LỜI MỞ ĐẦU
Trong môi trường giáo dục hiện đại ở bậc đại học, người thầy không chỉ là
người truyền đạt cho học trò kiến thức cơ bản mà còn là người hướng dẫn cho học
trò cách làm việc để có được những kiến thức mở rộng hơn nữa. Để có được những
kiến thức cần thiết phục vụ cho việc học tập trong trường và công việc sau này, các
sinh viên luôn phải tham gia nghiên cứu để viết luận văn khoa học.
Luận văn khoa học là chuyên khảo về một vấn đề khoa học hoặc công nghệ do
một người viết nhằm mục đích:
- Rèn luyện về phương pháp và kỹ năng nghiên cứu khoa học;
- Thể nghiệm kết quả một giai đoạn học tập hay một vấn đề khoa học quan tâm;
- Bảo vệ công khai trước Hội đồng hoặc được chấm để lấy bằng tốt nghiệp đại
học hoặc học vị thạc sỹ. (Hoàng Văn Châu, 2008)
Trong chương trình đào tạo tại Đại học Ngoại thương, luận văn khoa học mà
sinh viên có thể phải viết bao gồm: tiểu luận môn học, thu hoạch/ báo cáo thực tập
giữa khóa/ tốt nghiệp, khoá luận tốt nghiệp.
Các học sinh trong môi trường học tập ở trường phổ thông thường chỉ làm
quen với những phương pháp học tập cổ điển như “đọc ghi - thi chép” tức là thầy
nói gì biết nấy, bảo sao làm vậy, chứ chưa hề biết tự nghiên cứu, tìm tòi, khám phá
dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Trong môi trường ở bậc đại học, các sinh viên ngay từ năm đầu đã phải tiếp
xúc và vật lộn với những “tiểu luận”, “bài tập nhóm”. Trong những năm học tiếp
theo, các sinh viên tiếp tục phải làm “báo cáo/ thu hoạch thực tập giữa khóa”, “đề
tài nghiên cứu khoa học”. Ở năm học cuối, để tốt nghiệp các sinh viên phải hoàn
thành “báo cáo/thu hoạch thực tập tốt nghiệp” hoặc “khóa luận tốt nghiệp”.
Để hoàn thành được những luận văn khoa học nói trên, các sinh viên cần phải
có sự hướng dẫn trực tiếp của các giảng viên có kinh nghiệm trong việc này. Đối
với các giảng viên ở các trường đại học, ngoài công việc nghiên cứu, soạn bài
giảng, giảng dạy trên lớp,… công việc hướng dẫn sinh viên viết luận văn khoa học
luôn là công việc cần thiết và tốn không ít thời gian.
1
Trong thời gian vừa qua, các giảng viên tại Cơ sở 2- Đại học Ngoại thương đã
có nhiều nỗ lực trong việc cải tiến qui trình, tăng cường giám sát nhằm nâng cao
chất lượng hướng dẫn sinh viên viết luận văn khoa học. Tuy nhiên, do có sự không
đồng đều về kinh nghiệm, năng lực chuyên môn, khác biệt về quan điểm,… nên vẫn
có những khó khăn nhất định trong hướng dẫn và đánh giá luận văn khoa học của
sinh viên. Nguyên nhân của thực trạng này là do các giảng viên có sự chênh lệch về
cả tuổi đời lẫn tuổi nghề, được đào tạo từ nhiều trường đại học khác nhau, được
chuyển đến từ nhiều môi trường làm việc khác nhau.
Nhận thức được tầm quan trọng của công việc hướng dẫn sinh viên viết luận
văn khoa học, Ban Giám đốc đã chỉ đạo Bộ môn Nghiệp vụ lập kế hoạch tổ chức
hội thảo khoa học cấp cơ sở với chủ đề “Nâng cao chất lượng hướng dẫn sinh viên
viết luận văn khoa học”. Trong khoảng thời gian ba tháng chuẩn bị, hội thảo đã
được sự hưởng ứng và tham gia nhiệt tình của đông đảo các giảng viên từ các Ban
và Bộ môn khác nhau tại Cơ sở 2, với mục đích chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm
trong việc hướng dẫn sinh viên viết luận văn khoa học.
Ban tổ chức hội thảo xin chân thành cám ơn Ban Giám đốc và các giảng viên
trong trường đã nhiệt tình tham gia viết bài gửi đến hội thảo. Những bài viết này là
những tài liệu rất quý báu và bổ ích cho toàn thể các giảng viên trong hướng dẫn
sinh viên viết luận văn khoa học trong tương lai.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 11 năm 2009
TM. Ban Tổ chức
Trưởng Ban
ThS., GVC. Tô Bình Minh
2
CÁC BƯỚC CƠ BẢN ĐỂ HOÀN THÀNH MỘT KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
PGS., TS. Bùi Ngọc Sơn
Phó Hiệu trưởng - Giám đốc Cơ sở II
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Quy chế đào tạo đại
học và cao đẳng hệ chính quy ban hành kèm theo quyết định số 25/2006/QĐ-BGD
& ĐT ngày 26 tháng 6 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (gọi tắt là
Quy chế 25), sinh viên hệ đại học sau khi tích lũy đủ các học phần theo quy định
của chương trình đào tạo có thể được thực hiện một khóa luận tốt nghiệp trước khi
nhận bằng cử nhân đại học. Thực ra, việc viết khóa luận tốt nghiệp đại học không
phải mới được quy định trong Quy chế 25 mà đã được quy định từ các quy chế đào
tạo trước đây. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không ít sinh viên dù đã được học môn
học “Phương pháp học tập và nghiên cứu khoa học” (từ khóa 48 môn học này được
gộp với môn Logic học thành môn “Logic học và phương pháp học tập, nghiên cứu
khoa học”) và có điểm trung bình chung học tập khá cao nhưng khi viết khóa luận
tốt nghiệp vẫn lúng túng, thậm chí không viết nổi đề cương nghiên cứu. Thực tế này
tồn tại lâu nay ở nhiều trường đại học. Thầy biết, trò biết, nhiều người cùng biết
nhưng giải quyết cách nào thì có lẽ không phải ai cũng biết, hay nói đúng hơn là
không phải ai cũng dám làm! Kỳ lạ hơn, có trường còn chủ trương buông lỏng việc
hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp và chỉ đạo các hội đồng chấm khóa luận phải cho
điểm thật cao để “tạo điều kiện cho sinh viên dễ xin việc làm”! Rõ ràng đây là một
chủ trương không thể chấp nhận.
Đối với Trường Đại học Ngoại thương, lãnh đạo Nhà trường cũng như hầu hết
các giáo viên, cả trên nguyên tắc và trên thực tế, luôn cố gắng coi trọng việc viết
khóa luận tốt nghiệp cũng như nghiêm túc trong việc đánh giá khóa luận tốt nghiệp
của sinh viên. Tuy vậy, chất lượng khóa luận tốt nghiệp mấy năm gần đây cũng là
một vấn đề đáng để cho những người tâm huyết với nghề phải trăn trở. Tình trạng
sao chép khóa luận của các khóa trước, các trường khác không phải hiếm, một bộ
3
phận sinh viên không coi trọng việc viết khóa luận mà chỉ quan niệm đó là một
công việc buộc phải hoàn thành, và do vậy, họ chỉ tìm cách đối phó. Ngược lại, một
bộ phận không nhỏ sinh viên khác, có thể vẫn coi trọng việc viết khóa luận tốt
nghiệp, không tìm cách đối phó nhưng cũng không thể hoàn thành tốt việc viết khóa
luận vì chưa thực sự hiểu biết về công việc mình làm. Bài tham luận này sẽ đề cập
đến những vấn đề cơ bản của việc thực hiện một luận văn khoa học nói chung và
một khóa luận tốt nghiệp đại học nói riêng, ít nhất là trong phạm vi của trường Đại
học Ngoại thương.
