Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội thông qua việc hoàn thiện một số nguyên tắc tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.52 KB, 9 trang )

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI THƠNG
QUA VIỆC HỒN THIỆN MỘT SỐ NGUN TẮC TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Trần Thị Thanh Hằng1, Nguyễn Khánh Hùng1
1. Khoa Khoa học Quản lý. Email:
TĨM TẮT
Bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự là một trong
những mục tiêu quan trọng nhất của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Bài viết phân tích bảo
vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự thơng qua việc hồn thiện các ngun
tắc: Ngun tắc suy đốn vơ tội, ngun tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội,
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.
Từ khóa: Bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, tư pháp hình sự, tố tụng hình sự
Nhân quyền được xem một trong mười sáng kiến làm thay đổi thế giới (Cùng với nông
nghiệp, phân tâm học, thuyết tương đối, vắc xin, thuyết tiến hóa, world wide web, xà phịng, số
khơng và lực hấp dẫn) và được đề cập trong các văn bản pháp lý quốc tế như: Tuyên ngôn thế
giới về quyền con người (UDHR) vào năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và nhà nước ta ln có
những chính sách, đường lối phù hợp với sự phát triển đất nước trong từng thời kỳ, nhưng luôn
lấy con người là mục tiêu là động lực của sự phát triển, trong đó, tơn trọng và bảo đảm quyền
con người trở thành trung tâm trong chiến lược cải cách tư pháp. Xuất phát từ đặc thù của lĩnh
vực, hoạt động tố tụng hình sự có tính nhạy cảm, nơi quyền con người của người bị buộc tội dễ
bị ảnh hưởng nhất bởi các phán quyết của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
(Nguyễn Thái Phúc, 2010, Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Tài liệu hội thảo quốc tế “Quyền con người trong
tố tụng hình sự” tháng 03). Vì thế, việc hồn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật tố
tụng hình sự nói riêng, trong đó các nguyên tắc tố tụng (nền tảng cơ bản) của mọi hoạt động tố
tụng liên quan tới bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người của người tham gia tố tụng, nhất là
người bị buộc tội có ý nghĩa rất lớn.
Bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người là cái vốn có được cộng đồng quốc tế cơng nhận
thể hiện ở việc pháp luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới có hệ thống các nguyên
tắc tiến bộ được áp dụng trong quá trình tố tụng từ rất sớm. Ở Việt Nam, vấn đề bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người cũng được đề cập trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005


của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp của Việt Nam đến năm 2020 xác định mục tiêu
xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh và bảo vệ công lý. Tinh
thần của Nghị quyết cho thấy bảo vệ công lý là mục tiêu và nhiệm vụ của toàn bộ các cơ quan
tư pháp, trong mọi hoạt động tư pháp, khơng chỉ riêng Tịa án và không phải chỉ trong hoạt
động xét xử, đồng thời cũng được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật hiện hành như Hiến
pháp 2013, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).
306


1. VỀ HỆ THỐNG CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Nguyên tắc là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đối với việc xây dựng và áp dụng Bộ
luật tố tụng hình sự, tạo cơ sở cho việc hình thành những chuẩn mực pháp lý về nhận thức, thái
độ và hành vi của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án. So với Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), có những quy định
mới, thể hiện sự tiến bộ và phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 2013, điều ước quốc
tế có liên quan đến tố tụng hình sự mà Việt Nam đã tham gia. Hệ thống nguyên tắc cơ bản từ
Điều 7 đến Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự theo hướng:
Thứ nhất, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) đã loại bỏ những nội
dung khơng mang tính ngun tắc (Bộ luật tố tụng hình sự 2003, với các nguyên tắc: Nguyên tắc
trách nhiệm của các tổ chức và cơng dân trong đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm (Điều
25); Nguyên tắc sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều
26); Nguyên tắc phát hiện và khắc phục nguyên nhân và đều kiện phạm tội (Điều 27)) và đưa
những nội dung này vào Chương 1 “Phạm vi điều chỉnh, nhiệm vụ, hiệu lực”. Điều này hồn tồn
phù hợp vì những nội dung đó nó khơng thể hiện tính định hướng, chỉ đạo trong tố tụng hình sự.
Thứ hai, bổ sung các nguyên tắc mới như: Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì tội
phạm (Điều 14), Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26), Nguyên tắc tuân
thủ pháp luật trong hoạt động điều tra (Điều 19). Bổ sung này, tác giả cho rằng là cần thiết, phù
hợp, kịp thời với luật pháp quốc tế (Khoản 7 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966 của Liên Hiệp Quốc) và định hướng cải cách tư pháp được Đảng và nhà
nước ta xác định trong văn kiện của Đảng (Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/06/2005 của Bộ

Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 yêu cầu phải “Đổi mới việc tổ chức
phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao
chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”).
Thứ ba, sửa đổi một số ngun tắc như: Ngun tắc suy đốn vơ tội (Điều 13), nguyên
tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 15), nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc
tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại đương sự (Điều 16).
Như vậy, việc sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc nêu trên cho thấy sự nỗ lực, quyết tâm của
nhà nước ta trong cải cách tư pháp, hướng tới bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong tố
tụng hình sự. Mặc dù Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành đã ghi nhận hầu
hết các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được nêu trong pháp luật quốc tế và pháp luật
của nhiều quốc gia, song cách hiểu và áp dụng một số nguyên tắc này chưa thực sự thống nhất,
có những khía cạnh chưa phù hợp với bản chất của chúng, cũng như với thông lệ chung trên
thế giới. Vì thế, trong thực tiễn tố tụng, có những “rào cản” nhất định như việc Tịa án không
thực hiện đúng chức năng tố tụng, can thiệp quá sâu vào chức năng buộc tội, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác bị “gây khó”, Viện kiểm sát cịn có những định kiến buộc
tội một chiều…khiến công lý không được thực thi, việc tiếp cận sự thật vì thế trở nên khó khăn
(Báo động tình trạng quyền hành nghề luật sư tại phiên toà bị xâm phạm, truy cập ngày
11/07/2021), địi hỏi phải có những tháo gỡ trong thời gian tới.
307


2. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ NGUN
TẮC SUY ĐỐN VƠ TỘI, NGUN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI
BỊ BUỘC TỘI, NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ ĐƯỢC BẢO ĐẢM
2.1. Về ngun tắc suy đốn vơ tội
Suy đốn vơ tội (presumption of innocence), là nguyên tắc mang tính định hướng cho
tồn bộ q trình tố tụng. Đồng thời, ngun tắc này cũng được xem là trụ cột, là xương sống
của hệ thống pháp luật tố tụng hình sự ở các nước văn minh. Nguyên tắc này lần đầu tiên được
ghi nhận trong cuốn sách “Về tội phạm và hình phạt” với nội dung:“Khơng ai có thể bị gọi là

kẻ phạm tội khi cịn chưa có bản án kết tội và xã hội không thể tước của bị can sự bảo hộ của
mình trước khi quyết định rằng anh ta đã vi phạm những điều kiện mà sự tuân thủ chúng anh
ta được đảm bảo bởi sự bảo hộ đó” (V. Z.Lucasêvích, 1985, Xác định trách nhiệm hình sự
trong tố tụng hình sự Xơ Viết – Lêningrát (bản tiếng Nga)). Trong bản tuyên ngôn chung về
quyền con người năm 1948 cũng quy định: “Mỗi một người bị buộc tội trong việc thực hiện
hành vi phạm tội có quyền được coi là khơng có tội cho đến khi sự có tội của anh ta còn chưa
được xác định theo thủ tục pháp luật bằng con đường xét xử công khai mà trong đó anh ta được
đảm bảo mọi khả năng để tự vệ” (Liên hợp quốc, 1948, Điều 11 Tuyên ngôn chung về Quyền
con người). Ở Việt Nam, nguyên tắc này được quy định trong Hiến pháp hiện hành (Khoản 1
Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến
khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp
luật”) và được cụ thể hóa trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2021) (Điều 13 Bộ luật TTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) quy định:
“Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi khơng đủ
và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy
định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội khơng
có tội”), theo đó nội dung cùa ngun tắc nêu rõ:
Thứ nhất, đối tượng được suy đốn vơ tội là “người bị buộc tội”, gồm: người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đây được xem là một sửa đổi hợp lý về mặt chủ thể so với quy định
của Bộ luật tụng hình sự năm 2003 về suy đốn vơ tội (bất kỳ ai) (Điều 9 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 quy định: “Khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có
hiệu lực pháp luật”), điều này tránh được việc áp dụng tràn lan, hơn nữa quy định mới trong Bộ
luật tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) về nguyên tắc này phù hợp về mặt nhận
thức (lý luận), bởi lúc này hoạt động buộc tội, mọi “bất lợi” đang nhắm tới họ.
Thứ hai, theo tinh thần của nguyên tắc“Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho
đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định và có bản
án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”, có thể hiểu ở đây đã có một giới hạn/ ấn định
về “khoảng thời gian” được suy đốn vơ tội là từ khi có sự buộc tội cho đến khi có bản án kết
tội của Tịa án đã có hiệu lực, và hoạt động chứng minh, hay nói chính xác hơn q trình suy

