Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Huy động các nguồn lực tài chính để phát triển đô thị bền vững ở tỉnh Kiên Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.19 KB, 15 trang )

RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH
ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐƠ THỊ BỀN VỮNG Ở TỈNH KIÊN GIANG
Bùi Quang Tuấn*
Nguyễn Duy Linh Thảo**

Tóm tắt: Phát triển đô thị bền vững đang là một xu thế mạnh mẽ trên thế giới. Phát triển đô
thị ở tỉnh Kiên Giang trong bối cảnh mới cũng không là ngoại lệ. Tuy nhiên để phát triển đô thị
bền vững, cần phải đảm bảo nhiều yếu tố tổng hợp trong đó có nguồn lực tài chính đóng vai trị
hết sức quan trọng. Bài viết xem xét thực trạng phát triển đô thị và huy động nguồn lực đầu tư cho
phát triển đô thị theo hướng bền vững của tỉnh Kiên Giang. Bài viết chỉ ra một số hạn chế và
nguyên nhân trong huy động các nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển đô thị bền vững ở Kiên
Giang. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp để huy động nguồn lực tài chính cho đầu
tưphục vụ phát triển đơ thị bền vững ở Kiên Giang.
Từ khóa: Bền vững; Đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI); Đơ thị; Kiên Giang.
1. Đặt vấn đề
Tương lai của loài người sẽ chủ yếu là ở thành phố. Vào năm 2050, Liên hiệp quốc dự báo có
trên 2/3 dân số thế giới sẽ di chuyển đến làm việc, học tập và sinh sống ở các thành phố [18]. Do
đó, khi bàn đến các vấn đề bền vững thì khơng thể khơng bàn tới các vấn đề phát triển bền vững
đô thị. Tốc độ đơ thị hóa nhanh chóng ở nhiều quốc gia trên thế giới đang kèm theo nhiều vấn đề
ở các thành phố như sức ép dân số đến cơ sở hạ tầng đô thị và các dịch vụ xã hội. Các vấn đề khác
như tình trạng ơ nhiễm mơi trường, gia tăng phát thải khí nhà kính và các vấn đề tiếp cận các dịch
vụ xã hội cũng là vấn đề lớn ở nhiều thành phố. Để giải quyết các vấn đề đó, bên cạnh chính sách,
thể chế, lập quy hoạch, việc huy động nguồn vốn để tập trung phát triển đầu tư các cơ sở hạ tầng
thiết yếu có vai trị rất quan trọng.
Ở Việt Nam cũng vậy, đơ thị hóa đang phát triển mạnh mẽ, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Sự
tham gia đầu tư của nhiều thành phần kinh tế cũng góp phần đáng kể cho sự phát triển đô thị. Theo
các chuyên gia, để đáp ứng mục tiêu phát triển hạ tầng đô thị, các tổ chức tài trợ quốc tế tính tốn
lượng vốn đầu tư vào hạ tầng cơ sở đô thị lên tới hàng chục tỷ USD, chiếm trung bình 20% tổng


*

PGS. TS, Viện trưởng, Viện Kinh tế Việt Nam, email:
Thạc sĩ, Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang, email:

**

591


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

GDP của quốc gia. Theo Bộ Xây dựng, để đáp ứng các mục tiêu mà Việt Nam đặt ra đối với phát
triển hạ tầng đô thị từ năm 2006 đến 2020, các tổ chức tài trợ quốc tế tính tốn lượng vốn đầu tư
vào hạ tầng cơ sở đô thị đã lên tới hàng chục tỷ đô la Mỹ (USD), chiếm khoảng 15% đến 20%
tổng GDP của Việt Nam, Cụ thể, năm 2010 đầu tư khoảng 18 tỷ USD, đến năm 2020 khoảng 46
tỷ USD [3].
Bên cạnh vốn đầu tư từ ngân sách vốn hạn hẹp, rất cần bổ sung nguồn lực tài chính ngồi nhà
nước và đầu tư của nước ngồi. Do đó, nhà nước cần tạo mơi trường thuận lợi để thu hút đầu tư
trong nước và nước ngồi. Điều này đến lượt nó địi hỏi phải tăng cường xúc tiến thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài hoặc các nguồn vốn quốc tế cho phát triển đô thị bền vững, với các cơ chế ưu
đãi hợp lý.
Thông qua xem xét kinh nghiệm thực tiễn huy động đầu tư cho phát triển đô thị trên thế giới
và Kiên Giang, bài viết có mục tiêu đề xuất các giải pháp huy động các nguồn lực tài chính để phát
triển đô thị theo hướng bền vững ở tỉnh Kiên Giang. Bài viết dùng cách tiếp cận định tính và sử
dụng phương pháp phân tích thống kê, tổng hợp, phân tích so sánh. Bài viết sử dụng các dữ liệu
thứ cấp từ những nguồn tư liệu của tỉnh Kiên Giang.
2. Một số vấn đề chung
Đô thị bền vững (sustainable citiy) và phát triển đô thị bền vững đã được đề cập ở nhiều văn
bản và các nghiên cứu khác nhau. Mục tiêu thứ 11 trong 17 mục tiêu phát triển bền vững - SDG

2030 - mà Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đưa ra là “Thành phố và cộng đồng
bền vững” với nội dung là phát triển các thành phố và khu dân cư thành một nơi bao quát, an toàn,
tiến bộ và bền vững [20]. Điều này cho thấy phát triển đơ thị bền vững có vai trị rất quan trọng
trong định hướng phát triển bền vững của thế giới.
Theo Timothy F. Slaper và cộng sự (2011), đô thị bền vững là đơ thị được thiết kế có cân
nhắc đến các khía cạnh xã hội, kinh tế, mơi trường và có mơi trường sống linh hoạt cho các cư dân
hiện tại, mà không ảnh hưởng đến khả năng trong tương lai các thế hệ tiếp theo [25]. Mega và
cộng sự (1998) cho rằng bản chất của phát triển thành phố bền vững là một thành công trong việc
cân bằng kinh tế và môi trường thông qua các quá trình có sự tham gia tích cực của dân cư [22].
Một thành phố bền vững được tổ chức để cho mọi công dân được đáp ứng nhu cầu và nâng cao
phúc lợi của họ, mà không làm tổn hại đến môi trường tự nhiên hoặc gây nguy hại cho điều kiện
sống của những người khác, bây giờ và trong tương lai [21]. Một khía cạnh rất quan trọng được
nhấn mạnh liên quan đến việc đạt được phát triển đô thị bền vững ở các thành phố được Burgess,
R và cộng sự (2000) nhắc đến là phải tuân thủ nguyên tắc các nguồn lực không vượt quá khả năng
môi trường của nó, cơng bằng, thúc đẩy cơng bằng xã hội [17]. Một số học giả châu Âu cũng có
quan điểm khá tương đồng về đô thị phát triển bền vững khi định nghĩa “phát triển đô thị bền vững
là mang lại các dịch vụ môi trường, xã hội và kinh tế cơ bản cho tất cả cư dân mà không đe dọa
đến khả năng tồn tại của các hệ thống tự nhiên, xây dựng và xã hội mà trên đó của những dịch vụ
này phụ thuộc” [19].
592


