Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------

NGUYỄN ĐÔNG KHÁNH

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
THÔNG QUA CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------

NGUYỄN ĐÔNG KHÁNH

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
THÔNG QUA CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Luật hình sự

Mã số



: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Phƣợng

Hà Nội – 2014


MỤC LỤC
Trang phụ bìa

Trang

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Mở đầu ……………………………………………………

1

Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con ngƣời bằng chế
định ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam ……

7

Nhận thức chung về bảo vệ quyền con ngƣời thông qua chế
định ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam ……


7

Khái niệm về ngƣời quyền con ngƣời và bảo vệ quyền con
ngƣời trong tố tụng hình sự Việt Nam ……………………

7

Khái niệm về ngƣời bào chữa và chế định ngƣời bào chữa
trong tố tụng hình sự Việt Nam ……………………………

13

Khái niệm về bảo vệ quyền con ngƣời thông qua chế định
ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam …………

18

Vị trí, vai trò của chế định ngƣời bào chữa trong tố tụng
hình sự Việt Nam …………………………………………

22

1.2.1

Vị trí của ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam…

22

1.2.2


Vai trò của ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam.

30

Kết luận chƣơng 1 ………………………………………….

36

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo vệ
quyền con ngƣời thông qua chế định ngƣời bào chữa và
thực tiễn áp dụng …………………………………………

38

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo vệ
quyền con ngƣời thông qua chế định ngƣời bào chữa …….

38

Bảo vệ quyền con ngƣời thông qua các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về quyền của ngƣời bào chữa …………

38

Bảo vệ quyền con ngƣời thông qua các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về nghĩa vụ của ngƣời bào chữa ………

51

Chƣơng 1

1.1
1.1.1
1.1.2
1.1.3
1.2

Chƣơng 2

2.1
2.1.1
2.1.2
2.2

Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con ngƣời thông


qua chế định ngƣời bào chữa ……………………………….

58

2.2.1

Một số kết quả đạt đƣợc và nguyên nhân ………………….

58

2.2.2

Một số hạn chế và nguyên nhân ……………………………


71

Kết luận chƣơng 2 ………………………………………….

82

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ
quyền con ngƣời thông qua chế định ngƣời bào chữa trong
tố tụng hình sự Việt Nam …………………………………..

84

Phƣơng hƣớng xây dựng cơ chế bảo vệ quyền con ngƣời
thông qua chế định ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam……………………………………………………

84

Hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền con
ngƣời thông qua chế định ngƣời bào chữa trong tố tụng hình
sự Việt Nam ......................................................................

85

3.2.1

Sửa đổi, bổ sung các quy định về ngƣời bào chữa …………

85


3.2.2

Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật tố tụng hình sự về
trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành
tố tụng trong việc bảo đảm quyền của ngƣời bào chữa…….

95

3.2.3

Hoàn thiện các quy định pháp luật khác ……………………

97

3.3

Các kiến nghị khác …………………………………………

99

Kết luận …………………………………………………….

104

Danh mục tài liệu tham khảo ……………………………….

107

Chƣơng 3


3.1

3.2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCVND

: Bào chữa viên nhân dân

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CQTHTT

: Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐTV

: Điều tra viên


HĐXX

: Hội đồng xét xử

HLPL

: Hiệu lực pháp luật

KSV

: Kiểm sát viên

NBC

: Ngƣời bào chữa

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

THTT

: Tiến hành tố tụng

TNHS


: Trách nhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảm bảo quyền con ngƣời cũng là một trong những nội dung, mục đích
của xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta. Tinh thần đó
đƣợc thể hiện đầy đủ trong các văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội và trong
từng văn bản Nghị quyết. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ

chính trị “Về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020” khẳng định: “Đòi
hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tƣ pháp ngày càng cao; các cơ
quan tƣ pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý,
quyền con ngƣời, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp
chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi
phạm”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng đặt ra nhiệm vụ
“Xây dựng nền tƣ pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, quyền con ngƣời”; Cƣơng lĩnh Đại hội lần thứ XI của Đảng mới đây
cũng đã chỉ rõ: “Con ngƣời là trung tâm của chiến lƣợc phát triển, đồng thời
là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời, gắn quyền con
ngƣời với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nƣớc và quyền làm chủ của
nhân dân” và “Đẩy mạnh xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020,
xây dựng hệ thống tƣ pháp trong sạch vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng
và bảo vệ quyền con ngƣời”. [7, tr. 76]
Đảm bảo quyền con ngƣời trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự nói chung và
hoạt động tố tụng hình sự nói riêng luôn là vấn đề quan trọng và phức tạp.
Bởi các hoạt động đó trực tiếp ảnh hƣởng đến các quyền dân chủ của công
dân. Đó là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và cả quá trình
giam giữ, quản lý, giáo dục ngƣời chịu án phạt tù, bảo đảm rằng mọi hành vi
1