2. Các thể loại luận văn khoa học
Luận văn khoa học (nói chung) là một công trình chuyên khảo về một chủ đề
khoa học hoặc công nghệ do một người thực hiện [5] nhằm các mục đích cơ bản
như rèn luyện phương pháp và kỹ năng nghiên cứu khoa học cho sinh viên; tổng
hợp và thể nghiệm kết quả của một giai đoạn hoặc một quá trình học tập; kiểm tra,
đánh giá kết quả dạy và học một môn học nào đó. Nói cách khác, luận văn khoa học
là một công trình tập sự nghiên cứu khoa học, ghi nhận một mốc phấn đấu của tác
giả luận văn [5].
Tùy theo tính chất, yêu cầu của từng môn học hoặc chuyên ngành đào tạo về
việc đánh giá từng phần hay toàn bộ quá trình học tập, hiện tại ở trường Đại học
Ngoại thương có thể có 4 thể loại luận văn khoa học chủ yếu như sau:
- Tiểu luận môn học
- Thu hoạch thực tập tốt nghiệp
- Khóa luận tốt nghiệp
- Luận văn thạc sĩ
- Luận án tiến sĩ
2.1.Tiểu luận môn học
Tiểu luận là thể loại chuyên khảo về một chủ đề khoa học, thường được thực
hiện trong quá trình học tập một môn học nào đó. Nội dung tiểu luận không nhất
thiết phải bao quát toàn bộ nội dung môn học mà có thể chỉ đề cập đến một vấn đề
nhất định trong môn học đó.
4
2.2.Thu hoạch thực tập tốt nghiệp
Thu hoạch thực tập tốt nghiệp là thể loại chuyên khảo của sinh viên nhằm tổng
hợp lại một hoặc một vài vấn đề đã tích lũy được sau một thời gian thực tập tại các
cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan đến chuyên ngành đào tạo. Nội dung của thu
hoạch thực tập cần phải thể hiện sự đối chiếu, so sánh giữa kiến thức về mặt lý
thuyết đã tích lũy được trong trường với kiến thức thực tế diễn ra tại nơi thực tập.
2.3.Khóa luận tốt nghiệp
Khóa luận tốt nghiệp đại học là thể loại chuyên khảo tổng hợp của sinh viên
sau khi kết thúc toàn bộ chương trình đào tạo ở bậc đại học để bảo vệ lấy văn bằng
cửa nhân. Nội dung của khóa luận tốt nghiệp cần đề cập đến các vấn đề thuộc
chuyên ngành đào tạo chính, nghĩa là đề tài được chọn để viết khóa luận tốt nghiệp
cần phải phù hợp với chuyên ngành đào tạo mà sinh viên đã học.
2.4.Luận văn thạc sĩ
Luận văn thạc sĩ là thể loại chuyên khảo trình bày một nghiên cứu có hệ thống
của học viên cao học để bảo vệ lấy văn bằng thạc sĩ. Nội dung của luận văn thạc sĩ,
theo quy chế đào tạo thạc sĩ hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo, “phải thể hiện
được các kiến thức về lý thuyết và thực hành trong lĩnh vực chuyên môn, phương
pháp giải quyết vấn đề đã đặt ra. Các kết quả của luận văn phải chứng tỏ tác giả đã
biết vận dụng phương pháp nghiên cứu và những kiến thức được trang bị trong quá
trình học tập để xử lý đề tài” [2].
2.5.Luận án tiến sĩ
Luận án tiến sĩ là thể loại chuyên khảo trình bày có hệ thống một chủ đề khoa
học của nghiên cứu sinh để bảo vệ giành học vị tiến sĩ. Theo Quy chế đào tạo tiến sĩ
hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo, luận án tiến sỹ phải là một công trình
nghiên cứu khoa học độc đáo, sáng tạo trong lĩnh vực nghiên cứu, có đóng góp về
mặt lý luận, chứa đựng những tri thức hoặc giải pháp mới có giá trị trong việc phát
triển, gia tăng tri thức khoa học của lĩnh vực nghiên cứu hoặc giải quyết sáng tạo
các vấn đề đang đặt ra đối với một ngành khoa học hoặc thực tiễn xã hội” [3].
5
3. Các bước cơ bản để thực hiện một khóa luận tốt nghiệp đại học
3.1.Lựa chọn đề tài nghiên cứu
Thông thường, sinh viên năm cuối khi viết khóa luận tốt nghiệp có thể nhận đề
tài bằng hai cách: cơ sở đào tạo giao đề tài hoặc sinh viên tự lựa chọn đề tài trên cơ
sở hướng dẫn của nhà trường. Hiện tại, sinh viên trường Đại học Ngoại thương
đang thực hiện theo cách thứ hai. Hàng năm, Nhà trường công bố một danh mục các
hướng đề tài cần nghiên cứu để sinh viên lựa chọn. Vì đây chỉ là danh mục gợi ý
nên sinh viên có thể lựa chọn các đề tài theo danh mục này hoặc tự đề xuất một đề
tài khác để các bộ phận chức năng phê duyệt. Việc lựa chọn đề tài dù theo cách nào
cũng cần phải tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản là phù hợp với chuyên ngành đào tạo
và không được trùng lặp với các đề tài đã nghiên cứu của hai năm trước đó. Việc
phê duyệt đề tài của bộ phận chức năng cũng phải tuân thủ hai nguyên tắc này,
nghĩa là bộ phận chức năng (khoa/ bộ môn) không có quyền chỉnh sửa đề tài mà
phải phê duyệt khi đề tài được lựa chọn đã thỏa mãn đủ hai điều kiện trên. Việc
chỉnh sửa để chuẩn hóa tên đề tài sẽ do sinh viên và giáo viên được phân công
hướng dẫn thực hiện.
Về mặt học thuật, việc lựa chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp cần bảo đảm
những yêu cầu cơ bản như:
- Đề tài có ý nghĩa khoa học hay không ?
Ý nghĩa khoa học của đề tài được thể hiện ở ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực
tiễn. Phần lớn các đề tài được lựa chọn để viết khóa luận tốt nghiệp cần có cả ý
nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn. Tuy vậy, sinh viên cũng có thể lựa chọn những
đề tài chỉ có ý nghĩa thuần túy lý thuyết nhưng cần phải thuyết minh rõ.
- Đề tài có tính cấp thiết hay không ?
- Đề tài có phù hợp với sở thích nghiên cứu của sinh viên hay không ?
- Sinh viên có đủ điều kiện cần thiết để tiến hành nghiên cứu hay không ?
