Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Môi trường ô nhiễm suy thoái – Vấn đề cấp bách hiện nay đối với toàn thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.84 KB, 8 trang )

1. Mơi trường ơ nhiễm, suy thối – Vấn đề cấp bách hiện nay đối với tồn thế giới
Mơi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể, hữu cơ, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau giữa đất,
nước khơng khí và cơ thể sống trong phạm vi tồn cầu. Sự rối loạn bất ổn định ở khâu nào đó trong
hệ thống sẽ gây ra hệ quả nghiêm trọng. Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một bộ phận
của thiên nhiên. Thơng qua q trình lao động, con người khai thác, bảo vệ bồi đắp cho thiên nhiên,
nhưng qua q trình đó, con người xã hội dần dần có sự đối lập, hủy hoại mơi trường sống tự nhiên
của mình. Hiện nay, trái đất ngơi nhà chung của chúng ta hiện nay với gần 8 tỷ người đang sinh
sống, đang phải oằn mình gánh chịu những hậu quả nặng nề gắn với thực trạng hành tinh xanh
đang kêu cứu, do tình trạng ơ nhiễm, suy thối mơi trường ngày càng gay gắt. Có thể khái quát một
số xu hướng nổi bật của trạng thái này như sau:
- Tình trạng “lá phổi xanh” của trái đất ngày càng loang lổ do nạn phá rừng gia tăng tại nhiều
quốc gia. Trong những năm gần đây, tại Braxin, phá rừng tiếp tục là vấn nạn nhức nhối, năm 2020,
quốc gia Nam Mỹ này chứng kiến hoạt động tàn phá rừng Amazon tăng mạnh trở lại, lên mức cao
nhất trong 12 năm qua. Theo Viện nghiên cứu vũ trụ quốc gia Braxin (INPE) hơn 11.000 km 2 của
nước này đã bị phá hủy trong vịng 12 tháng. Được ví như “lá phổi xanh” của trái đất và là nguồn
sống cho cơng cuộc chống biến đổi khí hậu hiện nay, Amazon là rừng nhiệt đới lớn nhất thế giới với
gần 7,6 triệu km2, trong đó 60% nằm trong lãnh thổ Braxin. Bên cạnh nạn phá rừng gia tăng, tình
trạng cháy rừng cũng ngày càng tồi tệ tại khu vực này cũng như nhiều nước trên thế giới như tại
Úc, Mỹ và nhiều quốc gia khác. Cháy rừng đã tàn phá cây rừng và thảm thực vật, như tại Úc năm
ngoái đã phát thải ra 369 triệu tấn cacbon dioxit (CO2).
- Tình trạng nóng lên của trái đất. Theo tổ chức Khí tượng thế giới, nhiệt độ trung bình của trái đất
trong giai đoạn 2020 – 2024 sẽ tăng trên 1,5 độ C so với trung bình thời kỳ tiền cơng nghiệp, bởi
lượng CO2 và khí thải gây hiệu ứng nhà kính ngày càng gia tăng. Nhiệt độ trái đất gia tăng đã tạo ra
các đợt nắng nóng gay gắt tại nhiều quốc gia như tại Ấn Độ, thủ đô Niu Deli trải qua mùa nóng tồi tệ
nhất trong vịng 20 năm qua, miền Trung của Việt Nam cũng trải qua tình trạng nắng nóng này.
- Báo động tốc độ băng tan, nhiệt độ tăng cao cũng khiến cho băng tan nhanh hơn. Theo các nhà
nghiên cứu, do biến đổi khí hậu, môi trường bị tàn phá nên lượng băng tan trải từ khối lượng khổng
lồ tại Greenland đang ở mức cao nhất trong hơn 10.000 năm qua. Theo dự báo, nếu lượng khí thải
nhà kính khơng được kiểm sốt, khối băng lớn thứ hai thế giới và dài hàng km ở Bắc Cực này sẽ
tiếp tục mất đi hàng ngàn tỷ tấn, khiến mực nước biển toàn cầu dâng lên 10 cm. Tình trạng băng tan
với tốc độ chóng mặt cũng xảy ra tại Nam Cực, nơi có dải băng lớn nhất hành tinh. Khảo sát gần