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Ở Việt Nam cũng đã có một số nghiên cứu đề cập đến phát triển đô thị bền vững. Nguyễn Thị
Hoa (2014) cho rằng phát triển đơ thị bền vững đây là một q trình tất yếu khách quan, là q
trình phát triển của đơ thị gắn liền với cả nền kinh tế, tuy nhiên bản thân nó sẽ chứa đựng cả 2 mặt
tích cực và tiêu cực. Vì vậy, quản lý và định hướng để Phát triển đô thị bền vững là nhiệm vụ quan
trọng và cần thiết để vượt quan được những vấn đề thách thức trong quá trình thực hiện phát triển
một hệ thống đô thị bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường [4]. Đào

Hoàng Tuấn và cộng sự (2009) đã hệ thống lại đơ thị bền vững là q trình phát triển với quan
niệm đầy đủ là khi nó đạt được sự thống nhất trong một khuôn khổ bền vững cả ba mặt kinh tế, xã
hội và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng sống của thế hệ hiện tại mà không làm ảnh hưởng
tới các nhu cầu phát triển của thế hệ tương lai. Khn khổ đó phải thể hiện thống nhất giữa kế
hoạch, qui hoạch, quản lý phát triển và hành động thực hiện với sự đồng thuận của mọi thành phần
xã hội: nhà nước, tư nhân, cộng đồng; mọi cấp độ: địa phương, thành phố và quốc gia [10].
Về tiêu chí của đơ thị bền vững, Cơ quan mơi trường Châu Âu đã đưa ra hệ thống các tiêu chí
đánh giá theo cách tiếp cận phát triển bền vững của một đô thị gồm 15 chỉ tiêu: i) Phát thải CO2 bình
quân đầu người từ tiêu thụ năng lượng; ii) Hiệu quả năng lượng trong giao thông; iii) Hiệu quả sử
dụng năng lượng sinh hoạt; iv) Hiệu quả sử dụng nước đô thị; v) Cường độ phát thải; vi) Tái chế;
vii) Chuyển đổi đất đô thị; viii) Tiếp cận không gian xanh; ix) Mật độ NO2; x) Mật độ PM10; xi) Tỷ
lệ thất nghiệp; xii) Hiệu quả sử dụng đất; xiii) Chiều dài mạng lưới giao thông công cộng; xiv) Đăng
ký ơ tơ; xv) GDP bình qn đầu người. Ngồi ra, cịn có Bộ chỉ tiêu thành phố xanh Châu Âu, tập
trung các lĩnh vực chủ yếu liên quan đến môi trường bền vững, đặc biệt tập trung vào yếu tố năng
lượng và phát thải CO2 chứ không tập trung vào yếu tố xã hội như sức khỏe, hạnh phúc hay chất
lượng cuộc sống, theo 08 nhóm chính; i) CO2, ii) Năng lượng; iii) Cơng trình; iv) Giao thơng; v)
Nước; vi) Sử dụng đất và chất thải; vii) Chất lượng khơng khí; viii) Chính sách mơi trường.
Trung Quốc đưa ra bộ chỉ tiêu bao gồm 5 nhóm chính với 16 tiêu chí cụ thể: i) Nhu cầu thiết
yếu (tỷ lệ tiếp cận cấp nước, không gian sống, bác sĩ, tỷ lệ giáo viên - học sinh); ii) Hiệu quả năng
lượng (tiêu thụ điện, tiêu thụ nước sinh hoạt, tái chế chất thải công nghiệp, công nghiệp nặng); iii)
Môi trường sạch (Mật độ SOx, NOx, PM10; tỷ lệ xử lý nước thải; tỷ lệ thu gom chất thải); iv) Môi
trường xây dựng (Mật độ xây dựng, giao thông công cộng); v) Cam kết phát triển bền vững (số
lượng chuyên gia môi trường, quỹ môi trường).
Ở Việt Nam Nhà nước đã ban hành Bộ chỉ tiêu xây dựng đô thị tăng trưởng xanh [3], theo đó
có 24 chỉ tiêu được chia thành 4 nhóm: i) Nhóm chỉ tiêu kinh tế (gồm 5 chỉ tiêu nhằm đánh giá
hiệu quả tăng trưởng kinh tế về sử dụng năng lượng và tài nguyên thiên nhiên trong đầu tư xây
dựng và phát triển đô thị); ii) Nhóm chỉ tiêu mơi trường (gồm 10 chỉ tiêu nhằm đánh giá về chất
lượng môi trường và cảnh quan đô thị, mức độ áp dụng các giải pháp sử dụng tiết kiệm, hiệu quả
năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo, bảo vệ môi trường và giảm thiểu ô nhiễm, xả thải, phát
thải khí nhà kính trong phát triển đơ thị); iii) Nhóm chỉ tiêu xã hội (gồm 4 chỉ tiêu nhằm đánh giá

về hiệu quả nâng cao chất lượng và điều kiện sống của người dân đô thị); iv) Nhóm chỉ tiêu thể
chế (gồm 5 chỉ tiêu nhằm đánh giá về công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của chính quyền đơ thị
đối với cơng tác xây dựng đô thị tăng trưởng xanh).
593


