Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Ý tưởng mô hình liên kết trong phát triển không gian đô thị khu vực miền Trung - Tây Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.73 KB, 11 trang )

RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Ý TƯỞNG MƠ HÌNH LIÊN KẾT
TRONG PHÁT TRIỂN KHÔNG GIAN ĐÔ THỊ
KHU VỰC MIỀN TRUNG - TÂY NGUYÊN
Trần Quyết Thắng*

Tóm tắt: Bài viết là kết quả bước đầu của ý tưởng nghiên cứu mơ hình liên kết trong phát
triển không gian đô thị khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Người đọc sẽ tìm thấy trong bài viết
này 3 ý tưởng mơ hình liên kết được đề xuất gồm: (1) mơ hình liên kết phát triển du lịch; (2) mơ
hình liên kết tiêu thụ sản phẩm và (3) mơ hình liên kết bảo vệ mơi trường và ứng phó dịch bệnh.
Mỗi một mơ hình hàm chứa hai vấn đề nội dung quan trọng: (i) sự cần thiết và (ii) cấu trúc mơ
hình. Ngồi ra, vì bài viết chỉ mới là một dạng dự thảo của ý tưởng khoa học lớn hơn sau đó, do
vậy đoạn cuối của bài viết, tác giả bàn luận và khuyến nghị 4 vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu làm
rõ để hiện thực hố ý tưởng lớn này.
Từ khố: Khơng gian đơ thị; Miền Trung - Tây Ngun; Mơ hình liên kết.
1. Bối cảnh nghiên cứu
Mặc dù bối cảnh Việt Nam hiện thời, dịch bệnh đang ở trong trạng thái phức tạp và có xu
hướng khó kiểm sốt hơn. Nhưng điều đó khơng phải là một nhân tố làm thay đổi bối cảnh kinh
tế - xã hội chung của Việt Nam ở cả q khứ lẫn tương lai. Chính vì thế, bối cảnh nghiên cứu của
đề tài tác giả đặt trong cả một lộ trình, bao gồm cả khoảng thời gian tạo ra những di sản ở hiện tại
và những dư địa phát triển trong tương lai.
Việt Nam đang bước vào một thời kỳ phát triển mới nhiều thuận lợi với dân số vàng; trung
điểm của xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu; các bệ đỡ hạ tầng dần được hoàn thiện
nhờ kết quả triển khai trong khoảng 20 năm trở lại và một đội ngũ lãnh đạo ngày càng chuyên
nghiệp. Di sản của một giai đoạn tương đối ngắn phát triển thị trường tự do bao gồm: chính trị ổn
định; nền kinh tế phát triển nhanh chóng và tương đối toàn diện; nền tảng xã hội bền vững; địa vị
quốc gia trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao; công nghệ thông tin ngày càng được chú
trọng phát triển và hứa hẹn về một nền kinh tế số trong tương lai gần; tốc độ đô thị hoá cao.
Tuy nhiên, cũng như các nền kinh tế khác, Việt Nam cũng đang đối mặt với rất nhiều vấn đề
cần phải giải quyết. Đó là tình trạng mất cân đối tỷ trọng ngành; tính bền vững trong ngành nơng


*

Tiến sĩ, Giảng viên, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, email:

515


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

nghiệp còn thấp; kinh tế còn phụ thuộc vào đầu tư nước ngồi; tỷ lệ đơ thị hố chưa cao; chính
sách cịn nhiều bất cập và những vấn đề thuộc về thiên tai, dịch bệnh ngày một trầm trọng hơn.
Ở khía cạnh khác, với cơ chế phi tập trung hố ngày càng rõ nét, chính quyền địa phương có
nhiều quyền chủ động hơn, do đó đã thúc đẩy hoạt động khai thác tiềm năng của từng vùng lãnh
thổ, mang đến nhiều kết quả tốt đẹp trong quá trình phát triển kinh tế địa phương và kinh tế vùng.
Đặc biệt, vấn đề phát triển đô thị đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, diện mạo đô thị nhỏ đang
thay đổi từng ngày theo hướng đồng bộ, khang trang hơn. Tuy nhiên, khía cạnh khác của phi tập
trung lại cho thấy những mặt hạn chế. Xu hướng phát triển độc lập của từng địa phương đã dẫn
đến nguy cơ mỗi tỉnh là “một pháo đài” và mỗi đô thị là một không gian riêng lẻ. Hệ quả là, trong
việc đối mặt với những vấn đề mang tính “khơng của riêng ai” như cạnh tranh, ơ nhiễm mơi trường,
biến đổi khí hậu,… các địa phương khơng có tiếng nói và hành động chung. Mục tiêu về một mạng
lưới đơ thị có tính liên kết để thúc đẩy phát triển du lịch đô thị, đào tạo nhân lực theo nhu cầu hay
hình thành chuỗi cung ứng khép kín vì thế cũng chưa được xác lập trên thực tế. Chính vì thế, thực
tiễn địi hỏi phải có những nghiên cứu đề xướng các cơ chế liên kết giữa các địa phương trong
vùng và các vùng trong khu vực để tạo ra một địa thế phát triển hiệu quả và hài hoà hơn.
Khu vực miền Trung - Tây Nguyên là một không gian tự nhiên rộng lớn có sự xen kẻ của
nhiều đơ thị với đa dạng về văn hố, quy mơ và lĩnh vực thế mạnh khác nhau. Những đặc tính này
hứa hẹn tiềm năng liên kết để tạo ra một không gian đô thị có tính tương hỗ cùng phát triển theo
hướng bền vững. Chính điều đó thúc đẩy tác giả hình thành ý tưởng về mơ hình liên kết khơng
gian đơ thị cho khu vực này.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Mơ hình liên kết trong phát triển vùng nói chung và các địa phương trong phát triển khơng
gian đơ thị nói riêng đã được một số tác giả nghiên cứu trên các khía cạnh cụ thể sau:
Ở khía cạnh về khơng gian đơ thị, đã có một số nghiên cứu tiếp cận các cách thức xác lập
không gian đô thị tại Việt Nam. Trong đó, đáng kể tới nhất là nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hồng
Tiến (2020). Theo đó, tác giả đã xác lập các khái niệm quan trọng như: (1) Chùm đô thị: Chùm đô
thị được tạo nên bởi một đô thị trung tâm và vùng ảnh hưởng của nó. Đơ thị trung tâm được quyết
định trước hết bởi vị trí địa lý kinh tế quan trọng, là nơi có hệ thống giao thơng thuận tiện, có kinh
tế phát triển. Sự phát triển kinh tế xã hội của đô thị này thúc đẩy sự phát triển của các đô thị khác
trong vùng; (2) Vùng ảnh hường (của đô thị trung tâm): Đây là vùng khơng gian lãnh thổ có liên
kết chặt chẽ với đô thị trung tâm bằng mức độ quan hệ không gian mạnh mẽ, tạo nên một thể thống
nhất giữa các điểm dân cư. Mức độ của quan hệ phải là sự tổng hòa các chức năng cao nhất mà nó
có tác dụng thúc đẩy đơ thị hóa tồn vùng; (3) Đơ thị vệ tinh là những đô thị nằm trong vùng ảnh
hưởng của đô thị cực lớn, chịu ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ của đô thị này mặc dù về mặt địa
lý tự nhiên và quản lý về hành chính nó tách rời khỏi đơ thị đó; và (4) Đơ thị đối trọng là một phần
hợp nhất của chiến lược phát triển vùng và của chùm đô thị. Các đô thị này trong thời gian đầu sẽ
là những đơn vị phụ thuộc và chúng sẽ phát triển độc lập ở giai đoạn sau. Kết quả nghiên cứu này
516