đây tại vùng băng giá này cho thấy, vùng đất băng giá này đang bị bào mòn với tốc độ gấp 6 lần so
với 40 năm trước.
Tình trạng nước biển dâng sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống hàng tỷ người trên trái đất, ảnh hưởng
trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp, đến quy hoạch đơ thị, cuộc sống của người dân.
- Tình trạng suy thối về mơi trường sinh thái gắn liền với hiện tượng suy thối tầng Ozon. Tầng
Ozon là lớp khí O3 rất dày bao bọc trái đất như một cái đệm bảo vệ trái đất khỏi những tia cực tím
của mặt trời chiếu xuống trái đất. Thực tế cho thấy, tầng Ozon bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến cuộc
sống của trái đất.
- Suy thối mơi trường cịn thể hiện ở sự ơ nhiễm khơng khí, nguồn nước sạch, đặc biệt do ảnh
hưởng của phát triển các ngành công nghiệp, nhất là ngành công nghiệp gây ô nhiễm.
Do vậy, vấn đề bảo vệ mơi trường khơng cịn là vấn đề riêng của một quốc gia mà còn là vấn đề cấp
bách của toàn nhân loại. Mặc dù vấn đề này đã được cảnh tỉnh từ lâu như từ ngày 5/6/1972 tại
Stockhom Thụy Điển, các nhà khoa học và đại diện chính phủ nhiều nước đã họp Hội nghị môi
trường thế giới đầu tiên với sự tham gia của hơn 100 quốc gia và tổ chức quốc tế với khẩu hiệu
“Con người hãy cứu lấy cái nơi của chúng ta”, sau đó thế giới coi ngày 5/6 hàng năm là ngày Môi
trường thế giới. Sau đó, tháng 6/1992 tại Braxin, Hội nghị Thượng đỉnh về môi trường thế giới với
sự tham gia của hơn 100 quốc gia và tổ chức quốc tế, một lần nữa, khẳng định tình trạng suy thối
mơi trường nghiêm trọng, kêu gọi mọi quốc gia hãy hợp tác hiệp lực và có trách nhiệm nghĩa vụ bảo
vệ mơi trường. Sau đó, nhiều hội nghị về bảo vệ mơi trường quốc tế được diễn ra, song tình trạng ơ
nhiễm suy thối mơi trường khơng được cải thiện đáng kể là bao. Vấn đề ô nhiễm môi trường tiếp
tục là vấn đề nan giải, nóng bỏng hiện nay đối với nhiều quốc gia.


Tại Mỹ, tân tổng thống Joe Biden quyết định đưa nước Mỹ, quốc gia phát thải khí nhà kính lớn
thứ hai thế giới trở lại với Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu; đồng thời thiết lập chức danh Đặc
phái viên của tổng thống về vấn đề khí hậu do Cựu ngoại trưởng John Kerry đảm nhiệm.
Thực tiễn phát triển của thế giới cho thấy, phát triển bền vững là xu hướng chung của các quốc gia
trên thế giới, nội dung của phát triển bền vững là sự kết hợp hài hòa của ba vấn đề, về phát triển
kinh tế, xã hội và môi trường. Yếu tố bền vững được thể hiện trong từng nội dung trên và sự kết
hợp giữa các mặt kinh tế - xã hội - môi trường.