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Một số nghiên cứu còn đưa thêm Bộ chỉ số đô thị chống chịu với BĐKH (khá tương đồng với
các Bộ chỉ tiêu phát triển đô thị bền vững) dùng để đo lường khả năng chống chịu của đô thị, bao
gồm các tiêu chí cụ thể: i) Nhóm sức khỏe và phúc lợi: Giảm thiểu nguy cơ tổn thương, đa dạng
mơi trường sống và lao động, đảm bảo an tồn sức khỏe và sinh mạng; ii) Nhóm kinh tế và xã hội:
hỗ trợ lẫn nhau và tính tập thể, an ninh và ổn định xã hội, quản lý tài chính và ổn định kinh tế; iii)
Nhóm mơi trường và hạ tầng: Giảm rủi ro vật thể, đảm bảo dịch vụ trọng yếu liên tục, giao thông
và thông tin liên lạc tin cậy; iv) Nhóm chiến lược và lãnh đạo: Quản lý và lãnh đạo hiệu quả, trao
quyền cho các bên liên quan, quy hoạch phát triển tích hợp [2].
Trên thế giới nhiều quốc gia lựa chọn các giải pháp huy động khác nhau nhưng tựu trung lại
bao gồm hai kênh chính là phát hành trái phiếu và huy động vốn theo mơ hình hợp tác cơng - tư
(PPP) cho các dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật, dự án cung cấp dịch vụ cơng ích, thương mại, giải
trí, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, mơi trường (cấp nước, thốt nước, xử lý rác…) để phục vụ phát
triển đô thị. Một số quốc gia phát triển thấp dựa nhiều vào nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(Official Development Assistance - ODA). Nguồn vốn này thường có những đóng góp quan trọng
cho quá trình ban đầu của phát triển kinh tế - xã hội nhưng khi các quốc gia đã phát triển hơn,
nguồn vốn ODA vừa bị giảm vừa đóng vai trị kém quan trọng hơn.
Loại hình đối tác cơng - tư (PPP) PPP là một cơ chế nhằm gia tăng sự tham gia của khu
vực tư nhân trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng. Để huy động nguồn lực cho phát triển đơ thị
hình thức PPP hầu như là loại hình phổ biến nhất. Nhiều nước đang phát triển (ví dụ Ấn Độ) đã sử
dụng loại hình PPP khá tốt trong huy động nguồn lực cho phát triển đơ thị. Bằng cách xây dựng
hệ thống chính sách và thể chế hóa PPP, thành phần kinh tế tư nhân được khuyến khích tham gia
vào các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển đô thị và kênh huy động vốn này đã tỏ ra có

hiệu quả đáng kể.
Kể từ khi xuất hiện vào năm 1993 đến nay, ODA đã hỗ trợ xây dựng và phát triển một số
ngành và lĩnh vực trọng yếu của Việt Nam. ODA đã có vai trị quan trọng trong phát triển cơ sở
kết cấu hạ tầng và phát triển hạ tầng đô thị. Tuy nhiên, từ những năm 2010 trở đi, Việt Nam gia
nhập nhóm nước có thu nhập trung bình, nguồn ODA dần dần bị giảm đi, Việt Nam được coi “tốt
nghiệp ODA” và do đó vai trị của ODA cũng bị giảm.
Trong khi đó, theo Báo cáo Triển vọng Cơ sở hạ tầng Toàn cầu (Global Infrastructure
Outlook), Việt Nam sẽ cần hơn 600 tỷ đô la để có thể đạt được các mục tiêu cơ sở hạ tầng vào năm
2040. Trong bối cảnh nợ công tiệm cận mức trần 65% GDP, khả năng vay vốn từ các ngân hàng
phát triển đa quốc gia bị hạn chế, Việt Nam cần phải huy động các dòng đầu tư mới. Do những
hạn chế về ngân sách hiện tại, ước tính hơn 50% kinh phí cần thiết sẽ đến từ khu vực tư nhân. Để
có thể khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân địi hỏi phải có mơi trường đầu tư thuận lợi,
cũng như điều kiện để nhà đầu tư đạt được mức lợi nhuận phù hợp với rủi ro. Điều này địi hỏi
phải có những chính sách và cơ sở pháp lý nhằm tạo ra một nền tảng nhất quán và bền vững cho
quan hệ đối tác giữa khu vực công và tư nhân.
594


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Việt Nam đã bắt đầu chú ý đến hình thức huy động vốn ngồi Nhà nước thông qua quan hệ
đối tác công tư dưới các hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT từ khá sớm - cuối những năm 1990.
Năm 1997 Chính phủ đã ban hành Nghị định 77/ND-CP về hình thức BOT áp dụng đối với nhà
đầu tư trong nước và Nghị định 62/1998/ND-CP về hình thức BOT-BTO-BT áp dụng cho các nhà
đầu tư nước ngồi. Ngày 11 tháng 5 năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định 78/2007/NDCP về các hình thức BOT-BTO-BT áp dụng đối với tất cả các loại hình sở hữu trong nền kinh tế,
bao gồm sở hữu nước ngoài và sở hữu trong nước. Nghị định 78/2007/ND-CP sau đó đã được thay
thế bằng Nghị định 108/2009/ND-CP và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 71/2010 /
QĐ-TTg thí điểm mơ hình đầu tư theo hình thức PPP, trong đó quy định một cách tồn diện các
hình thức đầu tư công vào dự án PPP. Khái niệm PPP đã được cơng nhận bởi các văn bản pháp lý
có hiệu lực cao hơn bao gồm Luật đấu thầu 43/2013/QH13, Luật Đầu tư công 49/2014/QH13, Luật

Xây dựng 67/2014/QH13 và Luật Đầu tư 67/2014/QH13. Chính phủ đã ban hành Nghị định
15/2015/ND-CP về PPP, hợp nhất Nghị định 108/2006/ND-CP và Quyết định 71/2010/QĐ-TTg
và ban hành Nghị định 30/2015/NDCP hướng dẫn chi tiết việc thực hiện Luật Đấu thầu trong việc
lựa chọn nhà đầu tư. Năm 2018, Nghị định 15/2015/ND-CP đã được thay thế bằng Nghị định
63/2018 / NDCP quy định các lĩnh vực, yêu cầu và thủ tục đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
Đặc biệt, khung khổ pháp lý quan trọng nhất cho hình thức PPP là Luật Đầu tư theo phương thức
đối tác công tư được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 9 thơng qua ngày 18/6/2020 và có hiệu lực
từ ngày 1/1/2021. Đây là văn bản pháp lý quan trọng, tạo ra môi trường thuận lợi để có thể huy
động được các nguồn lực ngồi Nhà nước.
3. Thực trạng huy động nguồn lực phục vụ phát triển đô thị bền vững ở tỉnh Kiên Giang
3.1. Thực trạng phát triển đô thị ở Kiên Giang
Tỉnh Kiên Giang là một trong những địa phương cịn khó khăn trong phát triển, nhưng với
khát vọng vươn lên, Kiên Giang đang dần trở thành nơi đáng sống. Nhờ những nỗ lực đáng ghi
nhận trong hai thập niên vừa qua, Kiên Giang đã có sự phát triển vượt bậc trong phát triển đô thị
theo hướng bền vững với nhiều khu đô thị mới mang dáng dấp “đô thị hiện đại và kiểu mẫu” nằm
trải dài ven các bờ biển.
Một nguyên nhân quan trọng của sự phát triển này là sự chú trọng của địa phương trong công
tác lập quy hoạch phát triển đô thị biển ven biển, quản lý tài nguyên, môi trường ven biển, hải đảo;
kết cấu hạ tầng được tập trung ưu tiên đầu tư xây dựng, nâng cấp như: các cảng biển, sân bay,
đường hành lang ven biển, khu neo đậu tàu,... Đặc biệt là sự phát triển của các đô thị ven biển đã
thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư chiến lược, nhiều dự án du lịch quy mơ lớn được
hồn thành và đã được đưa vào khai thác.
Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh không ngừng được tỉnh quan tâm chú ý, thể hiện
trong thực hiện cải cách hành chính, cải tiến phương thức làm việc, giảm thời gian và chi phí cho
doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục hành chính, tạo lập nhiều kênh thơng tin kết nối với doanh
nghiệp. Chính vì vậy trong thời gian qua, việc cải thiện mơi trường đầu tư cho mạng lưới đô thị
của tỉnh tiếp tục được mở rộng và phát triển, nhất là triển khai hiệu quả các Chương trình phát
595



QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

triển đô thị xanh [15], đô thị bền vững, đô thị thông minh. Bên cạnh công tác quy hoạch, cải cách
thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế/chính sách khuyến khích đầu tư, địa phương đã đẩy mạnh xúc
tiến đầu tư, quảng bá hình ảnh của Kiên Giang đến các nhà đầu tư trong và ngoài nước để mời gọi
các nhà đầu tư trong lĩnh vực phát triển đô thị.
Theo báo cáo đánh giá về Chương trình phát triển đơ thị toàn tỉnh Kiên Giang giai đoạn đến
năm 2025 [13] đã có sự bứt phá tăng tốc trong xây dựng các đô thị động lực như các thành phố:
Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc là các đô thị biển đảo kiểu mẫu của địa phương. Kết quả thực hiện
được ghi nhận vào số liệu cập nhập tại thời điểm tháng tháng 01/2021 được tổng hợp tại Bảng 1
và Bảng 2.
Bảng 1. Tỷ lệ đơ thị hóa tính đến thời điểm năm 2020
Nội dung

Stt

Kiên Giang

Đồng bằng sông Cửu Long

1

Nội thành, nội thị

28,64%

26%

2


Tồn đơ thị

34,74%

31,16%

Nguồn: Sở Xây Dựng tỉnh Kiên Giang
Bảng 2. Tổng hợp hệ thống đô thị đến năm 2020
Stt

Loại đô thị

Số lượng

Địa điểm

1

Loại II

2

Rạch Giá và Phú Quốc

2

Loại III

1


Hà Tiên

3

Loại IV

6

Kiên Lương, Tân Hiệp, Giồng Riềng, Minh
Lương và Vĩnh Thuận

4

Loại V

6

Hịn Đất, Sóc Sơn, Gị Quao, Thứ Ba, Thứ
Mười Một và Hịn Tre

TỔNG CỘNG

14

Nguồn: Sở Xây dựng tỉnh Kiên Giang
Có thể thấy tỷ lệ đơ thị hố của Kiên Giang đạt 28,64% là cao hơn so với vùng Đồng bằng
sông Cửu Long với mức trung bình khoảng 26%. Tương tự tỷ lệ đơ thị hố tồn đơ thị đạt 34,47%
cao hơn trung bình của Vùng ĐBSCL 31,16%. Kết quả này cho thấy tuy là địa phương có điều
kiện khó khăn nhưng Kiên Giang đã cố gắng vươn lên để đạt những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong đó có đơ thị hố. Tuy nhiên, Kiên Giang đang cịn gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong
huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư cải thiện các thành phố hiện có và phát

triển mới thêm nhiều đơ thị mới.
Tính đến thời điểm 2021, Kiên Giang chỉ có duy nhất Phú Quốc là thành phố được Chính phủ
lựa chọn thí điểm [9] và Kiên Giang đã triển khai xong giai đoạn I của Đề án Xây dựng thành phố
thông minh Phú Quốc [12]. Đề án này tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại, rộng khắp, mọi lúc,
596


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

mọi nơi thỏa mãn nhu cầu sử dụng viễn thông - công nghệ thông tin phục vụ các gói dịch vụ cung
cấp cho người dân và du khách 12] bao gồm các nội dung cụ thể là: i) Trung tâm điều hành thông
minh giúp lãnh đạo và các cơ quan chức năng của Phú Quốc giám sát và quản lý dịch vụ thành
phố tốt hơn; ii) Hệ thống chính quyền điện tử đây là quy trình liên thơng tự động giữa các cấp hành
chính và dùng chung cho hồ sơ tiếp nhận trực tiếp tại bộ phận một cửa trực tuyến trên mạng, có
thể gọi là "dịch vụ công trực tuyến", rất tiện lợi cho người dân và chính quyền. Mơ hình này cho
phép gắn kết hồ sơ với các nghiệp vụ tại các bộ phận xử lý liên quan, giúp tồn bộ thơng tin xứ lý
nghiệp vụ được mã hóa theo từng hồ sơ. Người dùng được sử dụng giao diện thân thiện, đảm bảo
truy cập đơn giản với các trình duyệt Website phổ thông như IE, Firefox, Chrome, Opera… iii)
Hệ thống du lịch thông minh giúp du khách sẽ tiếp cận được các dịch vụ du lịch một cách dễ dàng
thông qua các ứng dụng (App). Kể cả Chính quyền quản lý được mọi hoạt động liên quan du lịch,
ngược lại doanh nghiệp có cơ hội quảng bá sản phẩm dịch vụ, qua đó thể hiện trách nhiệm cũng
như ý thức xây dựng hình ảnh, thương hiệu, uy tín; iv) Hệ thống giám sát môi trường xây dựng
được mạng lưới quan trắc chất lượng khơng khí, chất lượng mơi trường.
Đánh giá kết quả ban đầu cho thấy đến nay, đề án xây dựng thành phố thông minh Phú Quốc
bắt đầu vận hành đồng bộ các hợp phần giai đoạn đầu như: Hệ thống chính quyền điện tử của Phú
Quốc cung cấp gần 450 thủ tục hành chính cơng mức 3 cấp huyện và cấp xã; Hệ thống giao thông
thông minh, hệ thống này đang thực hiện giám sát, ghi nhận hình ảnh các phương tiện tham gia giao
thơng…Ngồi ra, hệ thống này cũng giúp giám sát các khu vực công cộng, khu dân cư trọng điểm,
phức tạp. Với nhiều tính năng hữu ích như giám sát, cảnh báo phát hiện xâm nhập, giám sát vật thể
khả nghi… hệ thống đang hỗ trợ đắc lực cho công tác đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn. Tiếp theo