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

đóng vai trị quan trọng trong cung cấp một cơ sở lý luận vững chắc cho xác định các cấu thành
của mơ hình liên kết đơ thị.
Ở khía cạnh nghiên cứu các mơ hình phát triển đơ thị cụ thể, đã có nhiều nghiên cứu đề xuất
những mơ hình chi tiết ứng với từng địa phương trong phát triển đô thị. Tác giả Lê Kiều Thanh
(2020) đã tổng kết một số những lý thuyết căn bản về mơ hình đơ thị nén như: (1) Mơ hình phát
triển đơ thị nén “tập trung phân tán”: Tất cả mọi người tiếp cận bằng đi bộ, bằng xe đạp và giao
thông công cộng và tôn trọng thế giới tự nhiên hoang dã. Ưu điểm mơ hình này là tạo ra hình thái
dân cư khơng chỉ mơi trường bền vững mà cịn thích hợp với nhu cầu phát triển kinh tế; (2) Mơ
hình đơ thị nén Churchman: Tăng mật độ sử dụng đất thơng qua 2 tiêu chí mật độ dân cư cao và

tập trung với sử dụng đất hỗn hợp và hạn chế phát triển nằm ngoài khu vực kiểm sốt đơ thị hóa;
(3) Mơ hình đơ thị nén của Burton: Chỉ ra 3 khía cạnh của đơ thi nén: mật độ cao, sử dụng đất hỗn
hợp (mật độ dân cư và mật độ xây dựng cao, nhà ở mật độ cao và có giá trị cao, sử dụng đất hỗn
hợp, sử dụng hỗn hợp theo chiều dọc và chiều cao) và tần suất cao (dân số tăng, trung tâm thứ cấp
có mật độ cao, phát triển mới sử dụng hỗn hợp); (4) Mơ hình đơ thị nén Âu-Mỹ-OECD: Phương
thức phát triển dày đặc và tập trung (mật độ cao, khoảng cách, ranh giới), các khu vực đô thị liên
kết bằng giao thông công cộng (sử dụng đất theo định hướng GTCC), khả năng tiếp cận dịch vụ
và việc làm (sử dụng đất và cơng trình đều có tính hỗn hợp, dân cư tiếp cận xe đạp, đi bộ), chính
quyền đơ thị có năng lực và phối hợp ở cấp đô thị và cấp vùng; và (5) Mô hình đơ thị nén của UN
Habitat: Khơng gian thích hợp cho các đường phố và mạng đường phố hiệu quả, mật độ cao, sử
dụng đất hỗn hợp, các tầng lớp thu nhập khác nhau sống gần nhau, khu nhà ở dành cho nhà giá
thấp và hạn chế đất, các tòa nhà đơn chức năng.
Ở khía cạnh về liên kết đơ thị và liên kết vùng, một số nghiên cứu đã làm rõ được nhu cầu và
lợi thế mang lại của sự liên kết. Tiêu biểu có thể kể tới một số nghiên cứu như Lại Trần Tùng
(2020), Nguyễn Mạnh Tưởng (2020) và Nguyễn Như Bình (2020). Các nghiên cứu đã làm rõ được
tính cần thiết của xây dựng các liên kết nhằm giải quyết những vấn đề chung của các vùng hoặc
các địa phương trong vùng. Các giả thuyết liên kết cũng đã được đưa ra chủ yếu tập trung vào liên
kết du lịch biển trong khu vực Trung Bộ nói chung.
Các nghiên cứu ở ba khía cạnh liên quan đến bài viết này được liệt kê ở trên đã đạt được
những giá trị khoa học rất lớn; đồng thời cũng là những nội dung được tác giả kế thừa trong nghiên
cứu của mình. Tuy nhiên, việc đề xuất các ý tưởng liên kết dường như còn đang bị bỏ ngỏ và trở
thành “khoảng trống nghiên cứu” mà tác giả lựa chọn khi tiếp cận vấn đề này.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong bài viết gồm nghiên cứu tài liệu thứ cấp
và quan sát khoa học. Nếu nghiên cứu tài liệu thứ cấp chủ yếu được sử dụng để mang về các thông
tin thứ cấp về cơ sở khoa học và thực tiễn cho đề xuất xác lập các mơ hình liên kết trong phát triển
khơng gian đơ thị thì quan sát khoa học lại cung cấp các thông tin sơ cấp về nội dung và cấu trúc
các mơ hình liên kết được thể hiện trong bài viết.
517



QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

4. Kết quả nghiên cứu
Dựa trên kết quả nghiên cứu tài liệu thứ cấp và quan sát khoa học, tác giả bước đầu đề xuất
03 ý tưởng mơ hình liên kết sau:
4.1. Mơ hình liên kết phát triển du lịch
Nhu cầu hình thành mơ hình liên kết
Du lịch nói chung và dịch vụ du lịch nói riêng đang là ngành có được sự chuyển dịch mạnh
mẽ nhất ở các địa phương thuộc khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Nhiều địa danh là “ngôi sao
mới” trong ngành du lịch quốc gia thuộc khu vực này như Quảng Bình, Phú Yên, Gia Lai và Bình
Thuận; cùng với các địa danh quen thuộc như Huế, Hội An, Đà Nẵng, Quy Nhơn và Nha Trang
đã tạo nên bức tranh du lịch sinh động, đa màu sắc. Đặc biệt, xu hướng “du lịch đô thị” (Urban
tourism) đang ngày một được định hình trong phát triển không gian đô thị ở khu vực miền Trung
- Tây Nguyên. Tuy nhiên, nhìn vào bức tranh tổng thể đó, rất dễ nhận thấy việc phát triển du lịch
nói chung và du lịch đơ thị nói riêng của khu vực này thiếu sự liên kết mang tính cộng sinh1. Trong
đó, mỗi địa phương phát triển du lịch theo một hướng và thậm chí cịn góp phần cản trở hoạt động
cung ứng dịch vụ du lịch của địa phương khác.
Ở đây, tác giả phân tích trường hợp điển hình giữa thành phố Đà Nẵng và thành phố Hội An.
Kết quả hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch năm 2019 cho thấy Hội An đón hơn 5,3 triệu
lượt khách du lịch bao gồm cả nội địa và quốc tế. Tuy nhiên chỉ có 1.450.065 lượt lưu trú (khách
quốc tế là 1.153.790 lượt và khách Việt Nam là 296.275 lượt) với trung bình chỉ 2,07 ngày/lượt.
Tỷ lệ khách lưu trú trên tổng lượt khách chỉ đạt 32,8%. Như vậy, với 527 cơ sở lưu trú các loại,
công suất sử dụng phòng chỉ đạt 54,52% (Sở VH, TT&DL tỉnh Quảng Nam, 2020). Trong khi đó,
cùng kỳ Đà Nẵng ln trong tình trạng kín phịng. Điều này được lý giải bởi, Hội An vẫn luôn bị
gắn mác “Đà Nẵng +” nhiều năm qua - tức là, khách du lịch có kế hoạch tham quan miền Trung,
cụ thể là Đà Nẵng thì thường đi kèm thêm Hội An. Thậm chí du khách khơng có kế hoạch du lịch
Hội An vì khơng tìm thấy thông tin trên các trang thông tin du lịch của Đà Nẵng; hoặc nếu có kế
hoạch du lịch cả hai thì khi lựa chọn nơi lưu trú khơng có gợi ý về lưu trú tại Hội An ngay trên các
trang du lịch của Đà Nẵng. Ví dụ này mặc dù chỉ mới mang tính đơn lẻ, nhưng có thể thấy, thiếu

liên kết trong hoạt động du lịch, tất yếu sẽ khơng thể đem đến lợi ích tồn diện cho vùng.
Cấu trúc mơ hình
Để giải quyết vấn đề phân mảnh về du lịch giữa các đơ thị nói riêng và chính quyền địa phơng
nói chung, trên cơ sở quan sát khoa học, tác giả đề xuất cấu trúc mơ hình liên kết mơ hình mang

1

Trên thực tế vùng kinh tế trọng điểm miền Trung gồm Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi
và Bình Định đã có chính sách liên kết du lịch mang tên: "Miền Di sản diệu kỳ" để kết nối dung lịch của các
địa phương. Song chỉ mới dừng lại ở việc thống nhất ưu đãi giảm giá vé máy bay và lưu trú tại các khách sạn,
resort và có hiệu lực trong một thời gian nhất định nên hiệu quả thu lại chưa cao. Cơ chế kiểm soát sự liên kết
này chưa đủ mạnh.