Năm 2015, hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về phát triển bền vững đã thông qua văn kiện
“Chuyển đổi thế giới của chúng ta: Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững” với 17
mục tiêu tổng quát và 169 mục tiêu cụ thể về phát triển bền vững (SDGs), trong đó vấn đề tài
ngun, mơi trường và biến đổi khí hậu tiếp tục là các mục tiêu ưu tiên. Trên góc độ này, quan niệm
về phát triển xanh đang được thống nhất về nhận thức và trở thành ngày càng phổ biến. Mặc dù
Liên hợp quốc chưa có định nghĩa về phát triển xanh, tuy nhiên theo các chuyên gia và nhiều nước
quan niệm cho rằng: “Phát triển xanh” là hình thức phát triển kinh tế đi đơi với bảo vệ mơi trường,
tiêu hao ít tài nguyên và không gây hại đến môi trường sinh thái. Có thể nói ngắn gọn: “Phát triển
xanh” chính là sản xuất xanh và tiêu dùng xanh, sản xuất và tiêu dùng thân thiện với môi trường
cũng như đem lại hiệu suất, hiệu quả cao. Chỉ tiêu tổng hợp nhất là GDP xanh được dùng để phản
ánh sự phát triển xanh. Cho đến nay, quan điểm chung cho rằng: “Kinh tế xanh” hay “tăng trưởng
xanh” là hình thức phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường, tiêu hao ít tài ngun và khơng
gây hại đối với mơi trường sinh thái, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế tri thức. Như vậy, phát
triển xanh là phát triển dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức với nền tảng dân trí
giáo dục cao.
Một số vấn đề về môi trường ở Việt Nam hiện nay
Mặc dù là một nước nông nghiệp đang trong quá trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, với mục tiêu
đến năm 2045 kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước
CHXHCN Việt Nam, trở thành nước phát triển thu nhập cao theo định hướng XHCN, tuy nhiên Việt
Nam cũng phải đang đối diện với nhiều vấn đề môi trường gay gắt. Với quy mô dân số gần 100 triệu
dân, đặt ra những vấn đề gay gắt về dân sinh, cải thiện đời sống, tăng thu nhập và vấn đề bảo vệ
môi trường. Hiện nay, hiểm họa môi trường sinh thái ở nước ta dưới tác động của q trình cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa, biến đổi khí hậu, nhất là mâu thuẫn giữa phát triển và lạc hậu, do ảnh
hưởng nặng nề của nếp suy nghĩ, nếp làm thói quen của người sản xuất nhỏ tiểu nơng chưa hồn
thiện. Có thể thấy một số biểu hiện cụ thể của vấn đề môi trường ở Việt Nam hiện nay như sau:
- Thiên nhiên nước ta ngoài bị ảnh hưởng tác động của chiến tranh trước đây, hiện nay còn bị phá
hoại bởi hoạt động vô ý thức, thái độ tủy tiện vô trách nhiệm, thiếu kế hoạch trong việc khai thác và
sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Theo thống kê trước năm 1945, rừng bao phủ chiếm tỉ lệ
43,8%, hiện nay chỉ còn hơn 28% (tức là dưới mức báo động 30%). Diện tích đất trồng trọt đang bị
sói mịn tăng mạnh lên khoảng 13,4 triệu ha. Ngun nhân chính của tình trạng này là do du canh

du cư, khai thác gỗ vô tội vạ, mở mang giao thông , xây dựng thủy điện …chưa theo quy hoạch
thống nhất. Vấn đề quy hoạch sử dụng đất chưa hợp lý, đang làm lãng phí nguồn tài ngun q giá
này của đất nước.
- Tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái gia tăng đang là vấn đề nan giải hiện nay. Nhiều nhà máy
xả ra chất thải công nghiệp, sinh hoạt, chất độc hại của q trình sản xuất khơng được xử lý nghiêm
túc mà đưa trực tiếp vào mơi trường, gây tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái, gây bệnh tật cho
người dân. Theo thống kê của Bộ tài nguyên Môi trường, hiện nay cả nước có hơn 5400 làng nghề,
riêng Hà Nội có hơn 1350 làng nghề, tuy nhiên 95% hoạt động sản xuất gây ô nhiễm môi trường,
hơn 50% gây ô nhiễm nghiêm trọng. Đây là những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất quy mơ nhỏ, cơng
nghệ nhìn chung lạc hậu, chưa đầu tư thích đáng vào xử lý ơ nhiễm môi trường, chất thải.
- Nồng độ bụi ở đô thị vượt quá nhiều lần chỉ tiêu cho phép. Nồng độ khí thải CO 2 nhất là ở các
thành phố lớn, khu công nghiệp vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 2,5 lần. Ngồi ra, ơ nhiễm
tiếng ồn cũng là vấn đề nan giải đối với các khu dân cư.
- Bên cạnh đó, vấn đề khai thác mỏ, vật liệu xây dựng, vàng đá quý… chính thức và tự do cũng đã
và đang làm hủy hoại môi trường sinh thái. Việc sử dụng mìn khai thác ở nhiều lĩnh vực đang làm
phá hoại sự cân bằng về hệ sinh thái môi trường.