phạm tội đều đƣợc phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, không đƣợc làm
oan ngƣời vô tội. Đây là yêu cầu rất cơ bản để bảo đảm quyền con ngƣời
trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự trong thời gian qua cho thấy tình
trạng vi phạm các quyền tố tụng của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, xử oan
ngƣời vô tội, xét xử sai,… vẫn còn diễn ra khá phổ biến. Một số ngƣời THTT
vẫn chƣa nhận thức hết đƣợc việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân, minh oan cho ngƣời vô tội cũng có ý nghĩa quan trọng nhƣ việc xử lý
nghiêm minh ngƣời phạm tội. Tuy nhiên, để bảo đảm các quyền dân chủ của
công dân trong lĩnh vực TTHS không phải là điều dễ dàng đối với các
CQTHTT nhất là trong tình hình tính chất phức tạp, nghiêm trọng của tội
phạm ngày càng cao.
Xây dựng và hoàn thiện chế định NBC trong TTHS cũng chính là một
trong những biện pháp đảm bảo quyền con ngƣời trong TTHS. Quyền bào
chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là quyền Hiến định và đƣợc thể chế
thành một trong những Nguyên tắc cơ bản trong Luật TTHS. Đồng thời, pháp
luật TTHS cũng quy định chế định NBC nhằm góp phần đảm bảo nguyên tắc
này.
Việc nghiên cứu về chế định NBC trong TTHS để từ đó kịp thời đƣa ra
giải pháp khắc phục những hạn chế, thiếu sót là cần thiết đối với việc đảm bảo
quyền công dân trong các hoạt động TTHS. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền con người thông qua chế định
người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

2


Trong thời gian gần đây, vấn đề bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt
động tƣ pháp nói chung, quyền con ngƣời trong TTHS nói riêng đã đƣợc
nhiều tác giả nghiên cứu từ các góc độ với mức độ khác nhau. Hầu hết các
công trình nghiên cứu đó đều cho thấy vai trò, tầm quan trọng cũng nhƣ sự
cần thiết của NBC đối với việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân trong TTHS. Có thể kể tên những công trình nổi tiếng, chuyên sâu nhƣ
Luận án tiến sỹ luật học năm 2011 của tác giả Lại Văn Trình: “Đảm bảo
quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự

Việt Nam”; Luận án tiến sỹ luật học của tác giả Nguyễn Hoàng Huy: “Bảo
đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay”; Một số
công trình nghiên cứu nhƣ: Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia năm 2006
do các tác giả GS.TSKH. Lê Văn Cảm, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, PGS.TS.
Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì: “Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam”; Báo cáo của PGS.TS. Nguyễn Thái Phúc tại Hội thảo về
Quyền con ngƣời trong TTHS (do VKSNDTC và Ủy ban nhân quyền
Australia tổ chức tháng 3/2010): “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng
hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”; Bài viết của GS.TSKH. Lê Văn Cảm “Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình
sự”; Bài viết của TS. Nguyễn Văn Tuân trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật số
11/2008 “Địa vị pháp lý và mối quan hệ của người bào chữa với bị can, bị
cáo trong tố tụng hình sự”.
Mỗi công trình nghiên cứu, bài viết khoa học đều có một cách tiếp cận
khác nhau khi viết về bảo vệ quyền con ngƣời trong TTHS. Có tác giả thì
nghiên cứu về việc đảm bảo quyền con ngƣời trong các nguyên tắc tố tụng;
Có tác giả thì đi sâu vào nghiên cứu quyền cụ thể là quyền bào chữa của bị
3


can, bị cáo; Cũng có tác giả chỉ đi sâu tìm hiểu về địa vị pháp lý của NBC
thông qua việc tập trung phân tích về quyền, nghĩa vụ của NBC đƣợc quy
định trong pháp luật hiện hành. Chƣa có công trình nghiên cứu nào tập trung
vào vấn đề bảo vệ quyền con ngƣời thông qua chế định NBC trong TTHS.
3. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn
a. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về chế định NBC trong TTHS
Việt Nam và nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định pháp luật TTHS về

NBC trong việc bảo vệ quyền con ngƣời, nhằm làm sáng tỏ những bất cập hạn
chế, để đƣa ra những kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả của việc đảm bảo
quyền con ngƣời trong TTHS thông qua chế định NBC.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đƣợc đặt
ra là:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về bảo vệ quyền con ngƣời trong TTHS
thông qua chế định NBC, cụ thể là làm rõ khái niệm quyền con ngƣời và
quyền con ngƣời trong TTHS Việt Nam; khái niệm bảo vệ quyền con ngƣời
thông qua thông qua chế định NBC. Phân tích các quy định của Bộ luật TTHS
hiện hành liên quan đến quyền bào chữa và quyền, nghĩa vụ của NBC trong
TTHS Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật
hiện hành về chế định NBC trong việc bảo vệ quyền con ngƣời trong TTHS.
- Kiến nghị, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
pháp luật TTHS Việt Nam và các biện pháp nâng cao chất lƣợng, hiệu quả
bảo vệ quyền con ngƣời trong TTHS thông qua chế định NBC.
4


4. Phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài Luận văn là những quy định của Bộ
luật TTHS hiện hành về chế định NBC và thực tiễn áp dụng các quy định
pháp luật tố tụng về NBC trong việc bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời bị
tạm giữ, bị can, bị cáo.
Phạm vi nghiên cứu là các quy định pháp luật TTHS và các quy định
pháp luật hiện hành về chế định NBC trong giai đoạn từ khi Bộ luật TTHS có
hiệu lực đến thời điểm hiện tại.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận nghiên cứu

khoa học của triết học Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm,
đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc ta về Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, về công cuộc cải cách tƣ pháp và đảm bảo quyền con ngƣời trong
TTHS.
Các phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu đƣợc sử dụng là phƣơng pháp
nghiên cứu phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê v.v…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần rõ thêm nhiều vấn đề lý luận
về chế định NBC trong TTHS nói chung và bảo vệ quyền con ngƣời thông
qua chế định NBC trong TTHS nói riêng.
Trên cơ sở phân tích có hệ thống và tƣơng đối toàn diện các quy định
của BLTTHS, đánh giá việc áp dụng các quy định đó vào thực tiễn, từ đó tìm
ra những hạn chế, bất cập trong bảo vệ quyền con ngƣời thông qua chế định
NBC trong TTHS và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế.

5


Kết quả nghiên cứu của đề tài còn là một tài liệu tham khảo trong công
tác nghiên cứu, học tập và hoạt động thực tiễn cho những ai quan tâm đến vấn
đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu luận văn: ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con ngƣời bằng chế
định ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo vệ
quyền con ngƣời thông qua chế định ngƣời bào chữa và thực tiễn áp dụng.
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ
quyền con ngƣời thông qua chế định ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự

Việt Nam.

6


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
BẰNG CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM
1.1.

Nhận thức chung về bảo vệ quyền con ngƣời thông qua chế

định ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về quyền con ngƣời và bảo vệ quyền con ngƣời trong
tố tụng hình sự Việt Nam
Quyền con ngƣời (tiếng Anh: Human rights) là một phạm trù đa diện,
do đó có nhiều định nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên hợp quốc, từ
trƣớc đến nay có đến gần 50 định nghĩa về quyền con ngƣời đã đƣợc công bố
[45], mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những
thuộc tính nhất định, nhƣng không định nghĩa nào bao hàm đƣợc tất cả các
thuộc tính của quyền con ngƣời.
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con ngƣời phụ thuộc
vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, có
một số định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con ngƣời
(Office of High Commissioner for Human Rights – OHCHR) thƣờng đƣợc
trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con ngƣời là
những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo
vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ
mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự đƣợc phép

(entilements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con ngƣời [44,
tr.1].

7


Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác về quyền con ngƣời
mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên là: “quyền con người là
những sự được phép mà tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại,
không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội...; đều có ngay từ
khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người.” [25, tr. 37].
Hay một cách ngắn gọn nhất theo Bách khoa toàn thƣ mở (Wikipedia)
thì: Nhân quyền, hay Quyền con người (tiếng Anh: Human rights) là những
quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ
chính thể nào [45].
Thuật ngữ “Human Rights” trong tiếng Anh đƣợc dịch sang tiếng Việt
là “quyền con người” (theo tiếng thuần Việt) hoặc “nhân quyền” (theo Hán –
Việt). Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “nhân quyền” chính là “quyền con
người” [42, tr. 1239].
Trong một cuộc khảo sát gần đây do CNN (một trong các cơ quan
truyền thông nổi tiếng nhất thế giới) tiến hành, Nhân quyền đƣợc xem là một
trong mƣời sáng kiến làm thay đổi thế giới, cùng với nông nghiệp, phân tâm
học, thuyết tƣơng đối, vắc xin, thuyết tiến hóa, World Wide Web, xà phòng,
số không, và lực hấp dẫn. [43].
Theo quan điểm của các nhà triết học thế kỷ 17 và 18 thì các quyền
không thể tƣớc bỏ đƣợc là các quyền tự nhiên do Tạo hóa ban cho họ. Các
quyền này không bị phá hủy khi xã hội dân sự đƣợc thiết lập và không một xã
hội hay một Chính phủ nào có thể “xóa bỏ” hoặc “chuyển nhƣợng” các quyền
này. Các quyền không thể tƣớc bỏ bao gồm: Quyền đƣợc sống; Quyền tự do
(quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do lập hội,…);

Quyền mƣu cầu hạnh phúc và Quyền đƣợc bảo vệ bình đẳng trƣớc pháp luật.
Tuy nhiên, đây chƣa phải là bản liệt kê đầy đủ các quyền mà công dân có
8