đốn đó phải được“chứng minh theo trình tư, thủ tục do bộ luật tố tụng hình sự quy định”, đây
là điểm mới, đồng thời việc bổ sung này cũng trên tinh thần và phù hợp với luật quốc tế về
quyền con người: “Mỗi người dù đã bị buộc tội có quyền được coi là vơ tội cho đến khi được
chứng minh là phạm tội theo luật pháp tại một phiên xét xử công khai với mọi đảm bảo biện hộ
308


cần thiết” (Tuyên ngôn nhân quyền,1948, Khoản 1 Điều 11); “Người bị buộc tội là phạm một
tội phạm hình sự có quyền được coi là vơ tội cho đến khi tội của người đó được chứng minh
theo pháp luật” (Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966, Khoản 2 Điều 14).
Thứ ba, quy định rõ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, người bị buộc tội khơng có nghĩa vụ chứng minh nhưng có quyền đưa ra
chứng cứ và các yêu cầu chứng minh họ không phạm tội hoặc có những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự. Bằng việc quy định rõ trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự, ngun
tắc cho thấy ngồi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trách nhiệm chứng minh còn quy
định đối với các Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Bộ đội
biên phòng, Hải quan, kiểm lâm…việc ghi nhận và bổ sung chủ thể này là phù hợp với thực
tiễn tố tụng ở nước ta hiện nay, nhất là các tội phạm xảy ra ở các vùng trọng yếu và việc tiếp
cận vụ án nhanh chóng để nắm bắt các duấ vết hình sự sẽ gặp phải những khó khăn nhật định.
Thứ tư, khi khơng đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
kết luận người bị buộc tội khơng có tội. Khơng phải dĩ nhiên, ngun tắc suy đốn vơ tội được
coi là “ngun tắc vàng” trong tố tụng hình sự và là thành tựu vĩ đại của nền văn minh nhân loại,
rõ ràng nguyên tắc này đã mang tới một cơn gió mới nhất là khi mơ hình tố tụng hình sự Việt
Nam đang có bước chuyển mình theo hướng tranh tụng (Phân biệt với ngun tắc suy đốn có tội
là ngun tắc của tố tụng thẩm vấn (inquisitorial)). Với nội dung này, yêu cầu cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội khơng có tội nếu không thể chứng
minh được tội của họ sau khi đã áp dụng mọi biện pháp hợp pháp do luật quy định thì phải theo
hướng “tội khơng được chứng minh, đồng nghĩa với sự vô tội được chứng minh”, tránh trường
hợp kết tội ngay cả khi “chứng cứ yếu” nhưng vẫn “vịn” vào để kết tội. (Điều tra sơ sài, Tòa vẫn

kết án, truy cập ngày
24/07/2021). Ở đây, nguyên tắc suy đốn vơ tội địi hỏi phải làm sáng tỏ mọi nghi ngờ về tội
phạm của người bị cáo buộc phạm tội trước khi kết tội. Trong trường hợp khơng thể xố bỏ hết
những nghi ngờ đó thì cần phải coi là chưa đủ căn cứ để kết tội họ. Thực tiễn thời gian qua cũng
cho thấy, những hạn chế trong tư duy của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng coi
người bị buộc tội là người có tội nên đã có những vi phạm trong q trình tố tụng, làm bóp méo
sự thật, việc tiếp cận và bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người càng trở nên khó khăn.
Có thể nhận thấy rằng, về cơ bản nội dung của nguyên tắc này đã mang tới một hành lang
pháp lý thể hiện sự thành cơng trong q trình nội luật hóa phù hợp với pháp luật quốc tế trong
bảo vệ quyền con người của nhóm chủ thể “yếu thế” và đồng thời là lá chắn trước những cáo
buộc không đủ chứng cứ của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tuy nhiên,
nguyên tắc này cũng chứa đựng một số hạn chế nhất định đòi hỏi trong tương lai gần cần phải
được điều chỉnh, cụ thể:
Một là, hạn chế trong việc quy định đối tượng (chủ thể) được quyền hưởng suy đoán vơ
tội. Như đã phân tích ở trên, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, đối tượng
được hưởng suy đốn vơ tội là “người bị buộc tội”, gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo. Theo tác giả, việc xác định đối tượng như vậy là đúng nhưng chưa đầy đủ, cần xem xét
đến chủ thể là “người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” thuộc nhóm người bị buộc tội. Bởi tác
giả cho rằng, nếu xét về tính chất, rõ ràng người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là người đã
309


thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội được bộ luật hình
sự quy định chính vì thế bản thân chủ thể này có những quyền tương tự như người bị bắt.
Hai là, thuật ngữ được sử dụng trong Điều luật cũng cần phải được thay thế nhằm bao
quát, chuyển tải được nội dung của nguyên tắc. Nếu sử dụng thuật ngữ “người bị buộc tội được
coi là khơng có tội…” vơ tình giới hạn lại phạm vi được hưởng suy đốn vô tội chỉ trong giai
đoạn xét xử và bằng một phán quyết của Tịa án có thẩm quyền. Vì vậy, để nguyên tắc này được
bảo đảm thực hiện trên thực tế, cần phải có những điều kiện nhất định, trước mắt về mặt pháp
lý cần hoàn chỉnh nguyên tắc suy đốn vơ tội, cụ thể Điều 4, Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) nên theo hướng:
Điều 4. Giải thích từ ngữ
1. Trong Bộ luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
a)

…..

b)

….

c)

….

d)

….

đ) Người bị buộc tội gồm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
2.…
Điều 13. Suy đốn vơ tội
“Người bị buộc tội được suy đốn vơ tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người
bị buộc tội khơng có tội”.
Đồng thời, theo tác giả, để nguyên tắc này thực hiện tố hơn trong thực tiễn, Luật tố tụng
hình sự hiện hành cũng cần đồng bộ, hoàn thiện một số quy định khác ảnh hưởng đến việc thực

thi nguyên tắc này như: mở rộng thêm quyền cho nhóm người bị buộc tội; xác định chính xác
chức năng tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Ngoài ra, về lâu dài
và quan trọng là thái độ, sự nhận thức của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự.
2.2 Về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
Tranh tụng đóng vai trị rất quan trọng trong q trình giải quyết vụ án hình sự. Cùng với
sự tồn tại của các nguyên tắc khác, nguyên tắc tranh tụng là mắt xích quan trọng, trong đó các
bên thực hiện các chức năng tố tụng khác nhau sẽ được tạo điều kiện như nhau hay cịn gọi là
bình đẳng với nhau trong việc đưa ra ý kiến, tài liệu, đồ vật và được bảo vệ ý kiến của mình
trong quá trình tố tụng. Khác với các nguyên tắc khác, Nguyên tắc tranh tụng lần đầu tiên được
ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 (Khoản 5 Điều 103). Đây được xem là định hướng chỉ đạo
và được cụ thể hóa với tư cách là nguyên tắc của tố tụng hình sự trong Bộ luật tố tụng hình sự
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) (Điều 26), nội dung của nguyên tắc được thể hiện:
310


Thứ nhất, Bên buộc tội và bên gỡ tội và những người tham gia tố tụng khác có quyền bình
đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ và đưa ra các yêu cầu, tài liệu, đồ vật trong
tất cả các giai đoạn tố tụng. Theo tinh thần của Điều luật, phạm vi tranh tụng không chỉ giới
hạn trong trong giai đoạn xét xử như tên gọi của Điều luật mà “tranh tụng” có trong các giai
đoạn tố tụng trước đó như: khởi tố, điều tra, truy tố, đỉnh điểm của “tranh tụng” là trong giai
đoạn xét xử. Có thể khẳng định rằng việc quy định cho các bên tham gia tố tụng có quyền bình
đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách
quan của vụ án trong các giai đoạn tố tụng là một bước tiến bộ lớn, đảm bảo cho các bên thực
hiện tranh tụng hiệu quả. Đây cũng chính là nhân tố quan trọng để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người của người bị buộc tội.
Thứ hai, Tịa án có trách nhiệm tạo mọi điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa, người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, các bên được
tranh tụng dân chủ và bình đẳng trước Tịa án. Mọi chứng cứ nhằm xác định bản chất của vụ
án phải được trình bày, tranh luận làm rõ tại phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn

cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Qua nội dung của nguyên tắc như đã trình bày trên, tác giả nhận thấy rằng một số điểm
hạn chế như sau:
Một là, rõ ràng nội dung của Điều luật với tên gọi của Điều luật không khớp nhau. Trong
khi nội dung hàm chứa “rộng” tranh tụng thể hiện trong các giai đoạn tố tụng như: khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử, quy định này mang tính hợp lý và phù hợp “ở đâu có buộc tội thì ở đó có gỡ
tội”. Do đó, thời điểm tranh tụng có thể diễn ra sớm hơn và trước giai đoạn xét xử. Chỉ khác,
trong giai đoạn xét xử và cụ thể là tại phiên tòa, tranh tụng được thể hiện tập trung, rõ nét nhất
(đỉnh điểm của tranh tụng). Từ những phân tích trên, cho thấy tên gọi của Điều luật thu hẹp
“tranh tụng”, chỉ thừa nhận và được bảo đảm trong giai đoạn xét xử.
Hai là, về chủ thể tranh tụng, tùy vào từng giai đoạn của quá trình tố tụng để xác định
chính xác chủ thể. Về cơ bản, tranh tụng chỉ thực sự tồn tại và được bảo đảm nếu ở đó có sự
phân chia các chức năng tố tụng và chủ thể tố tụng một cách rạch rịi.
Do đó, nếu để nguyên nội dung (nghĩa là không sửa đổi) theo tác giả tên Điều luật nên là
“Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự”. Ở một khía cạnh khác, tác giả khơng đồng
tình với quan điểm cho rằng tranh tụng chỉ bắt đầu xuất hiện khi phiên tịa hình sự được mở ở
cấp sơ thẩm, với sự tham gia của bên buộc tội và bên bào chữa. Ngòai ra, tranh tụng cũng có
thể xuất hiện ở cấp xét xử phúc thẩm nếu xảy ra cuộc tranh biện công khai của các chủ thể buộc
tội và gỡ tội (Nguyễn Ngọc Kiện, 2019, Thủ tục tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm, NxB
Tư pháp, trang.74). Đồng ý, tranh tụng khơng thể thiếu vai trị của Hội đồng xét xử, chính xác
hơn là khơng thể tách khỏi vai trị của Hội Đồng xét xử nhưng không được đánh đồng rằng
tranh tụng chỉ tồn tại trong giai đoạn xét xử. Như đã phân tích ở trên, tùy vào từng giai đoạn tố
tụng, sự xuất hiện của chủ thể tranh tụng là khơng giống nhau. Nhìn nhận một cách tổng quan,
ngun tắc này vẫn chưa thể hiện rõ ràng và đầy đủ một số nội dung của nguyên tắc tranh tụng
cụ thể: Hoạt động tố tụng phải được tiến hành dựa trên cơ sở tranh tụng giữa các bên; bên buộc
tội và bên gỡ tội bình đẳng trước Tịa án; Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng; sự
tách bạch rõ ràng các chức năng tố tụng; Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để các bên thực
hiện quyền, nghĩa vụ của mình; bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh
311