là giải pháp thành phố an toàn với nhiều ứng dụng trên di động giúp người dân có thể báo cáo sự cố
(tai nạn, trộm cắp, các hành vi vi phạm trật tự an ninh đô thị…) cho cơ quan quản lý cũng như giúp
cơ quan và lực lượng có trách nhiệm nhanh chóng tiếp nhận, điều động xử lý. Việc quản lý lưu trú
cũng đã được thực hiện trực tuyến. Hệ thống hiện đã được triển khai và sử dụng chính thức cho Cơng
an Phú Quốc và các cơ sở lưu trú trên địa bàn. Đối với lĩnh vực môi trường, tại Phú Quốc đã triển
khai thử nghiệm 4 trạm quan trắc khơng khí và một (01) trạm quan trắc nguồn nước. Hiện các trạm
đang thực hiện đo các tham số chính cho khơng khí và cho nguồn nước.
Tuy nhiên, xây dựng đô thị thông minh là một q trình lâu dài cịn rất nhiều việc phải làm
trong thời gian tới. Tiếp tục triển khai các nội dung của Đề án trong giai đoạn tiếp theo, đảm bảo
phù hợp với xu thế phát triển, tình hình thực tế tại Phú Quốc và lộ trình của Đề án theo 6 nhóm trụ
cột/đặc điểm chính của một đô thị thông minh, bao gồm: (1) Quản trị thông minh, (2) nền kinh tế
thông minh, (3) giao thông thông minh, (4) môi trường thông minh, (5) người dân thông minh, và
(6) cuộc sống thông minh.
Hiện nay, Kiên Giang chuẩn bị triển khai xây dựng đô thị thông minh cho những thành phố
tiếp theo, riêng Phú Quốc đang kêu gọi đầu tư giai đoạn II theo đề án của địa phương này [14].
Bên cạnh đó, đã xuất hiện một số khu đô thị xanh và theo hướng bền vững của Kiên Giang như
khu đô thị kiểu mẫu ven biển Phú Cường, Khu đô thị đảo Grand City New An Thới - Phú Quốc…
597


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

3.2. Thực trạng huy động nguồn lực phục vụ phát triển đơ thị bền vững ở tỉnh Kiên Giang
Ước tính, vốn đầu tư vào phát triển đô thị theo hướng bền vững chiếm khoảng 15 - 20% tổng
GDP của Việt Nam (khoảng 48 tỷ USD vào năm 2020). Đây là con số rất lớn, trong khi nguồn
ngân sách hiện nay cịn rất hạn hẹp. Chính vì vậy cần phải đa dạng và thu hút các nguồn vốn khác
nhau, khuyến khích sự tham gia của các khu vực ngoài Nhà nước.
Kiên Giang thời gian qua cũng đã có những hoạt động huy động vốn phục vụ phát triển đô thị
theo hướng bền vững. Bảng 3 cho thấy Kiên Giang đã huy động các nguồn vốn phục vụ phát triển
đô thị như các dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật, giáo dục, y tế, mơi trường…bằng nhiều hình thức

như kêu gọi vốn nhà đầu tư trong nước và nước ngoài (FDI, ODA…). Trong giai đoạn 2016 - 2020
tổng vốn huy động toàn xã hội đạt 222.666 tỷ đồng (khoảng 9,6 tỷ USD), tăng bình quân
6,19%/năm và chiếm 52,12% GRDP của tỉnh [16].
Bảng 3. Tổng hợp huy động cơ cấu vốn đầu tư
phục vụ phát triển đô thị (2016 – 2020)
Stt
Nguồn huy động
Tổng vốn (Tỉ USD)
1
Ngân sách nhà nước
1,094
2
Doanh nghiệp nhà nước
7,296
3
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
0,835
4
Khác
0,374
Nguồn:Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang

Tỉ lệ (%)
11,4
76
8,7
3,9

Về cơ cấu vốn (Hình 1), vốn ngân sách nhà nước là 25.323,7 tỷ đồng (khoảng 1,1 tỷ USD),
chiếm 11,4% tổng huy động vốn; vốn đầu tư doanh nghiệp trong nước là 167.876,24 tỷ đồng

(khoảng 7,3 tỷ USD), chiếm 76%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 1.937,19 tỷ đồng
(khoảng 84,23 triệu USD), chiếm 0,87%. Như vậy, đây là kết quả khá khả quan từ góc độ đa dạng
hóa nguồn lực, thốt khỏi sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Thực trạng này đang tạo thuận
lợi lớn cho việc huy động vốn để đầu tư phát triển đơ thị theo hướng bền vững.
Hình 1. Cơ cấu huy động vốn đầu tư phục vụ phát triển đô thị (2016- 2020)

Nguồn: Cục Thống Kê Kiên Giang
598


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Hình 2. Kết quả huy động vốn vay (2016 - 2020)

Nguồn: Cục Thống Kê Kiên Giang
Trong lĩnh vực thu hút vốn ODA, vốn ODA của Kiên Giang năm 2016 là 182,505 tỷ đồng;
2017 là 194,50 tỷ đồng; 2018 là 40,99 tỷ đồng; 2019 là 216,466 tỷ đồng và 2020 là 268,19 tỷ đồng.
Lĩnh vực hạ tầng xã hội và hạ tầng kinh tế là các lĩnh vực nhận được ODA nhiều nhất. ODA chủ
yếu là nguồn vốn vay, thông qua khu vực công được thể hiện tại Hình 2.
Bên cạnh các kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế trong hoạt động huy động vốn. Mặc
dù thu hút và huy động nguồn lực đầu tư toàn xã hội là đáng kể, tuy nhiên vốn từ nhà đầu tư trong
nước chiếm đến 76%. Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các dự án phát triển đô
thị là rất thấp - chỉ 8,7%. Trong khi đó, tổng vốn FDI của Kiên Giang là trên 4,8 tỷ USD đứng thứ
20/63 tỉnh/thành phố. Cơ cấu như vậy là vẫn dựa vào vốn trong nước, chưa thu hút được nhiều
vốn từ bên ngoài. Đây vừa là khoảng trống nhưng cũng là cơ hội để cho Kiên Giang cần phải chú
ý về chính sách thu hút FDI trong thời gian tới. Nguồn huy động theo hình thức ODA ở Việt Nam
mặc dù có vai trị và đóng góp quan trọng nhưng với xu hướng giảm dần trong tương lai theo lộ
trình “tốt nghiệp” ODA của Việt Nam, nguồn vốn này sẽ không thể được trông cậy nhiều.
Một khoảng trống quan trọng nữa là hình thức PPP - vốn khá hiệu quả ở nhiều quốc gia trên
thế giới - thì lại chưa được triển khai nhiều ở Kiên Giang. Một lý do quan trọng là tuy đã có khn

khổ pháp lý quan trọng là Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư được Quốc hội thơng qua
ngày 18/6/2020 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2021 nhưng các văn bản hướng dẫn Luật vẫn chưa đầy
đủ. Việc còn thiếu các hành lang pháp lý cụ thể đang là một cản trở và là sự lãnh phí cơ hội để huy
động được vốn ngồi xã hội và lãng phí cơ hội để phát triển đơ thị theo hướng xanh và bền vững.
Các mơ hình có vốn mồi của Nhà nước để khuyến khích và thu hút vốn ngồi Nhà nước cịn ít và
chưa phổ biến.
599