đƣợc trong một nền dân chủ. Các xã hội dân chủ đồng thời thừa nhận các
quyền dân sự nhƣ quyền đƣợc xét xử công bằng, và còn lập nên các quyền
chủ chốt mà bất kỳ xã hội dân chủ nào cũng phải duy trì. Vì các quyền này
tồn tại không phụ thuộc vào Nhà nƣớc, do đó chúng không thể bị luật pháp
bãi bỏ cũng nhƣ không phụ thuộc vào ý muốn nhất thời của đa số cử tri nào
đó. Các nội dung chi tiết và các thủ tục của luật pháp liên quan tới quyền con
ngƣời cần phải thay đổi tùy theo xã hội, nhƣng tất cả các nền dân chủ đều
đƣợc giao trọng trách trong việc xây dựng các cấu trúc xã hội lập hiến, lập
pháp để bảo đảm cho các quyền con ngƣời đó.
Hiện nay, quyền con ngƣời đƣợc các nƣớc trên thế giới công nhận và
bảo đảm thực hiện thông qua cơ chế, pháp luật quốc gia và quốc tế, đặc biệt là
các công ƣớc của Liên hợp quốc. Trong các văn kiện nhân quyền của Liên
hợp quốc, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền và hai công ƣớc quốc tế về quyền
con ngƣời đƣợc thông qua năm 1966, cùng hai nghị định thƣ bổ sung của
Công ƣớc dân sự, chính trị đƣợc gọi là Bộ luật nhân quyền quốc tế.
Đảng và Nhà nƣớc ta khẳng định quyền con ngƣời là thành quả và khát
vọng chung của nhân loại. Vì vậy, Đảng và Nhà nƣớc ta thừa nhận, tôn trọng
và bảo vệ những giá trị cao quý về quyền con ngƣời đƣợc thế giới thừa nhận
rộng rãi. Cƣơng lĩnh Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: "Con ngƣời là trung
tâm của chiến lƣợc phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và
bảo vệ quyền con ngƣời, gắn quyền con ngƣời với quyền và lợi ích của dân
tộc, của đất nƣớc và quyền làm chủ của nhân dân" [7, tr.76].
Nhà nƣớc Việt Nam luôn coi con ngƣời là mục tiêu và động lực của
mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội và luôn nhất quán trong việc đảm
bảo và thúc đẩy các quyền con ngƣời. Hiến pháp năm 1992, văn bản có hiệu

lực pháp lý cao nhất, đảm bảo mọi công dân có quyền bình đẳng về chính trị,
9


kinh tế, văn hóa, xã hội, bình đẳng trƣớc pháp luật; quyền tham gia quản lý
công việc của Nhà nƣớc và xã hội; quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo; quyền tự
do đi lại và cƣ trú trên đất nƣớc Việt Nam; quyền khiếu nại và tố cáo; quyền
lao động, học tập, chăm sóc sức khỏe,... không phân biệt giới tính, sắc tộc, tôn
giáo. Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật Việt Nam tiếp tục cụ thể hóa các quyền
này, phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế về nhân quyền.
Quyền con ngƣời là một giá trị thiêng liêng bất khả tƣớc đoạt. Nó hiện
hữu trong nhiều lĩnh vực của đời sống trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự.
Không phổ biến, không rộng lớn, không diễn ra hàng ngày hàng giờ nhƣ các
lĩnh vực hành chính, kinh tế, môi trƣờng..., nhƣng có thể nói, quyền con
ngƣời trong TTHS là quyền dễ bị xâm phạm và tổn thƣơng nhất và hậu quả để
lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền đƣợc sống, quyền tự
do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Bởi lẽ, TTHS với tƣ cách là quá
trình Nhà nƣớc đƣa một ngƣời ra xử lý trƣớc pháp luật khi họ bị coi là tội
phạm, quá trình này luôn thể hiện đậm nét tính quyền lực nhà nƣớc với sức
mạnh cƣỡng chế nhà nƣớc, với sự thiếu quân bình về thế và lực của các bên
tham gia quan hệ TTHS mà sự yếu thế luôn thuộc về những ngƣời bị buộc tội.
Chính vì vậy, hoạt động TTHS, trong bất cứ Nhà nƣớc nào đều đƣợc xếp vào
“nhóm nguy cơ cao” khi ngƣời ta nói đến vấn đề bảo vệ quyền con ngƣời [9].
Bảo vệ quyền con ngƣời trong TTHS, đó là trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án và cả quá trình giam giữ, quản lý, giáo dục ngƣời
chịu án phạt tù, bảo đảm rằng mọi hành vi phạm tội đều đƣợc phát hiện kịp
thời và xử lý nghiêm minh, không đƣợc làm oan ngƣời vô tội. Ngƣời phạm tội
phải bị đƣa ra xét xử, chịu hình phạt tƣơng ứng với hành vi phạm tội. Mục
đích của hình phạt không chỉ là trừng trị mà còn chủ yếu là để giáo dục, cải
tạo, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Đây là yêu cầu rất cơ bản để bảo đảm