tụng tại phiên tòa; trách nhiệm chứng minh tội phạm... Một khi việc nhìn nhận ngun tắc cịn
“trũng” thì vấn đề cản trở hoặc ảnh hưởng đến khả năng bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người
của người bị buộc tội là điều không thể tránh khỏi.
Theo tác giả, để thực hiện tốt hơn việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người nói chung,
người bị buộc tội nói riêng trong lĩnh vực tư pháp hình sự, cần có những định hướng sửa đổi, bổ
sung phù hợp. Bên cạnh đó, để thực hiện tốt nguyên tắc này, cần tập trung vào các điều kiện sau:
Một là, Cần có sự phân định rạch ròi các chức năng tố tụng (chức năng buộc tội, chức
năng gỡ tội và chức năng xét xử) để tránh chồng chéo về việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn tố tụng, cụ thể, cần xem xét lại quyền hạn của Tòa án trong khởi tố vụ án.
Hai là, Đối với các chủ thể tố tụng, trong từng quy định cụ thể của Bộ luật tố tụng hình
sự cũng cần phải có những sửa đổi mang tính hợp lý hơn như: chủ thể đảm trách việc xét hỏi;
về thu thập chứng cứ của người bào chữa, về quyền của người bị buộc tội, người bào chữa…Lâu
dài, tùy vào điều kiện và sự tương thích có thể “cân nhắc” chuyển đổi sang mơ hình tố tụng
tranh tụng để hiện thực hoá đầy đủ mục tiêu bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, trong đó
có người bị buộc tội.
Ba là, Cơ cấu Bộ luật tố tụng hình sự nên cân nhắc theo hướng gọi tên chủ thể tố tụng
theo từng chức năng, ví dụ: chủ thể gỡ tội; chủ thể buộc tội; Tòa án. Cách gọi như hiện nay:
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là không phù hợp.
2.3 Về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
Bào chữa là hoạt động đặc trưng của tố tụng hình sự - là hình thức biểu hiện của công lý
trong đảm bảo quyền con người. Quyền bào chữa được xem là quyền con người vốn tồn tại và
được các văn bản pháp lý quốc tế ghi nhận từ rất sớm. Quyền bào chữa xuất phát từ nguyên lý
có tính nên tảng cho rằng có buộc tội thì phải có gỡ tội. Quyền bào chữa là tổng hợp các quyền
năng luật định cho phép người bị buộc tội và người bào chữa có thể sử dụng trong quá trình tố
tụng nhằm chống lại sự buộc tội từ phái nhà nước. Trước Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2021), Nguyên tắc này từng được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 (Điều 11), kế thừa Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành
khi quy định về nguyên tắc này đã có những sửa đổi, bổ sung hợp lý (Điều 16), nội dung của
nguyên tắc thể hiện:

Thứ nhất, Đối tượng hưởng quyền bào chữa là người bị buộc tội hay nói cách khác người
bị buộc tội là chủ thể của quyền bào chữa gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo.
So với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2021) đã mở rộng phạm vi chủ thể của quyền bào chữa (bổ sung người bị
bắt), trong q trình tố tụng họ có thể thực hiện quyền bào chữa của mình dưới hai hình thức tự
bào chữa, nhờ luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa, ngay cả khi họ tự mình thực hiện quyền
bào chữa cũng không làm mất đi quyền được nhờ luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa.
Thứ hai, quy định trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối
với việc thực hiện quyền bào chữa gồm: trách nhiệm thơng báo, giải thích quyền bào chữa; tơn
trọng và có trách nhiệm xem xét chứng cứ, tài liệu, đồ vật… Đây vừa là điểm mới vừa là điều
kiện đảm bảo thực hiện nguyên tắc, giúp tăng cường, tạo cân bằng khả năng bảo vệ của người
bị buộc tội trước những cáo buộc chống lại họ từ phía buộc tội.
312


Nhìn chung, những điểm mới trong nguyên tắc này đã khắc phục những hạn chế trong
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của người bị buộc tội còn tồn tại những hạn chế nhất định như chưa liệt kê hết các chủ thể được
hưởng quyền bào chữa. Như đã phân tích ở mục 2.1 nêu trên, cần mở rộng khái niệm người bị
buộc tội, trong đó cần thiết phải ghi nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là chủ thể
thuộc nhóm người bị buộc tội; Ngồi ra, ở gốc độ kỹ thuật lập pháp, Điều luật hiện hành sử
dụng thuật ngữ chưa phù hợp, khiến những người vận dụng pháp luật vào thực tiễn còn gặp
nhiều khó khăn, hạn chế quyền của người bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án.
Trong thực tiễn tố tụng hiệu quả của nguyên tắc này phụ thuộc rất nhiều vào người bào
chữa (chủ yếu là đội ngũ Luật sư), theo thống kê, tính đến cuối năm 2020 Luật sư thành viên
có số lượng 15.107. So với năm 2019 có 13.859 luật sư, số lượng luật sư đã tăng 1.248 luật sư
(Hội nghị Tổng kết tổ chức hoạt động năm 2020 và phương hướng hoạt động Năm 2021), chất
lượng đội ngũ luật sư không ngừng được cải thiện và nâng cao. Bên cạnh đó, trong q trình tố
tụng, hoạt động của luật sư bào chữa vẫn còn nhiều hạn chế, ít nhiều đã làm giảm đi hiệu quả
của cơng tác và hoạt động của luật sư trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công

