Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Quản lý đô thị trong ứng phó với ngập lụt: Nghiên cứu trường hợp thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.87 KB, 14 trang )

RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

QUẢN LÝ ĐÔ THỊ TRONG ỨNG PHÓ VỚI NGẬP LỤT:
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH,
VIỆT NAM
Bùi Thị Minh Hà*

Tóm tắt: Bài báo này bàn luận về vai trị của quản lý đơ thị với việc ứng phó ngập lụt- điển
hình là TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam. Bài viết vận dụng phương pháp định lượng, khảo sát và phỏng
vấn bảng hỏi trong thu thập và xử lý dữ liệu. Với việc phân tích dữ liệu, bài báo phát hiện những
ảnh hưởng, nguyên nhân ngập lụt trong bối cảnh đơ thị hóa nhanh và biến đổi khí hậu ngày càng
gia tăng ở TP. Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, bài nghiên cứu phân tích quản lý đơ thị cịn hạn chế
gây ảnh hưởng tới sự ứng phó với ngập lụt của người dân. Từ đó, xác định những khó khăn cũng
như thách thức với quá trình quản lý ngập lụt ở các vùng đơ thị đang phát triển. Trên cơ sở đó,
đưa ra những khuyến nghị và đề xuất nhằm hướng tới xây dựng một khung quản lý ngập lụt phù
hợp ở các khu vực đơ thị có bối cảnh tương tự.
Từ khóa: Quản lý đơ thị; Ứng phó với ngập lụt; Đơ thị hóa.
1. Đặt vấn đề
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong hai đô thị đặc biệt, lớn nhất Việt Nam, là thành phố dẫn
đầu cả nước về phát triển kinh tế. Với q trình đơ thị hóa nhanh, không ngừng mở rộng phạm vi
đô thị và lượng dân cư gia tăng nhanh, địi hỏi cần có một chiến lược quy hoạch, phát triển và quản
lý vùng đô thị TP. Hồ Chí Minh.
Theo báo cáo hiện trạng mơi trường quốc gia 2016, các đô thị Việt Nam ngày cảng mở rộng
theo thời gian và hiện đều bị quá tải, dân số tăng nhanh tạo sức ép lớn tới hạ tầng kỹ thuật và hạ
tầng xã hội (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016). Kết cấu hạ tầng đô thị yếu kém, quá tải đã làm
nảy sinh nhiều áp lực tới mơi trường. Đặc biệt, TP. Hồ Chí Minh với tốc độ đơ thị hóa nhanh, cơ
sở hạ tầng lại không theo kịp sự gia tăng về dân số. Trong khi đó, trình độ, năng lực quản lý và
phát triển đô thị chưa đáp ứng yêu cầu, dẫn tới khu vực đô thị này đối mặt với nhiều thách thức
như hạn chế về giao thông, ô nhiễm môi trường, thiếu hụt nhà ở, và cả các vấn nạn xã hội khác
như xung đột xã hội, tội phạm, bệnh tật nan y... Bên cạnh sự hạn chế về quỹ đất cho giao thơng
dẫn tới tình trạng ùn tắc giao thơng và thiếu hụt chỗ đỗ xe, hệ thống xử lý nước thải cũng là vấn


*

Thạc sĩ, Giảng viên, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh, email:


577


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

đề đau đầu ở TP. Hồ Chí Minh nói riêng, các đơ thị Việt Nam nói chung. Theo báo cáo hiện trạng
môi trường quốc gia 2016, hầu hết các đô thị Việt Nam đều thiếu hệ thống thu gom và các trạm
xử lý nước thải tập trung. Điều này cũng góp phần cho ngun nhân gia tăng vấn nạn ơ nhiễm môi
trường và đặc biệt là vấn nạn ngập lụt ở các đô thị (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016).
Trong những năm gần đây, với nhu cầu phát triển kinh tế, gia tăng dân số, dẫn tới nhu cầu về
nhà ở, sinh hoạt, giải trí của người dân cũng gia tăng mạnh mẽ, đòi hỏi mở rộng khu vực ở TP. Hồ
Chí Minh. Nhiều khu vực đơ thị mới được hình thành như các khu đơ thị ở Quận 2, Quận 7, Quận
Thủ Đức, nhưng cơ sở hạ tầng kỹ thuật như hệ thống xử lý nước thải, thoát nước, đường xá chưa
tương xứng với tốc độ phát triển nhà ở, đô thị (Cổng thông tin điện tử - Bộ Xây dựng, 2020). Một
số nơi có hệ thống thốt nước và xử lý nước thải nhưng lại không đấu nối với hệ thống chung,
hoặc có nhưng lại quá tải, đóng góp vào tình trạng ngập lụt gia tăng. Như một hệ quả, tình trạng
ngập úng đã đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của cả chính quyền và cộng đồng dân cư TP.
Hồ Chí Minh.
Mặc dù đã có khá nhiều các chương trình, hành động đối phó với ngập lụt, nhưng cho tới nay,
tình trạng ngập lụt vẫn tiếp diễn hàng năm, gây ảnh hưởng tới đời sống người dân và sự phát triển
của thành phố. Các chương trình, hành động đối phó với ngập phần nhiều mang tính kỹ thuật, cơng
trình, trong khi khá hạn chế những biện pháp phi cơng trình, điển hình là việc quản lý quy hoạch
đô thị gắn với ngập lụt (World Bank, 2012; Bộ Xây dựng và GIZ, 2020). Dường như TPHCM
đang thiếu các biện pháp mềm hay giải pháp từ góc độ xã hội như quản trị đô thị, quản lý đơ thị
trong ứng phó với ngập lụt. Điều này dẫn tới yêu cầu là, cần có những nghiên cứu, đẩy mạnh việc

