Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phát huy vai trò của nông dân bến tre trong phong trào xây dựng nông thôn mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.63 KB, 5 trang )

Phát huy vai trị c ủa nơng dân Bến Tre trong phong trào xây d ựng nông
thôn mới
Xây dựng nông thơn mới là sự nghiệp chung của tồn xã hội, trong đó
khơng thể thiếu vai trị của nơng dân. Ngày nay, nơng dân B ến Tre đang có
sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động về các vấn đề văn
hóa, xã hội và mơi trư ờng, góp phần quan trọng đưa phong trào XDNTM
đạt được nhiều thành tựu nổi bật.
Tính đến nay, Bến Tre có 58 xã đ ạt chuẩn xã nơng thơn m ới, trong đó có 1
xã đạt xã nơng thơn m ới nâng cao; huyện Chợ Lách trở thành huyện nông
thôn mới đầu tiên, thành ph ố Bến Tre hoàn thành nhi ệm vụ Xây dựng nông
thôn mới (XDNTM). Tuy nhiên, vi ệc phát huy vai trị của nơng dân vẫn cịn
nhiều hạn chế, bất cập địi hỏi cần có một hệ thống các giải pháp đồng bộ
và quyết liệt.

Điểm sáng của nông dân Bến Tre về văn hóa, xã hội và mơi trư ờng trong
xây dựng nông thôn m ới
Đến nay, nhiều nét văn hóa đư ợc bảo tồn, phát huy, như: trong các loại
hình nghệ thuật (đờn ca tài tử, hát sắc bùa (di sản văn hóa phi vật thể cấp
quốc gia), các bài dân ca, bài lý v ề quê hương và con ngư ời Bến Tre…);
nhiều lễ hội (lễ hội nghinh Ơng gắn với truyền thống tín ngưỡng dân gian ở
ba huyện biển, nhất là huyện Bình Đại); lễ hội cây trái ngon, an toàn t ổ
chức hằng năm của huyện Chợ Lách; lễ hội Dừa là lễ hội lớn nhất của tỉnh
Bến Tre; lễ hội Kỳ Yên (nét văn hóa g ắn với cư dân nơng nghiệp lúa
nước)…

Thơng qua lao động, nông dân kết hợp làm du lịch để đạt được mục tiêu
kép đó là: vừa tạo ra thu nhập, vừa góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa bản địa. Ở mơ hình này, nơng dân B ến Tre tập trung vào hai lĩnh
vực: (1) Sản xuất kết hợp du lịch sinh thái, du l ịch miệt vườn homestay
như tham quan vườn cây ăn trái và tr ồng hoa cây cảnh, trải nghiệm trong
rừng ngập mặn gắn với nuôi thủy sản tại các địa bàn nổi tiếng (huyện Chợ


Lách, Châu Thành, Thạnh Phú…). (2) Sản xuất kết hợp tham quan các làng
nghề truyền thống rất đa dạng, phong phú tập trung ở các huyện Giồng
Trôm, Ba Tri, Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc.


Trong các hoạt động xã hội, nơng dân tích cực tham gia thông tin, tuyên
truyền về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp lu ật của Nhà nước. Phần
đơng người nông dân nhận thức được tầm quan trọng của tri thức, của việc
học là để bảo đảm cho sự phát triển bền vững không chỉ cho cuộc sống hiện
tại mà cịn hướng đến tương lai.

Về cơng tác bảo vệ mơi trường ngày càng đư ợc người nông dân quan tâm,
đặc biệt, những năm qua, nhiều mơ hình hiệu quả, hình thành nên các
phong trào và đang lan t ỏa mạnh mẽ trên địa bàn nơng thơn, như: mơ hình
sản xuất sạch “ba giảm, ba tăng”, “một phải, năm giảm” (phải sử dụng
giống có xác nhận; giảm giống, giảm nơng dược, giảm phân đạm, giảm
nước tưới, giảm thất thoát sau thu ho ạch); mơ hình “Ru ộng lúa – bờ hoa” –
mơ hình “Cơng ngh ệ sinh thái quản lý rầy nâu và bệnh virus trên cây lúa”
đạt hiệu quả cao, được nông dân thực hiện khá phổ biến trên địa bàn các xã
ở huyện Giồng Trôm, huyện Ba Tri; phong trào xây h ầm khí sinh học
Biogas, ni heo trên đệm lót từ chế phẩm sinh học (hỗn hợp từ trấu, mùn
cưa, men vi sinh Balasa) đang đư ợc nhiều nông dân (nhất là ở huyện Mỏ
Cày Bắc) áp dụng vì tiết kiệm đáng kể chi phí về điện, nước và công lao
động; phong trào “vườn xanh, nhà đẹp”.