3.2.Xây dựng đề cương nghiên cứu
Sau khi đã xác định được đề tài cần nghiên cứu và được phê duyệt, sinh viên
cần tiến hành lập đề cương nghiên cứu sơ bộ để xác định các vấn đề cơ bản cần
6
nghiên cứu. Đề cương sơ bộ có thể chỉ cần viết tóm tắt nội dung của những phần
chính như phần mở đầu, phần nội dung nghiên cứu, phần kết luận. Trên cơ sở đề
cương sơ bộ người nghiên cứu (sinh viên) sẽ cụ thể hóa thành đề cương nghiên cứu
chi tiết. Đề cương nghiên cứu chi tiết có thể bao gồm những nội dung sau:
3.2.1. Phần mở đầu
Phần mở đầu của một khóa luận tốt nghiệp thường phải bao gồm:
- Tính cấp thiết của đề tài hay lý do chọn đề tài. Nội dung phần này trả lời cho
câu hỏi: vì sao người viết lại chọn đề tài này mà không chọn đề tài khác ?
- Mục tiêu nghiên cứu. Phần này trả lời câu hỏi: việc nghiên cứu đề tài này
nhằm đạt được cái gì, nghiên cứu để làm gì ?
- Đối tượng nghiên cứu. Nội dung phần này trả lời câu hỏi: đề tài sẽ nghiên cứu
cái gì ?
- Phạm vi nghiên cứu. Phần này cần làm rõ 3 loại phạm vi: phạm vi nghiên cứu
về mặt thời gian, tức là sự kiện diễn ra trong khoảng thời gian nào; phạm vi nghiên
cứu về không gian, tức là sự kiện diễn ra ở đâu; và, phạm vi nội dung nghiên cứu,
tức là nghiên cứu những vấn đề cụ thể nào trong số hàng loạt vấn đề có liên quan
đến đề tài đã chọn.
- Phương pháp nghiên cứu. Nội dung phần này cần trả lời cho câu hỏi là, trong
quá trình nghiên cứu, người nghiên cứu sẽ áp dụng những phương pháp cụ thể nào
để chứng minh giả thuyết khoa học do mình đặt ra. Tùy theo yêu cầu của từng đề tài
và đối tượng nghiên cứu mà các phương pháp áp dụng có thể là phân tích - tổng
hợp; diễn giải - quy nạp; đối chiếu - so sánh; khảo sát - chuyên gia; khái quát hóa
đối tượng nghiên cứu v.v.
- Kết cấu của đề tài. Phần này có thể chỉ cần giới thiệu tên các chương mục chủ
yếu của đề tài, không cần ghi quá chi tiết.
Ngoài ra, để tăng tính thuyết phục của kết quả nghiên cứu, trong phần mở đầu
có thể trình bày thêm về tình hình nghiên cứu đề tài, tức là người nghiên cứu có thể
làm rõ rằng đã có ai nghiên cứu đề tài này chưa, nghiên cứu ở mức độ nào, sự khác
biệt giữa việc nghiên cứu của mình với các tác giả khác ở chỗ nào.
7
3.2.2. Nội dung các chương, mục của đề tài
Thông thường đối với một khóa luận tốt nghiệp, phần nội dung chính tùy theo
từng đề tài có thể kết cấu thành từ 3 đến 5 chương. Tuy nhiên, trên thực tế, đối với
một khóa luận thì yêu cầu về mặt học thuật thường không cao như đối với luận văn
thạc sĩ và luận án tiến sĩ nên hầu hết các nhà nghiên cứu khoa học cho rằng chỉ nên
kết cấu theo lý thuyết “tam đoạn luận”, tức là chỉ nên chia thành 3 chương là đủ.
Tương ứng với 3 chương này là ba nội dung chính đó là “lý luận, thực trạng và giải
pháp” (nội dung từng chương xin xem phần phụ lục đính kèm theo văn bản “Hướng
dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy”
ban hành kèm theo Quyết định số 213/QLĐT ngày 26 tháng 2 năm 2007 của Hiệu
trưởng trường Đại học Ngoại thương).
Phần cuối cùng của đề cương nghiên cứu và cũng là phần cuối cùng của báo
cáo tổng hợp là phần kết luận. Nội dung của phần này cần chỉ rõ đề tài đã giải quyết
được những vấn đề gì, những vấn đề gì chưa giải quyết được và chỉ ra hướng
nghiên cứu tiếp theo (nếu có).
Đề cương của mỗi chương càng chi tiết thì quá trình nghiên cứu sẽ càng thuận
lợi và việc viết báo cáo kết quả nghiên cứu sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc làm đề
cương quá sơ sài. Rất tiếc, đây lại là điều mà không ít sinh viên đã sai lầm khi làm
đề cương nghiên cứu. Thực tế cho thấy, rất nhiều sinh viên không nhận thấy sự cần
thiết của việc làm đề cương chi tiết, do vậy, khi làm đề cương thường chỉ làm qua
loa, sơ sài mang tính chất đối phó với một thủ tục bắt buộc. Do đề cương sơ sài nên
đến khi viết báo cáo kết quả nghiên cứu chính thức sẽ gặp rất nhiều khó khăn, khi
đó sinh viên sẽ, hoặc là tự viết theo ý hiểu của mình và nhiều khi bị lạc đề, hoặc tìm
cách sao chép một tài liệu tương tự với đề tài của mình và khi bảo vệ trước hội đồng
chấm khóa luận tốt nghiệp thường không trả lời được các câu hỏi của hội đồng vì
bản thân sinh viên không hiểu bản chất của vấn đề mình viết. Vì thế, viết đề cương
chi tiết là một khâu tối quan trọng, trực tiếp liên quan đến chất lượng của khóa luận.
Muốn có chất lượng bài viết tốt, sinh viên cần phải quan tâm đúng mức tới khâu
này.
3.3.Thu thập tài liệu, xử lý thông tin
8
Ngay sau khi có đề cương sơ bộ người viết đã phải tiến hành thu thập tài liệu
liên quan đến đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, các tài liệu thu thập ở giai đoạn này có
thể chưa cần chi tiết, chưa cần đầy đủ. Việc thu thập tài liệu chi tiết sẽ được đặt ra
sau khi hoàn thành đề cương chi tiết. Càng có được nhiều tài liệu liên quan đến đề
tài đã chọn thì việc nghiên cứu càng trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên, vì rất nhiều lý
do khác nhau việc thu thập tài liệu không phải lúc nào cũng suôn sẻ, thậm chí, trong
nhiều trường hợp người viết gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu thập tài liệu. Khi
đó, ngoài các tài liệu sơ cấp người viết buộc phải sử dụng các tài liệu thứ cấp, tức là
các tài liệu đã qua “gia công, chế biến” làm cho tính chính xác có thể không được
bảo đảm. Chính vì thế, việc xử lý thông tin sau khi thu thập là công việc vừa quan
trọng vừa phức tạp mà người nghiên cứu phải thực hiện. Một trong những vấn đề
người nghiên cứu cần chú ý khi xử lý thông tin đó là giá trị khoa học của các thông
tin khi chúng mâu thuẫn với nhau. Về nguyên tắc, các tài liệu do cơ quan có thẩm
quyền cao hơn ban hành sẽ có giá trị cao hơn tài liệu do cơ quan có thẩm quyền
thấp hơn ban hành; các tài liệu trích dẫn từ các tạp chí chuyên ngành, các sách
chuyên khảo sẽ có giá trị cao hơn tài liệu trích dẫn từ các nguồn không chuyên …
3.4.Viết bản thảo báo cáo kết quả nghiên cứu
Sau khi đã thu thập tài liệu đủ để phục vụ cho việc luận giải các giả thuyết
khoa học và các tài liệu đã được xử lý, phân tích xong thì công việc tiếp theo là tiến
hành viết bản thảo theo các nội dung đã có trong đề cương chi tiết. Logic thông
thường nhất là viết tuần tự theo các chương mục đã thiết kế, tuy vậy, việc viết bản
thảo cũng có thể không nhất thiết phải đi theo đúng trình tự này mà tùy theo điều
kiện cụ thể có thể tạm bỏ qua phần, mục trước để viết các phần, mục sau. Tuy
nhiên, tính logic giữa các phần, mục thì không thể bỏ qua.