quản lý ngập lụt đô thị. Để thực hiện được việc quản lý ngập lụt đô thị, cần nắm được q trình
biến đổi đơ thị với tình trạng ngập lụt, các ứng phó với ngập lụt.
Với tình hình vấn đề vừa nêu trên, nghiên cứu xác định, phân tích thực trạng ngập lụt và vấn
đề quản lý ngập lụt đơ thị ở TP. Hồ Chí Minh, trong đó các diễn biến, nguyên nhân xảy ra ngập
lụt gắn với quá trình phát triển đơ thị, phản ứng - nhận thức của người dân về ngập lụt và cách
thức quản lý ngập lụt đơ thị của chính quyền được mơ tả, phân tích.
2. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Ngập lụt và quản lý ngập lụt đô thị đã trở thành chủ đề thu hút khá nhiều các nhà nghiên cứu
trên thế giới và cả ở Việt Nam. Đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH) và đơ thị hóa
nhanh, ở các thành phố ven biển như TPHCM thì ngập lụt và quản lý ngập lụt đơ thị càng được
chú trọng. Tổng quan tài liệu cho thấy, đã có một lượng khơng nhỏ các nghiên cứu về chủ đề này,
với sự đa dạng về lý luận, phương pháp, kết quả nghiên cứu. Gần đây, nghiên cứu về ngập lụt đã
quan tâm tới hướng tiếp cận quản lý rủi ro. Cách tiếp cận quản lý rủi ro này đã thể hiện rõ nét là
một quy trình mang tính hệ thống trong nghiên cứu của ADB (2013) khi đo lường phân tích những
rủi ro ngập lụt ở các khu vực Trung Quốc và Hoa Kỳ. Với cách tiếp cận này, các hoạt động quản
lý ngập lụt đã được thực hiện trên cơ sở ba bước: 1) chuẩn bị ứng phó trước khi ngập xảy ra; 2)
đối phó khi ngập xảy ra; 3) phục hồi sau ngập. Hướng nghiên cứu mới này cho thấy tính hệ thống
578


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

trong quản lý rủi ro ngập lụt, có thể ứng phó với ngập một cách hiệu quả và kịp thời. Một số nghiên
cứu khác cũng đồng quan điểm về quản lý rủi ro trong ứng phó với BĐKH, thiên tai và ngập lụt
(UNDP và MARD, 2014; WB, 2012).
Như vậy, vận dụng hướng tiếp cận quản lý rủi ro như một định hướng cho quản lý ngập lụt
đơ thị có lẽ là khá phù hợp trong bối cảnh biến đổi khí hậu và đơ thị hóa gia tăng hiện nay ở các
khu vực đô thị Việt Nam. Tuy nhiên hướng nghiên cứu này còn khá mới mẻ, một số nghiên cứu
chủ yếu mới được thực hiện ở các khu vực nơng thơn, xây dựng quy trình quản lý rủi ro dựa trên
cộng đồng. Có một số ít nghiên cứu ở khu vực đô thị nhưng mới tập trung vào vai trị của chính

quyền theo hướng từ trên xuống mà chưa quan tâm tới vai trò cộng đồng. Cho đến nay, gần như
chưa có nghiên cứu nào về chủ đề này ở TPHCM vận dụng quan điểm quản lý rủi ro vào phân tích
q trình quản lý ngập lụt đô thị.
Nghiên cứu định hướng tiếp cận quản lý ngập lụt đô thị theo hướng quản lý rủi ro ngập lụt.
Nếu xem ngập lụt đô thị là một loại rủi ro, do đó để quản lý được loại rủi ro này, cần thực hiện
theo một hệ thống 3 bước: phịng ngừa trước khi ngập xảy ra, đối phó để giảm nhẹ thiệt hại khi
ngập xảy ra và bước 3 là phục hồi sau ngập.
Nghiên cứu kết hợp cả hai phương pháp định lượng và định tính để thu thập dữ liệu. Phương
pháp định tính gồm phân tích tài liệu có sẵn từ các nghiên cứu, báo cáo trước đó như báo cáo của
Sở Xây dựng TP. Hồ Chí Minh, báo cáo của Trung tâm Chống ngập TP. Hồ Chí Minh…cung cấp
các dữ liệu về ngập lụt, về cơ sở hạ tầng chịu ảnh hưởng ngập. Phương pháp phỏng vấn sâu tiến
hành phỏng vấn năm đối tượng chủ hộ/người làm kinh tế chính trong hộ gia đình ở các khu vực bị
ngập, điển hình tại Quận Thủ Đức (nay là TP. Thủ Đức). Phương pháp định lượng sử dụng bộ dữ
liệu khảo sát định lượng của đề tài “Nghiên cứu các giải pháp phân lũ, chậm lũ, giảm lũ nhằm
giảm ngập lụt cho TPHCM” do Khoa Xã hội học, ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc
gia TPHCM và Viện Thủy lợi miền Nam thực hiện 2017. Cuộc khảo sát được thực hiện trên địa
bàn 06 quận của thành phố, bao gồm các quận Bình Thạnh, Thủ Đức, Bình Tân, Quận 11, Quận 8
và Quận 6. Các điểm khảo sát dựa trên dữ liệu và báo cáo của Trung tâm Chống ngập (SCFC) và
quan sát thực tế để xác định các khu vực và điểm ngập ở các quận. Cuộc khảo sát được tiến hành
với 919 hộ gia đình ở các khu vực ngập lụt.
3. Phát triển đô thị và thực trạng ngập lụt ở TP. Hồ Chí Minh
Phát triển đơ thị như một xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới vì nó đánh dấu nền văn
minh, những thành tựu phát triển khoa học kỹ thuật. Không ngoại lệ, Việt Nam cũng đánh giá sự
phát triển dựa trên tỉ lệ phát triển đô thị. Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM), với 10 triệu dân và
tỉ lệ tăng trưởng dân số trên 3%, được xem như một trong những thành phố có tốc độ đơ thị hóa
nhanh nhất khu vực Đơng Nam Á. Theo một nghiên cứu của World Bank về tình hình đơ thị hóa
tại 25 đơ thị lớn nhất Việt Nam, TP.Hồ Chí Minh được xác định là một trong hai đơ thị lớn nhất
nước tính theo diện tích đất đơ thị giai đoạn 2000 - 2020 (World Bank, 2015).
579



QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Số lượng dân số cũng tăng theo thời gian trong suốt giai đoạn 2010 - 2019. Trong vòng 1 thập
kỷ, dân số TP.HCM đã tăng gần hai triệu người, từ 7.162.864 người vào tháng 4.2009 và tính đến
tháng 4-2019 là 8.993.082 người (Tổng cục Thống kê, 2019).
Đi cùng với sự gia tăng dân số và biến động về sử dụng đất, việc mở rộng bành trướng vùng
đô thị ra các vùng ven, TP.HCM dường như ngày càng đối mặt với ngập lụt gia tăng. Những năm
gần đây, dưới tác động xấu của BĐKH, thời tiết đã có những diễn biến bất thường với những
trận mưa, bão lớn xuất hiện ngày càng nhiều tại các tỉnh Nam Bộ. Điều này đã khiến tình hình
ngập nước tại Thành phố Hồ Chí Minh càng trở nên nghiêm trọng, làm ảnh hưởng tiêu cực đến
cuộc sống của người dân.

Nguồn: Khảo sát năm 2017.
Theo dữ liệu khảo sát của chúng tôi năm 2017 cho thấy, gần một thập kỷ, từ năm 2008 tới
nay, năm ngập nặng nhất là 2016 là năm cận kề cuộc khảo sát. Đặc biệt, biểu đồ mơ tả ngập lụt có
xu hướng gia tăng theo thời gian.
Theo một số học giả đã nhận định, nguyên nhân ngập úng của TP. Hồ Chí Minh bao gồm cả
nhân tai và thiên tai, đặc biệt nguyên nhân ngập lụt có một phần gắn với tác động, hệ quả của q
trình đơ thị hóa nhanh (Hồ Long Phi, 2012, Lê Hồng Kế, 2012). Nguyên nhân do nhân tai là ý thức
580


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

người dân hạn chế dẫn tới rác thải xả bừa bãi gây ngập, cùng với quản lý quy hoạch không phù
hợp. Với việc thiếu định hình, quy hoạch chưa có tầm nhìn xa ngay từ đầu, dẫn tới các khu vực
đất trũng - nơi đóng vai trị là kho chứa nước, điển hình như khu vực quận 7, lại bị san lấp. Nhiều
dịng sơng, kênh mương, ao hồ là kênh thoát và chứa nước lại bị san lấp hay cống hóa phục vụ cho
việc xây dựng đơ thị. Bên cạnh đó, hiện tượng ngập lụt còn do thiên tai, ở đây là do Biến đổi khí

hậu (BĐKH) gây ra. Với vị trí là một đơ thị bán ngập triều, nằm ven biển, TP. Hồ Chí Minh phải
đối mặt với nguy cơ nước biển dâng, càng làm trầm trọng, đe dọa tình trạng ngập lụt gia tăng ở
thành phố này.
Bảng 1. Nguyên nhân gây ngập nước tại các quận thành phố Hồ Chí Minh

Triều cường

Mưa lớn
Cả mưa và
triều

Quận 11

Quận 6

Quận 8

Bình Tân

Bình Thạnh

Thủ Đức

0

0

6

1


0

5

0,0%

0,0%

4,0%

0,70%

0,0%

2,60%

152

35

24

146

19

62

100%


22,90%

15,90%

97,30%

19,80%

32,50%

0

118

119

3

77

124

0,0%

77,10%

78,80%

2,0%


80,20%

64,90%

0

0

2

0

0

0

0,0%

0,0%

1,30%

0,0%

0,0%

0,0%

152


153

151

150

96

191

100%

100%

100%

100%

100%

100%

Khác

Tổng

Nguồn: Khảo sát năm 2017.
Theo khảo sát của chúng tôi, người dân trên địa bàn TP.HCM nhận định, nguyên nhân ngập
nước là do cả triều cường và mưa gây ra. Kết quả khảo sát cho thấy, có tới 49,4% hộ dân cho rằng

nguyên nhân ngập nước tại khu vực dân cư là do mưa lớn và khi có mưa lớn kết hợp với triều
cường dâng cao. Trên 70% ý kiến cho rằng ngập nước ở quận 6, quận 8, quận Bình Thạnh là điển
hình ngập do triều và ngập nặng hơn khi triều cường kết hợp với mưa. Đặc điểm của khu vực quận
6, quận 8 và Bình Thạnh là địa hình trũng thấp, cao độ trung bình từ 0,9 m - 1,3 m1 tình trạng ngập
nước chịu ảnh hưởng trực tiếp của thủy triều. Khi triều lên, nước tràn vào khu vực bằng nhiều ngả
kể cả theo các tuyến đường dân lập, gây nên tình trạng ngập cho tất cả những vùng có cao độ thấp.
Tần suất xuất hiện của hiện tượng ngập nước tại đường trước nhà ở các khu vực dân cư tại
các quận là khác nhau.
1

Theo Cổng thôn tin điện tử Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, cập nhật ngày 30/10/2016.

581


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Biểu đồ 2. Độ sâu ngập nước trước nhà tại các quận huyện ở thành phố Hồ Chí Minh

Nguồn: Khảo sát năm 2017.
Theo kết quả khảo sát có 34,8% dân cư ở quận 11 gặp tình trạng thường xuyên bị ngập đường
trước nhà. 75% dân cư quận Bình Thạnh và 60,4% dân cư ở quận Thủ Đức thỉnh thoảng bị ngập
đường trước nhà trong khi quận 6 và quận 8 chỉ có 25% dân cư gặp tình trạng này. Độ sâu ngập
đường trước nhà dân ở thành phố Hồ Chí Minh trung bình là 18,52cm. Trong đó, quận Bình Tân
và Thủ Đức có thời điểm ngập đường cao lên đến 80cm.
Ngập nước tại Thành phố Hồ Chí Minh đã ảnh hưởng đến đời sống của người dân trên nhiều
phương diện. Ba yếu tố bị ảnh hưởng nặng nhất với người dân khi tình trạng ngập nước xảy ra là
thiệt hại về nhà cửa, khó khăn trong đi lại, giao thơng và gây ra mùi khó chịu trong khu vực dân
cư. Cụ thể, quận 11 và quận Bình Tân có hơn 70% số hộ gia đình bị ảnh hưởng đến nhà cửa, trên
50% hộ ở tất cả các quận gặp khó khăn trong việc đi lại và khu vực dân cư có mùi khó chịu khi

ngập nước. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt thường nhật của người dân và đe
dọa đến chất lượng sống của họ.
Bảng 2. Ba yếu tố bị ảnh hưởng nhất khi ngập tại các quận