Nhiều mô hình nơng dân có nh ững suy nghĩ sáng tạo và tự đầu tư xây dựng
các cơng trình nư ớc ngọt phục vụ sản xuất khá quy mô, kể cả xây đập có
cống kiên cố, gia cố đê bao; chủ động tích trữ nước mưa, nước ngọt bằng
xây các giếng lộ thiên (ống hồ), xây hầm trữ nước hoặc sẵn sàng góp vốn
xây dựng các nhà máy nư ớc nhỏ. Đây là một trong những lý do góp ph ần

nâng tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 99,4%, trong đó
tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch đạt 72,6% tính đến năm 20201.

Nhận diện một số hạn chế của nông dân Bến Tre về văn hóa, xã hội, mơi
trường trong xây dựng nơng thơn mới
XDNTM ở Bến Tre là dịp đem đến những vận hội mới làm cho nông thôn
từng bước rút ngắn khoảng cách với thành thị; nền nơng nghiệp có điều
kiện phát triển nhanh, bền vững; nơng dân có nhiều cơ hội thoát khỏi trạng


thái trì trệ, lạc hậu, đồng thời, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống, dễ
dàng tiếp cận các yếu tố văn minh hiện đại và hưởng thụ các phúc lợi xã
hội tốt hơn. Tuy nhiên, những vấn đề về văn hóa, xã hội lại nảy sinh theo
chiều hướng tiêu cực gây nên những tác hại xấu mà bản thân nông dân là
người trực tiếp chịu tác động, ảnh hưởng nặng nề.

Thứ nhất, vai trị của nơng dân trong giáo d ục và đào tạo vẫn chưa thực sự
được phát huy tốt. Hiện nay, mặc dù xã hội có sự phát triển đáng kể trên
nhiều phương diện khác nhau hư ớng đến nền kinh tế tri thức, tuy nhiên, ở
Bến Tre vẫn cịn khơng ít nơng dân chưa th ực sự quan tâm đến việc coi
trọng học hành do nhận thức khơng nhất thiết bắt buộc con em mình học
cao, thậm chí, nhiều gia đình muốn con em nghỉ học sớm để phụ giúp gia
đình mưu sinh kiếm sống.

Thứ hai, nhiều yếu tố văn hóa truyền thống có dấu hiệu mai một. Hiện nay,
xuất hiện ngày càng nhi ều các trị chơi game online, nh ất là các game mang
tính chất bạo lực, cờ bạc…

Thứ ba, mối quan hệ cộng đồng có phần trở nên lỏng lẻo. Những toan tính
vụn vặt, thói ích kỷ, tính tư hữu và hám lợi có cơ hội trỗi dậy thay cho tình

làng, nghĩa xóm, “tương thân tương ái” v ốn từ lâu là nét văn hóa ứng xử
tốt đẹp trong cộng đồng dân cư nông thôn và nh ững xung đột, mâu thuẫn
trong sản xuất… dẫn đến, mối quan hệ xóm giềng, kể cả ngay trong gia
đình dịng họ bị xói mịn, rạn nứt…

Thứ tư, tệ nạn xã hội – vấn đề nhức nhối ở nơng thơn ngày nay. Đó là m ặt
trái tiêu cực của xã hội đang ào ạt tấn công vào địa bàn nơng thơn làm cho
“tình hình an ninh, trật tự có lúc, có nơi cịn diễn biến phức tạp, nhất là tệ
nạn ma túy”, trong khi đó, “vi ệc tham gia phòng, ch ống và tố giác tội phạm
của một bộ phận người dân chưa được nâng cao”2. Cụ thể hơn, một bộ
phận nông dân lư ời biếng trong lao động, sa vào rượu chè, cờ bạc và các tệ
nạn xã hội khác, nguy cơ tái nghèo ở bộ phận nơng dân này là khó tránh
khỏi.