quyền con ngƣời trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
10


Chúng ta có thể tìm thấy trong các văn kiện quốc tế các ghi nhận về
quyền con ngƣời trong TTHS nhƣ: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm
1948 (UHDR); Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân; Công
ƣớc chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con ngƣời năm 1985,….
Nghiên cứu các văn bản này đƣa đến một khẳng định quyền con ngƣời trong
TTHS chẳng qua là sự cụ thể quyền đƣợc sống, quyền đƣợc tự do, trong lĩnh
vực TTHS. Đây đƣợc coi là tiêu chuẩn về nhân quyền trong TTHS. Theo đó
(Điều 10, 11 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền – UHDR, Điều 14, 15 và 11
Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị - ICCPR) quyền con
ngƣời trong TTHS bao gồm những quyền sau:
- Quyền đƣợc xét xử công bằng bởi một thủ tục TTHS và tòa án công
bằng, công khai.
- Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
và quyền tự do cá nhân khác. Mọi trƣờng hợp áp dụng các biện pháp cƣỡng
chế TTHS phải trên cơ sở luật định.
- Quyền đƣợc suy đoán vô tội.
- Quyền đƣợc bào chữa và biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức
chậm trễ.
- Ngƣời chƣa thành niên phải đƣợc áp dụng thủ tục TTHS đặc biệt.
- Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm, quyền đƣợc nhanh
chóng minh oan. Quyền không bị kết tội hai lần về cùng 1 hành vi.…
- Các quyền con ngƣời trong thi hành án hình sự và sau xét xử.
Những quyền trên là những quyền của ngƣời bị buộc tội, đối tƣợng quan
trọng nhất cần bảo vệ trong TTHS. Tuy nhiên, tham gia vào quá trình TTHS
không chỉ có những ngƣời bị buộc tội mà còn nhiều ngƣời khác mà lâu nay
11



khi nghiên cứu về quyền con ngƣời trong TTHS, chúng ta hay ít chú ý đó là
quyền của nạn nhân của tội phạm (người bị hại), quyền của ngƣời làm chứng
và những ngƣời liên quan khác, quyền con ngƣời của những ngƣời THTT nhƣ
điều tra viên, công tố viên và thẩm phán. Những ngƣời này họ cũng có quyền
con ngƣời của họ nhƣ quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, danh dự, nhân
phẩm, quyền đƣợc bảo vệ các quyền chính trị, dân sự, kinh tế của mình bằng
con đƣờng TTHS.
Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia phần lớn và cam kết thực hiện ở cả
hai phƣơng diện lập pháp và thực tiễn các văn kiện về quyền con ngƣời. Điều
đó đƣợc thể hiện trong Bộ luật TTHS của nƣớc CHXHCN Việt Nam ở mức
độ khác nhau: có thể trang trọng quy định là nguyên tắc cơ bản, có thể thấp
thoáng trong các quy định cụ thể. Bộ luật TTHS hiện hành có các nguyên tắc
nhƣ: Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự, tôn trọng
và bảo vệ quyền cơ bản của công dân; bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, suy đoán vô tội (tuy còn chƣa
rõ), quyền bào chữa, quyền kháng cáo, quyền minh oan… Nghiên cứu quyền
con ngƣời trong TTHS không thể không đƣa ra định nghĩa về nó. Hiện nay,
có một số khái niệm về quyền con ngƣời trong TTHS đã đƣợc đƣa ra nhƣng
chủ yếu là nhấn mạnh đến quyền của ngƣời bị buộc tội mà chƣa chú ý đến
quyền của những ngƣời khác tham gia TTHS.
Đồng quan điểm với tác giả đề tài nghiên cứu “Bảo vệ quyền của người
bị buộc tội”, Ths. Đinh Thế Hƣng, Viện Nhà nƣớc và pháp luật – Viện
KHXH Việt Nam. Khái niệm do Ths. Đinh Thế Hƣng đƣa ra về quyền con
ngƣời trong TTHS nhƣ sau: “Quyền con người trong TTHS là những giá trị
thiêng liêng chỉ dành cho con người khi họ tham gia quan hệ pháp luật TTHS
mà nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và bảo
đảm thực hiện và bảo vệ khi bị xâm hại.” [9].
12



1.1.2. Khái niệm ngƣời bào chữa và chế định ngƣời bào chữa trong tố
tụng hình sự Việt Nam
Theo từ điển giải thích luật học: “Người bào chữa là người tham gia tố
tụng để bênh vực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo”.
Trong khoa học luật TTHS tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm NBC. Nhìn chung các quan điểm đều dựa vào các qui định của
BLTTHS để đƣa ra khái niệm NBC. Tuy nhiên, với cách tiếp cận khác nhau
nên mỗi quan điểm hoặc nhấn mạnh ở một số dấu hiệu của NBC hoặc mang
tính liệt kê các qui định của BLTTHS mà chƣa phải là một khái niệm hoàn
chỉnh về NBC có ý nghĩa quan trọng trong khoa học luật TTHS. Có thể kể ra
mấy quan điểm về NBC nhƣ sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “NBC trong tố tụng hình sự là ngƣời tham
gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của ngƣời bị buộc tội, giúp ngƣời bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa”. “Là ngƣời giúp đỡ Tòa án trong việc xác định tất cả các tình
tiết về vụ án để cuối cùng toà án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật”
[40, tr. 1].
Quan điểm thứ hai, “NBC là ngƣời tham gia tố tụng theo yêu cầu của bị
can, bị cáo, của CQTHTT (nếu thuộc trƣờng hợp bắt buộc) hoặc theo yêu cầu
của những ngƣời thân thích của bị can, bị cáo để bảo vệ các lợi ích hợp pháp
của bị can, bị cáo đồng thời giúp cho bị can, bị cáo về mặt pháp lý để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong quá trình tố tụng” [29, tr. 34].
Quan điểm thứ ba, “NBC là ngƣời đƣợc ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
ngƣời đại diện hợp pháp của họ, những ngƣời khác đƣợc ngƣời bị tạm giữ, bị
can, bị cáo uỷ quyền mời hay đƣợc CQTHTT yêu cầu Đoàn luật sƣ phân công
13