518


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

tên: Con đường du lịch cho khu vực miền Trung kéo dài từ tỉnh Quảng Bình đến tỉnh Bình Thuận.
Cấu trúc cơ bản của mơ hình này như sau:
- Mục tiêu của mơ hình: Liên kết này hướng tới tạo ra một bức tranh du lịch vùng đa dạng
trong thống nhất, với mỗi địa phương là một mảnh ghép không thể thay thế trong bức tranh
chung đó.
- Các địa phương trong mơ hình liên kết này gồm: Đồng Hới (Quảng Bình), Huế (Thừa Thiên
Huế), Đà Nẵng, Hội An (Quảng Nam), Quy Nhơn (Bình Định), Tuy Hoà (Phú Yên), Nha Trang
(Khánh Hoà), Phan Rang - Tháp Chàm (Ninh Thuận) và Phan Thiết (Bình Thuận). Trong đó, Đà
Nẵng và Nha Trang với lợi thế cảng biển và cảng hàng khơng quốc tế là điểm đầu mối đón khách
du khách cả trong và ngoài nước.
- Nội dung liên kết gồm: Hình thành các tour liên kết1; liên kết trong quảng bá du lịch2; liên
kết trong nội dung và hạ tầng cung ứng dịch vụ du lịch3; liên kết trong đào tạo nguồn nhân lực du

lịch4; liên kết trong chia sẻ dữ liệu du lịch5…
- Tổ chức và vận hành: Mơ hình liên kết này cần có một cơ quan điều phối chung dưới dạng
đại diện của các địa phương. Chủ tịch của cơ quan này có thể thực hiện theo hình thức luân phiên
theo từng giai đoạn, sau đó sẽ quay vịng. Cơ quan điều phối này phải hoạt động thường trực thay
vì chỉ theo chuyên đề, phong trào6.
- Kĩ thuật duy trì cơ chế liên kết: Các thơng tin phục vụ liên kết cần được số hố trên nền tảng
của Big Data.
4.2. Mơ hình liên kết quảng bá và tiêu thụ nơng sản
Nhu cầu hình thành mơ hình liên kết
Có thể bao gồm tour du lịch biển – tất cả các thành phố trong mơ hình đều giáp biển hoặc tour Con đường di
sản chặng ngắn với Quảng Bình – Huế - Đà Nẵng – Quảng Nam
2 Đưa ra các gợi ý chặng tiếp theo trong phạm vi các địa phương liên kết hoặc đăng tải các thông tin du lịch của
các địa phương khác lên trang truyền thơng của địa phương mình chính là cách thức quảng bá hình ảnh cho
nhau đơn giản và hiệu quả nhất.
3 Bao gồm cả xác định thế mạnh cung ứng dịch vụ du lịch để loại trừ việc trùng lắp loại hình cung ứng. Ví dụ:
Đà Nẵng có thể mạnh của Condotel thì Hội An khơng phát triển loại hình này. Ngược lại, Hội An có thế mạnh
Homestay thì Đà Nẵng cũng khơng thúc đẩy phát triển loại hình lưu trú này.
Hạ tầng cung ứng dịch vụ du lịch là sự liên kết cùng cung ứng một chuỗi dịch vụ du lịch thơng qua xây dựng hạ
tầng chung. Ví dụ Đà Nẵng và Huế xây dựng đường sắt du lịch (tàu lửa chậm) hoặc Đà Nẵng – Đồng Hới hợp
tác cung ứng dịch vụ E-Taxi với trực thăng hoặc thuỷ phi cơ.
4 Xác định địa bàn trọng điểm đào tạo du lịch để cung ứng nguồn nhân lực cho các địa phương cịn lại. Ví dụ Đà
Nẵng hoặc Huế có thể đào tạo nhân lực ngành du lịch cho Quảng Nam trở ra. Trong khi Nha Trang có thể làm
điều tương tự cho phần cịn lại của mơ hình liên kết.
5 Hình thành trung tâm dữ liệu du lịch chung để dễ dàng khai thác, chia sẻ.
6 Cũng cần phải làm rõ rằng tất cả các Uỷ ban được đề cập trong nghiên cứu này đều tổ chức và vận hành dưới
hình thức cơng – tư. Trong đó nhà nước đóng vai trị là kết nối mang tính hành chính, doanh nghiệp kết nối
mang tính chun mơn.
1