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Từ khía cạnh tài chính cho phát triển kinh tế xanh và đơ thị bền vững, hệ thống tín dụng xanh,
tài chính xanh là một cơ chế khá tốt để huy động vốn cho đô thị bền vững. Ở Việt Nam, Chính phủ
đã có một số chính sách phát triển thị trường tài chính xanh. Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước
cũng đã có một số văn bản pháp lý khuyến khích tín dụng xanh. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước có
Chỉ thị 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro mơi
trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. Kế hoạch hành động của ngành tài chính Việt Nam
thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đưa ra nhiệm vụ cụ thể là xây dựng, hoàn thiện
khung chính sách tài chính nhằm phát triển thị trường vốn xanh và các sản phẩm tài chính xanh.
Nguồn lực tài chính xanh này nếu được triển khai sẽ hứa hẹn là kênh quan trọng để có thể huy
động vốn cho phát triển đô thị ở Kiên Giang theo hướng bền vững. Tuy nhiên, trên thực tế, các
kênh huy động nguồn lực theo hướng này hầu như chưa được triển khai ở Kiên Giang.
Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050 của
Việt Nam (được phê duyệt thông qua Quyết định 1393/QĐ-CP năm 2012) và Kế hoạch hành động
tăng trưởng xanh (Quyết định 403/QĐ-CP) đã quy định rõ trọng tâm ưu tiên vào 03 nhiệm vụ: i)
Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo;
ii) Xanh hoá sản xuất; iii) Xanh hoá lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Những nội dung này
là hoàn toàn phù hợp cho việc xây dựng các đô thị xanh và đô thị bền vững. Căn cứ Chiến lược
tăng trưởng xanh quốc gia, Kiên Giang cũng đã triển khai cụ thể bằng Kế hoạch số 95/KH-UBND
ngày 11/5/2018 của UBND tỉnh Kiên Giang để phê duyệt kế hoạch hành động tăng trưởng xanh

tỉnh Kiên Giang đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Theo kế hoạch này, mục tiêu cụ thể đề ra
là: vào năm 2020 giảm cường độ phát thải khí so với mức phát triển bình thường của năm 2020 là
3,3% tương đương 730 nghìn tấn CO2 tương đương; năm 2025 giảm là 21,2% và 5,5 triệu tấn CO2
và đến 2030 căn cứ vào kết quả các giai đoạn trước để xác định mục tiêu cụ thể. Rất tiếc là việc
triển khai các nội dung Chiến lược Tăng trưởng xanh cũng như Kế hoạch hành động tăng trưởng
xanh ở các địa phương nói chung và Kiên Giang nói riêng vẫn cịn hạn chế. Đặc biệt là việc huy
động nguồn lực để thực hiện các mục tiêu của tăng trưởng xanh ở địa phương chưa thực hiện được
bao nhiêu do hạn chế trong việc xác định các ưu tiên huy động và phân bổ nguồn lực cũng như do
bản thân nguồn lực còn hạn hẹp.
Mặc dù chủ trương của tỉnh ln là khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để huy động các
thành phần kinh tế trên địa bàn đầu tư phát triển sản xuất, phát triển đô thị, thực hiện các mục tiêu
tăng trưởng xanh nhưng qua báo cáo của các cơ quan chức năng của tỉnh, các kênh “tài chính
xanh” vẫn cịn chưa được triển khai trên địa bàn tỉnh. Các nhà đầu tư dự án đô thị tại địa phương
này đều cho biết chưa nhận được những gói tín dụng xanh mà chủ yếu là vay thương mại thơng
thường. Vì thế các cơ chế hỗ trợ cho phát triển đô thị theo hướng bền vững chưa được triển khai
cụ thể, làm lãnh phí cơ hội phát triển. Việc phát triển hạ tầng kỹ thuật, nhà ở, cơng trình dân
sinh…của các khu đơ thị mới đều do nguồn nguồn lực từ doanh nghiệp ngoài nhà nước, mà trong
đó doanh nghiệp trong nước chiếm đa số, chưa có nhiều sự tham gia của khu vực nước ngoài.
600


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Như vậy, việc huy động vốn của tỉnh Kiên Giang cho mục tiêu phát triển đơ thị bền vững
đang cịn nhiều hạn chế, khiếm khuyết cả về lượng lẫn về hình thức. Nguyên nhân của hạn chế
trong huy động vốn hiện nay, trong đó có áp dụng hình thức PPP và thu hút FDI, tập trung ở một
số vấn đề sau:
Một là, còn nhiều vướng mắc và hạn chế trong các qui định về đất đai. Khơng phải nhà đầu
tư FDI ít quan tâm đến các dự án phát triển đô thị, mà do các dự án này đều gắn liền với sử dụng
diện tích đất rất lớn, trong khi hệ thống pháp lý quy định về quản lý đất đai chưa hấp dẫn, còn có

nhiều vướng mắc ví dụ như theo pháp luật hiện hành quy định cơng ty có vốn đầu tư nước ngồi
(FDI) khơng được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mà chỉ được thuê đất trực tiếp từ nhà
nước, tuy nhiên thời hạn thuê tối đa không quá 50 năm. Trong khi các dự án đô thị thời hạn đầu tư
và khai thác sản phẩm cần có thời gian rất lâu, có thể kéo dài hơn so với 50 năm.
Hai là, do đặc thù của một số khu vực thuộc tỉnh Kiên Giang liên quan đến quốc phòng, an
ninh nhất là những địa phương giáp biên giới, hải đảo là khu vực phòng thủ của quốc gia, do vậy,
nhà đầu tư trong nước gặp thuận lợi hơn khi quyết định chọn Kiên Giang để thực hiện các dự án
phát triển đơ thị trong khi nhà đầu tư nước ngồi là ở vị thế bất lợi hơn. Từ đó, việc thu hút sự
quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài là khó khăn hơn.
Ba là, hoạt động xúc tiến đầu tư của tỉnh thường quảng bá hình ảnh, cơ chế chính sách, các
dự án kêu gọi vào các lĩnh vực sản xuất (trong khu cơng nghiệp), thương mại, dịch vụ…cịn các
dự án đô thị chỉ do bản thân doanh nghiệp là chủ dự án chủ động giới thiệu và gọi vốn đầu tư hoặc
liên kết, liên doanh…Trong khi đó, thời gian qua, các chủ dự án chưa đẩy mạnh hoạt động xúc
tiến này một cách rộng khắp và chưa lan toả được nhiều đến với các tập đoàn kinh tế trên thế giới.
Liên kết vùng chưa được tận dụng và phát huy trong xúc tiến đầu tư.
4. Một số giải pháp chính sách chủ yếu huy động nguồn lực tài chính phục vụ phát triển
đơ thị bền vững ở Kiên Giang trong thời gian tới
4.1. Định hướng chung
Tỉnh Kiên Giang đã xác định phát triển đô thị bền vững là xu thế tất yếu của phát triển. Địa
phương đặt ra mục tiêu tăng tỷ lệ đơ thị hố lên 41,45% vào năm 2025. Tỉnh đã xác định các đô
thị động lực như Phú Quốc trở thành thành du lịch biển đảo tầm cỡ quốc tế; thành phố Rạch Giá
là một trong bốn đô thị của vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long; thành phố Hà
Tiên trở thành đô thị kinh tế cửa khẩu quốc tế; thị xã Kiên Lương là đô thị công nghiệp…
Trước thực trạng huy động nguồn lực phục vụ phát triển đô thị bền vững ở tỉnh Kiên Giang
còn nhiều hạn chế trong khi ngân sách nhà nước vẫn còn eo hẹp, cần phải tiếp tục khuyến khích
kêu gọi đầu tư từ các nguồn vốn trong nước và quốc tế, kể cả tận dụng nguồn ODA nếu cịn điều
kiện. Cần phải đa dạng hóa các hình thức huy động vốn từ xã hội và từ bên ngồi Việt Nam để có
điều kiện tiếp cận được tư duy mới, công nghệ mới (đặc biệt là công nghệ thông minh) và phong
cách sống hiện đại, sinh thái, bền vững khi qui hoạch và phát triển các khu đô thị theo hướng bền
601



QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

vững, thân thiện môi trường, chống chịu được với biến đổi khí hậu. Trong các hình thức đó, PPP
là một hình thức khá hiệu quả nên cần phải chú ý phát huy hình thức này.
4.2. Một số đề xuất giải pháp chủ yếu
- Cân đối ngân sách hàng năm đảm bảo chi phí trong việc thực hiện tổ chức xúc tiến đầu tư
phát triển đô thị để thu hút nguồn vốn hợp pháp trong nước và quốc tế.
- Thành lập cơ quan quản lý các nguồn vốn và thẩm định dự án riêng cho lĩnh vực đô thị, là
cơ quan độc lập trực thuộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh. Công khai, minh bạch như thông báo
về giá thầu, các quy tắc đấu thầu và thủ tục mở thầu rộng rãi.
- Chính quyền địa phương cần phải phối hợp với các doanh nghiệp để thực hiện các hoạt động
quảng bá, xúc tiến thương mại và đầu tư thay vì để cho các doanh nghiệp phát triển đô thị tự làm.
Sự phối hợp của các bên liên quan trong quảng bá, xúc tiến phát triển đô thị sẽ tốt hơn nhiều so
với chỉ một bên làm. Sự phối hợp trong thu hút đầu tư nước ngoài cũng cần phải được thực hiện ở
qui mô quốc gia, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Như vậy, bên cạnh các giải pháp phối hợp
quảng bá cho du lịch cũng cần phải chú ý hơn đến phối hợp quảng bá trong thu hút đầu tư phục vụ
du lịch ở các qui mô khác nhau, đặc biệt là qui mô vùng và giữa các tỉnh liền kề.
- Ưu tiên lựa chọn hình thức hợp tác đầu tư cơng tư (PPP) là hình thức đầu tư hiệu quả và phổ
biến tại các nước trên thế giới. Hình thức này được đánh giá là giảm áp lực cho ngân sách nhà
nước, giảm sự lệ thuộc vào nguồn vốn ODA, nâng cao hiệu quả đầu tư, cải thiện chất lượng dịch
vụ, đồng thời giảm tiêu cực trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, sẽ đó thay đổi diện mạo đô
thị, đáp ứng yêu cầu cơ sở hạ tầng trong tình hình mới. Đây là hình thức mở ra thị trường và cơ
hội đầu tư tương đối hấp dẫn cho nhà đầu tư tư nhân trong và ngồi nước.
- Thơng qua Bộ Ngoại giao, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan thương vụ, các cơ quan và
tổ chức xúc tiến đầu tư và Hiệp hội doanh nghiệp trong và ngoài nước để giới thiệu tiềm lực địa
phương và kết nối trao đổi nhu cầu phát triển đô thị bền vững.
- Tăng cường hợp tác Quốc tế chuẩn bị sự bứt phá của tỉnh trong giai đoạn ảnh hưởng dịch
bệnh Covid-19 cũng như hậu Covid-19 để bắt kịp dịng chảy đầu tư nước ngồi, đặc biệt vào lĩnh

vực phát triển đô thị.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia các hoạt động xúc tiến đầu tư, gặp gỡ doanh nghiệp (trực
tiếp và trực tuyến) để giới thiệu các dự án đô thị của doanh nghiệp Kiên Giang đến nhà đầu tư FDI.
Bên cạnh những giải pháp của địa phương một số kiến nghị đến các cơ quan Trung ương như
sau:
Thứ nhất, đảm bảo ổn định vĩ mô và ổn định môi trường đầu tư kinh doanh để hạn chế rủi ro
cho các nhà đầu tư. Thông thường đầu tư vào cơ sở hạ tầng là đầu tư dài hạn bị tác động bởi nhiều
yếu tố rủi ro, do đó rất cần phải đảm bảo các yếu tố ổn định về môi trường kinh doanh để hạn chế
rủi ro, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
602


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Thứ hai, Đa dạng hóa các sản phẩm tài chính phục vụ cho việc huy động tài chính phục vụ
phát triển đơ thị bền vững, trong đó phát hành trái phiếu, trái phiếu ưu đãi.
Thứ ba, rà sốt và hồn thiện các chính sách liên quan đến khuyến khích các nhà đầu tư nước
ngồi đầu tư dài hạn và tái đầu tư trong nước, trong đó đặc biệt là chính sách về đất đai, các văn
bản pháp lý liên quan đến PPP.
Thứ tư, thông qua xúc tiến đầu tư, đẩy mạnh thu hút vốn theo hình thức cơng - tư (PPP) ở cấp
độ địa phương trong phát triển hạ tầng giao thông, bến cảng, viễn thơng…vì đây là hình thức thích
hợp nhất đối với lĩnh vực phát triển đô thị. Chú trọng thu hút cả khu vực nước ngoài trong các hoạt
động PPP.
Thứ năm, cho phép Kiên Giang có những thể chế đặc thù để mở cửa mạnh mẽ và phát triển
du lịch. Trong điều kiện mới trong và sau bệnh dịch Covid-19, Kiên Giang và đặc biệt là Phú Quốc
có thể mở cửa để đón khách du lịch cũng như đón các nhà đầu tư nước ngoài mang vốn đến đầu
tư tại đây, đáp ứng được nhu cầu bùng nổ du lịch sau khi đã khống chế được dịch bệnh.
5. Kết luận
Q trình đơ thị hóa theo hướng bền vững là tất yếu và là nội dung quan trọng để thực hiện
các mục tiêu phát triển bền vững. Tỉnh Kiên Giang cũng cần phải chú trọng phát triển các đô thị