Văn phòng luật cử hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức
thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo
nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cho ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý” [11,
tr.17].
Cùng chung quan điểm với tác giả Đinh Văn Quế (quan điểm thứ ba),
trên cơ sở phân tích các dấu hiệu đặc trƣng của NBC theo qui định của
BLTTHS hiện hành có thể đƣa ra một định nghĩa khái quát về chế định NBC
trong TTHS nhƣ sau:
“Người bào chữa là người tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ
những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
giúp họ về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi
được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ mời
hoặc được CQTHTT yêu cầu và được CQTHTT chứng nhận”.
Để có thể đƣa ra khái niệm về chế định NBC nhƣ trên, là kết quả của
việc xác định các dấu hiệu của NBC trên cơ sở các qui định của BLTTHS
Việt Nam hiện hành. Các dấu hiệu đặc trƣng của NBC đó là:
Một là, NBC là ngƣời tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên
quan đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp cho ngƣời bị buộc tội. NBC không phải là ngƣời THTT mà chỉ là
ngƣời tham gia tố tụng. Từ “tham gia” nói lên tính chất, vai trò của NBC.
“Ngƣời tham gia” chỉ là ngƣời góp phần hoạt động của mình vào một hoạt
động chung nào đó, do những chủ thể khác chủ động và chính thức tiến hành.
Hơn nữa, NBC không phải là ngƣời đƣợc nhân danh quyền lực nhà nƣớc và
không đƣợc sử dụng quyền lực nhà nƣớc nhƣ những ngƣời THTT.
14



Dấu hiệu này đã đƣợc quy định tại Chƣơng IV của BLTTHS năm 2003.
Cho phép phân biệt NBC với những ngƣời THTT (gồm: Thủ trƣởng, Phó thủ
trƣởng CQĐT, Điều tra viên; Viện trƣởng, Phó viện trƣởng Viện kiểm sát,
Kiểm soát viên; Chánh án, Phó chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thƣ
ký toà án), những ngƣời trong các cơ quan hỗ trợ tƣ pháp và những ngƣời
khác đƣợc các CQTHTT mời [28, tr.107].
Hai là, NBC tham gia TTHS với nghĩa vụ và mục đích là để làm sáng tỏ
những tình tiết xác định ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp ngƣời bị tạm giữ, bị
can, bị cáo về mặt pháp lý cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ.
Dấu hiệu này cho phép xác định rõ nhiệm vụ, mục đích tham gia TTHS
của NBC và cũng đã đƣợc cụ thể hoá trong BLTTHS. Theo qui định của
BLTTHS năm 2003, NBC đƣợc tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm
giữ. Và phạm vi đối tƣợng bảo vệ của NBC hiện nay bao gồm: ngƣời bị tạm
giữ, bị can, bị cáo.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau của các chuyên gia pháp lý
về vấn đề phạm vi đối tƣợng bảo vệ của NBC. Ví dụ, có ý kiến cho rằng,
ngƣời bị kết án cũng là đối tƣợng bảo vệ của NBC [33]. Mặc dù giai đoạn thi
hành án cũng đƣợc coi là một giai đoạn trong TTHS và chịu sự điều chỉnh của
BLTTHS. Tuy nhiên, với những qui định của BLTTHS hiện hành về quá trình
thi hành án thì chƣa đủ cơ sở để khẳng định ngƣời bị kết án cũng là đối tƣợng
bảo vệ của NBC.
Cũng có ý kiến lại cho rằng quyền đƣợc tiếp cận và sử dụng trợ giúp
pháp lý của NBC không nên chỉ giới hạn khi có quyết định bắt ngƣời tạm giữ
hoặc khi quyết định khởi tố vụ án hình sự, mà ngay cả khi ngƣời bị tình nghi
15