3.5.Chỉnh sửa nội dung khóa luận
Sau khi hoàn thành bản thảo báo cáo kết quả nghiên cứu, theo quy định, sinh
viên phải nộp bản thảo cho giáo viên hướng dẫn để được người hướng dẫn khoa học
nhận xét và yêu cầu chỉnh sửa (nếu cần). Trong bước này, cả người viết và người
hướng dẫn cần lưu ý rằng, nhiệm vụ của người hướng dẫn là phải đối chiếu với đề
cương chi tiết để bảo đảm rằng nội dung bài viết đã bám sát yêu cẩu của đề tài.
9
Người hướng dẫn thông thường chỉ có nghĩa vụ kiểm soát nội dung khoa học của
khóa luận, không chịu trách nhiệm đối với những sai sót về hình thức của khóa luận
vì những vấn đề liên quan đến hình thức khóa luận như cách trình bày bìa, phông
chữ, cỡ chữ, khoảng cách giữa các dòng, cách trích dẫn nguồn tài liệu tham khảo …
đã được quy định thành văn bản cụ thể của Bộ Giáo dục và Đào tạo và/ hoặc của cơ
sở đào tạo, tức là của Nhà trường. Chính vì vậy, trong bước này, giáo viên hướng
dẫn cần xem xét lại toàn bộ tính khoa học của đề cương chi tiết, nếu thấy có chỗ bất
hợp lý cần điều chỉnh cho hợp lý hơn. Nếu không cần điều chỉnh đề cương chi tiết
thì công việc của người hướng dẫn lúc này là kiểm tra sự phù hợp của bản thảo với
từng chi tiết nhỏ của đề cương nghiên cứu và tính khoa học trong từng phần, mục
của bản thảo. Người hướng dẫn cần yêu cầu sinh viên viết khóa luận sửa chữa bất
cứ một sự vô lý nào trong bản thảo để đảm bảo khóa luận có thể đạt chất lượng đến
mức cao nhất có thể được.
Việc chỉnh sửa nội dung bản thảo, tùy theo từng trường hợp cụ thể, có thể thực
hiện một hoặc nhiều lần cho đến khi chất lượng khóa luận đạt đến mức cần thiết.
3.6.Viết bản tóm tắt nội dung khóa luận
Sau khi hoàn thành báo cáo khoa học và đã nộp bản chính thức cho Nhà
trường, trước khi tiến hành bảo vệ sinh viên cần viết bản tóm tắt các nội dung chủ
yếu của khóa luận. Theo quy định hiện hành, thời gian sinh viên trình bày bản tóm
tắt này không quá 10 phút. Với quy định như vậy, để thuyết phục hội đồng chấm
khóa luận tốt nghiệp, sinh viên có thể phân bố kết cấu của bản tóm tắt theo công
thức 1+ 2 + 3 + 4, tức là nội dung của phần mở đầu phải trình bày tóm tắt trong
vòng 1 phút, chương 1 tóm tắt trong 2 phút, chương 2 là 3 phút, chương 3 và phần
kết luận trình bày trong 4 phút. Sơ dĩ nội dung các chương cần trình bày tăng dần vì
chương 1 là phần hệ thống các vấn đề lý luận – phần mà thông thường sinh viên
chưa nói thì hội đồng chấm khóa luận đã biết sẽ nói gì nên không cần nói nhiều.
Chương 2 thường là mô tả thực trạng của vấn đề nghiên cứu nên cần đi sâu hơn.
Chương 3 thường là chương đề xuất giải pháp, kiến nghị – những vấn đề được coi
là “của riêng người nghiên cứu” nên cần trình bày dài hơn so với các chương khác.
10
Phần này càng “viết hay” (tất nhiên phải phản ánh trung thực nội dung khóa luận)
thì sinh viên càng có nhiều cơ hội đạt điểm cao.
3.7.Bảo vệ khóa luận tốt nghiệp
Theo quy định hiện hành, sinh viên phải bảo vệ kết quả nghiên cứu trước hội
đồng chấm khóa luận của Nhà trường. Kết quả chấm khóa luận trước hết phụ thuộc
vào chất lượng khóa luận và phần bảo vệ của sinh viên, tức là phần trình bày bản
tóm tắt khóa luận và phần trả lời các câu hỏi của hội đồng. Tuy nhiên, nhiều khi kết
quả chấm khóa luận lại bị ảnh hưởng bởi một yếu tố khác, đó là sự đánh giá không
chính xác của chính hội đồng chấm khóa luận. Loại bỏ các yếu tố chủ quan từ phía
các thành viên hội đồng thì vấn đề còn lại là cách nhận xét, đánh giá chất lượng của
khóa luận. Thực tế cho thấy còn có những sự khác biệt, thậm chí là khác biệt khá
lớn trong cách đánh giá chất lượng khóa luận tốt nghiệp của sinh viên. Điều này,
một mặt là do một số giáo viên còn thiếu kinh nghiệm chuyên môn, thiếu kinh
nghiệm nghiên cứu khoa học nên việc nhìn nhận, đánh giá nội dung khóa luận chưa
chuẩn xác. Mặt khác, cũng có thể do các thành viên trong một hội đồng chấm khóa
luận tốt nghiệp giảng dạy các môn học khác nhau, làm việc ở các lĩnh vực chuyên
môn khác nhau nên cũng có sự khác biệt trong việc nhìn nhận, đánh giá một vấn đề
khoa học cụ thể. Để khắc phục tình trạng này, vừa qua Cơ sở II đã ban hành văn
bản thống nhất cách đánh giá khóa luận tốt nghiệp với những chuẩn mực về hình
thức và nội dung khá chi tiết. Việc xóa bỏ hoàn toàn sự khác biệt trong quan niệm
khoa học giữa các thành viên hội đồng chấm khóa luận là việc làm có thể gọi là
không tưởng nhưng với những chuẩn mực mới ban hành kết quả đánh giá khóa luận
chắc chắn sẽ chính xác hơn rất nhiều so với trước đây.
4. Kết luận
Khóa luận tốt nghiệp là công trình khoa học kết thúc chương trình đào tạo toàn
khóa của sinh viên đại học. Việc hoàn thành công trình này không chỉ có ý nghiã
thiết thực đối với sinh viên để nhận bằng cử nhân mà còn là dịp để sinh viên rèn
luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học của mình. Tuy nhiên, để đạt được kết quả cao
trong việc viết và bảo vệ khóa luận tốt nghiệp của mình mỗi sinh viên cần có được
những kiến thức tối thiểu về phương pháp luận nghiên cứu khoa học và tuân thủ
11
những quy định tối thiểu của Bộ giáo dục và Đào tạo cũng như của Nhà trường liên
quan đến công việc này.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ
chính quy ban hành kèm theo quyết định số 25/2006/QĐ-BGD & ĐT ngày 26 tháng
6 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ GD & ĐT, Hà Nội.
