cày bừa... nhằm phục vụ đời sống sinh
hoạt hàng ngày.
Bên cạnh đó, ba tác giả cũng có đề cập những nghề truyền thống trong gia
đình như: nghề dệt, nghề rèn, nghề đan lát nhưng tác giả Phan Văn Hồng có thêm

nghề nữa là nghề “chỉnh cồng, chiêng” theo kinh nghiệm cảm âm của người chỉnh.
Thêm vào đó, tác giả Phan Văn Hồng và NXB Thơng Tấn có miêu tả về nhà ở, đồ
ăn, đồ uống hàng ngày, đồ hút của người Xơđăng và phần này thì tác giả Đặng
Nghiêm Vạn khơng có nói đến, nhưng tác giả có nói về “nơng lịch” (tháng tính
theo lịch địa phương) và cơng việc sản xuất theo từng tháng cũng như sự phân
công công việc cụ thể theo giới trong gia đình.
Ngồi ra, cịn có điểm khác biệt trong việc nghiên cứu của hai tác giả: tác giả
Đặng Nghiêm Vạn chỉ đi vào một lĩnh vực tơn giáo – tín ngưỡng của đời sống tinh
thần thì tác giả Phan Văn Hoàng lại đi vào nhiều lĩnh vực như: văn học, nghệ thuật,
13


lễ hội. Trong phần lễ hội dân gian, tác giả Phan Văn Hồng có nói về tín ngưỡng
“đa thần” của người Xơđăng nhưng tác giả Đặng Nghiêm Vạn thì khơng nhấn
mạnh vào tín ngưỡng “đa thần” mà chủ yếu nói “thần lớn nhất của các nhóm
Xơđăng là “ơng trời””. Ơng Trời nhiều khi được thống nhất xem như thần sấm sét.
Khi sét đánh là lúc thần tức giận, đi lùng ma quỷ hoặc người phạm phong tục và
nếu có hạn hán thì họ cho rằng “đó là thần sấm sét lãng quên, cần cầu xin để nhắc
nhở ông ta và nếu khơng có kết quả phải chọ tức để ơng ta trút mưa xuống”.
Nhưng NXB Thơng Tấn thì vừa nói về tín ngưỡng đa thần vừa nói về ơng Trời, và
ơng Trời là thần lớn nhất. Ơng trời khác với các thần khác, không giống như Đặng
Nghiêm Vạn là ông Trời được đồng nhất với Thần sấm sét. “Đầu năm sấm ra trước
con chim “bắt cơ trói cột” thì năm đó đói to nhưng nếu sấm ra sau khi con chim
kêu gọi đàn thì năm đó được mùa”.
Ở phần “các lễ thức tơn giáo chủ yếu” thì tác giả Đặng Nghiêm Vạn có miêu
tả các lễ hội lên quan đến quá trình sinh trưởng của cây lúa như: lễ trỉa hạt, lễ đưa
hồn lúa từ nương về kho, lễ ăn com mới hay nhiều lễ hội khác như lễ cúng máng
nước, lễ ăn trâu. Tuy nhiên, tác giả Phan Văn Hồng lại có thêm phần “hệ thống lễ
hội xung quanh vòng đời người”. Từ lúc sinh ra đến lúc mất đi, cộng đồng và gia
đình sẽ thực hiện nghi lễ vòng đời người gắn liền với cá nhân như: lễ chuẩn bị cho

đứa trẻ ra đời, lễ sinh để, lễ đặt tên, lễ chăm sóc trẻ sơ sinh hay những nghi lễ liên
quan đến cưới xin như: lễ dạm hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt hay những nghi lễ trong tang
ma như: lễ chôn người chết, những nghi thức sau khi chôn. Và những lĩnh vực về
văn học dân gian như: truyện cổ dân gian, ca dao dân gian hay nghệ thuật dân gian
như: ca hát, âm nhạc, nghệ thuật múa dân gian, nghệ thuật tạo hình – trang trí dân
gian cũng được tác giả giới thiệu với nhiều loại hình khác nhau. Và NXB Thơng
Tấn thì chỉ đi vào ba lễ hội là: lễ Cúng máng nước, lễ Bắn và lễ Ăn trâu huê.
Tuy có những điểm tương đồng nhưng cũng có rất nhiều sự khác biệt của các
tác giả khi nghiên cứu về người Xơđăng.
14