phạm tội bị triệu tập mời lên cơ quan công an do có đơn tố cáo hoặc có thông

tin tố giác tội phạm, họ đƣợc quyền mời luật sƣ tham gia tƣ vấn, trợ giúp về
pháp lý ngay từ đầu. Xuất phát từ thực trạng phổ biến việc CQĐT các cấp
thƣờng từ chối sự có mặt của luật sƣ trong các hoạt động “tiền tố tụng”, gây
ra sự lo lắng và quan ngại cho những ngƣời bị triệu tập, bị câu lƣu nhƣng có
đơn “tự nguyện hợp tác với CQĐT”, bị thu giữ hộ chiếu, hạn chế đi lại,... Lý
do thƣờng đƣợc đƣa ra là vụ án chƣa khởi tố, ngƣời bị tình nghi chƣa có tƣ
cách là ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo nên không chấp nhận cho luật sƣ tham
gia. Vì vậy, đối tƣợng bảo vệ của NBC bao gồm cả ngƣời bị tình nghi phạm
tội, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử [36].
Ba là, NBC chỉ có thể tham gia tố tụng khi đáp ứng đủ các điều kiện do
pháp luật qui định. Không phải bất cứ ai cũng có thể tham gia TTHS với tƣ
cách là NBC vì theo qui định của BLTTHS hiện hành NBC chỉ có thể là Luật
sƣ; Ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa
viên nhân dân. Đồng thời phải đáp ứng các điều kiện do BLTTHS quy định
nhƣ sau:
- Phải đƣợc ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; ngƣời đại diện hợp pháp của
ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo mời hoặc đƣợc CQTHTT yêu cầu Đoàn luật
sƣ phân công Văn phòng luật sƣ cử hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho bị can, bị cáo
(trong một số trƣờng hợp).
- Không thuộc một trong những trƣờng hợp những ngƣời không đƣợc
bào chữa.
Ngoài ra NBC còn phải đáp ứng các điều kiện khác do các văn bản pháp
luật khác qui định, chẳng hạn Luật sƣ phải đáp ứng các điều kiện do pháp luật
về Luật sƣ qui định; Ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị
16


cáo phải đáp ứng các qui định của Bộ luật dân sự năm 1995 về đại diện. Và
một điều kiện không thể thiếu nữa là phải đƣợc CQTHTT chấp nhận bằng

việc cấp Giấy chứng nhận NBC.
Về khái niệm “Chế định” hay “Chế định pháp luật”.
Chế định hay chế định pháp luật là tập hợp một nhóm quy phạm pháp
luật có đặc điểm giống nhau để điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội tƣơng ứng
trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế định có thể đƣợc
hiểu theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp. Nghĩa chung và rộng là các yếu tố cấu
thành cơ cấu pháp lí của thực tại xã hội, nghĩa hẹp là tổng thể các quy phạm,
quy tắc của một vấn đề pháp lí. [45]
Cơ cấu bên trong của pháp luật có đặc điểm ở tính đa dạng của các chế
định, trong đó có chế định liên ngành, nghĩa là có quan hệ đến một số ngành
luật. Các chế định pháp luật liên ngành đƣợc hình thành và hoạt động không
giống nhau. Hiến pháp là cơ sở pháp lí của tất cả các chế định pháp luật [45].
Việc xác định đúng tính chất chung của mỗi nhóm quan hệ xã hội từ đó đề ra
những quy phạm tƣơng ứng có ý nghĩa quan trọng, đó là cơ sở pháp lý để tạo
ra cơ cấu pháp lý của một ngành luật. Không thể xây dựng đƣợc một văn bản
pháp luật tốt cũng nhƣ một ngành luật hoàn chỉnh nếu không xác định rõ giới
hạn và nội dung của các chế định pháp luật [45]. Nhiều chế định hợp lại sẽ
cấu thành ngành luật, các ngành luật hợp lại sẽ tạo thành một hệ thống pháp
luật.
Chế định pháp luật mang tính chất nhóm, mỗi chế định có một đặc điểm
riêng nhƣng chúng đều có mối liên hệ nội tại và thống nhất với nhau, chúng
không tồn tại một cách biệt lập. Việc xác định ranh giới giữa các chế định
nhằm tạo ra khả năng để xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật phù hợp với
thực tiễn đời sống xã hội. Và phải đặt các chế định trong mối liên hệ qua lại
17


trong một chỉnh thể thống nhất của pháp luật cũng nhƣ một ngành luật. Mỗi
chế định pháp luật dù mang đặc điểm riêng nhƣng nó cũng phải tuân theo các
quy luật vật động khách quan, chịu sự ảnh hƣởng và tác động của chế định

khác trong hệ thống pháp luật [45].
Từ những phân tích trên có thể đƣa ra khái niệm về Chế định ngƣời bào
chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam nhƣ sau: “Chế định người bào chữa
trong tố tụng hình sự là nhóm các quy phạm pháp luật được quy định trong
pháp luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa với vai
trò là người tham gia tố tụng hình sự nhằm mục đích làm sáng tỏ những tình
tiết liên quan đến sự thật của vụ án để chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.
1.1.3. Khái niệm về bảo vệ quyền con ngƣời thông qua chế định NBC
trong TTHS Việt Nam
Tố tụng hình sự là hoạt động đặc biệt liên quan đến việc khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự liên quan đến việc phát hiện, xử lý hành vi
nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định là tội phạm và xử phạt ngƣời phạm tội.
Vì vậy, để đạt đƣợc mục đích của tố tụng hình sự, pháp luật TTHS của bất kỳ
một quốc gia nào cũng có quy định về những biện pháp cƣỡng chế tố tụng,
các hành vi, quyết định tố tụng đụng chạm đến quyền, lợi ích của công dân.
Hay nói cách khác, cƣỡng chế tố tụng hình sự, khả năng ảnh hƣởng của hoạt
động tố tụng hình sự tới các quyền con ngƣời của công dân là tất yếu.
Trong TTHS, nhiệm vụ không để lọt tội phạm phải đi liền với không
làm oan ngƣời không có tội; Nhiệm vụ phát hiện xử lý tội phạm phải đi liền
với việc đảm bảo quyền con ngƣời. Hoạt động TTHS phải đƣợc thực hiện trên
cơ sở coi trọng các yếu tố đó. Bỏ qua hoặc coi nhẹ yếu tố này hay yếu tố khác
nói trên đều ảnh hƣởng nghiêm trọng đến việc đạt đƣợc mục đích tố tụng.
18