2. Bộ giáo dục và Đào tạo (2008), Quy chế đào tạo trình độ thạc sĩ ban hành
kèm theo Quyết định số 45/2008/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 8 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ ban hành
kèm theo Thông tư số 10/2009/TT-BGDĐT ngày 07 tháng 5 năm 2009 của Bộ
trưởng Bộ GD & ĐT, Hà Nội.
4. Trường Đại học Ngoại thương, Hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế
đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy (Quy chế 25);
5. Vũ Cao Đàm (2005), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản
khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
12
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HƯỚNG DẪN SINH VIÊN VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TẠI CƠ SỞ II TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TẠI TP.HCM
TS. Nguyễn Xuân Minh
Phó Giám đốc Cơ sở II
Khóa luận tốt nghiệp (KLTN) được hoàn thành và bảo vệ trước hội đồng là
kết quả lao động trí tuệ của cả người hướng dẫn khoa học và sinh viên (SV) thực
hiện. Qua nhiều khóa, sau mỗi đợt bảo vệ khóa luận, cả những người làm công tác
quản lý, giáo viên hướng dẫn (GVHD) và tham gia hội đồng và đặc biệt là sinh viên
vẫn còn nhiều trăn trở, trọng tâm là làm thế nào để có thể nâng cao hơn nữa chất
lượng hướng dẫn sinh viên viết KLTN. Trăn trở đó là điều đáng quý, đáng trân
trọng vì điều đó có nghĩa là tất cả các thầy cô giáo và sinh viên tại Cơ sở II luôn nỗ
lực hướng đến chất lượng đào tạo cao hơn, đáp ứng những thay đổi trong nghiên
cứu, triển khai các kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và kinh
doanh quốc tế.
Bài viết ngắn này tập trung vào 3 nội dung chính sau:
- Nên hiểu chất lượng hướng dẫn sinh viên viết KLTN là gì?
- Chia sẻ một số kinh nghiệm của người viết trong quá trình hướng dẫn sinh
viên viết KLTN và tham gia chấm KLTN
- Đề xuất một số công tác nên triển khai góp phần nâng cao chất lượng hướng
dẫn sinh viên viết KLTN tại Cơ sở II trong thời gian tới.
1. Chất lượng hướng dẫn sinh viên viết KLTN
Thật khó để có thể đưa ra một định nghĩa về chất lượng hướng dẫn sinh viên viết
KLTN từ góc độ học thuật. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tế, có thể có cách tiếp cận
thông qua định nghĩa của Bộ tiêu chuẩn về quản lý chất lượng ISO 9000:2000 thì
“chất lượng là mức độ của một tập hợp những đặc tính vốn có đáp ứng các nhu
cầu”, trong đó “yêu cầu là những mong đợi đã được công bố, ngầm hiểu chung hoặc
bắt buộc”. Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu về giáo dục đại học đã đưa ra
định nghĩa: chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu.
13
Từ đó, có thể hiểu chất lượng hướng dẫn sinh viên KLTN là mức độ đáp ứng
của một KLTN đối với yêu cầu của nhà trường về nội dung, hình thức của một báo
cáo khoa học chuyên ngành theo hướng đáp ứng mục tiêu đào tạo của chuyên ngành
tương ứng.
Như vậy, thông qua việc đánh giá chất lượng viết và bảo vệ KLTN, chúng ta có
thể biết được Nhà trường có hoàn thành mục tiêu đào tạo cử nhân kinh tế thuộc các
chuyên ngành Kinh tế đối ngoại, Quản trị kinh doanh quốc tế, Tài chính quốc tế…
hay không; người hướng dẫn khoa học đã hoàn thành nhiệm vụ mà Bộ môn phân
công hay chưa; Hội đồng chấm khóa luận tốt nghiệp có hoàn thành chức trách của
mình theo quy chế hay chưa và sinh viên có đáp ứng được yêu cầu về mặt học thuật,
về kỹ năng trình bày, trả lời câu hỏi của một người sắp được công nhận là cử nhân
kinh tế hay chưa.
Trong quá trình đó, có một số mối liên hệ phụ thuộc trong triển khai như sau:
- Giảng viên hướng dẫn dựa trên đề tài do Bộ môn định hướng và duyệt.
- Sinh viên viết KLTN theo đề cương đã được người hướng dẫn khoa học
duyệt;
- Hội đồng chấm KLTN đánh giá dựa vào những nội dung trình bày trong
KLTN và tại buổi bảo vệ.
Nếu giữa các khâu ấy có sự khác biệt về mặt quan điểm thì kết quả của KLTN
có thể không đạt mức điểm như sinh viên mong đợi. Vì thế, người viết tin tưởng
rằng hội thảo khoa học do Cơ sở II tổ chức sẽ giúp rút ngắn các cách biệt về quan
điểm, cách tiếp cận và đánh giá.
2. Một số trải nghiệm trong hướng dẫn và chấm KLTN
2.1. Hướng dẫn sinh viên viết KLTN
Thực tế Giải pháp
Sinh viên rất mơ hồ về đối tượng
nghiên cứu, mục đích nghiên cứu (và
do vậy trình bày rất dài dòng về dự
định của họ).
Yêu cầu sinh viên trình bày ngắn gọn và trà
lời hai câu hỏi: Anh/chị nghiên cứu về chủ
đề gì? Để làm gì? với câu trả lời không quá
10 từ
Đề tài sinh viên chọn theo mong Nói rõ KLTN là báo cáo khoa học, phải đáp
14
muốn hay hoài bão của họ nhưng
không có khả năng triển khai.
ứng các yêu cầu học thuật và SV phải có
khả năng hoàn thành tốt
Sinh viên nghe hướng dẫn nhưng
không ghi chép và đề nghị giáo viên
hướng dẫn trình bày lại. SV hay mắc
các lỗi về hình thức, đánh máy.
Chuẩn bị tài liệu hướng dẫn và in ra giấy để
SV có thể nghiên cứu thêm hay tra cứu khi
quên
Sinh viên liên lạc với giáo viên bất kể
thời điểm nào trong ngày.
Ấn định một lịch cố định để làm việc với
SV
Sinh viên thay đổi tên đề tài hay đề
cương chi tiết đã được duyệt.
GVHD duyệt đề cương chi tiết và yêu cầu
khi xuất trình bản thảo phải nộp kèm đề
cương.
GVHD mất nhiều thời gian để kiểm
tra lại những yêu cầu chỉnh sửa có
được sinh viên thực hiện không.