Trong tác phẩm của Bùi Minh Đạo về “Trồng trọt truyền thống của các dân
tộc thiểu tại chỗ Tây Nguyên” (2000), tác giả có giới thiệu khá rõ về nương rẫy cổ
truyền của các dân tộc thiểu số của Tây Nguyên (trong đó có người Xơđăng) với
các loại cây trồng ở nương rẫy, các cơng đoạn của q trình canh tác, kỹ thuật canh
tác, những nông cụ dùng trong canh tác cũng như cách tính lịch canh tác, các tín
ngưỡng và nghi lễ liên quan đến nương rẫy…Bên cạnh đó, tác giả cịn nói về ruộng
nước và vườn truyền thống của người họ với những đặc điểm mang dấu ấn riêng
và những đặc điểm mang dấu ấn của sự giao lưu, tiếp biến với các dân tộc.
Các cơng trình của các tác giả kể trên là nguồn tài liệu quan trọng giúp người
viết có thể tham khảo để hồn thành luận văn nghiên cứu của mình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn là người Xêđăng ở xã Ngọc Linh với
những cách thức họ ứng xử với nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Không gian: Luận văn tiến hành nghiên cứu chính tại xã Ngọc Linh, huyện
Đăk Glêi, tỉnh Kon Tum. Từ đó có cái nhìn tổng qt hơn về cộng đồng người
Xêđăng cũng như cách thức của họ trong việc ứng xử với nước tại xã Ngọc Linh.

* Thời gian: tiếp cận cách thức ứng xử với nước của người Xêđăng từ sau
năm 1986 đến nay bởi vì theo Nghị quyết 38/CP của Chính phủ ngày 12/3/1968 về
cuộc vận động định canh định cư, chính sách định canh định cư tập trung vào vận
động nhân dân định canh định cư gắn với hợp tác hóa nơng nghiệp, thành lập các
làng định canh định cư nhằm mục tiêu: chấm dứt du canh, du cư; ổn định sản xuất
và cải thiện đời sống người dân; phân bố sắp xếp lại dân xư; xây dựng vùng kinh tế
mới; đảm bào quốc phòng an ninh và bảo vệ môi trường miền núi. Sau cuộc vận
động từ năm 1968 đến 1990 thì hưởng ứng theo lời kêu gọi của Đảng và Nhà nước,
15


đồng bào các dân tộc thiểu số sống “du canh du cư” trên núi cao, trong thung lũng
sâu khơng có thuận lợi cho việc sinh hoạt trong cuộc sống của bà con chuyển
xuống vùng thấp cho tiện đường giao thông cũng như thuận lợi trong sinh hoạt
hàng ngày và là làm theo chủ trương đường lối sống “định canh định cư”. Một
phần theo bà con thì ngày trước ở trên núi cao đi làm ruộng, nương rẫy ở cách xa
làng thường phải đi sớm và mất nhiều thời gian đi đường, cùng theo lời kêu gọi
của Đảng và Nhà nước bà con chuyển xuống vùng thấp hơn để đi làm cho gần
ruộng, gần nương rẫy để tiết kiệm công sức đi lại. Và đa số các làng đều chuyển
xuống dưới bắt đầu từ năm 1986 trở về sau nên đó là lý do nhà nghiên cứu chọn
mốc thời gian từ năm 1986 đến nay.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Trong đời sống hiện nay, người Xêđăng vận dụng vốn tri thức của mình về
nước trong phát triển đời sống cộng đồng ra sao, ứng xử với nước như thế nào và
có sự biến đổi gì so với truyền thống?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
Hiện nay, nước chi phối mạnh mẽ đến đời sống của con người nơi đây nên
nước đóng vai trị vơ cùng quan trọng. Với lối sống định canh chủ yếu là lúa nước
nên nước giúp con người duy trì và ổn định cuộc sống về ăn, uống, sinh hoạt...

nuôi sống con người. Đồng thời, nước còn giúp con người yên tâm về mặt tinh
thần nếu họ biết thực hành kiêng cữ và biết cách ứng xử thích hợp với nước.
Với sự tác động của chính sách của Đảng và Nhà nước, của sự phát triển khoa
học kỹ thuật và sự tiếp xúc, giao lưu với các cư dân bản địa ở huyện Đăk Glêi thì
việc người Xêđăng biết cách thực hành, ứng xử với nước khơng cịn là yếu tố duy
nhất giúp con người thích nghi với mơi trường sinh tồn của mình. Vì vậy, trong đời
sống hiện nay, việc ứng xử với nước đã có sự thay đổi so với truyền thống.
16