Nhà cửa

Đi lại

582

Quận 8

Quận
Bình Tân

Quận
Bình
Thạnh

Quận
Thủ Đức

Tổng

23

44

117


0

62

365

76,30%

15,0%

29,30%

73,60%

0,0%

35,40%

136

102

132

90

53

104


87,20%

66,70%

88,0%

56,60%

63,90%

59,40%

Quận
11

Quận 6

119

624


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Gây mùi
khó chịu

78

144


102

94

35

119

50,0%

94,10%

68,0%

59,10%

42,20%

68,0%

150

159

83

175

Tổng

156
153
Nguồn: Số liệu khảo sát 2017.

579

883

Về kinh tế, ngập nước làm thiệt hại cơng trình hạ tầng xã hội - cơng cộng như làm đường xá
xuống cấp, các đường hẻm bị thiệt hại, bờ kè, bờ bao khu vực cũng bị ảnh hưởng. Để chia sẻ trách
nhiệm với cộng đồng, nhiều nơi đã tiến hành sửa chữa, thay thế một số hạng mục cơng trình cơng
cộng có sự tham gia, đóng góp bằng tiền, hiện vật hoặc ngày công lao động của người dân tại khu
vực đó.
Theo kết quả khảo sát, khi ngập nước diễn ra, các hộ dân thường bị thiệt hại: sân, vườn, nhà
ở xuống cấp, nền nhà bị phá hủy, tường nhà bị bong tróc, ngấm nước, cửa nhà, hệ thống vệ sinh,
thoát nước… Đặc biệt, ngập nước ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản lớn của người dân là nhà ở. Khi
nhà ở bị hư hại do ngập úng, phải tiến hành sửa chữa hoặc nâng cấp để đảm bảo khu vực lưu trú
của họ. Trong vòng 10 năm qua, mỗi hộ gia đình đều có ít nhất 1 lần tiến hành sửa chữa các hạng
mục cơng trình trong gia đình, chưa nói tới chi phí cho sửa chữa đồ đạc bị hư hại do ngập lụt.
Như vậy, qua kết quả khảo sát cho thấy, ngập nước đang là một vấn nạn đáng lo ngại hiện
nay, gây thiệt hại tới cả kinh tế và xã hội, ảnh hưởng tới nhiều mặt đời sống người dân ở Thành
phố Hồ Chí Minh. Tình hình ngập lụt dường như là hệ quả của q trình đơ thị hóa nhanh, khi
ngun nhân ngập lụt được phân tích có mối liên hệ với việc mở rộng đơ thị. Với tình hình ảnh
hưởng ngập nước nghiêm trọng này, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu gia tăng, rất cần có
các giải pháp nhằm giảm tình hình thiệt hại do ngập nước gây ra, đặc biệt cần có phương án quản
lý đơ thị phù hợp nhằm giảm thiểu rủi ro ngập lụt và tăng cường năng lực thích ứng với ngập nước
của người dân và Chính quyền Thành phố.
4. Một số vấn đề chung trong quản lý ngập lụt ở TP. Hồ Chí Minh
Với thực trạng ngập lụt ngày càng gia tăng, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống - kinh tế - xã hội,
đã khiến người dân và các cấp chính quyền phải có những phản ứng và thực hiện các biện pháp

đối phó. Mặc dù có khá nhiều các hoạt động, chương trình đối phó với ngập nước, nhưng dường
như việc quản lý ngập lụt chưa đạt được những thành quả mong đợi. Đặc biệt việc coi ngập lụt
như một loại rủi ro, cần quản lý mới chỉ là khái niệm. Hàng năm, người dân vẫn phải đối phó với
ngập lụt và chịu những thiệt hại do ngập gây ra.
Ngập nước thường gây các hậu quả ảnh hưởng trực tiếp tới người dân, nhà ở, tài sản hộ gia
đình. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hầu như người dân ở TP. Hồ Chí Minh khá bị động trong việc
ứng phó với ngập nước. Phần lớn các hoạt động đối phó với ngập nước đều diễn ra sau khi ngập
nước. Phần lớn, các ứng phó với ngập của các hộ gia đình chủ yếu là các hoạt động xử lý hậu quả
ngập nước để lại. Bảng số liệu khảo sát dưới đây sẽ thể hiện rõ điều đó.
583


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Bảng 4. Hoạt động hộ gia đình phục hồi với ngập nước khu vực nhà ở
Hoạt động

Số lượng

Tỉ lệ (%)