Yêu cầu SV khi nộp bản thảo lần sau phải
nộp kèm báo cáo tiếp thu chỉnh sửa
2.2. Một số trải nghiệm từ quá trình tham gia hội đồng chấm KLTN
Trong quá trình tham gia chấm KLTN, người viết nhận thấy những nhận xét
dưới đây là khá phổ biến tại các hội đồng:
+ Tên đề tài không phù hợp với chuyên ngành đào tạo;
+ Sinh viên hiểu sai đối tượng nghiên cứu và mục đích nghiên cứu;
+ Nội dung 3 chương không thể hiện chính xác đối tượng nghiên cứu và mục
đích nghiên cứu đã thể hiện trong tên đề tài và trong phần mở đầu;
+ SV tự nghĩ ra các phương pháp nghiên cứu hoặc nêu tên các phương pháp
nghiên cứu nhưng không sử dụng trong đề tài (ví dụ: phương pháp chuyên gia,
phương pháp khảo sát thực tế, kết hợp phân tích định tính và định lượng…); nhầm
lẫn giữa phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu;
+ Các bảng biểu không có nguồn trích dẫn, không đánh số thứ tự, không có tiêu
đề, không có đơn vị tính, sau các bảng số liệu không phân tích, đánh giá, nhận định;
+ Tài liệu tham khảo không sắp xếp đúng quy định, nội dung bài viết không trích
dẫn tài liệu tham khảo; trích dẫn toàn bộ trang web hoặc liệt kê tên các loại tạp chí;
+ Nội dung các phần viết chi tiết không phù hợp với tiêu đề của đề mục lớn;
15
+ Nội dung các chương thiếu sự gắn kết với nhau: Chương 2 và 3 không dựa vào
nền tảng lý luận đã trình bày ở chương 1; chương 1 đề ra các cơ sở lý luận nhưng
chương 2 không khảo sát dựa theo các yếu tố đã trình bày ở chương 1…
Để việc chia sẻ kinh nghiệm thuận tiện, người viết xin lấy một số ví dụ từ các
KLTN SV đã bảo vệ trong năm 2009 để chia sẻ.
Về sự phù hợp giữa tên đề tài và chuyên ngành đào tạo: Trước đây, các hội
đồng vẫn thường xem xét tên đề tài có phù hợp với chuyên ngành đào tạo hay
không để đảm bảo mục tiêu đào tạo của Trường được thể hiện qua sản phẩm đầu ra.
Qua đánh giá, có nhiều đề tài không phù hợp với chuyên ngành Kinh tế đối ngoại
hoặc Quản trị kinh doanh quốc tế ví dụ như: “Thực trạng ứng dụng quản trị nguồn
lực trong doanh nghiệp và giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn…”,
“Phát triển phương thức nhượng quyền kinh doanh trong ngành bán lẻ cho các
doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập”, “Một số kinh nghiệm vận dụng
hiệu quả quản trị chuỗi cung ứng trên thế giới”, “Thực trạng và giải pháp cho hệ
thống phân phối phân bón tại đồng bằng sông Cửu Long”, “Thực trạng và giải pháp
tăng cường thu hút đầu tư tại Khu công nghiệp Lộc Sơn giai đoạn 2006 – 2020”…
Nguyên nhân của việc này là bộ môn, giảng viên đã căn cứ vào danh mục các đề tài
gợi ý chung chung nhưng chưa cụ thể hóa đối tượng và mục đích nghiên cứu cho
phù hợp với chuyên ngành đào tạo. Các nguyên nhân khác có thể là do: trong danh
sách duyệt đề tài chỉ ghi tên sinh viên, tên lớp và tên đề tài mà không có ghi chú nào
về chuyên ngành đào tạo của sinh viên hoặc do sinh viên có mối quan tâm riêng đặc
biệt với đề tài đó hoặc do sinh viên có những tài liệu tham khảo thuận lợi nên đã
chọn đề tài chưa thật sự phù hợp. Dù bất kỳ lý do gì, theo người viết, chúng ta nên
chặt chẽ kiểm soát việc đề tài thực hiện phải phù hợp với chuyên ngành đào tạo để
giúp sinh viên ứng dụng tốt kiến thức chuyên ngành đã được đào tạo.
Về tính chính xác khi gọi tên đối tượng nghiên cứu hoặc xác định giai
đoạn nghiên cứu: Có đôi khi, nỗ lực làm cho đề tài mới hơn các đề tài đã công bố
hoặc cố gắng diễn đạt ngắn gọn đối tượng nghiên cứu, giới hạn về thời gian nên đã
dẫn đến những tên đề tài chưa đảm bảo tính khoa học hoặc đối tượng nghiên cứu
quá rộng khiến cho đề tài không đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, ví dụ như:
16
“Đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản của tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu hướng về sản phẩm khai
thác xa bờ vào thị trường Hoa Kỳ trong giai đoạn 2010 - 2020”, “Đẩy mạnh xuất
khẩu hoa công nghệ cao của tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2010 - 2020”, “Thực trạng và
giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của các ngân hàng thương
mại Việt Nam”, “Tình hình ứng dụng e-banking ở các nước trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam giai đoạn 2009 - 2019” …
Về sự phù hợp của nội dung với tiêu đề hoặc đối tượng nghiên cứu:
Nguyên tắc chung là các nội dung trực thuộc phải liên quan trực tiếp đến tiêu đề.
Tuy nhiên, khi viết KLTN, sinh viên không quán triệt được điều này mà chỉ trình
bày các thông tin sẵn có hoặc các tiêu đề nhỏ mang tính dẫn dắt rất gián tiếp với
tiêu đề nghiên cứu. Ví dụ:
Ví dụ 1: Tên đề tài: “Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính đến các đồng
ngoại tệ mạnh và một số giải pháp cho các ngân hàng thương mại Việt Nam” với
tên 3 chương là:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về tỷ giá hối đoái và khủng hoảng tài chính
- Chương 2: Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đến các đồng
ngoại tệ mạnh và hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho các ngân hàng thương
mại Việt Nam trước biến động của các đồng ngoại tệ mạnh
Ví dụ 2: Tiêu đề của mục III chương 1: “Ý nghĩa của những biện pháp hạn chế
rủi ro trong tổ chức và thực hiện hợp đồng xuất khẩu gạo ở Việt Nam” nhưng phần
nội dung viết gồm các mục:
- Tiềm năng xuất khẩu gạo của Việt Nam
- Vai trò của hoạt động xuất khẩu gạo đối với Việt Nam
- Sự cần thiết phải giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ký kết, tổ chức
Ví dụ 3: Tên chương 3 là “Giải pháp phát triển hoạt động marketing liên kết
quốc tế tại Việt Nam” nhưng mục 3.1 của chương 3 với tiêu đề “Marketing liên kết
quốc tế trong xu hướng phát triển chung của thương mại điện tử Việt Nam” bao
gồm 2 nội dung:
17
- Định hướng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn 2006 –
2010
- Tiềm năng phát triển marketing liên kết quốc tế với tư cách là một bộ phận
của thương mại điện tử ở Việt Nam.
Qua các trải nghiệm trên, người viết có một vài kinh nghiệm nhỏ trong quá
trình hướng dẫn sinh viên viết KLTN như sau:
- Dành thời gian để trao đổi, tranh luận với SV về đề tài họ sẽ thực hiện, chỉ
nhận hướng dẫn nhưng đề tài mà bản thân GV đã nắm khá vững, kiểm tra khả năng
SV có thể hoàn thành KLTN (qua tài liệu, qua khả năng thu thập thông tin, qua
quyết tâm của SV và thời gian SV dành cho việc thực hiện đề tài). Nếu SV không
có khả năng thu thập tài liệu hoặc bận rộn, kiên quyết từ chối không hướng dẫn và
khuyên họ nên chọn cách thi tốt nghiệp.
- Soát kỹ đề cương chi tiết của sinh viên để đảm bảo 3 chương hoàn thành được
mục tiêu nghiên cứu đề ra và các đề mục nhỏ phù hợp với tên chương.