Theo nhiều chuyên gia quốc tế, Việt Nam hiện nay đang phải đương đầu với nhiều vấn đề môi
trường nghiêm trọng như nạn phá rừng, sói mịn đất, việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên ven
biển đe dọa tới các hệ sinh thái, sự đa dạng sinh học và sự cạn kiệt nguồn gien. Thực trạng môi
trường này đi cùng với vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng đang đặt ra những vấn đề nóng
bỏng thách thức đối với sự phát triển nhanh và bền vững của Việt nam trong thời gian tới (Việt Nam
được đánh giá là một trong năm nước chịu tác động mạnh nhất của vấn đề biến đổi khí hậu).
3. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề môi trường ở Việt Nam.
Bảo vệ môi trường, tăng cường quản lý tài nguyên, chủ động phịng chống thiên tai, ứng phó với
biến đổi khí hậu luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm, ban hành nhiều chủ trương
chính sách, xử lý kịp thời những vấn đề đặt ra. Năm 2004, ở Việt NamThủ tướng Chính phủ đã ký
quyết định số 153/2004/QĐ TTg ngày 17/08/2004, “Ban hành định hướng chiến lược phát triển bền
vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự Agenta 21 của Việt Nam) nhằm phát triển bền vững đất

nước trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo
vệ môi trường”.
Năm 2005, Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, bổ sung đã được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 8 thông
qua ngày 29/11/2005 đã đưa ra quan niệm về môi trường: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên
và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát
triển của con người và sinh vật”. Năm 2020, dự thảo Luật bảo vệ môi trường sửa đổi bổ sung tiếp
tục được hoàn thiện, bổ sung, trình Quốc hội.
Năm 2017, Thủ tướng chính phủ đã ký phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương
trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững với 17 mục tiêu chung và 115 mục tiêu cụ thể tương ứng
với các mục tiêu phát triển bền vững của toàn cầu.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định nhận thức về bảo vệ môi
trường được nâng lên, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và tăng cường đầu tư cho lĩnh vực
này, hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức của thế giới trong lĩnh
vực này. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, văn kiện Đại hội XII cũng thẳng thắn nhìn vào
những yếu kém như: “Tài nguyên chưa được quản lý, khai thác sử dụng có hiệu quả và bền vững;
một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thối, cạn kiệt. Ơ nhiễm mơi trường tiếp tục
gia tăng, có nơi nghiêm trọng; việc khắc phục hậu quả về mơi trường do chiến tranh để lại cịn
chậm. Đa dạng sinh học suy giảm, nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trên diện rộng, ảnh
hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, sức khỏe của nhân dân. Chất lượng công tác dự báo
và quy hoạch còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển, chưa đảm bảo tính tổng thể, tính
liên ngành liên vùng; chưa rõ trọng tâm trọng điểm và nguồn lực thực hiện” (1)
Xuất phát từ thực trạng trên, văn kiện Đại hội XII của Đảng đề ra nhiệm vụ:
“Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ mơi trường, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu,
phục vụ phát triển bền vững…ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự
nhiên do chủ quan con người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây ra. Bảo vệ môi trường tự
nhiên vừa là nội dung, vừa là mục tiêu phát triển bền vững. Hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình
trạng hủy hoại, làm cạn kiệt tài ngun, ơ nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công
nghiệp, khu đô thị. Thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp phục hồi mơi trường cho khai thác khống
sản. Đảm bảo sự hài hịa giữa mơi trường tự nhiên với môi trường sống ở các khu công nghiệp, đô
thị dân cư. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ môi trường. Tăn cường phổ biến pháp luật và

tuyên truyền trong xã hội về bảo vệ môi trường. Tích cực hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ mơi
trường và ứng phó với biến đổi khí hậu” (2)
Về hệ thống giải pháp bảo vệ môi trường, Đảng ta cho rằng, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban
hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt
tình trạng gây ơ nhiễm mơi trường, tăng cường phịng ngừa và kiểm sốt các nguồn gây ơ nhiễm
mơi trường. Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên. Hạn chế
tiến tới khắc phục căn bản tình trạng ơ nhiễm mơi trường ở nơng thôn, các cơ sở sản xuất, khu
công nghiệp, khu đô thị, làng nghề…Đẩy mạnh xã hội hóa cùng với việc bố trí nguồn lực ngân sách
Nhà nước đầu tư cho các cơng trình trọng điểm, phục hồi mơi trường dân sinh.