519



QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Tây Nguyên đang có thế mạnh ngày càng rõ nét về sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là nông
nghiệp chất lượng cao. Nơng sản của các tỉnh Tây Ngun có tính cạnh tranh bền vững, tính nhận
diện cao và ngày càng tăng cả sản lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên, dù có những thế mạnh như
vậy kinh tế nơng nghiệp ở Tây Nguyên vẫn chưa thoát ra được vấn đề chung của nông nghiệp Việt
Nam “được mùa mất giá, được giá mất mùa”. Nguyên nhân của nó nằm ở chỗ thiếu đầu ra vững
chắc cho các sản phẩm nông nghiệp và nguyên nhân của việc thiếu đầu ra vững chắc chính là sự
hạn chế trong xây dựng thương hiệu và tìm kiếm đối tác tiêu thụ nơng sản. Ví dụ cuối năm 2020,
người trồng rau tại Cư M'Gar, Buôn Đôn (Đắk Lắk), Đắk Song, Tuy Đức (Đắk Nông), một số
vùng của tỉnh Gia Lai,... đã phải vứt bỏ hàng ngàn tấn rau quả do khơng tìm được đầu ra cho sản
phẩm. Ngay cả những nơng sản có thương hiệu như xồi Đắk Gằn, huyện Đắk Mil (Đắk Nơng)
cũng chỉ bán với giá 5-6 ngàn đồng/kg hay bơ sáp, bơ 034 - giống cây chủ lực mới tại các tỉnh Tây
Nguyên cũng vào chính vụ cũng chỉ được thu mua với giá dưới 5 ngàn đồng/kg và số lượng được
thu mua chỉ đạt khoảng 65% tổng sản lượng. Trong khi đó, cũng mốc thời gian trên, tại các địa
điểm du lịch thuộc nhóm các địa phương trong mơ hình liên kết phát triển du lịch, các loại nơng
sản kể trên có giá gấp từ 10 đến 15 lần giá thu mua tại vườn ở vùng Tây Nguyên. Như vậy, rõ ràng
vấn đề ùn ứ hay rớt giá của nông sản không phải đến từ nguồn cầu thấp và nguồn cung vượt quá
cầu, mà cốt yếu nằm ở chỗ hai nguồn này đã khơng tìm thấy nhau.
Cấu trúc mơ hình
Trên cơ sở thực tiễn đó, tác giả đề xuất nội dung mơ hình liên kết quảng bá và tiêu thụ sản
phẩm nơng nghiệp. Cấu trúc cơ bản của mơ hình này như sau:
- Mục tiêu của mơ hình: Mơ hình hướng tới xây dựng cơ chế liên kết để quảng bá và kết nối
tiêu thụ nông sản cho vùng Tây Nguyên.
- Các địa phương trong mơ hình này gồm: (1) Nhóm liên kết nội bộ vùng Tây Nguyên - bao
gồm 5 địa phương và (2) Nhóm vùng Tây Ngun với các đơ thị du lịch ở mơ hình thứ nhất. Trong
đó, (1) lấy Bn Mê Thuột làm trung tâm vì đây là đô thị duy nhất trong vùng tiến hành thường
niên Festival Cà phê và gây được nhiều sự chú ý của cộng đồng trong nước và thế giới; và (2)

được dựa trên cơ chế liên kết của Uỷ ban điều phối của hai vùng.
- Nội dung liên kết: Trong nhóm liên kết nội bộ vùng Tây Nguyên, nội dung liên kết xoay
quanh vấn đề xây dựng và quảng bá thương hiệu nơng sản vùng. Theo đó, có hai nội dung chính
gồm: liên kết chuỗi nông sản thế mạnh của Tây Nguyên 1 và tổ chức festival nông sản chung cho
vùng Tây Nguyên tại một địa điểm được luân phiên giữa năm đơ thị thuộc năm địa phương của
Vùng. Trong nhóm liên kết giữa vùng Tây Nguyên và các đô thị trong mơ hình Con đường du lịch,
các nội dung chủ yếu gồm: liên kết tiêu thụ nông sản thông qua các kênh phân phối tại các đô thị

1

Mỗi địa phương của vùng Tây Ngun đều có những nơng sản mang tính đặc sản. Chính vì thế, sự liên kết của
các đặc sản này sẽ tạo ra được chuỗi đặc sản của Tây Nguyên. Chuỗi này sẽ tạo ra tính cạnh tranh cao hơn,
nhận diện thương hiệu tối ưu hơn và chỉ dẫn địa lý dễ dàng hơn là để ở dạng đơn lẻ.

520


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

du lịch1; thiết lập chuỗi bao tiêu cung ứng theo mơ hình “Từ trang trại đến bàn ăn” giữa các doanh
nghiệp phân phối tại các đô thị kể trên với những hợp tác xã, tổ chức sản xuất nông nghiệp vùng
Tây Nguyên; liên kết trong điều tra nhu cầu thị trường tiêu thụ; liên kết trong đào tạo nguồn nhân
lực trong lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp chất lượng cao; liên kết trong quảng bá
sản phẩm nông nghiệp; liên kết trong tổ chức tour Du lịch nông nghiệp (hứa hẹn sẽ rất có giá trị
trong tương lai).
- Tổ chức và vận hành: Để vận hành mơ hình địi hỏi phải có điều phối chung trong từng phạm
vi mơ hình. Trong nội bộ 05 tỉnh Tây Nguyên cần có Uỷ ban điều phối hợp tác sản xuất nơng
nghiệp với trung tâm có thể ở Bn Mê Thuột hoặc Pleiku. Trong khi đó ở phạm vi liên kết liên
vùng lại cần sự hợp tác giữa Uỷ ban điều phối hợp tác sản xuất nông nghiệp Tây Nguyên với Uỷ
ban điều phối Con đường du lịch.

- Kĩ thuật duy trì cơ chế liên kết: Kĩ thuật hỗ trợ cho mơ hình liên kết này vẫn là công nghệ
thông tin dựa trên nền tảng của Big Data. Bên cạnh đó cần có sự hiện diện của dịch vụ Logitics.
4.3. Mơ hình liên kết bảo vệ mơi trường và ứng phó dịch bệnh
Nhu cầu hình thành mơ hình liên kết
Các vấn đề của mơi trường tự nhiên và dịch bệnh đang uy hiếp đến sự phát triển của Việt
Nam nói chung và khu vực miền Trung - Tây Nguyên nói riêng ở cả hiện tại và trong tương lai.
Nếu như dịch bệnh cũng ảnh hưởng đến khu vực này với quy mô như các vùng khác trên cả nước,
thì các vấn đề của mơi trường tự nhiên như biến đổi khí hậu (hạn hán, xâm nhập mặn,…); thiên
tai (lũ lụt, sạt lở, bão,…) đã tác động rất tiêu cực đến khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Cả dịch
bệnh và vấn đề mơi trường đều khơng có tính biên giới (chỉ xảy ra trong một phạm vi lãnh thổ).
Do đó, nếu thiếu tính liên kết sẽ rất khó để ứng phó một cách đơn lẻ hiệu quả. Đơn cử hai vấn đề
tiêu biểu sau:
Vấn đề giải quyết rác thải đại dương: Việt Nam là nước đứng thứ 4 trên thế giới về lượng rác
thải nhựa với tổng lượng rác thải nhựa ra đại dương ước tính từ 0,28 đến 0,73 triệu tấn mỗi năm.
Rác thải đại dương (trong đó chủ yếu là rác thải nhựa) cũng là vấn đề của tất cả các đô thị ven biển
miền Trung. Trung bình trên mỗi 100 m chiều dài bãi biển tại Nha Trang có 94,58 kg (tương đương
với 1 m chiều dài chứa gần 1 kg) với 7.374 mảnh rác thải. Trong đó, rác thải nhựa có số lượng và
khối lượng vượt trội so với các loại rác khác, trung bình 330,6 mảnh/MC và 3,06 kg/MC, chiếm
92,2% về số lượng và 64,8% về khối lượng. Thành phần chủ yếu gồm phao xốp, dây thừng, lưới
nhỏ với tỷ lệ khoảng 47% số lượng và 46% về khối lượng rác thải. Số lượng cịn lại tuy chiếm tỷ
lệ ít nhưng cũng thuộc danh mục rất khó phân huỷ như cao su, thuỷ tinh, kim loại và rác hỗn hợp
(Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2021, tr. 52).
1