- Khi sửa bài viết, luôn yêu cầu SV trình đề cương đã duyệt. Sau khi đọc, có ghi
chú cụ thể về những hạn chế của đề tài. Nếu SV kiên quyết không sửa hoặc không
đủ năng lực để chỉnh sửa theo yêu cầu thì nói rõ GVHD sẽ trình bày những hạn chế
ấy cho hội đồng.
- Trong chương 1, tránh trình bày những vấn đề lý thuyết có mức độ liên quan
quá gián tiếp đến đề tài hoặc lấy kinh nghiệm của một quốc gia, khu vực có điều
kiện quá cách biệt với đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Đọc kỹ những lỗi hình thức sinh viên thường mắc phải: trình bày bảng biểu,
sử dụng dấu phân cách số thập phân, trích dẫn nguồn, sử dụng tài liệu tham khảo.
GVHD không sửa từng lỗi chính tả hay sửa bài qua email.
3. Một số đề xuất nhằm góp phần nâng cao chất lượng hướng dẫn SV viết
KLTN
- Bộ môn liên tục cập nhật và bổ sung danh mục các đề tài KLTN cho từng
chuyên ngành, cho từng năm (để tránh tình trạng sao chép và các đề tài có tính thời
sự tương đối) và đưa ra yêu cầu để đảm bảo tính “quốc tế” của các chuyên ngành
đào tạo.
18
- Bộ môn cần rà soát kỹ (có thể phân công GV phản biện) trước khi trình Giám
đốc ký duyệt danh sách đề tài gợi ý (vì sau này, GV, SV sẽ lập luận là đã sử dụng
đề tài theo đúng danh mục gợi ý) và quy định rõ trách nhiệm của các cá nhân được
phân công thực hiện công việc sàng lọc này.
- Với các đề tài mới (dĩ nhiên, thông thường là khó thực hiện), GVHD và SV
cần đầu tư nhiều để đảm bảo tính khoa học của kết cấu đề tài, tránh trường hợp vì
không đủ số liệu hay tài liệu tham khảo nên kết cấu không chặt chẽ.
- Danh sách phân công GVHD nên có thêm cột chuyên ngành đào tạo của sinh
viên để GVHD tiện việc phân tích, gợi ý cho sinh viên về hướng nghiên cứu phù
hợp.
- Đưa Quy định về trình tự đăng ký đề tài, thực hiện và bảo vệ KLTN (số
855/CSII ngày 30/12/2008 của Giám đốc CSII) vào cuốn “Các quy định về công tác
quản lý học tập và rèn luyện của sinh viên”. Trước mắt, trong kế hoạch triển khai
SV các khóa viết KLTN, nên hướng dẫn sinh viên đọc quy định này để thực hiện
đúng.
- GVHD nên yêu cầu SV viết báo cáo kết quả tiếp thu chỉnh sửa đề tài (để tiết
kiệm thời gian đọc các lần sau). Mẫu đề xuất đính kèm cuối bài.
- Bản nhận xét của GVHD nên chi tiết hơn nữa, vừa giúp hội đồng đánh giá
chính xác hơn, vừa ràng buộc trách nhiệm của GVHD (phải có ý kiến kỹ hơn và
giúp phân định được trách nhiệm của GVHD) và SV (SV chưa thực hiện đầy đủ các
yêu cầu của GVHD hay GVHD chưa cần mẫn hợp lý trong việc chỉnh sửa đề
cương, bài viết… của SV). Mẫu đề xuất đính kèm cuối bài.
- Khi lập danh sách SV viết KLTN nên quy định thêm một số tham chiếu để
tiện cho việc xử lý thông tin trong các bước sau này (ví dụ: sắp xếp KLTN, thành
lập hội đồng, phân chia KLTN cho các thành viên hội đồng, sắp xếp nhận xét của
GVHD, tổng hợp kết quả…) vì nếu sử dụng số báo danh thì có thể bị trùng lắp. Số
tham chiếu này được sử dụng trên tất cả các tài liệu có liên quan như: bìa KLTN,
danh sách SV viết KLTN, phiếu nhận xét, phiếu điểm, danh sách hội đồng chấm
KLTN… Số tham chiếu này sẽ được gán cho tất cả SV viết KLTN trong cùng một
đợt.
19
- Khi bố trí lịch bảo vệ KLTN có thể kéo dãn thời gian giữa các ngày tổ chức
hội đồng chấm KLTN để các thành viên tham gia hội đồng có đủ sức khỏe và tập
trung tốt hơn nữa cho các công tác chuyên môn.
- Sau mỗi đợt tổ chức bảo vệ KLTN, sẽ tổ chức sinh hoạt khoa học trong phạm
vi bộ môn để chia sẻ về các KLTN có kết quả bảo vệ từ 6 điểm trở xuống hoặc các
đề tài mà GVHD đánh giá là SV đã thực hiện tốt theo hướng dẫn nhưng hội đồng
chấm KLTN có đánh giá khác. Thư ký các hội đồng có trách nhiệm thống kê, báo
cáo cho Bộ môn, các chủ tịch hội đồng sẽ báo cáo và cung cấp thông tin về lý do
SV đạt kết quả thấp để từ đó GV có thể rút kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau.
Chất lượng của một khóa luận tốt nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng
kết quả chấm KLTN lại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Giáo viên hướng
dẫn chỉ là người chịu trách nhiệm về mặt khoa học, cấu trúc của bài viết. Chính sự
cần cù lao động khoa học của sinh viên mới quyết định kết quả KLTN của họ như
thế nào. Để tránh những cú sốc tâm lý từ phía SV, GVHD nên giúp họ hiểu được
những kết quả mà SV đã đạt được, những hạn chế của KLTN, của SV về mặt bằng
kiến thức nói chung vì những điều ấy sẽ thể hiện rõ trong nội dung trình bày và trả
lời câu hỏi. Cách hành xử như vậy sẽ khiến cho sinh viên có khi cảm thấy khó chịu
nhưng đó là cách tốt nhất để giúp sinh viên nhận ra những khía cạnh cần hoàn thiện
dù rằng chắc chắn họ sẽ nhận được tấm bằng cử nhân kinh tế. Đó cũng chính là
cách chúng ta mở ra cho sinh viên một định hướng mới: học tập không ngừng để
thích nghi với những diễn biến mới trong đời sống kinh tế đối ngoại và kinh doanh
quốc tế.
20
Đề xuất mẫu báo cáo tiếp thu chỉnh sửa KLTN:
TP. Hồ Chí Minh, ngày … tháng … năm 200…
BÁO CÁO KẾT QUẢ TIẾP THU CHỈNH SỬA
ĐỂ HOÀN THIỆN KLTN
Kính gửi: GVHD . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Tôi tên là: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Sinh viên Khóa: . . . . . . . . . Lớp: . . . . . . . . . Số tham chiếu: . . . . . . . . .