Tiếp đến Đại hội XIII của Đảng, tháng 1 năm 2021, tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng đối với
vấn đề môi trường trong bối cảnh mới như: “Lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe của nhân dân
là mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng
môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần
hồn, thân thiện với mơi trường”.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ những mục tiêu cần thực hiện trong thời gian tới như:
“Đến năm 2025, tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95% - 100%, và
nông thôn là 93 – 95%,; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị đảm bảo tiêu chuẩn, quy
hoạch quy chuẩn đạt 90%; tỷ lệ khu cơng nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý
chất thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường đat 92%; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng được xử lý đạt 100%; giữ tỷ lệ che phủ rừng ổn định 42%” (3)
Thực hiện mục tiêu trong dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2020 –
2025 là:
+ “Tỷ lệ chất thải y tế được xử lý là 100%, tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng năng lượng tiêu thụ
cuối cùng là 31,5%”
+ Tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh đến năm 2025 của dân cư thành thị là 95 – 100%,
nông thôn là 93 – 95%.
+ Tỷ lệ thu gom xử lý chất rắn, chất thải rắn sinh hoạt đô thị, đảm bảo quy chuẩn đạt 90%.
+ Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đã hoạt động có hệ thống xử lý chất thải tập trung đạt tiêu

chuẩn môi trường đến năm 2025 đạt 92%.
+ Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đến năm 2025 đạt 100%.
+ Tỷ lệ che phủ rừng ổn định 42%.
Với tinh thần quyết tâm phấn đấu đạt được chỉ tiêu cao nhất, đồng thời chuẩn bị các phương án để
chủ động thích ứng với những biến động tình hình. (4)
Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ mục tiêu thực hiện tốt chiến lược
phát triển bền vững kinh tế biển kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng – an ninh – bảo vệ chủ
quyền biển đảo, tài nguyên môi trường biển… nâng cao năng lực giám sát môi trường biển. Tổng
kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, văn kiện Đại hội XIII khẳng định chủ trương về
môi trường và các mục tiêu, giải pháp cụ thể như: Xây dựng hệ thống, cơ chế giám sát tài ngun,
mơi trường và biến đổi khí hậu. Có kế hoạch khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt
các nguồn tài nguyên gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô
thị. Cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của nhân dân. Tập trung xử lý chất thải, thúc
đẩy tái sử dụng, tái chế. Huy động các nguồn lực thực hiện đồng bộ các giải pháp cơng trình và phi
cơng trình để bảo vệ mơi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tăng cường kiểm soát các hoạt
động khai thác tài nguyên, các ngành, doanh nghiệp dựa nhiều vào tài nguyên, các nguồn gây ô
nhiễm, nguồn phát thải khí nhà kính. Đấu tranh và ngăn chặn, xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật
về tài ngun và mơi trường, đẩy lùi tình trạng ơ nhiễm mơi trường, suy thối tài ngun và sự suy
giảm đa dạng sinh học. Chủ động tích cực hợp tác quốc tế trong việc chia sẻ thông tin, phối hợp
nghiên cứu, quản lý khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, bảo đảm an ninh suy
thoái, an ninh nguồn nước, an ninh môi trường, an ninh lương thực, thích ứng với biến đổi khí hậu
và đồng thời giảm thiểu các tác động bất lợi từ quá trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế. (5)
Đại hội XIII của Đảng cũng khẳng định một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội
XIII của Đảng là: “Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ cải thiện
môi trường, chủ động tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu” (6).
4. Hệ thống giải pháp:
Trong thời gian tới, để thực hiện tốt các nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong điều kiện mới quốc tế và
trong nước, ngoài các định hướng trên, theo chúng tôi cần tập trung vào một số giải pháp trọng yếu
sau:
- Tiếp tục thay đổi nhận thức, tuyên truyền sâu rộng về tầm quan trọng của môi trường sinh thái,