Nếu muốn chứng minh tội phạm và xử lý tội phạm bằng bất cứ giá nào thì dễ
dẫn đến vi phạm quyền con ngƣời. Ngƣợc lại, nếu quá chú ý đến việc đảm
bảo quyền con ngƣời thái quá mà không áp dụng các biện pháp cƣỡng chế tố
tụng để phát hiện, chứng minh tội phạm thì sẽ làm cho hoạt động tố tụng thiếu

hiệu quả, không thể phát hiện, xử lý kịp thời ngƣời phạm tội, thậm chí bỏ lọt
tội phạm, v.v…
Không phổ biến, không rộng lớn, không diễn ra hàng ngày hàng giờ
nhƣ các lĩnh vực hành chính, kinh tế, môi trƣờng..., nhƣng có thể nói, quyền
con ngƣời trong TTHS là quyền dễ bị xâm phạm và bị tổn thƣơng nhất và hậu
quả để lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền đƣợc sống,
quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Bởi lẽ, TTHS với tƣ cách
là quá trình nhà nƣớc đƣa một ngƣời ra xử lý trƣớc pháp luật khi họ bị coi là
tội phạm, quá trình này luôn thể hiện đậm nét tính quyền lực nhà nƣớc với sức
mạnh cƣỡng chế nhà nƣớc, với sự thiếu quân bình về thế và lực của các bên
tham gia quan hệ TTHS mà sự yếu thế luôn thuộc về những ngƣời bị buộc tội.
Chính vì vậy, hoạt động tố tụng hình sự, trong bất cứ nhà nƣớc nào đều đƣợc
xếp vào “nhóm nguy cơ cao” khi ngƣời ta nói đến vấn đề bảo vệ quyền con
ngƣời.
Quyền con ngƣời trong TTHS bao gồm: Quyền đƣợc xét xử công bằng
bởi một thủ tục TTHS và tòa án công bằng, công khai; Quyền bất khả xâm
phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và quyền tự do cá nhân
khác; Quyền bào chữa; Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm, v.v…
Bản chất của quyền bào chữa là chống lại sự buộc tội và bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình trƣớc các biểu hiện xâm phạm đến từ các chủ
thể đại diện cho Nhà nƣớc. Từ khi một ngƣời bị tạm giữ hay khởi tố về hình
sự thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ đã có nguy cơ bị xâm phạm bởi các
19


chủ thể đại diện cho nhà nƣớc do vậy họ phải đƣợc hƣởng quyền bào chữa để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Không thể nói Nhà nƣớc của
chúng ta là Nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân nếu ngƣời dân không có
quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trƣớc các Cơ quan nhà
nƣớc.

Quyền bào chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là quyền Hiến
định (Điều 132 Hiến pháp năm 1992), đƣợc cụ thể hóa bằng nguyên tắc cơ
bản của BLTTHS và đƣợc quy định chi tiết thông qua các điều luật về quyền,
nghĩa vụ của NBC và các điều luật khác của BLTTHS. Bào chữa là một trong
những chức năng quan trọng không thể thiếu trong quá trình giải quyết VAHS
nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy vậy,
trong thực tiễn, vì những lý do khác nhau nên không phải bất cứ ngƣời bị tạm
giữ, bị can, bị cáo nào cũng có khả năng tự bào chữa một cách có hiệu quả.
Do đó, pháp luật tạo điều kiện để họ thực hiện quyền bào chữa của mình bằng
việc có thể nhờ ngƣời khác bào chữa. Nhờ ngƣời khác bào chữa là một hình
thức thực hiện quyền bào chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo có hiệu
quả và góp phần không nhỏ vào việc giúp CQTHTT giải quyết vụ án đƣợc
khách quan. Đồng thời, pháp luật quy định các CQTHTT phải áp dụng tất cả
các biện pháp cần thiết để tạo điều kiện cho ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo
thực hiện quyền bào chữa của họ.
Bảo vệ quyền con ngƣời thông qua chế định ngƣời bào chữa trong
TTHS chính là bảo vệ quyền đƣợc bào chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, đối tƣợng quan trọng nhất cần bảo vệ trong TTHS. Đảm bảo quyền bào
chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là đảm bảo một trong những quyền
cơ bản của công dân.

20


×