Trên cơ sở ý kiến của GVHD, tôi đã chỉnh sửa, hoàn thiện KLTN và xin báo
cáo kết quả chỉnh sửa như sau:
1. Những nội dung đã tiếp thu, chỉnh sửa:
STT Yêu cầu của GVHD Nội dung chỉnh sửa thể hiện ở trang
2. Những nội dung chưa/ không chỉnh sửa:
Vì lý do khác biệt về quan điểm hoặc khả năng đáp ứng, tôi chưa/ không chỉnh
sửa các vấn đề sau theo yêu cầu của GVHD:
-
-
-
-
-
Người báo cáo
(Sinh viên ký và ghi rõ họ tên)
21
Đề xuất mẫu nội dung nhận xét của GVHD:
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Họ và tên sinh viên: ……………………Lớp:……Khóa….Số tham chiếu: ………
Tên đề tài: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Họ và tên GVHD: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Nội dung nhận xét Kết quả nhận xét
(Khoanh tròn vào điểm số thích hợp)
Tinh thần, thái độ của SV trong quá
trình thực hiện KLTN
Không đạt yêu cầu Rất tốt
1 2 3 4 5
SV đã thực hiện theo hướng dẫn
của GV
Không đạt yêu cầu Rất tốt
1 2 3 4 5
Hình thức trình bày
(font chữ, dãn
dòng, chừa lề, số trang, trích dẫn
Không đạt yêu cầu Rất tốt
1 2 3 4 5
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn (các
cơ sở lý luận có liên kết chặt chẽ
Không đạt yêu cầu Rất tốt
1 2 3 4 5
Phương pháp nghiên cứu (tên các
phương pháp, thực tế có sử dụng
Không đạt yêu cầu Rất tốt
1 2 3 4 5
Nội dung khoa học:
* Về kết cấu
- Tên các chương, mục có phù hợp
Không đạt yêu cầu Rất tốt
1 2 3 4 5
* Về chi tiết nội dung viết: Không đạt yêu cầu Rất tốt
1 2 3 4 5
Ý kiến của GVHD về việc cho
phép SV bảo vệ KLTN trước Hội
đồng
Không đồng ý
0
Đồng ý
1
Những vấn đề GVHD đã yêu cầu nhưng SV chưa chỉnh sửa hoặc chỉnh sửa
chưa đạt yêu cầu:
(Đính kèm bản photo báo cáo kết quả tiếp thu chỉnh sửa KLTN của sinh viên)
22
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
Những vấn đề GVHD lưu ý Hội đồng khi đánh giá:
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
TP. Hồ Chí Minh, ngày … tháng … năm 200…
GVHD
(Ký và ghi rõ họ tên)
23
MỘT SỐ KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN SINH VIÊN
VIẾT LUẬN VĂN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Quang Minh
Giám đốc VJCC
Những năm gần đây, Cơ sở 2 Đại học Ngoại thương tại TP Hồ Chí Minh đã
có nhiều cải tiến, từng bước hoàn thiện các quy định về viết luận văn khoa học,
nhất là đối với việc hướng dẫn viết và bảo vệ khóa luận tốt nghiệp, do vậy chất
lượng các luận văn khoa học của sinh viên từng bước được nâng cao. Bài viết này
muốn trao đổi một số suy nghĩ và kinh nghiệm qua thực tiễn hướng dẫn sinh viên
viết luận văn khoa học, nhất là viết và bảo vệ khóa luận tốt nghiệp, không đi sâu
vào vấn đề mang tính học thuật.
1. Khái quát về luận văn khoa học
Trong quá trình học tập ở bậc Cao đẳng và Đại học, mỗi sinh viên có thể phải
tham gia thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu khoa học ở những cấp độ và yêu cầu
khác nhau. Các nghiên cứu đó có thể là: Tiểu luận môn học, Thu hoạch thực tập tốt
nghiệp, Khóa luận tốt nghiệp, Đồ án tốt nghiệp, hoặc các đề tài nghiên cứu khoa
học mà sinh viên tham gia. Những nghiên cứu này có thể được gọi chung là luận
văn khoa học.
Tiểu luận môn học là một bài tập nghiên cứu khoa học nhỏ được thực hiện sau
khi học xong một môn học, góp phần giải đáp, mở rộng hoặc nâng cao kiến thức về
một vấn đề thuộc môn học nhất định. Thu hoạch thực tập tốt nghiệp là báo cáo kết
quả nghiên cứu có tính tường trình lại kết quả những việc đã làm theo một mục
đích, nội dung nhất định nhằm giúp sinh viên củng cố và bổ sung thêm những kiến
thức đã học trong khóa học thông qua việc phân tích và giải quyết những vấn đề
thực tiễn. Khóa luận tốt nghiệp (hay đồ án tốt nghiệp) có thể hiểu là một báo cáo
nghiên cứu của sinh viên năm cuối đại học, được thực hiện trong một khoảng thời
gian qui định và được bảo vệ trước một hội đồng khoa học của Khoa/Bộ môn để
đánh giá và làm cơ sở xét duyệt tốt nghiệp cho sinh viên.
24
Kết quả của những nghiên cứu nói trên là một trong những cơ sở để nhà
trường đánh giá kết quả học tập của sinh viên khi kết thúc chương trình của khóa
học. Đây là những kết quả nghiên cứu của sinh viên, là một đối tượng của sở hữu trí
tuệ được xã hội thừa nhận, trân trọng và pháp luật bảo vệ. Đồng thời đây cũng là cơ
sở để nhà trường, các đồng nghiệp đánh giá kết quả giảng dạy, hoạt động hướng dẫn
nghiên cứu khoa học của giảng viên và khẳng định sự thành công của chương trình
đào tạo.
Mục đích chính của việc viết luận văn khoa học là nhằm giúp sinh viên rèn
luyện kĩ năng chuyên môn, tổng hợp các kiến thức đã học trong nhà trường; tăng
cường tính chủ động và tinh thần trách nhiệm trong công việc; đồng thời phát huy
tính độc lập, sáng tạo và tự nghiên cứu của sinh viên nhằm phục vụ cho công việc
của sinh viên sau khi ra trường.
2. Một số vấn đề cần lưu ý khi hướng dẫn viết luận văn khoa học
Để một luận văn khoa học đạt kết quả tốt, ngoài sự cố gắng mang tính quyết
định của bản thân sinh viên, thì không thể thiếu vai trò định hướng và hướng dẫn
của giáo viên. Qua thực tế hướng dẫn sinh viên viết luận văn khoa học, nhất là khóa
luận tốt nghiệp và tham gia các hội đồng bảo vệ luận văn khoa học, cũng như các đề
tài nghiên cứu khoa học, chúng tôi thấy có một số vấn đề sinh viên làm chưa tốt,
cần được giáo viên hướng dẫn lưu ý.
Tên đề tài của luận văn khoa học. Yêu cầu chung đối với tên của một đề tài
nghiên cứu là cần phải có tính khái quát cao, cụ thể, rõ ràng và ngắn gọn; tránh dài
dòng, chung chung, mập mờ. Thực tế một số tên đề tài nghiên cứu của sinh viên khá
dài dòng, thậm chí mơ hồ, rất khó xác định đối tượng và mục tiêu nghiên cứu, do
vậy nên cân nhắc kỹ khi tư vấn cho sinh viên đặt tên đề tài nghiên cứu. Khi hướng
dẫn viết luận văn khoa học, giáo viên cần đọc kỹ tên đề tài, cần lưu ý đến tất cả các
từ của tên đề tài, không được bỏ qua bất kỳ từ nào nhằm thể hiện nội dung luận văn
cho phù hợp với yêu cầu của tên đề tài. Chẳng hạn, ở cuối tên đề tài có các cụm từ:
“ theo hướng bền vững.”, hay: “ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.”, các
cụm từ này đều có ý nghĩa và yêu cầu nhất định, nên cần phải được thể hiện rõ
25