Nạo vét hệ thống thoát nước, cống rãnh khu vực nhà ở

270

29,38

Lau, dọn nhà

749


81,5

Sử dụng rào cản, bao cát để ngăn nước

183

19,91

Sử dụng công cụ đơn giản để tát nước

411

44,72

Sữa chữa, mua mới dụng cụ đồ đạc bị hỏng

188

20.46

Sử dụng bơm nhỏ

84

9,14

Khác

2


0,22

Nguồn: Khảo sát năm 2017
Qua khảo sát cho thấy, người dân đã phải thực hiện khá nhiều các hoạt động trong và sau khi
ngập nhằm giảm hậu quả của ngập nước. Điển hình, chiếm tỉ lệ cao nhất trong các hoạt động này
là ‘’lau, dọn nhà’ chiếm tới 81.5% các hộ khảo sát. Tỉ lệ này cho thấy, hầu hết các hộ khảo sát đều
bị ảnh hưởng của ngập nước tới nhà ở. Có tới 44.72% số hộ khảo sát phải sử dụng các công cụ
đơn giản để tát nước, điều này chứng tỏ, ít nhất có gần một nửa số hộ khảo sát bị nước ngập trong
nhà và phải tát nước. Bên cạnh đó, để phục hồi sau ngập, các hộ gia đình phải tiến hành nạo vét
cống rãnh chiếm 29.38% số hộ khảo sát, sữa chữa, mua mới dụng cụ đồ đạc bị hỏng chiếm 20.46%.
Hoạt động sử dụng rào cản, bao cát để ngăn nước chiếm xấp xỉ 20% chứng tỏ cho thấy, ít nhất có
trên ¼ số hộ khảo sát có nền nhà thấp hơn mực nước ngập dâng và nguy cơ bị nước tràn vào nhà
nên phải sử dụng bao cát ngăn nước.
Như vậy, hầu hết các giải pháp đối phó, phục hồi với ngập nước của hộ gia đình đều là các
biện pháp đơn giản và mang tính khắc phục tạm thời. Qua phỏng vấn sâu về tình hình ngập lụt
và phản ứng của người dân các khu vực ngập lụt ở thành phố cho thấy, hầu như năm nào người
dân các khu vực này cũng đều phải đối phó với ngập lụt, nhất là vào mùa mưa. Tuy nhiên, phần
lớn việc ứng phó với ngập lụt mới chỉ là cá nhân hộ gia đình tự đối phó và khắc phục. Chưa có
một chương trình hay hệ thống quản lý ngập lụt từ chính quyền kết nối xuống với dân. Do vậy,
các hoạt động ứng phó của người dân cũng chỉ mang tính tự phát và chưa có một chiến lược dài
hạn, với những biện pháp hiệu quả thực sự. Một điều đáng chú ý nữa, với mỗi tuyến đường ngập
lụt, người dân ở khu vực đó tự khắc phục ngập úng, với các hoạt động như nâng đường, nâng
hẻm mà không đặt trong mạch kết nối hệ thống thoát nước với các khu vực khác. Hậu quả là họ
đã phải nhiều lần nâng đường, và nước ngập không hết, mà chỉ được đẩy từ vùng này sang vùng
trũng khác.
Trước tình hình ngập úng ngày càng gia tăng, Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã có
các biện pháp, hành động đối phó với trình trạng ngập nước ở các khu vực ngập lụt. Kết quả khảo
sát cho thấy, chính quyền các địa phương đã nỗ lực trong thích ứng, đối phó với tình trạng ngập.
584



RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Bảng 5. Các biện pháp đối phó với tình trạng ngập nước của chính quyền
Hành động của chính quyền ứng phó với ngập

Tần số

Tỉ lệ (%)

Tuyên truyền thông tin ngập, dự báo, cảnh báo ngập

193

21

Thực hiện các biện pháp sinh thái như làm hồ chứa nước, trồng cây

14

1,5

Tăng cường sự tham gia của các chủ thể xã hội

55

6

Dùng máy bơm nước


11

1,2

Tổ chức chương trình nâng cao nhận thức, kiến thức về môi trường, ngập
nước, biến đổi khí hậu

75

8,2

Tổ chức tập huấn, tuyên truyền kỹ thuật, các biện pháp chống ngập

60

6,5

Sử dụng các túi cát, rào cản tạm thời để ngăn nước

129

14,1

Nạo vét cống rãnh, hệ thống thoát nước, hố ga

387

42,2


Xây dựng đê, kè

360

39,3

Nâng đường

582

63,5

Khác

27

2,9

Nguồn: Khảo sát năm 2017
Chính quyền địa phương đã thực hiện khá nhiều các biện pháp nhằm đối phó và giảm ngập
nước như: Tuyên truyền thông tin ngập, dự báo, cảnh báo ngập, tổ chức chương trình nâng cao
nhận thức, kiến thức về mơi trường, ngập nước, biến đổi khí hậu… Nhưng khảo sát cho thấy, phần
lớn các hoạt động đối phó với ngập từ phía nhà nước chủ yếu là biện pháp kỹ thuật như nâng
đường chiếm tỷ lệ cao nhất tới 63.5%, nạo vét cống rãnh, hệ thống thoát nước chiếm tới 42.2%,
xây dựng đê kè chiếm tới 39.3%. Hơn nữa, hầu hết các biện pháp kỹ thuật chủ yếu mới là biện
pháp tình thế, đối phó, như biện pháp nâng đường, chỉ có thể làm giảm mức ngập ở những tuyến
đường nâng lên, nhưng lại làm gia tăng nước ngập ở các tuyến đường khác khi nước ngập theo
quy luật tập trung ở chỗ trũng. Trong khi đó, các biện pháp mang tính xã hội (phi cơng trình) chỉ
chiếm tỉ lệ rất thấp, điển hình như: ‘Tăng cường sự tham gia của các chủ thể xã hội’ chỉ chiếm tỉ
lệ 6,2% hay ‘Tổ chức tập huấn, tuyên truyền kỹ thuật, các biện pháp chống ngập’ chỉ chiếm tỉ lệ

6,4%.
Phần lớn các biện pháp mới chỉ mang tính đối phó, tạm thời, chứ chưa có những biện pháp
lâu dài. Mặt khác, với một địa thế là đô thị bán ngập triều, việc sống chung với nước là điều không
thể tránh khỏi, trong khi chúng ta chưa nghĩ tới những hướng thích ứng với ngập lụt hay những
biện pháp lâu dài. Như vậy, các hoạt động, đối phó, thích ứng với ngập nước của chính quyền vẫn
cịn hạn chế, cần cải thiện nhằm đạt được hiệu quả cao hơn trong quá trình giảm ngập và giảm