5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử sụng phương pháp thu thập dữ liệu: thu thập những tài liệu đã
được công bố, tài liệu liên quan đến chuyên đề, tài liệu được công bố của Trung
ương và địa phương, kế thừa các cơng trình của các tác giả đi trước để phân tích,
nhận định và đánh giá.
Điền dã
Điền dã dân tộc học được coi là cách thức nghiên cứu chủ đạo để thu thập tài
liệu. Trong đó, tơi chú trọng vận dụng một số phương pháp cụ thể như:
Quan sát: Nhằm mục đích đưa ra những hình dung cụ thể về môi trường tự
nhiên, môi trường cư trú, đời sống sinh hoạt của người dân xung quanh nguồn
nước cũng như cách ứng xử với nước của người Xêđăng ở xã Ngọc Linh. Phương
pháp này giúp tôi thu thập những thông tin ban đầu về đối tượng nghiên cứu, từ đó
đưa ra những định hướng cụ thể cho những vần đề cần tìm hiểu, nghiên cứu.
Quan sát tham dự: Với mục đích trải nghiệm đời sống thực sự của người
Xêđăng ở xã Ngọc Linh tôi tiến hành quan sát tham dự một số hoạt động trong
sinh hoạt thường ngày cũng như một số cách thức, nghi lễ, tín ngưỡng của cộng
đồng trong việc ứng xử với nước.
Đồng thời, cùng đi rẫy, đi rừng với người Xêđăng để quan sát cách thức người
Xêđăng đã khai thác, tận dụng nước để dùng trong sinh hoạt hàng ngày, trong canh
tác nông nghiệp và việc vận dụng tri thức về nước, khai thác nguồn nước của con

người như thế nào để con người có cách ứng xử thích hợp với nước.Từ đó, chứng
kiến trực tiếp các hoạt động, các sự việc, sự kiện diễn ra một cách chân thực, đầy
đủ, đồng thời giúp tôi thiết lập được mối quan hệ gắn bó với cộng đồng nơi tôi tiến
hành nghiên cứu, giúp thu thập được nhiều thơng tin hữu ích và đáng tin cậy phục
vụ cho đề tài.
Bên cạnh đó, quan sát tham dự giúp chúng tôi nhận diện được những thay đổi
trong cách thức ứng xử với nước của người Xêđăng hiện nay so với truyền thống.
17


Từ đó, tiến hành tổng hợp, so sánh và phân tích những thơng tin có được qua quan
sát tham dự.
Phỏng vấn sâu: với phương pháp này giúp tôi thu thập được những thơng tin
chính thức phục vụ cho luận văn.
Với đề tài này, tôi lựa chọn phỏng vấn hồi cố theo phương pháp chọn mẫu có
chủ đích, đó là những người cao tuổi và có uy tín trong cộng đồng như: già làng,
trưởng bản và những ông - bà lớn tuổi, sống thọ trong các gia đình để biết được
cách thức họ sử dụng, ứng xử với nước cũng như cách thức họ tích lũy vốn tri thức
để truyền lại cho thế hệ sau về cách thức khai thác, tận dụng và ứng xử với nước.
Tôi cũng tiến hành phỏng vấn sâu những cán bộ văn hóa xã, những người làm bên
lĩnh vực quản lý tài nguyên và môi trường trong chính quyền địa phương để biết
được cách họ quản lý và ứng xử với môi trường tự nhiên, đặc biệt là với nước như
thế nào để bảo tồn được những tri thức về tự nhiên, về nước của người dân trong
ứng xử với môi trường tự nhiên, quan trọng là nguồn nước vì con người khơng thể
sống khỏe mạnh nếu thiếu nước hoặc nguồn nước không sạch sẽ.
Đồng thời, tôi tiến hành phỏng vấn sâu 68 người ở độ tuổi trung niên (gồm 34
nam và 34 nữ theo kiểu chọn mẫu định mức – vì có tổng cộng 17 làng nên sẽ
phỏng vấn mỗi làng 4 người, gồm 2 nam và 2 nữ) chủ yếu là những người dân có
sức khỏe (vì họ hay đi rừng, đi rẫy làm nên họ nắm rõ môi trường tự nhiên như thế
nào, biết rõ ở đâu có nước để biết cách khai thác, tận dụng và ứng xử), có trí nhớ

tốt (vì có liên quan đến tri thức về tự nhiên trước đây, đặc biệt là nước - vì hình
thức định canh của họ chủ yếu là lúa nước nên nước không thể thiếu, lúc mà các
phương tiện khoa học kỹ thuật chưa thực sự phát triển) và có kinh nghiệm sản xuất
(vì có kinh nghiệm sản xuất họ sẽ biết cách ứng xử để thích nghi) để kiểm chứng,
đối chiếu với các thông tin thu thập được qua phỏng vấn những đối tượng khác
nhau.

18


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×