Nông sản sẽ được định hình bằng hai dịng: Tiêu dùng tại chỗ của người dân đô thị và khách du lịch (chủ yếu
là trái cây tươi), và mặt hàng quà tặng (chủ yếu nông sản khô hoặc phải qua chế biến). Sự liên kết này có tính
hài hồ lợi ích vì nơng sản được bán tại điểm du lịch ln có giá thành cao hơn ở những địa điểm thông thường
khác.

521



QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Tuy nhiên, vấn đề rác thải đại dương tại Nha Trang không phải chỉ do người dân ở đây phát
thải. Bằng chứng là khi áp dụng chính sách Đại dương không rác thải nhựa, giai đoạn 2019-2020,
nhằm xử lý lượng rác thải trên đường bở biển và ngăn chặn hành vi phát thải ra môi trường biển
của người dân trên địa bàn, lượng rác thải đại dương dạt vào bờ biển của Nha Trang khơng thun
giảm, thậm chí cịn gia tăng khi có các hiện tượng thời tiết biển cực đoan. Giải thích điều này bằng
cách quan sát dịng hải lưu là lựa chọn tối ưu. Theo đó, dịng hải lưu biển Đơng có xu hướng dịch
chuyển hướng Bắc - Nam, đặc biệt vào tháng 4 hàng năm. Sự dịch chuyển này đồng nghĩa với việc
hình thành dịng chảy từ từ Bắc và Nam trên dọc chiều dài biển miền Trung. Điều này cũng được
chứng minh bằng trường hợp Formosa Hà Tỉnh xả thải, nhưng tỉnh Nghệ An lại không chịu ảnh
hưởng mà thiệt hại lớn nhất lại thuộc về ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Do
đó, vấn đề rác thải đại dương tại Nha Trang là vấn đề thuộc về dòng hải lưu, lượng rác thải bổ
sung hàng năm thực chất bao gồm cả lượng rác thải của các địa phương nằm ở phía bắc. Nha Trang
tập trung xử lý chỉ giải quyết được phần ngọn của vấn đề.
Phòng chống dịch bệnh Covid 19 giữa các địa phương cũng gặp vấn đề trong phối hợp, đặc
biệt là trong thông tin và tiếp nhận người dân hồi hương từ các đơ thị lớn. Điển hình như tỉnh Thừa
Thiên Huế trong đợt bùng dịch tháng 7/2020 đã từ chối tiếp nhận công dân về từ Đà Nẵng và địa
phương này cũng từ chối nhận 26 người dân của mình về từ Tp. Hồ Chí Minh, khiến cho thành
phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị phải tiếp nhận trong đợt dịch tháng 7/2021.
Như vậy, nếu thiếu sự liên kết trong ứng phó với vấn đề mơi trường và dịch bệnh, rất dễ sẽ
biến mỗi địa phương thành một pháp đài và khi đó các hoạt động khắc phục chỉ có thể thực hiện
ở phần ngọn, đồng thời đứt gãy chuỗi cung ứng sản xuất và kinh doanh cũng là nguy cơ rõ ràng.
Cấu trúc mơ hình
- Mục tiêu của mơ hình: Mơ hình hướng tới mục tiêu thiết lập một cơ chế liên kết trong xử lý
khủng hoảng môi trường và ứng phó với dịch bệnh khu vực miền Trung - Tây Ngun. Theo đó,
tiêu chí là phối hợp cùng giải quyết dứt điểm các khủng hoảng.
- Các địa phương trong mơ hình này gồm: Đối với liên kết xử lý vấn đề mơi trường biển với

mơ hình Đại dương xanh cần có sự liên kết của tất cả các địa phương giáp biển của khu vực miền
Trung. Trong khi đó, mơ hình ứng phó dịch bệnh địi hỏi phối hợp giữa tất cả các địa phương trong
khu vực miền Trung - Tây Ngun, trong đó lấy các đơ thị lớn làm trung tâm.
- Nội dung liên kết gồm: Trong vấn đề môi trường biển: liên kết tuyên truyền, vận động người
dân ; liên kết đấu tranh, phòng ngừa các hành vi gây ô nhiễm môi trường; liên kết trong xử lý rác
thải hiện hữu; liên kết trong thẩm định và phê duyệt các chủ trương đầu tư có tác động đến mơi
trường. Trong vấn đề ứng phó dịch bệnh: liên kết phòng ngừa; liên kết tiếp nhận người hồi hương
1

1

Thực tế giai đoạn 2018-2019, Đà Nẵng đã thực hiện chiến dịch truyền thông mang tên “Cuộc xâm chiếm của
rác”, nhưng chỉ triển khai đơn lẻ trong địa phương và mang tính phịng trào, thời điểm nên chưa kết quả mang
lại kết quả như kỳ vọng.