Thứ năm, bất cập về môi trường từ sản xuất và sinh hoạt của nơng dân khi
vẫn cịn thói quen s ử dụng thuốc bảo vệ thực vật quá mức cho phép so v ới
hướng dẫn sử dụng trên chai nhãn; đổ các hóa chất dư thừa vào các thửa,
mương hoặc phun vào các loại cây trồng khác… Những việc làm này tác
động tiêu cực rất lớn đến nền sản xuất xanh và bền vững, một xu thế mà
thế giới đang hướng đến. Khuynh hư ớng sản xuất theo tiêu chuẩn GAP,
VietGAP được nói nhiều nhưng trên thực tế khơng được nơng dân thực hiện
nghiêm túc. Ở tiêu chí 17 về mơi trường, có nội dung xây nghĩa trang t ập
trung tại xã cũng thực sự khó thực hiện được do tập quán an táng của người
dân Bến Tre là chôn ở đất nhà…

Một số đề xuất nhằm phát huy vai trị của nơng dân Bến Tre tham gia xây
dựng nông thôn mới
Một là, đối với nông dân.


XDNTM nhằm phát triển kinh tế – xã hội đem lại những lợi ích thiết thực
cho nơng dân. Do đó, mỗi người nơng dân tỉnh Bến Tre luôn nêu cao tinh
thần cách mạng, năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất, nhất là cần
thay đổi nhận thức và hành vi trên hai vấn đề cốt lõi: (1) Nỗ lực phấn đấu
vươn lên vượt qua những rào cản tâm lý, tập quán cũ kỹ và lạc hậu; khơng
trơng chờ ỷ lại, cần xóa bỏ tư tưởng thích nghèo b ền vững để được Nhà
nước và xã hội chăm lo. (2) Xây dựng và bồi dưỡng tinh thần làm chủ, nêu
cao ý chí tự lực tự cường, dám nghĩ, dám làm, năng đ ộng và sáng tạo, phát
huy nội lực, nỗ lực vượt khó khăn vươn lên không ng ừng tự bồi dưỡng
nâng cao trình độ văn hóa, tri thức, kỹ năng và thái độ, đáp ứng tốt hơn
yêu cầu ngày càng cao từ thực tiễn của cuộc sống.

Hai là, đối với hệ thống chính trị.

Để phát huy được vai trị của nơng dân trong XDNTM, c ần có sự tham gia
quyết liệt của cả hệ thống chính trị cùng cộng đồng trách nhiệm, phối hợp
chặt chẽ, hướng về địa bàn nông thôn, lấy nông dân làm đối tượng cần


được quan tâm, chia s ẻ bằng những chương trình hành động, việc làm thiết
thực. Trong đó, tập trung vào: (1) Công tác giáo d ục và đào tạo, hướng
nghiệp dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân là giải pháp căn bản,
nền tảng, có tính chiến lược của sự phát triển lâu dài và bền vững. (2) Huy
động, phát huy có hiệu quả các nguồn lực về vốn, khoa học – công nghệ và
nhất là nguồn nhân lực trong quá trình XDNTM ph ải được chú trọng tăng
cường. (3) Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế cây trồng vật nuôi phù
hợp với từng địa phương trong b ối cảnh Bến Tre đang tăng t ốc hội nhập,
đồng thời phải thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp bách. (4) Phát
triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn, đặc biệt là giao thông và
thủy lợi nhằm tạo động lực cho nông dân trong sản xuất và sinh hoạt.


Chú thích:
1. Ban Chỉ đạo các chương trình m ục tiêu quốc gia tỉnh Bến Tre. Báo cáo
số 40/BC-BCĐ ngày 22/01/2021 về tình hình thực hiện các Chương trình
mục tiêu quốc gia năm 2020 và kế hoạch thực hiện năm 2021.
2. Chương trình số 09-CTr/TU ngày 29/01/2021 c ủa Tỉnh ủy Bến Tre về
xây dựng nông thôn m ới tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020 – 2025, định hướng
đến năm 2030.
Tài liệu tham khảo:
1. Bài viết nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
trong khn khổ Đề tài khoa học và công nghệ cấp Đại học Quốc gia, mã
số C2019-46-01.
2. Báo cáo số 357/BC-UBND ngày 26/9/2019 c ủa Ủy ban nhân dân tỉnh
Bến Tre về tổng kết phong trào thi đua “C ả nước chung sức xây dựng nông
thôn mới” trên địa bàn tỉnh Bến Tre (giai đoạn 2011 – 2020).
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.



×