585


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

những tác động tiêu cực của ngập nước. Hay nói cách khác, việc quản lý ngập lụt của chính quyền
địa phường còn nhiều lỗ hổng và cần được cải thiện.
5. Những khó khăn, thách thức trong quản lý ngập ở TP. Hồ Chí minh
Qua khảo sát về tình hình ứng phó của chính quyền với ngập nước cho thấy sự hạn chế trong
việc quản lý ngập lụt đơ thị. Chính quyền mới chỉ có những hành động đối phó với ngập nước một
cách tạm thời, chưa có một khung quản lý ngập lụt đồng bộ. Vì xét về nguyên nhân, ngập lụt là do
cả nhân tai và thiên tai, như vậy cần tới một khung quản lý ngập lụt toàn diện và đồng bộ, để có
thể can thiệp, giảm thiểu các nguyên nhân gây ngập ở các khu vực đô thị.
Từ tổng hợp tình hình ngập lụt thực tế ở các đô thị với các nghiên cứu trước đây cho thấy, đơ
thị hóa nhanh là một ngun nhân dẫn tới ngập lụt đô thị (Hồ Long Phi, 2012; Ngân hàng thế giới,
2012). Điểm danh nhiều khu vực cho thấy, cứ sau khi đơ thị hóa hay các vùng nơng thơn, ven đơ
được mở rộng thành đơ thị thì đều phải đối mặt với tình trạng ngập. Bà Pamela Cox, Phó Chủ tịch
Ngân hàng Thế giới phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương đã nhận định: “Mở rộng đô
thị thường tạo ra các khu dân cư nghèo thiếu cơ sở hạ tầng và dịch vụ đầy đủ, làm cho những khu
vực này dễ bị tổn thương bởi lũ lụt. Người nghèo là đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất, đặc biệt
là phụ nữ và trẻ em” (Ngân hàng thế giới, 2012 - trích xuất báo điện tử Ninh Thuận). Như vậy, áp
lực về tăng trưởng kinh tế, đơ thị hóa nhanh và biến đổi khí hậu đã làm gia tăng nguy cơ rủi ro cao
trước những thảm họa thiên nhiên, điển hình là thảm họa ngập lụt với người dân đô thị, đặc biệt là

ở vùng đại đơ thị TP.Hồ Chí Minh - một vùng đơ thị ven biển càng dễ ảnh hưởng bởi nguy cơ ngập
lụt do mực nước biển dâng.
Ở một diễn biến khác, khi phân tích các hoạt động ứng phó với ngập lụt của các cấp chính quyền
địa phương, hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và Chính phủ cho thấy, TP. Hồ Chí Minh cũng đã nhận
được khá nhiều hoạt động nhằm đối phó, giảm ngập. Một số chương trình, dự án giảm ngập và giảm
ơ nhiễm mơi trường, điển hình như: dự án vệ sinh mơi trường ở TP.Hồ Chí Minh (WB hỗ trợ), Dự
án cải thiện môi trường nước TP.Hồ Chí Minh-lưu vực Tàu Hủ, Bến Nghé-Đơi-Tẻ (JBIC), Dự án
cải thiện môi trường thành phố - Tiểu dự án cải tạo hệ thống thoát nước lưu vực rạch Hàng Bàng
(ADB), Dự án cải thiện và nâng cấp đô thị lưu vực Tân Hóa-Lị Gốm. Ngồi ra, cịn một số dự án
xây dựng cơng trình kiểm sốt triều như dự án kiểm sốt triều Rạch Lăng-Bình Lợi-Bình Triệu, Cầu
Bơng, hay dự án kiểm soát triều rạch Văn Thánh; dự án giải pháp bơm di động.
Tuy nhiên, phần lớn các chương trình, dự án đã thực hiện, hầu hết là các cơng trình mang tính
kỹ thuật, và chỉ mới giải quyết ngập ở những khu vực trọng điểm. Những dự án, chương trình này
chưa có hoạt động rốt ráo, chưa giải quyết ngập một cách tổng thể. Các chương trình giảm ngập
này dù có vốn đầu tư lớn, nhưng chưa thực sự có một quy trình quản lý ngập lụt đặt trong mối kết
nối với các khu vực phụ cận, đô thị vệ tinh khác trong tồn vùng đại đơ thị. Điều này chỉ có thể
giúp để giảm ngập ở một điểm, nhưng lại đẩy ngập lụt sang các điểm khác, vùng khác. Trong khi
đó, để giảm ngập cần giải quyết nhiều vấn đề liên quan như thoát nước, hệ thống dự trữ nước thải
và quy hoạch trên toàn vùng đại đơ thị, chứ khơng chỉ là việc thốt nước ở một điểm hay một vùng.
586


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Không chỉ vậy, một số dự án lớn được hỗ trợ của Quốc tế và Chính phủ, dù có đem lại hiệu
quả về mơi trường, giảm ngập cho khu vực, nhưng cơng trình ứng phó với ngập lụt và môi trường
lại thiết kế bị hạn chế về tuổi thọ và dễ bị lỗi thời, điển hình như cơng trình Quy hoạch thủy lợi
chống ngập úng TP Hồ Chí Minh (Quy hoạch 1547), dự án xây dựng hệ thống máy bơm chống
ngập thông minh, hay dự án chống ngập 10.000 tỷ đồng, quy hoạch 752. Do các cơng trình này
khi xây dựng chưa tính đến sự tác động của biến đổi khí hậu tới các cơng trình cũng như chưa tính