trên cơ sở này xây dựng ý thức sinh thái, tức là làm cho mọi người nhận thức được một cách tự
giác về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Con người cần phải nhận thức lại vị trí vai trị của
mình và xã hội trong hệ thống tự nhiên. Thơng qua q trình phát triển khoa học cơng nghệ, nhất là


trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, con người cần nắm bắt được các quy
luật của tự nhiên và tìm cách vận dụng một cách hợp lý các quy luật đó vào thực tiễn của xã hội, để
tạo cơ sở tự nhiên bền vững cho phát triển xã hội.
- Giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường theo chủ trương của Đảng. Đối với
nước ta hiện nay, để thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần đổi mới công nghệ, tăng
năng xuất lao động và hiệu quả kinh tế. Đổi mới công nghệ bằng hai con đường: Chuyển giao công
nghệ và tự tiếp thu công nghệ hiện đại có hàm lượng chất xám cao và cơng nghệ sạch, từ đó chúng
ta mới có thể thực hiện được cơng nghiệp hóa hiện đại hóa rút ngắn, đồng thời đó cũng chính là
phương thức hữu hiệu nhất để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái.
Đảng ta khẳng định: Phát triển khoa học công nghệ gắn liền với bảo vệ và cải thiện môi trường sinh
thái, đảm bảo phát triển kinh tế xã hội nhanh và bền vững. Do vậy, chúng ta chủ trương không nhập
công nghệ gây ô nhiễm môi trường sinh thái với bất kỳ điều kiện nào. Phát triển kinh tế trên sự hủy
hoại môi trường cũng đồng nghĩa với sự kết án tương lai của mình. Mục tiêu chuyển giao công nghệ
phải làm sao vừa đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng kinh tế, vừa bảo đảm vấn đề môi trường sinh
thái.
- Nền sản xuất xã hội cần phải thực hiện thêm chức năng tái sản xuất các nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Khắc phục tình trạng tiêu xài phung phí nguồn tài ngun thiên nhiên khơng tái tạo được (các
nguyên, nhiên liệu hóa thạch), cần tận dụng tối đa tính năng vốn có sử dụng tài ngun thiên nhiên
từ bề rộng sang bề sâu, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
- Triển khai thực hiện đầy đủ Luật bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý
vi phạm pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm về tài nguyên môi trường, tập trung xử lý các cơ
sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Kiểm sốt an tồn, xử lý ơ nhiễm môi trường do
hậu quả của chiến tranh. Tăng cường giám sát công khai đầy đủ, kịp thời thông tin về chất lượng
mơi trường khơng khí ở các đơ thị, khu công nghiệp tập trung, khu đông dân cư. Cải thiện rõ rệt tình
trạng ơ nhiễm mơi trường ở các cụm công nghiệp, làng nghề và khu vực nông thôn.

- Trong điều kiện mới hiện nay, nhất là từ cuối năm 2019, đại dịch Covid-19 đã lan rộng sang phạm
vi tồn cầu, tác động sâu rộng đến kinh tế, chính trị, thể chế và được xác định là thách thức lớn nhất
của nhân loại sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay; đại dịch cũng được xác định liên quan
đến vấn đề môi trường. Điều này cho thấy mục tiêu phát triển bền vững ở phạm vi toàn cầu, môi
trường đang bị tổn thương.
Trong bối cảnh chung như vậy, Việt Nam đang là điểm sáng nổi lên về phòng chống đại dịch Covid19 và phát triển kinh tế xã hội. Năm 2020, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 2,9% là mức cao của khu
vực và thế giới.
Chính phủ chủ trương không đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế, Thủ tướng chính phủ đưa ra
kế hoạch trồng 1 tỷ cây xanh từ nay đến năm 2025.
Tuy nhiên, chúng ta không chủ quan, cần tiếp tục tăng cường nâng cao nhận thức, có chiến lược,
kế hoạch hành động cụ thể để khắc phục khó khăn, thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền
vững về kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường trong bối cảnh mới./.

hững vấn đề môi trường quan tâm hàng đầu hiện nay

Hiện nay mơi trường đang bị đe dọa trầm trọng vì tình hình thế giới
phát triển càng lúc càng cao, các nhà máy, cơng trình, xưởng sản
xuất mỗi ngày thải ra ngồi mơi trường rất nhiều khí thải, chất thải
nguy hại, dẫn đến môi trường bị đe dọa ô nhiễm. Môi trường toàn
cầu hiện nay đầy những yếu tố, nào là hạn hán, đói kém, thiên tai, lũ
lụt. Dưới đây sẽ phân tích các vấn đề nghiêm trọng mà trái đất đang
phải chống chọi, đối mặt.