theo hướng bền vững để các đô thị trở thành động lực phát triển và là phương tiện để đạt được các
mục tiêu phát triển bền vững của tỉnh. Các định hướng để phát triển đơ thị bền vững có nhiều, bao
gồm rà sốt, điều chỉnh quy hoạch đơ thị và chương trình phát triển đơ thị theo hướng tăng trưởng
xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu; Lập kế hoạch huy động nguồn lực, ứng dụng khoa học công
nghệ và đầu tư xây dựng phát triển đô thị tăng trưởng xanh hàng năm và theo giai đoạn; Quản lý
phát triển đô thị tăng trưởng xanh, đô thị thông minh. Trong các định hướng đó, huy động nguồn
lực và đưa ra các giải pháp cụ thể huy động nguồn lực từ bên ngoài là rất quan trọng. Kiên Giang
hiện còn khá phụ thuộc vào nguồn vốn ngân sách nhà nước và vốn ODA trong phát triển cơ sở hạ
tầng. Trong phát triển đô thị, Kiên Giang cần có giải pháp đột phá hơn để đa dạng hóa mạnh mẽ
hơn nữa các hình thức huy động vốn đầu tư, đặc biệt là hình thức PPP để thu hút vốn đầu tư từ khu
vực tư nhân và từ khu vực FDI. Để đạt được điều này, cần phải có sự sáng tạo và quyết tâm hơn
nữa của chính quyền và sự phối hợp hiệu quả hơn giữa khu vực Nhà nước, doanh nghiệp và các
hiệp hội cũng như có sự phối hợp tốt hơn giữa các tỉnh trong vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Trọng Bình (2009), Bài giảng mơn học “Pháp luật và quản lý đô thị”, Khoa sau đại học
- Trường Đại Học Kiến Trúc Hà Nội.
2. Bộ Xây Dựng (2016), Báo cáo Tổng kết thi hành pháp luật về quản lý phát triển đô thị ở
Việt Nam. Hà Nội.
603


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

3. Bộ Xây Dựng (2018), Thông tư 01/2018/TT-BXD quy định về chỉ tiêu xây dựng đô thị
tăng trưởng xanh. Hà Nội ngày 5/1/2018.
4. Nguyễn Thị Hoa (2014), Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngồi tới đơ thị hóa theo
hướng bền vững ở Đà Nẵng, Luận án Tiến sĩ kinh tế.
5. Quốc hội (2009), Luật Quy hoạch đô thị, Hà Nội.
6. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định 84/QĐ-TTg phê duyệt có Kế hoạch phát triển
đơ thị tăng trưởng xanh Việt Nam đến năm 2030, Hà Nội ngày 19/1/2018.

7. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 445/QĐ-TTg Phê duyệt điều chỉnh định
hướng Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến
năm 2050, Hà Nội ngày 07/04/2009.
8. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 1659/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình phát
triển đơ thị quốc gia giai đoạn 2012 - 2020, Hà Nội ngày 07/11/2012.
9. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 950/QĐ-TTg: Phê duyệt Đề án phát triển đô
thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và định hướng đến năm 2030, Hà Nội.
10. Đào Hoàng Tuấn và Trần Thị Tuyết (2009), “Phát triển bền vững hệ thống đô thị ở Việt
Nam: một số vấn đề về cơ sở lí luận và thực tiễn, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển - Viện Nghiên
vứu và Phát triển TP. Hồ Chí Minh.
11. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2013), Quyết định số 1342/QĐ-UBND về việc phê
duyệt kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2013 - 2020, Kiên Giang ngày
20/5/2013.
12. Ủy ban nhân dân tỉnh (2017), Quyết định số 830/QĐ-UBND về việc phê duyệt Đề án Xây
dựng thành phố thông minh Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2016 - 2020, Kiên Giang ngày
01/04/2017.
13. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2017), Quyết định số 988/QĐ-UBND về việc phê
duyệt Chương trình phát triển đơ thị tồn tỉnh Kiên Giang giai đoạn đến năm 2025, Kiên Giang,
ngày 28/4/2017.
14. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2017), Quyết định số 2301/QĐ-UBND về việc phê
duyệt Đề án Xây dựng triển khai mô hình đơ thị thơng minh tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2017 2022, định hướng đến năm 2030, Kiên Giang ngày 31/10/2017.
15. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2019), Kế hoạch số 43/KH-UBND về việc phát triển
đô thị tăng trưởng xanh trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đến năm 2030, Kiên Giang ngày 19/3/2019.
16. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2020), Báo cáo số 331/BC-UBND tình hình phát triển
kinh tế xã hội tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2016 - 2020 và kế hoạch giai đoạn 2021 - 2025, Kiên
Giang ngày 08/9/2020.
17. Burgess, R.; Jenks, M. Compact Cities: Sustainable Urban Forms for Developing
Countries, 1st ed.; Routledge: London, UK, 2000, pp. 3
604



RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

18. Environment, U. N. (2018-01-23). “Sustainable Cities” (Đô thị bền vững). UNEP - UN
Environment Programme. Retrieved 2021-07-22.
19. European Sustainable Cities—Report of the Expert Group on the Urban Environment;
European Commission - DGXI Environment, Nuclear Safety and Civil Protection: Brussels,
Belgium, 1996, pp. 8.
20. Goal 11: Sustainable cities and communities. UNDP. Retrieved 12-07-2021.
21. Girardet, H. Creating Sustainable Cities; Schumacher briefing; Green Books for the
Schumacher Society: Dartington, UK, 1999; ISBN 978-1-870098-77-9, pp.13.
22. Mega, V.; Pedersen, J. Urban Sustainability Indicators; Office for Official Publications
of the European Communities: Luxembourg, 1998; ISBN 92-828 4669-5, pp.2.
23. Michael Digregorio, Lê Quang Trung, Nguyễn Trí Thanh (2018), “Chỉ số chống chịu của
các đô thị Việt Nam - Báo cáo chứng minh khái niệm” The Asia Foundation
24. Timothy F. Slaper and Tanya J. Hall (2011), “The Triple Bottom Line: What Is It and
How Does It Work?” (Điểm mấu chốt của bộ ba: Nó là gì và nó hoạt động như thế nào?),
www.ibrc.indiana.edu. Retrieved 2021-07-12.

605



×