tốn lồng ghép được tác động của biến động kinh tế-xã hội và tốc độ đô thị hóa gia tăng nhanh vào
quy trình quản lý ngập lụt và vận hành (Thành Nam, Hà Nguyễn, 2018, Hồ Long Phi, 2015; Huyền
Trân- Minh Quân, 2019)
Một số chương trình, dự án về ngập lụt và giảm ngập khá hay, với cách tiếp cận mềm và các
giải pháp phi công trình, có tính khả thi cao như ‘Tích hợp ngập lụt với quy hoạch đơ thị - của
nhóm nghiên cứu về quy hoạch đô thị đại học Cottbus, Đức’, hay các giải pháp tăng cường năng
lực quản lý hệ thống thoát nước, xây dựng hành lang pháp lý, nâng cao nhận thức công đồng…Tuy
nhiên, các nghiên cứu này mới ở dạng đề xuất, chưa được áp dụng và triển khai thực sự cho TP.
Hồ Chí Minh.
Như vậy, từ thực trạng và nguy cơ gia tăng ngập lụt, cách đối phó thụ động, tạm thời của
người dân cũng như chính quyền khu vực cùng với việc chưa tìm được giải pháp trọn vẹn cho ứng
phó với ngập cho thấy nhu cầu cấp thiết của việc xây dựng hệ thống quản lý nguy cơ ngập lụt gắn
với quy trình lập kế hoạch thường xuyên của các quận và huyện trong vùng đại đô thị. Tuy nhiên,
việc xây dựng một hệ thống quản lý nguy cơ ngập lụt ở vùng đại đô thị TP. Hồ Chí Minh đối mặt
khá nhiều thách thức.
Thách thức đầu tiên trong quản lý ngập lụt ở khu vực đại đơ thị này là phải cân đo, tính tốn
giữa phát triển kinh tế với ngập lụt và bảo vệ môi trường. Đối mặt với nguyên tắc phát triển đô thị
vì mục tiêu tăng trường kinh tế, do vậy, quản lý ngập lụt cần có sự thống nhất đồng bộ với các bên
liên quan tới phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và quy hoạch đô thị.
Thách thức thứ hai trong quản lý ngập lụt ở vùng đại đô thị là việc xác định và sử dụng cách
thức quản lý phù hợp, quản lý từ trên xuống (Bottom up) hay từ dưới lên (Top down). Hiện nay,
chúng ta mới đang thực hiện quản lý ngập lụt theo cơ chế quản lý từ trên xuống. Hầu hết những
điểm ngập của thành phố muốn giải quyết giảm ngập và tiến hành các hoạt động ứng phó như nâng
cấp đường, hệ thống thốt nước đều theo quy trình quyết định giải quyết đi từ các cấp chính quyền
thành phố mới xuống tới cấp cơ sở như phường, xã. Theo kết quả khảo sát về thích ứng với ngập
nước của cả cấp Chính quyền và người dân như trình bày ở phần trên cho thấy các hoạt động tách
riêng, không đồng bộ giữa dân và chính quyền. Người dân thì tự nâng nền nhà, hoặc ngăn nước
vào nhà, trong khi chính quyền thì tiến hành các hoạt động như nâng cao trình những con đường
bị ngập úng. Điều này cho thấy sự không đồng bộ trong các hoạt động của cộng đồng và chính
quyền trong ứng phó với ngập, gây lãng phí và phân tán nguồn lực tài chính và nguồn lực tự nhiên.

Trong bối cảnh một đại đơ thị ứng phó với ngập, cần thiết lồng ghép cả biện pháp quản lý từ trên
xuống kết hợp với quản lý từ dưới lên, mới có thể giải quyết được vấn đề nan giải này.
587


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Thách thức thứ ba, khu vực địa lý khá rộng, địa hình phức tạp, dẫn tới khó khăn trong quản lý
rủi ro ngập lụt. Ở một khía cạnh khác xét về mặt địa lý, TP. Hồ Chí Minh là một đô thị bán ngập
triều, tức là chúng ta phải chấp nhận ngập lụt và sẽ khó loại bỏ hồn tồn ngập lụt ra khỏi khu vực
này. Vùng đại đô thị TP. Hồ Chí Minh nằm sát ngay bờ biển, với hệ thống kênh rạch, sơng ngịi nối
trực tiếp ra biển. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, nước biển dâng cao, thì chúng
ta sẽ ứng phó như thế nào? Chúng ta sẽ thích ứng tại chỗ bằng cách sống chung với ngập lụt hay sẽ
rút dần vào các vùng không bị ngập khi nước biển dâng? Theo nghiên cứu của một số tổ chức quốc
tế uy tín như Ngân hàng thế giới, Trung tâm Nghiên cứu các Hệ thống môi trường (CESR)…Việt
Nam nằm trong top năm nước trên thế giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi mực nước biển dâng.
“Theo số liệu quan trắc tại các trạm hải văn ven biển nước ta cho thấy, mực nước trung bình Biển
Đơng tăng khoảng 4,7 mm/năm, trong đó riêng Việt Nam có mức tăng trung bình khoảng
2,8mm/năm” (Nguyễn Văn Sử, 2018). Theo kịch bản biến đổi khí hậu của của Bộ Tài nguyên môi
trường đã báo động mực nước biển của nước ta có thể tăng thêm 33,3 cm vào năm 2050, con số này
không ngừng tăng lên 45 cm vào năm 2070 và khoảng 01 m vào năm 2100. Theo những dự báo kịch
bản này, nhiều khu vực đất liền ven biển sẽ bị chìm trong nước, thậm chí có khu vực sẽ bị ngập sâu
vĩnh viễn. Dự báo, nếu nước biển dâng cao 1m thì có tới 4,4% lãnh thổ Việt Nam bị ngập toàn bộ,
10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp và các khu vực đô thị ven biển sẽ bị ngập nặng, trong đó, thành
phố Hồ Chí Minh là vùng có tỉ lệ khu vực bị ngập khá cao so với các khu vực khác, tới 17,84%
(Nguyễn Văn Sử, 2018). Trong hoàn cảnh này, việc di dời hay sống chung thích nghi với ngập nước
ở một khu vực cũng đã khó, nhưng nó sẽ là một thách thức lớn với một đại đô thị có 20 - 30 triệu
dân, gồm khu trung tâm đô thị và các khối đô thị vệ tinh. Như vậy, vấn nạn về ngập lụt đã đặt ra khá
nhiều thách thức cho việc phát triển vùng đại đô thị và việc quản lý ngập lụt ở vùng này.
6. Khuyến nghị và kết luận