 Nguồn nước đang bị khan hiếm
Hiện nay trên trái đất, diện tích nước chiếm tới khoảng 70% bề
mặt, tuy nhiên chỉ có khoảng 2% là nước phù hợp cho tiêu dùng,
được coi là nước tinh khiết. Nước được xem là một dạng tài nguyên
được sử dụng nhiều nhất trên thế giới. Vấn đề nhắc tới là lượng nước
sạch đến với mọi người trên thế giới là không đều.

Nhiều khu vực vẫn phụ thuộc vào lượng nước mưa dự trữ, tuy
nhiên nếu khí hậu biến đổi thì nguồn nước cung cấp từ thiên nhiên là
vô cùng khan hiếm, dẫn đến khan hiếm nước cho sinh hoạt. Tuy
nhiên có nơi lại lũ lụt thiên tai, lũ quét làm phá hủy hệ sinh thái tự
nhiên và nhân tạo trong khu vực.
Ngoài ra, một trong những mối quan tâm lớn về y tế liên quan
trực tiếp với vấn đề môi trường này là việc tiếp cận với nước sạch.
Rất ít người trên tồn thế giới có thể truy cập nguồn nước uống.
Điều này gây ra một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng cho những người
dân sống ở khu vực đó.
 Nạn phá rừng
Ngày nay thiên tai lũ lụt, hạn hán ngày càng nặng nề, đáng
cảnh bảo, nguyên nhân sâu xa là do phần rừng bị khai thác một
cách vô tội vạ. Nạn phá rừng hầu như xảy ra trên toàn thế giới, các
tổ chức cây xanh trên thế giới đã cảnh báo rất nhiều về việc tàn phá
hệ sinh thái cây xanh sẽ ảnh hưởng đến khí hậu tồn cầu.
Cuộc sống phát triển, nhu cầu tiêu thụ nhu yếu phẩm, thực phẩm
tăng lên, dẫn đến con người phải phá bỏ nhiều diện tích rừng cho
việc trồng trọt. Xã hội phát triển, các đô thị, thành phố lớn mọc ra
khiến các cánh rừng bị thay thế bới các tịa cao ốc. Khai thác khống
sản, dầu và các tài nguyên khác cũng dẫn đến nạn phá rừng
Với nạn phá rừng làm cho nhiều loài động vật có nguy cơ tuyệt
chủng. Xói lở đất, biến đổi khí hậu đáng kể và trong một số trường
hợp thiên tai như sạt lở đất và lũ quét có thể là do, trực tiếp hoặc
gián tiếp phá rừng .
 Sự biến đổi khí hậu tồn cầu
Sự tăng nhiệt độ trái đất đáng kể trong những năm vừa qua
đang làm cho thế giới khơng an tâm. Biến đổi khí hậu trên thế giới
dẫn đến thiên tai, động đất, sóng thần, lũ lụt ngày càng xuất hiện
với mật độ nhiều và nặng hơn.

Những báo cáo về sự tăng nhiệt độ trong mùa hè, mùa đơng
khơng đủ lạnh và khối lượng đất đóng băng cũng giảm. Toàn bộ thế
giới bị ảnh hưởng bởi sâu rộng trong tự nhiên. Ảnh hưởng của nó