lý, bảo vệ quyền con người nói chung, người bị buộc tội nói riêng. Nguyên nhân là do quy định
của pháp luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan chưa đồng bộ, thiếu
các quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đặc thù của
“nghề” phụ thuộc vào nhu cầu xã hội…
Từ những phân tích nêu trên, tác giả kiến nghị nên bỏ từ “hoặc”, hoặc thay thế từ “hoặc”
bằng từ “và” sẽ hợp lý hơn “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người
khác bào chữa”, cụ thể:
Điều 16. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
“Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư và nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thơng báo, giải thích và
bảo đảm cho người bị buộc tội…thực hiện đầy đủ quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ
luật này.”
Ngoài ra, để thực hiện tốt bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong một số trường
hợp luật định bắt buộc phải có người bào chữa hay còn gọi là bào chữa chỉ định (Khoản 1 Điều
76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015) cần quy định chặt chẽ hơn; mở rộng quyền của người bị
buộc tội cũng như người bào chữa; nghiêm cấm các hành vi cản trở, gây khó khăn, xâm phạm
đến quyền bào chữa của các chủ thể trong quá trình tố tụng.
Theo tác giả để nguyên tắc này, vận dụng có hiệu quả trên thực tế cần thực hiện đồng bộ
các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh và ảnh hưởng
đến hoạt động gỡ tội, trong đó có các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, các quy
định của Luật luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành về quyền và nghĩa vụ của người bào
chữa; bảo đảm quyền tranh tụng dân chủ, công bằng…Một khi hành lang pháp lý rõ ràng, chặt
chẽ, hoạt động gỡ tội sẽ được thực hiện có chất lượng và có hiệu quả hơn.
Hai là, khơng ngừng nâng cao và đào tạo đội người bào chữa (chủ yếu luật sư) giỏi về
chun mơn, có đạo đức nghề nghiệp thơng qua việc bồi dưỡng nghiệp vụ luật sư (Hội nghị
313


Tổng kết tổ chức hoạt động năm 2020 và phương hướng hoạt động Năm 2021, Trong năm 2020,

Trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ luật sư tổ chức được 27 lớp tại thành phố Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh với các chuyên đề, chuyên sâu đáp ứng nhu cầu của các luật sư)
Ba là, nâng cao nhận thức của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng về vị trí, vai trị
của chủ thể gỡ tội, trong mối quan hệ với các chức năng tố tụng đối tụng khác. Tuyên truyền để người
bị buộc tội hiểu được ý nghĩa của việc thực hiện quyền bào chữa trong q trình giải quyết vụ án.
3. KẾT LUẬN
Bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người là tối thượng của mọi nền tư pháp, nhất là trong
lĩnh vực tư pháp hình sự. Quá trình tố tụng trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, hoạt động tố
tụng đồng thời cũng bị chi phối, chịu ảnh hưởng bởi hệ thống các nguyên tắc tố tụng. Nhằm
hạn chế “gây phương hại” đến quyền và lợi ích của người bị buộc tội thì việc sớm hoàn thiện
các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hệ thống nguyên tắc, đặc biệt là ngun tắc có vai
trị nền tảng trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người như nguyên tắc ngun tắc
tranh tụng, ngun tắc suy đốn vơ tội, ngun tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc
tội và các quy định trong các văn bản pháp luật khác là yêu cầu cần thiết trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.

7.
8.
9.

10.
11.

12.


13.

Hiến pháp năm 2013.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.
Tun ngơn nhân quyền (1948).
Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020Trường đại học Luật Hà Nội (2000). Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự
Việt Nam (Tái bản lần thứ nhất có sửa đổi, bổ sung). Nhà xuất bảnCông an nhân dân.
Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2010). Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt
Nam (Sách chuyên khảo). Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2019). Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (tái bản có
sửa đổi, bổ sung). Nhà xuất bản Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam.
Đinh Thế Hưng (2019). Thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự Việt Nam. Tạp
chí Tịa án nhân dân điện tử, < ngày truy cập 26/07/2021.
Nguyễn Ngọc Kiện (2019). Thủ tục tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm. Nhà xuất bản Tư pháp.
Nguyễn Thái Phúc (2010). Bảo đảm quyền con nngười trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Tài liệu hội thảo quốc tế “Quyền con người trong tố
tụng hình sự” tháng 03.
Lê Văn Sua (2015). Chế định về Hội thẩm, vai trò của Hội thẩm khi tham gia xét xử - Một số kiến
nghị hoàn thiện, Website Bộ Tư pháp < ngày truy cập 25/07/2021
Nguyễn Hoàng Thịnh (2018). Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm tại Điều 26 của
BLTTHS năm 2015. Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số tháng 3 (312). />
314




×