522


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

để giảm thiểu áp lực phịng, chống dịch cho các đơ thị; liên kết truy vết bằng cơng nghệ cao; liên
kết ứng phó với khủng hoảng lương thực, thực phẩm khi giãn cách xã hội; liên kết trong thống
nhất di chuyển qua các địa bàn.
- Tổ chức và vận hành: Mơ hình liên kết này khơng cần thiết phải có Uỷ ban điều phối, tuy
nhiên mỗi địa phương cần cử cơ quan hữu quan chuyên trách làm đầu mối liên kết.
- Kĩ thuật duy trì cơ chế liên kết: Vấn đề kĩ thuật quan trọng nhất trong mơ hình liên kết này
chính là hệ thống dữ liệu Big Data liên vùng về các vấn đề liên quan và thống nhất trong sử dụng
các phương tiện kĩ thuật hỗ trợ khai thác dữ liệu đó.
5. Bàn luận và khuyến nghị
Kết quả nghiên cứu trên đang chỉ dừng lại ở mức độ ý tưởng về hình thành các khung liên kết

trong phát triển không gian đô thị khu vực Miền Trung - Tây Nguyên, mà chưa phải là những phân
tích mang tính kỷ thuật về tổ chức các mơ hình đó. Việc đề xuất ý tưởng này còn mấy vấn đề cần
làm rõ như sau:
Thứ nhất, vấn đề địa vị pháp lý trong mối quan hệ liên kết giữa các đơ thị: Tham gia mơ hình
liên kết trong phát triển khơng gian đơ thị vùng có sự tham gia của cả thành phố trực thuộc Trung
ương (đơn vị cấp tỉnh) và thành phố trực thuộc cấp tỉnh (đơn vị cấp huyện), do đó việc tạo lập một
vị thế hay một cơ chế của mối liên kết là bản lề của mơ hình này. Việc hai thành phố trực thuộc
cấp tỉnh liên kết với nhau nằm trong hay ngồi quy mơ liên kết của hai tỉnh mà nó trực thuộc? Việc
một thành phố trực thuộc trung ương và một thành phố trực thuộc cấp tỉnh liên kết với nhau liệu
có bình đẳng hay cần có sự đại diện của một cấp tương đương? Đó là những câu hỏi cần tiếp tục
nghiên cứu để giải quyết.
Thứ hai, về một Uỷ ban điều phối chung của mơ hình liên kết: Tôn chỉ của liên kết trong
phát triển không gian đô thị vùng là “lợi ích hài hồ, rủi ro chia sẻ”1. Theo đó, khách thể lớn
nhất của mối quan hệ này là những lợi ích to lớn có được nhờ sự tương trợ trong mơ hình liên
kết, bao gồm cả lợi ích đạt được và lợi ích từ sự chia sẻ rủi ro. Khi nào vẫn cịn khách thể này,
mơ hình liên kết vẫn cịn giá trị và sẽ tiếp tục được duy trì, phát triển. Tuy nhiên, điều này cũng
đặt ra vấn đề về sự điều phối. Lẽ dĩ nhiên, cuộc chơi này khơng có phép một ai đó mạnh lên để
dẫn dắt lợi ích của người khác - khi đó mối quan hệ này sẽ trở thành mạng lưới hạt nhân và các
vệ tinh - thứ không được bàn tới trong nghiên cứu này. Ngược lại, ngay cả khi có ai đó mạnh
lên, thì bổn phận của họ vẫn chỉ là sự điều phối để có sự hài hồ về lợi ích và chia sẻ các rủi ro.
Sự hiện diện của một Uỷ ban điều phối là điều tất yếu, song địa vị pháp lý của nó như thế nào
thì vẫn cần phải làm rõ.

1

Ý tưởng của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Hội nghị trực tuyến tồn quốc của Thủ tướng Chính phủ với đại
diện doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và các địa phương về các giải pháp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Tác giả cho rằng, ý tưởng này cũng rất
phù hợp với tôn chỉ liên kết trong phát triển không gian đô thị vùng và các dạng liên kết khác nữa.