khơng chỉ gây tử vong cho con người mà cịn cho các loài khác sống
ở hành tinh này.
 Quản lý chất thải nguy hại
Quản lý chất thải nguy hại liên kết chặc chẽ với phát triển dân
số nhanh chóng trên toàn thế giới và tỷ lệ tiêu thụ, chất thải, và
quản lý của nó đã trở thành một vấn đề lớn trên thế giới. Việc xử lý
chất thải được tạo ra trong nhiều hình thức, mà có thể được phân
loại rộng rãi trong hai hình thức. Một số chất thải phân hủy sinh học
và một số không như vậy.
Vấn đề mất gốc trong lối sống của chúng ta, đó là chuyển động
nhanh và nhẫn tâm trong suy nghĩ và hành động. Vấn đề này thể
hiện rõ ràng hơn xung quanh các vùng đô thị của thế giới. Các giải
pháp sửa chữa nhanh chóng của các bãi chơn lấp và các trung tâm
tái chế không được chứng minh. Trong thực tế, tràn đầy các bãi chôn
lấp, đặc biệt là ở các nền kinh tế phát triển trên thế giới, đang gây ra
sức khỏe nghiêm trọng hơn và các vấn đề môi trường trong khu vực.
 Đa dạng sinh học và sử dụng đất
Đa dạng sinh học có nghĩa là sự đa dạng của cuộc sống tồn tại
trong bất kỳ khu vực nhất định. Hôm nay với dân số ngày càng tăng
và nhu cầu ngày càng tăng cho các nhu cầu cơ bản, đa dạng sinh
học đang bị đe dọa ở nhiều khu vực trên thế giới. Nhu cầu cao cho
quần áo, thực phẩm và nơi sinh ở đã dẫn đến một mơ hình sử dụng
đất sai lệch.
Đất canh tác cho nơng nghiệp hiện nay đang ít dần, cộng với
nhiều vùng miền đang thiếu nước canh tác, hoặc nước nhiểm mặn

không thế canh tác.Nhiều đất canh tác có thể dẫn đến các vấn đề về
tình trạng thiếu nước và xâm nhập mặn đất. Điều này cũng dẫn đến
các vấn đề khác như khai thác quá nhiều . Họ có thể để trồng thực
phẩm hoặc các loại ngũ cốc hoặc thậm chí cả cây, nhưng những ảnh
hưởng của sự thay đổi đó có ảnh hưởng lâu dài và gây hại cho môi
trường làm cho các vấn đề môi trường ngày càng nghiêm trọng.
 Hóa chất, chất thải độc hại và kim loại nặng
Nhiều chất thải được tạo ra bởi con người có chứa một lượng
cao các hóa chất và các chất độc. Chúng có tác động xấu đến mơi
trường. Các vấn đề của mưa axít là một ví dụ. Một số hóa chất và
kim loại nặng có một hiệu ứng có thể gây tử vong trên con người
cũng như đời sống động vật.Cần được chăm sóc thực hiện để ngăn
chặn điều này xảy ra. Định mức phát thải nghiêm ngặt kiểm soát và
các quy định cần phải được thực hiện để bảo vệ hệ sinh thái cũng


như sức khỏe của con người từ vấn đề chết người này. Tái tạo nguồn
năng lượng không tái tạo năng lượng, nhu cầu và tiêu thụ của họ là
một nguyên nhân của vấn đề môi trường xung quanh hành tinh .
 Khoa học Di truyền
Là một vấn đề rất nhạy cảm và rất gây tranh cãi. Khoa học đã
giúp con người rất nhiều và đã đạt được nhiều bước đột phá về y
học, công nghệ, y tế, thông tin liên lạc, vv . Trong thực tế, tất cả các
khía cạnh của đời sống con người được cải thiện rất nhiều với sự
giúp đỡ của khoa học. Sửa đổi di truyền của thực vật, động vật và có
lẽ ngay cả con người trong tương lai gần có thể gây ra thiệt hại
nhiều hơn lợi.
Chúng ta không thể không đồng ý với việc nghiên cứu về di
truyền học đã làm thay đổi cuộc sống của chúng ta như thế nào.Các
thách thức khó khăn nhất được lan truyền nâng cao nhận thức và

giáo dục người dân về sự thối hóa các nguồn lực màu xanh. Nhiều
vấn đề được gây ra bởi chúng ta làm theo lối sống, mà khơng có một
ý thức về hậu quả.. Chúng tơi chỉ có một hành tinh, chỉ có một nhà,
chúng ta khơng thể mất nó để thõa mãn sự tham lam của chúng ta!
v



×