Như vậy, từ kết quả nghiên cứu có thể đi đến kết luận, ngập nước hiện đang là vấn nạn, đe dọa
đến đời sống, con người và gây ảnh hưởng thiệt hại tới kinh tế xã hội ở vùng đơ thị thành phố Hồ
Chí Minh. Tuy nhiên, các biện pháp thích ứng với ngập của chính quyền cịn nhiều hạn chế, địi hỏi
trong tương lai cần có những giải pháp hiệu quả hơn. Điều này đã thể hiện sự hạn chế của quản lý
đô thị trong bối cảnh đơ thị hóa nhanh và biến đổi khí hậu gia tăng. Mặc dù ngập lụt được dự báo có
nguy cơ gia tăng trong tương lai do vị trí địa lý của TP.Hồ Chí Minh ở ven biển, chịu ảnh hưởng bởi
mực nước biển dâng, biến đổi khí hậu và các hoạt động của con người, khai thác quá mức các nguồn
tài ngun như đất đai, sơng ngịi, tuy nhiên chúng ta chưa xây dựng được một khung quản lý rủi ro
ngập lụt ở đô thị. Nhất là, trong bối cảnh phát triển mở rộng đô thị, và hướng tới quy hoạch thành
vùng đại đô thị, các yêu cầu đặt ra cho quản lý đô thị càng nhiều, không chỉ quản lý con người, xã
hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên mà còn quản lý các thiên tai, vấn nạn như ngập lụt.
Quản lý ngập lụt ở vùng đại đô thị như TP.HCM là một thách thức lớn, đòi hỏi xác định các
phương hướng xây dựng, quy hoạch vùng đại đơ thị như thế nào để các khu vực có thể tự chủ
trong ứng phó với ngập lụt nhưng có các kết nối, hỗ trợ nhau trong một thể thống nhất. Bên cạnh
việc quản lý vùng đại đô thị với đường hướng quy hoạch kỹ thuật, cần có định hướng tiếp cận
588


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

mềm, phi cơng trình, quản lý đơ thị về con người. Cần có những chương trình quy hoạch nhân lực
để quản lý dân cư ở các khối đô thị trong một tổng thể kết nối, đồng thời có các chương trình nhằm
nâng cao nhận thức người dân về môi trường và ngập lụt. Trong bối cảnh phát triển vùng đại đơ
thị TP.Hồ Chí Minh, thực sự rất cần tới việc nghiên cứu để xây dựng được một khung quản lý phù
hợp và thông minh cho vùng đại đô thị, nhằm giảm thiểu ngập lụt cũng như các vấn nạn nảy sinh
từ việc hình thành khu vực này. Chiến lược quản lý ngập lụt tích hợp với quy hoạch đô thị trong
phát triển vùng đại đô thị thơng minh cũng có thể là một hướng đi khả thi trong bối cảnh này.

Tài liệu tham khảo
1. Bách khoa toàn thư Grand Bretagne, tập 8.

2. Birkmann J., Matthias G., Vo V.T., Nguyen T.B., 2010. Vulnerability profiles with respect
to present and future water- related hazards in the Vietnamese Mekong Delta-Providing the
information-base for successful coping and adaptation within the framework of integrated water
resources management. Wisdom project, 2010.
3. Bộ Tài nguyên Mơi trường. Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam,
2016.
4. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2012. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cơng trình
thủy lợi, các quy chuẩn thiết kế QCVN 04-05: 2012/BNNPTNT
5. Ho Long Phi., 2012. Thích ứng với ngập nước và biến đổi khí hậu: nhu cầu hợp tác với các
nhà quy hoạch. Vietnamese Journal of urbanism, 2012.
6. H 2012.ese Journal Thông tin từ báo điện tử VOV - Hệ thống thốt nước bị lỗi thời. Trích
xuất ngày 1.9.2021 trên trang: />7. Huyps://vov.vn/xa-hoi/tp-hc. TP. H/vov.vn/xa-hoi/tp-hcm-he-thong-thoat-nuoc-vua lamxong-da-. Báo Lao động. Trích xuất ngày 2.9.2021 trên trang:
/>8. Institute of Local Government Studies and International Water Management
Institute, 2012.Community adaptation to flooding risk and vulnerability: Final report. Accra,
Ghana: ILGS and IWMI.
9. Max Weber, 1958. The city. N.Y.Free Press.
10. Ngân hàng thế giới, 2012. Trích xuất tư liệu ngày 3.11.2018 từ trang:
/>11. Nguyễn Văn Sử, 2018. Nước biển dâng và những hệ lụy đáng báo động. Tạp chí Quốc
phịng tồn dân. Trích xuất ngày 10.09.2021 tại trang:
589


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

12. />13. Sjoberg G, 1965. The origin and evolution of cities. Cities: A scientific American book.
N.Y.: Alfred A.Knopf
14. Số liệu Tổng cục Thống kê, 2017
15. Thành Nam, Hà Nguyễn, 2018. Loay hoay chống ngập lụt ở TP. Hồ Chí Minh, 2018. Ấn
phẩm Báo Nhân Dân. Trích xuất ngày 1.9.2021
16. />17. Thảo Hương, 2015. ‘Mỹ chuẩn bị thế nào cho chiến tranh đơ thị năm 2030’. Trích xuất từ

trang
web:
/>18. Thơng tin từ Bộ Xây dựng - Trích xuất tư liệu ngày 3.11.2018 từ trang:
19. />20. Trịnh Duy Luân, 2009. Giáo trình xã hội học đô thị. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009
21. Trung tâm về Vấn đề Tập trung Dân cư Thế giới của Liên hợp quốc, 2011. Báo cáo về
khu vực tập trung dân cư trên toàn cầu.
22. Trung tâm quan trắc môi trường Việt Nam, 2016. Báo cáo hiện trạng mơi trường Quốc
gia 2016.
23. Trích xuất tư liệu ngày 21.9.2021 từ trang: />ngap-lut-do-thi-thach-thuccac-nuoc-dang-phat-trien-o-dong-a.htm
24. Wirth Louis, 1938. Urbanism as a way of life. American Journal of Sociology. 44: 1-24

590



×