523


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Thứ ba, các vấn đề thuộc về kỹ thuật xây dựng và vận hành mơ hình là xương sống quyết định
sự thành bại của sự liên kết: Những câu hỏi nghiên cứu cho nội dung này: mức độ của sự liên kết?;
công nghệ hỗ trợ liên kết?; nguyên tắc hài hồ lợi ích và chia sẻ rủi ro?; quy mơ của từng mơ
hình?,… Tất cả những nội dung cần được làm rõ để định ra một khung liên kết thật chi tiết trước
khi triển khai trên thực tiễn. Hình tượng về hệ vận động (gồm xương và khớp nối) và hệ thần kinh
của con người là lý tưởng cho sự ví von này. Vấn đề lớn ở đây là, ứng với mơ hình liên kết lại cần
có những vấn đề thuộc về kỹ thuật xây dựng và vận hành khác nhau. Do đó, đây được xác định là
vấn đề nghiên cứu tiếp theo có khối lượng lớn nhất về quy mơ và phức tạp nhất về tính chất.
Thứ tư, mơ hình liên kết giữa các địa phương đã được triển khai ở nhiều quốc gia trên thế
giới với cả thành cơng lẫn thất bại: Nghiên cứu các mơ hình này sẽ cho chúng ta thấy được không
chỉ ý nghĩa của thành cơng mà cịn cả bài học của sự thất bại. Tất nhiên, khơng phải mọi mơ hình
đều có ý nghĩa với Việt Nam, nhưng ít nhất như ngạn ngữ của người Việt - “đãi cát tìm vàng”,
những giá trị có được khi nghiên cứu mơ hình này hứa hẹn sẽ cho người nghiên cứu những lời
khuyên hữu ích, thậm chí là q giá khi tính tốn các vấn đề thuộc về kỹ thuật xây dựng và vận
hành mơ hình liên kết trong phát triển không gian đô thị ở Việt Nam.
Tổng kết thực tế cho thấy, trong phạm vi khu vực miền Trung - Tây Nguyên nói riêng và cả
nước nói chung đều đã có những sáng kiến mơ hình liên kết được ra đời. Tuy nhiên, trong qúa
trình thực thi, hầu hết chỉ dừng lại ở mức “diễn đàn” hoặc “rầm rộ ban đầu, nguội lạnh về sau”.
Nguyên do của thực tế này tới từ kế hoạch triển khai ý tưởng thiếu rõ ràng, cốt lõi của sự liên kết
chưa phải là lợi ích của các bên mà đơn thuần chỉ là ý chí của các lãnh đạo địa phương, do đó tính
kết dính thấp. Cơ chế điều phối cũng thiếu sự hỗ trợ của công nghệ nên khơng kịp thời và rất khó
để định lượng được hiệu quả. Bản thân các chủ thể sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ cũng
thiếu mặn mà với sự liên kết này do chưa thực sự thấy được lợi ích của họ.
Chính vì thế, với ý tưởng về các mơ hình mang tính chun sâu, xác định rõ đối tượng liên
kết, cùng với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ thông tin hứa hẹn sẽ giúp cơ chế điều phối trở nên

dễ dàng, liên tục và có thể định lượng được hiệu quả tức thì. Đặc biệt, tác giả có những mường
tượng tương đối rõ ràng về các phương pháp liên kết theo mơ hình Ống dẫn và mơ hình Ngơi sao
hứa hẹn sẽ đem đến những bệ đỡ chắc chắn cho sự thành công của ý tưởng. Tuy nhiên, cũng cần
phải thừa nhận rằng, để đạt được tồn bộ mục tiêu nghiên cứu cịn rất nhiều điều phải thực hiện.
Bốn luận điểm tác giả bàn luận thêm ở trên cho thấy những nhiệm vụ nghiên cứu trong tương lai,
đồng thời cũng là cầu nối để tác giả khuyến nghị việc tham gia nghiên cứu những khía cạnh khác
nhau đó đến quý học giới. Tác giả tin chắc rằng, kết quả nghiên cứu này sẽ có nhiều ý nghĩa khoa
học và thực tiễn.
6. Kết luận
Thế kỷ XXI và xa hơn thế lấy chuỗi cung ứng làm nền tảng của kinh tế và lấy liên kết làm cơ
chế trọng yếu cho sự phát triển bền vững. Do đó, liên kết trong phát triển không gian đô thị cũng
thuận theo xu hướng ấy.
524


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Kết quả nghiên cứu tựu chung lại mới chỉ ở dạng ý tưởng. Tác giả ý thức được rằng vấn đề
xây dựng mơ hình là rất phức tạp và tính phực tạp cịn gấp nhiều lần hơn nữa khi đưa vào ứng
dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, vạn dặm luôn bắt đầu từ những bước đi đầu tiên - đó là chân lý
để chỉ mọi lộ trình và trong trường hợp này cũng vậy. Ý tưởng về ba mơ hình kể trên có thể chưa
chỉ ra được nhiều những giá trị hứa hẹn trong tương lai, nhưng là cơ sở xác lập sự mở đầu cho một
nghiên cứu dài hơi với quy mô lớn. Với dự định đó, tác giả mong muốn nhận được nhiều sự phản
hồi, trao đổi của quý học giới về chủ đề kể trên để gia tăng thêm góc độ tiếp cận, qua đó làm tốt
hơn ý tưởng của mình.

Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Như Bình, 2020, “Thực trạng và giải pháp liên kết phát triển du lịch văn hoá tâm
linh vùng Bắc Trung Bộ”, trong Phát triển bền vững Vùng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2021, Báo cáo Hiện trạng môi trường Biển và Hải đảo
Quốc gia giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.
3. Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam, 2021, Báo cáo tình hình phát triển du
lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020, Quảng Nam.
4. Lê Kiều Thanh. 2020. “Nghiên cứu, đề xuất mơ hình và giải pháp quản lý phát triển đô thị
nén phát triển bền vững”, cập ngày
10/8/2021>.
5. Nguyễn Hồng Tiến 2020, “Chùm đô thị với các mơ hình tổ chức khơng gian”,
/><ngày truy cập: 15/7/2021>.
6. Lại Trần Tùng, 2020, “Tăng cường hợp tác, liên kết về kinh tế trong phát triển bền vững
vùng ở Việt Nam hiện nay”, trong Phát triển bền vững Vùng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Mạnh Tưởng, 2020, “Giải pháp liên kết khai thác giá trị di tích văn hoá - lịch sử
trong phát triển du lịch khu vực Trung Bộ”, trong Phát triển bền vững Vùng - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

525



×